Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016

Thơ ca - Nơi cư trú của tình yêu

Thơ ca - Nơi cư trú của tình yêu
Tháng 9-1971, một tháng trước khi giải thưởng Nobel văn học dành cho Pablo Neruda (1904-1973) được công bố, tuần báo L’Express đã thực hiện một cuộc phỏng vấn nhà thơ về cuộc đời, hoạt động chính trị và sự nghiệp thơ ca của ông. Neruda cho biết ông sinh ở Parral, miền Trung Chilê, nhưng từ bé đã theo gia đình chuyển đến sinh sống ở Temulco, miền cực Nam đất nước, giữa những cánh đồng và khu rừng, nơi các thổ dân Mapuches từng kháng cự những người Tây Ban Nha tìm vàng và chiếm đất của họ. “Temulco là cái phong cảnh của tôi, là nét chính yếu của thơ tôi” [1], Neruda đã nói như thế. Và ông giải thích cái dòng máu Chilê mang khuynh hướng thi ca chảy trong người ông có lẽ bắt nguồn từ sự cách biệt của xứ sở vừa có núi lửa, vừa gần biển cả này.
Cuộc đời và sự nghiệp P. Neruda có nhiều nét giống với Francesco Petrarca (1304-1374), nhà thơ Ý thời sơ kỳ Phục hưng. Cha của hai ông đều không thiện cảm với con đường sáng tác văn chương đến nổi đốt cả tủ sách của con trai. Ở tuổi thiếu niên, chiều ý cha, Petrarca học luật nhưng vẫn không rời tác phẩm của Cicéron, Virgile và say mê làm thơ; còn Neruda vừa học kiến trúc, vừa đọc Sully Prudhomme, Verlaine, Rimbaud…và công bố những bài thơ đầu tay của mình. May mắn lớn của đời ông là từ rất sớm, đã có được nguồn động viên của hai nhà thơ Chilê: Augusto Winter và Gabriel Mistral, người về sau được giải Nobel văn học năm 1945.
Cũng như nước Ý, Chilê là đất nước sản sinh ra nhiều nhà hàng hải và những người du lịch. Từ thời trẻ, Neruda đã tìm đường đi tới những chân trời mới ở trong và ngoài xứ sở của mình và cơ may đã đến khi ông được chọn làm lãnh sự Chilê ở Rangoon, Miến Điện, khi mới 23 tuổi. Từ đây, ông gắn bó với hoạt động ngoại giao, và cùng với đó là hoạt động chính trị, cho đến cuối đời. Ở thế kỷ 14, Petrarca làm ngoại giao nhân dân, đi lại như con thoi giữa các trung tâm quyền lực chính trị và tôn giáo để hoà giải các phe phái nhằm tìm kiếm sự đoàn kết cho dân tộc và thiết lập nền hoà bình cho nước Ý. Còn ở thế kỷ 20, trên cương vị một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, Neruda đã hoà mình vào các lực lượng dân chủ, đối phó với thế lực quân phiệt trong một hoàn cảnh đen tối của Chilê. Trong hồi ký Tôi thú nhận là tôi đã sống, ông viết:
“Dân tộc tôi là một dân tộc bị phản bội nhất trong thời đại chúng ta. Từ giữa lòng các sa mạc hoả tiêu, từ các mỏ than được khoét sâu dưới lòng biển, từ các đỉnh cao kinh khủng có quặng đồng mà bàn tay nhân dân phải cực nhọc quá sức mới lấy ra được, từ các nơi đó đã nổi lên một phong trào giải phóng lớn lao và cao quý (…). Ở về phía chúng tôi, ở về phía cách mạng Chilê, là hiến pháp và luật pháp, dân chủ và hy vọng. Về phía kia, không thiếu gì hết. Họ có những tên làm trò và những tay múa rối, có những tay hề gánh xiếc và những tên khủng bố giết người và canh tù, có bọn khốn nạn không lương tri và bọn nhà binh sa đọa. Tất cả quay cuồng trong một hí trường bỉ ổi” [2]. Tưởng như Neruda không chỉ nói về Chilê và về những năm tháng ấy! Bài diễn văn nảy lửa của ông trước Quốc hội Chilê có nhan đề Tôi buộc tội làm ta nhớ đến lá thư ngỏ J’accuse của E. Zola và tờ tạp chí cùng tên của nhóm J.-P. Sartre, những nhà văn dấn thân nổi tiếng.
Ý thức chính trị nhen nhóm trong tâm hồn Neruda cùng lúc với ý thức nghệ sĩ. Ở trường đại học, chủ đề cách mạng và thơ ca đã chiếm phần lớn sự quan tâm của ông. Ông đến tận các hầm lò đọc thơ cho những người thợ mỏ. Ra nước ngoài, ông chia sẻ lập trường chống thực dân của sinh viên Ấn Độ, sát cánh với những người cộng hoà Tây Ban Nha chống lại chế độ phát xít Franco. Chính thời gian ở Madrid đã thôi thúc ông trở thành đảng viên Đảng cộng sản Chilê vào năm 1945, vốn là Đảng công nhân xã hội do Luis Emilio Recabarren, một lãnh tụ nghiệp đoàn, sáng lập. Neruda từng là ứng cử viên tổng thống do Mặt trận Bình dân đề cử. Trọn đời mình, ông ở trên cùng con thuyền với những người Chilê dân chủ, mà người tiêu biểu nhất là Salvador Allende, vị tổng thống dân cử đã bất khuất ngã xuống vì lý tưởng công bằng và nhân đạo, dưới họng súng tàn bạo của Pinochet vào tháng 9-1973. Cái chết trong đớn đau của Neruda 12 ngày sau đó trở thành một biểu tượng cho tinh thần đấu tranh, lương tri và phẩm giá của người trí thức.
Tuy nhiên, Neruda có thể chia sẻ ý kiến “con người là một con vật chính trị” của Aristote hay “chính trị luôn cuốn hút tôi” của E. Evtushenko, nhưng ông lại không dấn sâu đến mức để cảm hứng sáng tạo của mình ngập chìm trong chính trị. So sánh mình với A. Koestler, ông nói: “Thực ra tôi đã phải làm thơ trong một vùng quê nhỏ bé, gần một khu rừng lớn. Koestler là loại người của thành thị, của thủ phủ lớn, của những tư tưởng và những xung đột. Tôi ưa ái tình hơn. Tôi đã viết mười tập thơ về tình yêu. Chính trị, đó là một nỗi ám ảnh những kẻ khác. Không phải của tôi” [3].
Cũng như Petrarca, chính trị của Neruda là chủ nghĩa ái quốc, và cách riêng là chủ nghĩa ái quốc mang tinh thần lục địa, nghĩa là tình yêu Chilê gắn liền với tình yêu châu Mỹ latinh. Tinh thần quốc tế của ông nếu lúc đầu có chút bồng bột của tuổi trẻ thì càng về sau càng chín chắn hơn, chẳng hạn khi khi ông đọc được bản báo cáo của N. Khrutchev về tệ sùng bái cá nhân. Trong hồi ký, ông miêu tả với giọng văn cay đắng cuộc sống trên một đất nước mà ông đã hai lần đến thăm: “Tôi đã thấy hàng trăm đàn ông, đàn bà phe phẩy trong tay như thế nào một cuốn sánh đỏ làm bùa để thắng lợi khi thi đấu bóng bàn, để chữa bệnh ruột dư hay để giải quyết những vấn đề chính trị (…).
Rõ như ban ngày, trước mắt tôi, trong cảnh mênh mông đất trời của Trung Quốc mới này lại đã sinh ra cái trò thay thế con người bằng một huyền thoại. Một huyền thoại nhằm nắm độc quyền ý thức cách mạng, thu cả vào trong một bàn tay nắm công cuộc xây dựng xã hội đáng lẽ phải là của mọi người. Tôi không sao nuốt nổi một lần thứ hai cái viên thuốc đắng này” [4].
Dù vậy, Neruda được nhớ đến như một gương mặt văn hoá có ý nghĩa toàn thế giới chủ yếu không phải vì thái độ chính trị mà vì tiếng nói của nghệ thuật thơ ca. Mặc dù thời trẻ từng chịu ảnh hưởng của phái Thi sơn và thơ tượng trưng, ông có quan niệm riêng của mình về thơ: “Tôi không tin ở một hệ thống thi ca, một tổ chức thi ca. Tôi đi xa hơn nữa: tôi không tin ở các trường phái, cả tượng trưng lẫn hiện thực hoặc siêu thực. Tôi tuyệt đối thoát khỏi mọi nhãn hiệu mà người ta dán trên sản phẩm. Tôi ưa sản phẩm, chứ không phải nhãn hiệu. Và trong lịch sử nhỏ bé của chúng tôi, chúng tôi đã có không biết bao nhiêu là nhãn hiệu” [5]. Không ra rời những chủ đề thời sự của đất nước, tác phẩm Neruda đồng thời vươn đến những giá trị vĩnh cửu của nhân loại: “Tôi đã hiểu trong lĩnh vực này đóng góp nào là của đất và đóng góp nào là của tâm hồn. Và tôi nghĩ rằng thơ ca, nhất thời hay trác việt, là một hồi kịch trong đó có sự tham gia đồng thời và trong những mức độ nhất định, sự cô độc và tính cộng đồng, tình cảm và hành vi, nội tâm của chính nhà thơ, nội tâm của con người nói chung và sự hé lộ bí ẩn của tự nhiên” [6].
Được sáng tác trong những ngày xa Tổ quốc, thơ ông không hề mang tâm trạng của một kẻ lưu đày nhưng vẫn thấm đẫm nỗi hoài nhớ của một người con xa xứ:
                     Ôi, Tổ quốc hãy còn tơi tả
                     Ôi mùa xuân yêu quý của ta,
                     Đến bao giờ
                     Đến bao giờ và bao giờ
                     Ngâm trong biển và dầm trong sương sớm
                     ta giật mình tỉnh giấc giữa tay người!
                                   (Đào Xuân Quý dịch)
Cùng chọn thể sonnet 14 câu để ngợi ca tình yêu, thơ Petrarca hướng đến tình yêu thánh hoá và thuần khiết kiểu Platon, còn Neruda thì gắn tình yêu với bùn đất và khổ nhục trần gian:
                     Em đến tự miền Nam, những vùng khắc nghiệt
                     của giá rét, của đói nghèo và động đất,
                     nơi thần thánh dẫu lăn vào cõi chết
                     vẫn rút tự bùn ra bài học của đời.
                     Em là con ngựa bằng đất đen, là cái hôn
                     bằng bùn tối, là tình, là hoa bằng đất sét,
                     là cái ống đựng ưu phiền của tuổi thơ tội nghiệp,
                     là con chim gáy của hoàng hôn tung cánh trên đường.
                                               (Xuân Diệu dịch)
P. Neruda luôn dành một tình cảm sâu nặng cho Việt Nam. Năm 24 tuổi ông đã từng du hành khắp Đông Dương trên một chuyến xe khách, đến tận Sài Gòn. Một kỷ niệm mà ông không bao giờ quên: giữa rừng xe bị chết máy, trong lúc hoảng sợ vì một mình với những người xa lạ và bất đồng ngôn ngữ, ông nhìn thấy ánh đèn và tiếng trống của những người dân địa phương đến hát cho ông nghe. Ông đã ghi lại điều này trong bài thơ Đó là ở Việt Nam, năm 1928. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta được cổ vũ bởi những bài thơ nóng bỏng của ông, tập hợp trong tác phẩm Lời thúc giục tiêu diệt Nixon và khúc hát ngợi ca cách mạng Chilê. Ở Việt Nam, thơ ông được dịch và giới thiệu khá sớm, ngay từ những năm 60 và 70 thế kỷ trước, với những bản dịch của Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Đào Xuân Quý, Bằng Việt, Nguyễn Đăng Thường…
Đánh giá về P. Neruda, A. Berman và Cl. Couffon viết: “Ông là nhà thơ của tình yêu, nhà thơ của đất và biển, của sự vật và các nguyên tố, của lịch sử và huyền thoại, thậm chí ông còn tạo ra những đột phá, tuy không phải lúc nào cũng thành công, trong lĩnh vực thơ chính trị và giáo huấn. Năng lực sáng tác dồi dào dường như vô tận cuả ông khiến ta liên tưởng đến những người khổng lồ trong Thế kỷ vàng Tây Ban Nha” [7]. Còn Juan Marinello thì khẳng định: “Tác phẩm P. Neruda sẽ tồn tại như một tượng đài châu Mỹ, mang bản chất tiên tri không bao giờ vơi cạn” [8]. Trong thông báo trao tặng giải Nobel văn học cho Neruda, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển gọi ông là “nhà thơ của phẩm giá con người bị xúc phạm, đã làm sống động số phận và những ước mơ của cả một lục địa”.            
[1] Pablo Neruda: Thi  ca, cách mạng và tình yêu, Trình bầy, số 29, ngày 07-10-1971, tr. 10.
[2] P. Neruda: Tôi thú nhận là tôi đã sống (Phạm Gia Thuỵ và NNL dịch), Đứng dậy, số 112, tháng 10-1978, tr. 63-64.
[3] P. Neruda: Thi ca, cách mạng và tình yêu, Bđd, tr. 17.
[4] P. Neruda: Tôi thú nhận là tôi đã sống, Bđd, tr. 61.
[5] P. Neruda: Thi ca, cách mạng và tình yêu, Bđd, tr. 17.
[6] P. Neruda: Hướng về thành phố huy hoàng (Đoàn Tuấn và Lương Lê Giang dịch). Trong Các nhà văn giải Nobel (Đoàn Tử Huyến chủ biên), NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006, tr. 571.
[7] Le Nouveau Dictionnaire des auteurs, T. II, Laffont-Bompiani, France Loisirs, Paris, 1994, p. 2303.
[8] Như trên, tr. 2304.
Huỳnh Như Phương
Nguồn: Văn tuyển, số 3, NXB Văn Nghệ 
Theo http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đội Mũ Lệch Thả vỏ quýt ăn mắm ngấu Hai năm nay, Cả Lĩnh làm ăn phát đạt. Chẳng thế mà hắn ta lại dựng ngay ở phố chính một tòa nhà ...