Tâm thức vô sư không đơn thuần như ta định nghĩa; đó là thuật
ngữ nhà Phật nói lên cái tâm như vô lượng, vi diệu pháp, không chấp trược, vô ngại
để đạt tới chân Không.
Jiddu Krishnamurti* nhận ra được cái tâm thức thoát ly tri
kiến giữa trí tuệ và tâm thức, một trí tuệ Bát Nhã và một tâm tĩnh lặng để chống
lại mọi ngụy trá giữa cuộc đời này mà con người là nạn nhân của sự
hủy diệt cũng nhờ vào đó mà phát hiện ra được một tình yêu chân chính, một sự
khai ngộ vượt thoát với thực tại trong mọi hoàn cảnh. Những kinh nghiệm và tu
tập của Krishnamurti là tương ứng kinh nghiệm toàn mãn mà con người có thể đạt
được.
Trên đường thuyết giảng của Krishnamurti là thiết lập một hệ
thống tư tưởng quay quanh trong một tiêu đề ”vạn vật đều vô thường” cho nên cần
có một tinh thần vô sư giữa con người với vũ trụ trong trạng thái an nhiên tự
tại của thiền định (meditation). Krishnamurti nói: “…thiền định là một trong những
nghệ thuật cao qúi nhất của cuộc sống”.
Bản thân của Krishnamurti là truyền đạt tâm thức vô sư giữa
người với người và mọi thay đổi của xã hội, chỉ có thể xẩy ra khi có sự chuyển
hóa ý thức. Chân lý sâu sắc của ông là không dựa vào bất cứ tôn giáo,triết lý
hay một tông phái nào mà trong đó có tính chất hình thức. Ông xây dựng lý
thuyết trên căn bản của vạn vật đồng nhất đều nằm trong “cõi không” đó là
chân lý mà Krishnamurti truyền giảng cho nhân loại. Ông phủ nhận mọi giáo điều,tôn
vinh hay nhận một tước vị nào cho cá nhân ông và cũng không bao giờ dựa trên
một quyền lực nào để hình thành một triết lý siêu việt như thế! Cái nhất tâm
của ông là đưa thính chúng đến gần với tình yêu, một tình yêu vô biên,vị tha để
cảm thông giữa người với người. Điều quan trọng trong những lần thuyết giảng,
ông hướng tới một minh triết trong đời sống và nhìn nhận sự thật của cuộc sống
đó là sống thực với chính mình kể cả hai bề mặt ngoại vi và nội tại. Hai mảng
nầy đã tạo nên sự đối kháng bởi vì không một học thuyết hay một hệ thống nào
dẫn đến chân lý tuyệt đối…
Krishnamurti đã phân tích tâm thức nầy giữa ý thức và tiềm
thức, trong và ngoài của con người vì mỗi khi mình cảm nhận được mọi hoạt động
thì đó là hữu thức còn tiềm thức là một cái gì sâu lắng trong tâm hồn mà
không bắt nắm được thì đó là vô thức mà chỉ gây nên bởi trực giác của ý thức
mà thôi. Do đó tâm thức vô sư của Krishnamurti là một tổng hợp giữa trí tuệ, cảm
giác và hành động. Để tránh mọi đau khổ, phiền não con người cần phải vượt qua
những siêu lý, siêu nhiên trong đời sống thường ngày,phải thừa nhận một điều
là vạn vật vô thường, tạm bợ, có không, không có, bởi vạn vật không có tự tính vì
tự tính được định nghĩa như là “sự có” làm ra cho một vật nào đó;chính tự
nó,và cũng chẳng giải thích được thế nào là đau khổ, thất vọng mà chúng sinh
phải gánh chịu liên tục hằng ngày.
Krishnamurti xuất thân từ Ấn độ, tất phải ảnh hưởng đôi phần
những giáo phái và đa diện màu sắc tôn giáo của xứ ấy; ông phủ nhận mọi giáo
điều của tín ngưỡng mà chỉ qui về với nguyên thủy như cái ngã siêu nghiệm mà
tôn giáo đối với ông như cái ngã kinh nghiệm được dựng nên.
Triết lý của Krishnamurti không chấp nhận sự khác biệt giữa
bản chất và hiện tượng vì hai đối tượng nầy chính là một, vô hình chung nó trở
thành thuyết nhị nguyên ngược lại tự nó đồng nhất là một; nghĩa là không có
cái nầy mà cũng không có cái kia. Ông nhấn mạnh nhiều lần mỗi khi thuyết giảng
là mang lại cho thính chúng cái tâm vô lượng chúng sinh một tâm thức về Thiền
định như là chuỗi hiện tượng vượt thoát ra khỏi con người để làm sao con người
đạt đến chân tâm. Triệt tiêu bản ngã tự tại để đi tới chứng ngộ của trí tuệ (prajna)
như giáo lý nhà Phật. Ông xoáy quanh về vấn đề thiền định để đưa con người đến
toàn thiện toàn mỹ và làm quen với chính mình, tìm hiểu được cái ngã và tìm thấy
ta là ai và cái gì cấu thành cái Tôi (le moi) khi vượt thoát ra khỏi mọi chiều
kích, hình tướng đó là mức độ kinh nghiệm trực tiếp mà không qua một sự nẩy nở
nào mà ngoại giới đứng ra làm trung gian. Đó là ngoại vi giữa đối tượng quan
sát và đối tượng được quan sát. Hai đối tượng nêu trên nằm trong trục:hiện tại, quá khứ và vị lai. Vậy để được giải thoát mọi đau khổ, phiền não, cô độc…chúng ta có
thể tìm thấy chân lý rõ ràng chỉ khi tâm hồn trầm lắng để nhận thức và chỉ có
thiền định mới có khả năng sáng suốt soi rọi cái tâm thức vô sư ấy. Mục đích của
thiền định là giải thoát mọi ưu tư,trút bỏ mọi gánh nặng thì lúc đó mới thực
sự yên tĩnh. Thiền định theo quan niệm của Krishnamurti là không phải sự tập
trung mà cần đến một tâm thức hoàn toàn thức tỉnh và cũng không phải sự kềm
nén suy nghĩ vì bị kềm nén sẽ sinh ra xung đột với tâm linh. Chính sự thấu hiểu
đó là kết cấu bởi tâm niệm, ấy là thiền định. Nó còn có tính chất ý thức trí
tuệ đại giác và cảm xúc từ hai trạng thái đó thì tĩnh lặng sẽ xuất hiện. Khi
đó tâm hồn hoàn toàn tự do và thiền định thoát ra khỏi mọi vọng niệm
khác (meditation is the ending of thought).
Thiền theo ý nghĩa của Krishnamurti vẫn được coi là một thứ
nghệ thuật vĩ đại mà chính mình không học hỏi từ bất cứ của ai; nó tự có. Đó
chính là cái tuyệt hảo của thiền (meditation is one of the greatest arts in
life; perhaps, the greatest, and one cannot possibly learn it from anybody. That
is the beauty of it..)
Jiddu cho rằng thiền được thực hiện trong mọi hoàn cảnh dưới
mọi hình thức chứ không nhất thiết cố hữu; thì lúc đó tình yêu thực sự bộc
phát và mất đi tánh tự tại của cái ”tôi”. Tâm hồn tĩnh lặng khi thấu triệt được
sự vận động của chính nó dưới dạng thức của tri giác và cảm giác.
Trong hơn bốn thập niên đi rao giảng chủ thuyết đại giác khắp
thế giới. Krishnamurti chỉ nêu lên một chân lý tối thượng về tánh không giữa sự
sống và chết, chỉ có một nguyên lý duy nhất là Không; bởi không còn gì ngoài chữ
Vô, vô khứ vô lai, vô có nghĩa là không sinh khởi bất cứ điều gì. Chỉ còn lại sự
im lặng tuyệt đối của tánh không và ý thức là nơi mà mọi suy nghĩ được vận
hành, cảm nhận…và hoạt động hằng ngày đều thuộc về hữu thức.
Sự khai mở nầy hiện diện bên trong đồng thời được giả định
bởi mọi hình tướng cụ thể. Ông cho rằng khi tâm thức ở vào trạng thái có thể
nhận biết được sự khai mở của hiện thể,mọi hành động sẽ phù hợp với
sự khai mở vì thực thể được lưu tâm đến. Krishnamurti xóa bỏ mọi vọng niệm,mọi
học thuyết, tất cả đi vào cõi không;chỉ còn lại cái tâm là chính,tâm nằm trong
niềm tĩnh lặng và nhờ đó nhận thức được lẽ sống đó là kinh nghiệm mang đến cảm
thức về sự độc lập, tự do, về con đường sinh tử giải thoát toàn bộ chức năng của
tâm thức vô sư. Bởi kinh nghiệm đó là phó sản của quá trình buông xả. Từ đó
quán xuyến được trạng thái vô úy không còn sợ hãi nào cả. Chính nhờ vào sự vô
úy mà ta có thể bao dung rộng lượng và thừa hưởng được bầu không khí của yêu
thương vô lượng chúng sinh, không xung đột giữa cái nầy với cái
kia. Trạng thái nầy Krishnamurti cho đó là một sự tự do vô biên. Mà đây là một
kinh nghiệm phóng vượt, phóng vượt ở đây không có nghĩa vượt qua thế giới hiện
tại đến một thế giới xa xăm nào khác mà có thể nói như ta vừa” ở đây”nhưng ta
đã “ở cõi kia” rồi.
Năm 34 tuổi Krishnamurti chối bỏ mọi tôn vinh, từ chối mọi vọng
niệm bởi ông cho rằng tất cả mọi chân lý đều đi tới hư vô. Ông khước từ mọi
qui luật cố hữu, không đệ tử, không cư trú mà chỉ mang một tâm hồn tĩnh lặng và
trực diện với thực tại. Ông cho rằng con người sở dĩ đau khổ, phiền não đó là
dục vọng không ngừng xẩy ra giữa chúng ta; để thoát khỏi tình huống đó điều
còn lại là giữ được cái tâm tĩnh tức gạt bỏ mọi vọng niệm, vì sự tĩnh lặng ở
đây không phải là sản phẩm của tâm hồn im lặng, không phải là sản phẩm của tế
bào não, khi đó các tế bào não tạo ra sự im lặng và sự im lặng đó không phải
là sự tĩnh lặng thực sự.
Trong suốt cuộc hành trình thuyết giảng, Krishnamurti đã nhiều
lần từ chối chức phẩm đạo sư vì ông cho rằng bậc đạo sư có thể qua nhiều lãnh
vực ngoại tại hay nội tại. Chúng ta có thể thấy đạo sư hiện ra dưới mọi hình
thức khác nhau. Nếu quan niệm đạo sư một cách rộng rãi như thế ta mới biết rằng
bao giờ cũng có một người nào đó chỉ lối đưa đường hoặc thách thức tâm thức
ta. Và đó chính là tâm thức vô sư mà Jiddu Krishnamurti nhận ra được trong ý
thức siêu việt của nó.Thì lúc đó sự phân biệt giữa người và người không còn nữa,
đồng thời cảm thức về một sức mạnh vô biên. Người Ấn độ nói “cái biết” và “cái
được biết” vốn như nằm trong cùng một bình diện,cả hai cùng một tiến trình mà
qua đó sự phân cách sơ thủy giữa bản ngã siêu nghiệm và bản ngã thường nghiệm…
Từ đó biến Krishnamurti trở thành khách thể của đối tượng
thính chúng và qui vào cái gọi là hiện tượng Krishnamurti thời bấy giờ. Bởi vì
lý thuyết về tri thức của ông đã đưa chúng ta tới với hiện hữu và
biến thành tâm thức vô sư giữa chủ thể và tha thể. Tâm thức đó là một trạng
thái hiện hữu, trực tiếp hướng đến một đối tượng ước vọng mà Krishnamurti luôn
luôn mong cầu trong dạng thức tĩnh lặng của việc thiền định.
Tóm lại quan niệm triết lý tư tưởng của Krishnamurti là nói
lên lẽ vô thường,một tâm hồn thanh tịnh vị tha và nhân ái trong qui trình vượt
thoát khỏi mọi ràng buộc, đau khổ và phiền não, thoát ra khỏi những định kiến
cố hữu mà xưa nay nằm trong cõi vô minh. Ông cho rằng: nếu thế giới nầy vỡ vụn
thì mối quan hệ của chúng ta với thế giới cũng vỡ vụn. Nhưng nếu chúng ta hành
động trọn vẹn và hoàn hảo thì mối quan hệ giữa ta với thế giới trở nên thế giới
đại đồng của nhân loại.
Krishnamurti đánh giá những bài thuyết giảng của ông đưa thế
giới loài người nhận thức được ý niệm VÔ tức cõi không trong một tâm thức
tĩnh lặng của thiền định thì mới mong giải thoát được những gánh nặng
khổ đau sinh tử dù trong hoàn cảnh nào của mọi lứa tuổi. Từ việc thay đổi bản
thân, người ta cũng có thể thay đổi được cuộc đời và vượt qua mọi quẩn bách của
hiện tại, qúa khứ, và vị lai để có một tâm thức vô sư đồng thời chứng nhân cho
cuộc đời này có được một hạnh phúc vĩnh cửu; đó là đấng thượng đế hằng sống.
*Jiddu Krishnamurti (1895-1986) sanh và chết tại Ấn độ. Để lại
60 bộ sách về đạo làm người.
Sách tham khảo: “on living and dying” của J. Krishnamurti.
|
Võ
Công Liêm
|
Thứ Năm, 10 tháng 9, 2015
Krishnamurti tâm thức vô sư
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb
Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ máy nhà nước. Thực thể này thường đ...
-
Nguyễn Du Từ một ai đó đến không ai cả Bạn phải là một ai đó trước khi có thể là không ai cả Engler Jack Sau thời đại...
-
Hoàng Thụy Anh và những không gian mơ tưởng “ta chấp nhận mọi trả giá - kể cả cái chết - để hiện sinh - như một bài ...
-
Ánh trăng trong thơ Dương Quân (Trong Ba tập thơ Chập Chờn Cơn Mê, Điểm Hẹn Sau Cùng, Trên Đỉnh Nhớ) Vào một ...





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét