Học hỏi, nghiên cứu khoa sinh lý học phải có một ý
thức rõ ràng và sáng suốt; điều cần nhấn mạnh ở đây là cảm thức hữu quan chớ
không phải hiện tượng cảm thức của lý tưởng hóa trong triết học; vậy thì ở
đây không còn một nguyên cớ nào hơn cho một thẩm định khác của những tư tưởng
gia.Tuy nhiên; chủ nghĩa dục vọng là có tính gợi cảm; thì ít ra đó chỉ là một
giả thuyết thông thường, nếu không coi đây là một khám phá dành cho việc học
hỏi chính yếu ‘heuristisch’ (chữ của Nietzsche).
Cái gì gọi là ‘heuristisch principle’ học hỏi chính yếu? Và
cho dù ở thế giới ngoài kia thì đó là những gì thuộc về cơ cấu hữu quan của
chúng ta? Dường như đây là một sự lý hoàn toàn giảm thiểu đi cái ngu xuẩn vô
cớ ‘reductio ad absurdum / reduction to the absurd’ mà đó là ý niệm của cái gọi
là ‘causa sui /own cause’ nguyên cớ chính mình đưa tới những gì hết sức cơ bản
cho sự ngu xuẩn. Hậu quả; cái thế giới bên ngoài là không phải việc làm thuộc
về cơ cấu hữu quan của chúng ta. Giả thiết này chỉ dành cho sự nhận thức của
con người có nghĩa là biết được những gì trọn vẹn và đầy đủ; triết gia phải
nói lên những gì ở chính họ:phân tích được tiến trình giữa cơ cấu hữu quan của
chúng ta (our organs) và tác động ngoại quan (external work) Và; đó cũng là
biểu lộ trong câu ‘Tôi nghĩ’, có lẽ; điều đó khó có thể chứng minh một cách cụ
thể; thí dụ cho rằng TÔI người đang nghĩ, thì đó phải là một sự cần thiết của
hiện hữu cho cái điều đang nghĩ-tới, cho nên chi NGHĨ là một hành động tích cực
và một hoạt động có một phần gần gũi với hiện hữu mà người ta đang nghĩ-về
như một nguyên nhân sự cớ, trong đó có chứa một ‘ego’ tự-kỷ-ám-thị; cuối cùng
đưa tới xác quyết những gì đem đến một chỉ định từ qua tư duy - là những gì
TÔI biết những gì TÔI nghĩ là hiện hữu. Nói cho ngay khi khẳng định ‘Tôi nghĩ/ I think’ là mô tả cái tôi so sánh ở trong giây phút với một trạng thái tự tại
mà Tôi biết, trong một xác quyết của những gì hiện hữu, mà được coi đây là mối
giây liên lạc giữa hồi cố của hiện hữu thông qua bởi nhận thức như sự cớ đã có,
thời dẫu sao điều đó không thể xẩy ra một cách tức thời. Nếu đặc trường hợp một
cách chắc chắn tức thời/ immediate certainly trong sự kiện mà con người có
thể cầm được ở trong tay; vậy thì triết gia tìm thấy một loạt của những vấn đề
thuộc về siêu hình như đã nói đến, mà sự thật ở đây là đi tìm vấn đề của ý thức.
Bất luận là ai mà một lần cho đó là vấn đề siêu hình ở cái thời được coi là
thể loại của tri giác trực nhận/ intuitive perception mỗi khi người ta
nói:’tôi nghĩ, và; đó là điều để biết, ít nhất là sự thật, thực thể và chắc
chắn. - I think, and know that this,at least, is true, actual and certain’ Có
lẽ; triết gia cho đó là một hiểu biết: điều không có thể là không chắc mà có
thể đó là điều làm cho người ta ngộ nhận hay nhầm lẫn, nhưng; tại sao lại nhấn
mạnh đó là sự thật? Chủ thể ‘Tôi’ là điều kiện của xác nhận ‘Nghĩ’. Nghĩ ở
đây là cái của ‘nó’ là một xác quyết cổ điển của tự kỷ ám thị/ egoism

đặc nó trong một tiết điệu, một giả thuyết, một khẳng định
và một tự tin là không có cái trường hợp chắc chắn tức thời; dù cho ‘Tôi’ hay
‘Nó’ đều chứa đựng trong một diễn trình và cũng chẳng phải tùy thuộc cả hai
mà là hiện hữu giữa ‘tôi’ và ‘nó. Mà hàm chứa ở đây một điều gì thuộc tập
quán của phạm trù: ‘suy tư là một hoạt động tích cực; mà mỗi hoạt động được
đòi hỏi bởi một tác nhân/ thinking is an activity; every activity requires
an agent…’
Ý niệm thuộc về cá tính triết học là không bất cứ gì gọi là
bất thường hoặc tự chủ động (autonomously) mà bằng một hiệu năng thực tiển
trong ta ‘L’effet c’est mo/ I am the effect’ nhưng trưởng thành của hiệu
năng là nằm trong mạch nối quan hệ lẫn nhau, tuy nhiên; cái đó không phải là
ngẫu nhiên và cũng chẳng phải phán quyết mà xuất hiện trong lịch sử của tư tưởng.
Từ đó cho chúng ta một nguyên nhân chính mình ‘causa sue’ là một cái gì nghịch
lý tự nó như một ý thức, nhưng trong cái niềm tự hào cạn cợt của con người có
một ý thức điều khiển để rồi tự mắc vào cái gì sâu xa và đầy kinh ngạc với những
gì ở đây đều là vô lý. Lòng ước ao để đạt tới tự do của hoài vọng trong một cảm
thức thuộc siêu hình tối thượng mà cảm thức đó vẫn còn trong vòng luẩn quẩn,
không đạt được trong một trí tuệ nửa vời (half-educated); lòng ước ao mang lại
sự chịu đựng trọn vẹn và một trách nhiệm căn bản sau cùng cho những ai tự
hành động ở chính mình. Và; để được Thượng đế tha tội, vũ trụ, tổ tiên , may
mắn hạnh phúc và bao gồm cả xã hội thời không ít thì nhiều đưa tới một ý niệm
chính xác về cái ‘nguyên cớ chính mình / causa sui’ và đẩy cái nguyên nhân đó
đi vào với hiện hữu, nhập vào cõi hư không: ‘Con người không có gì khác hơn
nhưng đó là điều mà con người tự làm nên ở chính mình. Đó là bước tiên khởi của
chủ thuyết hiện sinh…Trước phản ảnh của cái ngã thời không còn chi là hiện hữu…
/ Man is nothing else but that which he makes of himself. That is the first
principle of existentialism…Before that projection of the self nothing
exists…(trong: Existentialism Is a Humanism by J.P. Sartre. Trans.Walter
Kaufmann .P.290).
Với tất cả triết thuyết đều như có một cái gì tự phụ trong
định kiến về luân lý và ngờ vực; cái đó không có nghĩa là dìm xuống dưới vực
sâu mà phải hiểu điều đó như thể thức khoa học thực nghiệm, cấu trúc khác biệt
từng phần trong ngữ ngôn ‘morphology’ và nói lên những gì có tính cách khai mở
vấn đề cho quyền mong muốn tự do. Định kiến về luân lý là năng lực xuyên qua
trong hầu hết tinh thần thế giới, điều mà có thể được coi như là quá lạc
lẻo và gần như tránh đi cái giả thuyết vu vơ. Một tâm sinh lý riêng biệt,
chính xác và thích hợp cần phải có ý thức trước vấn đề.
Trái lại; nếu như có người đã một lần thả trôi vấn đề hay
gào lên như tiếng thét. Điều đó đúng! thời chúng ta nghiến răng chịu đựng,
chúng ta hãy mở to mắt ra; thời tất chúng ta chấp nhận đứng mũi chịu sào.
Chúng ta căn buồm để vượt qua nền luân lý đạo đức, chúng ta bị đè bẹp, chúng
ta đành phá hủy, có lẽ; còn lại thứ luân lý riêng ta bởi chúng ta can đảm, chịu
đựng để làm nên một cuộc hành trình lâu dài và thử thách của những gì chúng
ta đã thực hiện. Nhưng vấn đề gì là ‘chúng ta’! –but what matter are ‘we’!
Không bao giờ hẳn là người tài ba lỗi lược, tỏ ra mình là người viễn du đi
rao giảng. Và; đối với nhà tâm lý; thì đó là làm thân hiến tế/ makes a
sacrifice! Đó không phải hiến tế, hiến tế của kẻ thức giả/sacrifizio dell
intelletto/ sacrifice of the intellect, trên một nghĩa khác mang tính chất đối
kháng. Mong muốn cuối cùng là được ban quyền để có một đòi hỏi để trở về những
gì thuộc tâm lý nhân tâm sẽ được thừa nhận tái tục và coi như lâu đài của
khoa học cho những ai đang phục vụ và chuẩn bị cho một nền khoa học tồn lưu.
Vì; tâm lý học giờ đây được tái tục trên con đường mòn dẫn đến vấn đề cơ bản
hữu quan. Cho nên chi thương đau gần như là hình phạt của những triết gia, bởi;
họ hiến tế như kẻ ngoan dâng hiến hoặc là dâng hiến niềm tin; thương đau và
hiến tế của triết gia là lãnh nhận như hình phạt, mà để nói lên hữu ích của sự
thật. –the martyrdom of the philosopher, this ‘sacrifice for the sake of
truth’.

Duy chỉ ở đây là vấn đề cần thiết với những gì ao ước và sáng tỏ như
bày ra cái gì mà người ta cho đó là trường hợp của triết học; mà chỉ là cái
trò dâm ô, chỉ là những ngữ ngôn khôi hài, chỉ là những chứng cớ kéo dài; thật
sự đó chỉ là bi thương trong giai đoạn cuối mà thôi, giả thuyết của tất cả những
gì triết thuyết là những gì căn cớ truyền lưu lâu dài một cách bi thảm
–merely a satyr play, merely an epilogue farce, merely the continued proof
that the long, real tragedy is at an end, assuming that every philosophy was
in its genesis a long tragedy.
Đây là những gì khó khăn để diễn tả qua ngôn ngữ trong cùng
một nghĩa cử khác, đó là thời gian chuyển vần ‘tempo’ cơ bản như vai trò của
cuộc đua hoặc nói rộng nghĩa ra thì đó ‘chỉ là’ thuộc triết học; trong định
hướng của ‘tempo’ thuộc về biến chất trong con người (metabolism). Tuy nhiên
vẫn có tính chất trung thực cho một thẩm quan, để chuyển vần những gì
có ý định bày tỏ (meant) như kiểu thức vô tư thô thiểm, một mô thức ngụy tạo
nguyên bản có trước đây thuộc về triết học. Bất luận quan điểm nào thuộc hệ
thống triết học người ta có thể tiếp nhận ngày nay một cách thông thường; từ
mọi quan điểm qua cái nhìn thiếu sót đáng kể ‘erroneousness’ của thế giới mà
trong đó chúng ta nghĩ chúng ta sống thực một cách an tâm và vững lòng, sự kiện
đó chúng ta có thể bắt chụp: -chúng ta đi tìm lý do như một lần đã đi tìm lý do
là điều tợ như lôi cuốn chúng ta vào sự vụ, chú ý đến giả thuyết lừa bịp
chính trong cái nghĩa ‘bản chất của mọi thứ / the essence of things’ Nhưng bất
luận có cầm giữ những tư duy của chúng ta đi nữa; cho là tinh thần đi! thời mặc
khác: -trách nhiệm cho việc sai lầm đối với thế giới hôm nay, việc đáng qúy
là cách vượt xa cái không hợp thời mà là để chúng ta chọn lựa bằng hữu thức
hoặc vô thức bào chửa về Thượng đế. –an honourable way out which is chosen by
every conscious or unconscious ‘advocatus dei’; đó là luật tiền tệ của
Nietzsche (Nietzsche’s coinage) một mẫu thức sau khi biện hộ của loài qủy sứ
‘advocatus diaboli’. Bất cứ trong cõi không gian, thời gian nào, phương thức,
trào lưu nào là cả một sai lầm ngụy tạo đã hàm chứa một sự đã rồi ‘inferred’.Thành
ra giữa ‘advocatus dei’ và ‘advocatus diaboli’ là hai mặt đối nghịch giữa
nhân gian và triết gia; quan điểm của Nietzsche trở nên mẫu thức ngăn cấm như
qui luật của ‘đồng tiền’. Ý của Nietzsche trở thành cục bộ tư tưởng hay đây
là ám thị giữa Thượng đế và Con người là hai đối tượng hiện hữu của chối từ
và tôn thờ hay ‘an honourable way-out’ để vượt thoát…
Trong tất cả những gì có tính nghiêm nghị; vô tư của tư tưởng
gia là như đã chạm tới và gợi lên một sự tôn kính, trong khi ngày nay người
ta vẫn còn bước ra khỏi ý thức với đòi hỏi rằng lời cầu khẩn của họ là minh định
lòng ngay thẳng, dẫu có hay không có một cách thực sự và tại sao điều yêu cầu
đó là một xác định cho thấy rằng thế giới ngoài kia là cả một khoảng cách thấy
rõ và đó cũng là vấn đề dành cho thể loại khác. Niềm tin ‘chắc chắn tức thời’
là một nền luân lý nguyên sơ (moral naiveté) đó là phản ảnh được lòng tôn
kính đến với triết gia. Thời điều gì sẽ có thể ngăn ngừa chúng ta từ cái nhầm
lẫn dại dột và buộc miệng nói lên rằng: triết gia chẳng có gì hơn, một quyền
hạn đưa tới cái vai trò xấu xí ‘bad character’ mà thôi; trong khi hiện hữu của
con người là luôn luôn dại dột, liều lĩnh là hiệu quả tốt nhất trên mặt đất
này, gần như có một nhiệm vụ đưa tới hoài nghi của ngày hôm nay, nhìn bằng
đôi mắt ác ý bởi mọi thứ là vực thẳm của hoài nghi. Do đó tư duy của triết
gia còn phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau mới mong lãnh hội đủ.

Ôi Nietzsche! Ôi nhân gian! Ôi phi lý! Có một vài điều liên
can về ‘chân lý’ về cái tìm kiếm sự thật và trong khi nhân loại cũng là con
người hướng tới cái điều tìm kiếm chân như đúng nghĩa một cách tốt đẹp hơn
‘il ne cherche le vrai que pour faire le bien/ He seeks the true only to do
good’. Dù gì; Nietzsche chỉ tìm thấy hư không mà thôi (nothingness/ néant).
Bởi; trong cái tựu chung của ông là chối từ để về với như nhiên.
Tiêu biểu cuối cùng của triết gia là hình ảnh của tinh thần tự do
đã được góp phần bởi Stendhal, người được coi là từng trải có chất Đức; cũng
chẳng phải lý do đó để bày tỏ và cho rằng ông muốn chống lại cái chất ‘đặc
thù’ Đức: ‘pour être bon philosophe’ mà đây là những gì lớn lao của triết
thuyết, bởi là triết gia tốt; người phải khô cứng nguyên chất, trong sáng
không mắc phải ảo tưởng. Ngân hàng gia là người làm điều may thể hiện đúng chức
năng, đó là nhu cầu khám phá mọi mặt của triết thuyết, là những gì nói ra, thấy
được cái sáng ngời trong những gì là …il faut être sec, clair, sans illusion.
Un banquier, qui a fait fortune, a une partied u caractère requis pour faire
des découvertes en philosophie, c’est-à-dire pour voir clair dans ce qui est…
Cái đó không phải là những gì tồi tệ mà đó là nguyên nhân xấu hổ tồi tệ.-It
is not the worst things that cause the worst shame. Và; cũng chẳng phải bịp bợm
sau cái mặt nạ; có quá nhiều độ lượng để che đậy giả dối, xảo trá, con người
phải canh chừng một vài điều qúy giá và có thể đưa tới tác hại không lường
luôn vướng vít vào cuộc đời đang sống. Con người thường khi có cảm thức xấu hổ
ở chính mình là một cái gì thâm sâu chạm trán bởi định mệnh và một quyết định
tinh tế, khéo léo và đó cũng là bệnh lý cảm thức mà ít nhiều đã đụng tới
và những ai đã một lần không ít hiện hữu trước sự kiện và tỏ ra một cách gần
gũi mà chẳng hay biết gì. Thời đó là con người che đậy, cái điều trở nên bẩm
sinh, một diễn từ của im lặng và chôn vùi trong im lặng, một im lặng hố thẳm
vô biên trong cái gọi là lẫn trốn của tín hiệu giao lưu để rồi rút về với hiện
hữu thụ động, chất liệu đó tồn tại và cố hữu khó vượt thoát ra khỏi sự thật của
tinh thần tự do.

Trong tinh thần lắng đọng đó cần có mặt nạ; dù nhiều hay ít
trong bất cứ tinh thần lắng đọng, che kín mặt nạ là cứ còn tiếp tục lớn dần;
tại vì còn chứa đựng sự sai lầm, ấy là vì quá ‘nông cạn/shallow’. Được diễn tả
qua mọi ngôn từ, từng bước một, từng ký hiệu của cuộc đời đang sống. Cái mặt
nạ đó được Nietzsche lồng vào trong một cảm thức của ‘Ngoài Tốt và Xấu’(Beyond
Good and Evil) và trong ‘Chuộng Quyền lực’ (Will to Power) có thể đó là những
mặt nạ rút từ phản ứng hoàn toàn không thích hợp những gì đặc sau cái mặt nạ
đó. Karl Jaspers gọi đây là sự chú ý tương tợ giữa Nietzsche và Kierkeggard ở
cùng một tọa độ, cùng một mục đích của sự thật, tinh thần tự do và quay trong
một phạm trù triết học chẳng có gì khác hơn.
Tóm lại; những gì mang lại cho những triết gia là có người
bạn mới của ‘chân như/truth’? Có thể xem đây là vừa đủ cho tất cả những triết
gia, qúy hóa cho một người tình chân thật của họ. Nhưng chắc chắn sẽ không có
tính võ đoán (dogmatists) . Mà ở đây là niềm tự hào ở chính họ và cũng là chất
vị (taste); nếu chân như của họ có được thiết tưởng đó là chân như cho mọi
con người. –if their truth is supposed to be a truth for every man; mà những
gì tốt đẹp muốn giữ kín và che đậy, nghĩa là tất cả độc đoán đòi hỏi thời:’Phán
xét của tôi là phán xét của tôi /My judgment is my judgment’ Và; không một ai
khác dễ dàng ban quyền lên điều đó. Được vậy là những gì triết gia muốn có
cho một tương lai, có lẽ; họ nói lên tư duy của chính họ. Great things remain
for the great, abysses for the profound, nuances and shudders for the refined,
and; in brief, all that is rare for the rare. Những gì to lớn còn lại là dành
cho sự vĩ đại, vực thẳm của thâm sâu cùng cực, một tinh thần tinh tế dưới những
dạng thức khác nhau và hãi hùng cho một văn phong tao nhã, và; trong một ý tưởng
đầy đủ, một lý thuyết thu tóm; tất cả là hi hữu cho hi hữu, cho thanh cao là
thanh cao!.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét