Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

Trịnh Công Sơn hạt bụi trong cõi thiên thu

Trịnh Công Sơn hạt bụi trong cõi thiên thu
Trong ca từ Trịnh Công Sơn, những ca khúc có chứa hình ảnh núi là 27/228 bài, chiếm tỉ lệ 11,8%. Núi xuất hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn với những biến thể đồng nghĩa Hán Việt như: "Non" (nghĩa từ điển cũng là "Núi", thường dùng trong phạm vi văn chương. Lội suối trèo non. Non xanh [1]; xuất hiện ở dạng biến thể từ vựng gần nghĩa như "Đồi" (Dạng địa hình lồi, có sườn thoải, thường không cao quá 200m. Ngọn đồi trọc. Đồi chè [2]), và "Đèo" (Chỗ thấp và dễ vượt qua nhất trên đường giao thông đi qua các đỉnh núi. Trèo đèo lội suối. Qua đèo [3]). Trịnh Công Sơn thường sử dụng nhiều biến thể đồng nghĩa "Non" trong các ca khúc "thân phận ca" để tăng thêm sắc thái trang trọng, cổ điển cho lời ca của mình. Núi cũng tồn tại ở các biến thể từ vựng như: chân núi, chân đồi, đầu núi, đầu non, cuối đèo... để cụ thể hoá các không gian tâm trạng; xuất hiện ở dạng biến thể kết hợp ngay trong mối quan hệ nội bộ của từ như: núi non, đồi núi, đồi non, non ngàn... để nhấn mạnh vào tính vững chãi của "núi". Các biến thể kết hợp chủ yếu của "núi" khi đi vào ngôn ngữ lời ca trên trục ngữ đoạn rất tản mát: lên núi tìm, núi đầy mồ, lên núi nằm, núi...đợi chờ, về bên kia núi,... nó chủ yếu diễn tả tâm trạng của nhạc sĩ khi nói về niềm đau thân phận trong cảnh chiến tranh loạn lạc, dự cảm về cái chết, hoặc mặc cảm của trái tim đau đớn vì yêu. Núi từ ý nghĩa bản thể, từ những giá trị biểu trưng trong kí tích văn hoá, khi đi vào ca từ Trịnh Công Sơn, nó đã được tái tạo lại, mang một ý nghĩa mới mẻ: biểu tượng cho sự vững chãi, an toàn, là "Điểm hẹn trăm năm" của đời người. Và với mỗi biến thể trên trục hệ hình và biến thể kết hợp trên trục ngữ đoạn của lời ca, biểu tượng "núi" lại mang một ý nghĩa biểu trưng riêng khi tương tác với các yếu tố ngôn ngữ trên trục tuyến tính của ngôn từ.
Trước hết, núi là nơi quy tụ một phần đời của nhân loại, điểm hẹn gặp của những sinh linh xấu số, những kiếp người không may mắn được hàng ngày nhìn thấy con người, nhìn thấy mặt trời:
Khi đất nước tôi thanh bình
Tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm, nhiều nghĩa địa buồn
Đi xem mộ bia nhiều như nấm
Khi đất nước tôi không còn chiến tranh
Mẹ già lên núi tìm xương con mình
(Tôi sẽ đi thăm)
Cả một trường liên tưởng đều gợi đến cảnh u ám, chết chóc, những từ ngữ cùng trường nghĩa miêu tả cõi chết đồng loạt xuất hiện: nghĩa địa, mộ bia, xương... đi kèm hư từ "nhiều" đã nhấn mạnh về số đông, mang tính đồng loạt. Cách so sánh "như nấm" đã vẽ ra cả một bãi mộ bia hoang lạnh, rợn ngợp, thê lương. Có cảm giác như những nấm mộ hoang lạnh lẽo nằm rải rác nơi biên ải, ảm đạm một màu biên tái trong thơ Quang Dũng. Những câu hát vang lên không tác động đến người nghe nhiều về mặt giai điệu âm thanh, mà lại kích thích mạnh mẽ về mặt thị giác. Mỗi đoạn ca khúc như tái hiện một đoạn phim chiến tranh, mà âm thanh chủ đạo là tiếng gầm réo của đạn pháo, và ngổn ngang cảnh chiến trường thây người vùi ngổn ngang dưới các lớp đất đạn bom cày xới. Rồi tiếng súng im bặt, không gian chỉ còn lại cảnh hoang vu, trống trơn bóng dáng con người. Với Trịnh Công Sơn, cái đích của các cuộc kiếm tìm di hài là "lên núi". Núi là nơi hẹn gặp của con người khi tìm về với bản thể:
Một ngàn năm nô lệ giặc tàu
Một trăm năm nô lệ giặc tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ một rừng xương khô
Gia tài của mẹ một núi đầy mồ
(Gia tài của mẹ)
Thời gian của chiến tranh được đo bằng những số từ cụ thể, đại lượng chỉ thời gian "năm" được kết hợp với các số từ ngàn, trăm, hai mươi đã tái hiện sơ lược một giai đoạn bi thương trong lịch sử dân tộc. Vẫn là những từ ngữ trong trường nghĩa miêu tả cõi chết: xương khô, mồ... trong các kết hợp với rừng, núi đã nhấn mạnh tính chất khốc liệt vô cùng của sự huỷ diệt. Sau chiến tranh, gia tài của mẹ sẽ chẳng còn gì ngoài những gò núi chất chồng những âm hồn oan uổng lang thang trong lạnh lẽo. Và như vậy, cuộc sinh tồn này sẽ còn ai ở lại:
Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương
Còn có ai, không còn người
Ôi nhân loại mặt trời
Và em thôi, này đôi môi xin thương người...
(Xin mặt trời ngủ yên)
Trong ca từ Trịnh Công Sơn, số lượng câu hỏi tu từ xuất hiện khá nhiều. Đây là một dạng dùng câu hỏi để nhấn mạnh vào một ý tưởng hay một hình ảnh nào đó, hoàn toàn mang tính dụng ý của người nghệ sĩ. Thông thường, câu hỏi tu từ thường được dùng để thuyết phục người đọc, người nghe hoặc tạo ấn tượng đặc biệt về mặt hùng biện. Câu hỏi tu từ là dạng câu hỏi chứa đựng hình thức nghi vấn phủ định hay khẳng định nhưng không chờ đợi sự trả lời. Bởi bản thân câu hỏi tu từ vốn xác định điều đã biết đối với người nhận là không thể trả lời được. Giáo sư Đinh Trọng Lạc cho rằng câu hỏi tu từ "không đòi hỏi câu trả lời mà chỉ nhằm tăng cường tính diễn cảm của phát ngôn", và dạng thường gặp nhất của câu hỏi tu từ là: dạng câu hỏi mang ý nghĩa khẳng định; dạng biểu lộ tâm tư, cảm xúc, tình cảm của người nói; dạng phủ định một ý tưởng; và dạng có ý nghĩa mời mọc thiết tha [4].
Trong ngữ cảnh ca khúc trên, câu hỏi tu từ "còn có ai?" đã được khẳng định ngay bằng ý đi liền sau đó: "không còn người", hoặc câu hỏi đó tự nó cũng mang nghĩa phủ định: làm gì còn có ai ở trên cõi đời này? Chinh chiến đã mang đi một phần của nhân loại, tất cả đã đến điểm hẹn gặp nơi núi đồi quê hương. Câu hỏi tu từ trong ca khúc này tự nó đã mang đến một ý vị chua xót, bi ai.
Trong một ca khúc khác, biến thể kết hợp "chân núi" trong quan hệ tương tác với "nấm mồ", "thiên thu"... đã cho thấy "Núi" còn là điểm hẹn cho sự gặp gỡ tâm linh. Ta bắt gặp một Trịnh Công Sơn trong một dáng vẻ siêu thoát, có cái gì đó mang đậm ý vị của Thiền. Một trạng thái "mơ hồ" đầy chất triết học, hồ nghi chính sự hiện hữu của mình. Rõ ràng là mình đang tồn tại bằng xương bằng thịt mà lại luôn cảm nhận thấy sự hư vô của chính mình qua "cơn gió", thấy thấp thoáng trước mắt tiếng gọi của một cõi "thiên thu":
Lòng tôi có khi mơ hồ
Tưởng mình đang là cơn gió
Về chân núi thăm nấm mồ
Giữa đường trưa có tôi bơ phờ
Chợt tôi thấy thiên thu là một đường không bến bờ
 (Lời thiên thu gọi)
Trong ca từ Trịnh Công Sơn, "Chuyến xe" có lẽ là một hình ảnh ẩn dụ vô cùng đặc biệt, chỉ xuất hiện một vài lần trên mấy trăm ca khúc nhưng hình ảnh "chuyến xe" đã trở thành một biểu trưng tiêu biểu cho sự vô thường của đời người:
  Chiều nay em ra phố về
 Thấy đời mình là những chuyến xe
 (Nghe những tàn phai)
 Người nhìn mãi theo từng chuyến xe ngựa qua rồi
 Người nhìn dấu xe lăn đi dấu lăn trên đời
 (Phúc âm buồn)
Có lẽ, xuất phát từ cách tri nhận "Cuộc đời là một cuộc hành trình" mà Trịnh Công Sơn đã hình dung nhịp di chuyển hối hả của những chuyến xe giống như sự chuyển dịch gấp gáp của cuộc đời. Và những chuyến xe vô tình đi qua đã gợi trong ông những liên tưởng đến sự tàn phai mau chóng của đời người. Cấu trúc đối xứng đi - ở - đi: Ngựa xa rồi/ người vẫn ngồi/ bụi về với mây(Phúc âm buồn) đã diễn tả một nỗi buồn tiếc vô hạn trong lòng người với những mặc cảm buồn thương day dứt trước sự chia li của vạn vật. Cặp liên từ "nhưng" đã tạo nên một thế tương phản ngữ nghĩa trong câu hát:
Người còn đó/ (nhưng) lời nói rơi về chân đồi
Người còn đó/ (nhưng) trong tim máu tuôn ra ngoài
Nhuộm đất này, nhuộm cho hồng hạt mầm trót vay...
 (Phúc âm buồn)
Có cảm giác đây không phải là hiện sinh đích thực, vì thân xác không cùng tồn tại với linh hồn. "Lời nói" (tinh thần) đã rời xa con người để tìm về "chân đồi". Ở đây Núi đã trở thành nơi ẩn trú linh thiêng của những linh hồn tuyệt vọng. Đó cũng là niềm đau khôn cùng của những thân phận nô lệ da vàng cam chịu cúi đầu trong kiếp lưu đày, sống mà phải thoả hiệp với tha nhân; phải vong thân; đánh mất nhân vị của mình. Con người ấy phải sống trong một thế giới tàn tạ: loài người vắng vẻ, không gian hoang lạnh, con người phải gắng gượng tìm quên trong giấc ngủ mê, khi vạn vật đều bất lực buông xuôi:                                        
Đời đã khép và ngày đã tắt
Em hãy ngủ đi
Đời mãi đêm và ngày mãi buồn
Em hãy ngủ đi
Đồi đứng ngóng và đồi thắp nắng
Em hãy ngủ đi
Mặt đất in mặt trời cúi nhìn
Em hãy ngủ đi.
(Em hãy ngủ đi)
Các cấu trúc trùng lặp được điệp đi điệp lại, kết hợp với việc sử dụng các hư từ: đã, mãi, hãy...và sự lựa chọn những định ngữ chỉ sự kết thúc: khép, tắt; chỉ sự tối tăm, u ám: đêm, buồn (ở đây "đêm" là danh từ đã được tính từ hoá); chỉ một trạng thái: ngủ (ngủ dường như là một thái độ phó mặc, buông xuôi?) đã kéo nỗi buồn ra lê thê. Biến thể kết hợp "đồi - đứng ngóng", "đồi - thắp nắng" đã làm chuyển hướng ý nghĩa của biểu tượng: Đồi núi đã được nhân hoá cao độ, trở thành biểu trưng cho sự thấu hiểu, hi vọng và chia sẻ.
Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, người lính - kẻ cầm súng đi tìm công lí và tự do, tìm hoà bình cũng đã tuyệt vọng trong đợi chờ (20 năm), cuối cùng cũng lại tìm về bên núi như tìm về một nơi trú ẩn:
Anh lính ngồi chờ trên đồi hoang vu
Người tù ngồi chờ bóng tối mịt mù
Chờ đã bao năm
Chờ đã bao năm
Chờ đã bao năm...
(Chờ nhìn quê hương sáng chói)
Trong những ca khúc phản chiến, Trịnh Công Sơn thường sử dụng xen kẽ những yếu tố Hán Việt khiến cho sắc thái lời ca thêm trang trọng, và nếu diễn tả đau thương thì cũng có tác dụng tô đậm chất bi thương. Trong ca khúc Ngụ ngôn mùa đông, "non" trong biến thể kết hợp nội bộ "đồi non" đã cùng với yếu tố Hán Việt "cội nguồn" ở câu dưới tạo ra một sắc thái trang trọng, có độ vang về nghĩa. Núi còn là nơi ẩn trú an toàn, tìm về bên núi là tìm về với cội nguồn, tìm về một sự an ủi, chia sẻ, chở che:
Một ngày mùa đông
Một người Việt Nam
Đi lên đồi non
Nhớ về cội nguồn
Nhớ về đoạn đường
Từ đó ra đi.
(Ngụ ngôn mùa đông)
Trong ca khúc Trịnh Công Sơn hay xuất hiện những sự vật, hiện tượng gắn với từ "cuối": cuối đường, cuối trời, cuối cuộc tình, cuối dòng sông, cuối đèo,... Trong văn chương, từ "cuối" đi với các kết hợp từ cũng trở thành một tín hiệu thẩm mĩ đặc biệt. Cuối tựa như một điểm dừng, điểm kết thúc cả về mặt không gian lẫn thời gian, cũng có khi là một điểm hẹn hò, gặp gỡ. Ở ca khúc Như chim ưu phiền, rất tinh tế, nhạc sĩ đã sử dụng hình ảnh so sánh "tôi" như "chim" để làm nổi bật nét tương đồng về sự lênh đênh, bé nhỏ, vô định giữa cánh chim và đời người. Một loạt những từ ngữ trong cùng trường liên tưởng xuất hiện như: ưu phiền, buồn, quạnh hiu, u sầu... đã làm chuyển biến ý nghĩa của biểu tượng: Núi trở thành nơi tìm về, tìm an nhiên của những số phận thiếu hạnh phúc trần gian:
Tôi như chim ưu phiền
Bay về cuối dòng sông
Con sông mang tin buồn
Nằm chờ những đoá hồng
Tôi như con chim chiều
Mang đầy nắng quạnh hiu
Trên đôi vai u sầu
Tìm về nơi cuối đèo
(Như chim ưu phiền)
Trong hệ biểu tượng của thế giới, với đặc điểm cao, núi còn có ý nghĩa tham gia vào hệ biểu tượng của cái siêu tại, siêu phàm. Núi có thể giúp con người giải thoát khỏi nỗi khổ đau nhân thế:
Đôi khi một người dường như chờ đợi
Thật ra đang ngồi thảnh thơi
Tôi như là người ngồi trong đêm dài
Nhìn tôi đang quá ngậm ngùi
Một hôm buồn ra ngắm dòng sông
Một hôm buồn lên núi nằm xuống
(Tự tình khúc)
Trạng thái an nhiên, thảnh thơi là trạng thái của con người đã thoát ra khỏi những hệ luỵ của cuộc đời. Con người ấy đã tự soi chiếu được đời mình, thấy được những trăn trở của riêng mình mà "ngậm ngùi" tự chia sẻ, tự tìm được phương cách giải thoát mình khi buồn đau: "lên núi", trở về với đất mẹ, tìm sự chở che. Núi đã trở thành điểm hẹn cho sự giải thoát cuộc đời.
Núi với ý nghĩa là trung tâm, là biểu tượng cho khái niệm về sự thanh khiết, Núi còn là điểm hẹn của những người tình:
Ngày mai em đi
Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ
Sỏi đá trông em từng giờ
Nghe buồn nhịp chân bơ vơ
(Biển nhớ)
Những người tình khi xa cách nhau vẫn bị giằng níu bên núi lời giục gọi quay về. Dáng nằm "nghiêng nghiêng" đầy những ám ảnh chờ đợi và những ước vọng không mong muốn về sự phụ rẫy.
Cũng có khi, núi là điểm hẹn của tình yêu, của sự kiếm tìm hạnh phúc dẫu có vô thường:
Tìm tình trên núi
Em gặp mây bay
Tìm tình giữa chợ
Tình phai mất rồi
(Bống không là bống)
Đó là tính nhị nguyên của cuộc đời: vui và buồn luôn song hành và hội ngộ, hạnh phúc hiện hữu rồi tan biến, tình yêu là khái niệm mà con người cố công tìm kiếm, rồi lại tan vỡ, nhạt phai. 
[1]. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, 2010, tr. 945.
[2]. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, 2010, tr. 440.
[3]. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, 2010, tr. 401.
[4]. Dẫn theo Phạm Thị Như Hoa, Câu hỏi tu từ trong thơ Chế Lan Viên, Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008, tr.11.
Nguồn: Trịnh Công Sơn hạt bụi trong cõi thiên thu. Nxb TĐBK, 2011, Tr 42-48.
Vũ Thị Huyền Trang
Theo http://nxbtdbk.vass.gov.vn/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hư vô phản kháng

Hư vô phản kháng Hư vô phản kháng là gì? Là niềm đau vô tận số: ngậm ngùi bi thương, đoạn trường ai oán. Trong trạng huống đó người ta tạm...