Ý nghĩa của hình tượng khỉ
trong văn học dân gian Việt Nam
Trong văn học nghệ thuật hay
hội họa, điện ảnh của các nước trên thế giới, loài khỉ thường xuyên xuất hiện
trong vai trò là nhân vật chính, là nguồn cảm hứng cho sáng tác. Hình ảnh con
khỉ đã từ đời sống đi vào văn học dân gian Việt Nam và xuất hiện ở rất nhiều thể
loại khác nhau, từ thành ngữ tục ngữ đến ca dao dân ca và cả truyện cổ tích, sự
tích. Do đặc tính giống người về cả hình thức lẫn cảm xúc nên con khỉ thường được
dân gian mang ra ví von với cả tính cách lẫn hành vi, lối sống của loài người,
mỗi ví von đều chứa đựng một triết lý nhân sinh, một thông điệp, một bài học, một
lời nhắn nhủ của cha ông truyền lại cho những thế hệ sau.
Trong số 12 con giáp, khỉ được
xem là biểu tượng của sự tinh anh, nhanh trí, thông minh và lém lỉnh, tượng
trưng cho sự tốt lành và may mắn, hoạt náo và vui tươi. Trong số các loài động
vật hoang dã thì khỉ là một loài động vật thú vị và luôn gây bất ngờ cho con
người. Vì là con vật có đặc tính giống với loài người, có thể di chuyển bằng
hai chân, cầm nắm bằng tay, sống theo gia đình đủ vợ chồng con cái, sinh con và
cho con bú sữa mẹ nên khỉ cũng được cho là một loài động vật có tình thương và
cảm xúc giống người. Cảm xúc yêu thương, giận dữ của khỉ có thể nhìn thấy được
trong những biểu hiện trên gương mặt như con người. Trong giao tiếp với loài
người, khỉ là con vật thường đem lại tiếng cười bởi những hành vi bắt chước ngộ
nghĩnh và tinh nghịch y hệt con người của nó. Thậm chí khỉ còn là loài vật biết
biểu lộ tình thương với đồng loại của mình không khác gì con người, chúng hôn
hít nhau, rúc vào cơ thể nhau, bắt chấy cho nhau, ôm ấp và vuốt ve nhau.
Trong văn học nghệ thuật hay
hội họa, điện ảnh của các nước trên thế giới, loài khỉ cũng thường xuyên xuất
hiện trong vai trò là nhân vật chính, là nguồn cảm hứng cho sáng tác và cũng đã
có những nhân vật khỉ lưu tên với thế giới muôn đời như Hanuman, Tôn Ngộ Không,
Kinh Kong… Trong đời sống tinh thần và trong tâm linh của các dân tộc Châu Á,
khỉ đứng vị trí thứ 9 trong thập nhị địa chi, biểu hiện qua giờ thân, ngày
thân, tháng thân, năm thân. Trong văn học dân gian Việt Nam, hình tượng khỉ lại
xuất hiện nhiều trong tục ngữ ca dao và trong truyện cổ tích, chuyển tải nhiều
triết lý nhân sinh của cha ông xưa và cũng là hình ảnh biểu trưng cho tình cảm
của con người trong những hoàn cảnh điển hình.
1. Không
gian thì liên quan chi đến khỉ?
Môi trường sống tự nhiên của
khỉ là thế giới hoang dã, trong các khu rừng rậm, những cánh rừng ẩm ướt nhiều
hang động hay các khu vực đồng cỏ rộng lớn và hầu hết các loài khỉ đều sống ở
trên cây, leo trèo lên xuống liên tục, di chuyển từ cành cây này sang cành cây
khác nhờ cái đuôi giúp giữ thăng bằng và có thể cầm nắm như hai bàn tay. Thế giới
của khỉ là thế giới thiên nhiên hoang dã, đối với loài người, đó là một môi trường
hoang vắng, mênh mông, không có bóng dáng con người. Chính vì lẽ đó, khi muốn
ví von môi trường sống vắng vẻ, hoang vu, ít dấu hiệu của con người thì dân
gian hay sử dụng đến các thành ngữ có liên quan đến loài khỉ như Khỉ ho cò
gáy hay Vượn hú chim kêu. Nơi đâu có âm thanh của khỉ nghĩa rằng nơi
đó hoang vắng và xa xôi, heo hút và hẻo lánh, ít người lui tới... Nơi khỉ ho cò
gáy còn có nghĩa chỉ một vùng đất khô cằn không thuận lợi cho việc làm ăn sinh
sống và phát triển kinh tế, sự nghiệp.
Trong ca dao Việt Nam, hai
thành ngữ trên thường được người bình dân đưa vào những câu ca dao có nội dung
than thân, than thở, diễn tả nỗi nhớ cha mẹ, gia đình, làng xóm, quê hương của
người con gái đi lấy chồng xa:
Má ơi đừng gả con xa
Chữ “má ơi” là tiếng gọi mẹ
mang tính địa phương của người Nam Bộ. Vùng đất miền Nam trước đây còn mênh
mông và hoang vu, đi lại giữa làng này sang làng khác còn nhiều khó khăn, gả
con xa là gả con sang làng khác hay tỉnh khác, phương tiện đi lại nào mấy lần
xuồng ghe, nào xe đò xe khách, xa xôi diệu vợi như vậy, biết bao giờ người con
gái đã theo chồng mới có thể được về thăm cha thăm mẹ? Mà chẳng may cô gái được
gả vào nơi đèo heo hút gió, vùng sâu vùng xa, cách trở núi non thì ngay cả việc
định hướng nhà cha mẹ ở đâu để ngóng về cho đỡ nhớ thương cũng còn là điều khó
nhọc, khi quanh mình chỉ thấy sông hồ mênh mông, núi non sừng sững che chắn tầm
nhìn, xung quanh thì vang lên những tiếng chim kêu vượn hú nghe não nùng và buồn
bã biết bao nhiêu. Đời con khỉ, con vượn sống ở nơi hoang vu nên tiếng khỉ
ho, vượn hú cũng chỉ có thể bắt gặp ở nơi thâm sơn cùng cốc. Trong bài dân ca Lý
qua đèo của người Bình Trị Thiên có câu:
Chiều chiều dắt mẹ qua đèo
Chim kêu bên nớ, vượn trèo
bên tê
Hình ảnh chim kêu vượn trèo
trong bài dân ca này cũng nhằm để miêu tả cảnh hoang vu rợn ngợp của thiên
nhiên đang bủa vây con người nhỏ bé và lao khổ trong hành trình trèo đèo vượt
suối tìm kế sinh nhai.
Cùng với những loài động vật
hoang dã khác như muỗi, đĩa, vắt, cá sấu, cọp... con khỉ cũng xuất hiện trong
những câu ca dao miêu tả cảnh hoang vu của vùng đất phương Nam thời mở cõi, cái
thời mà khỉ và cọp hay cá sấu còn nhiều hơn con người:
Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông cá lội trên rừng cọp
um
Chiều chiều én liệng trên trời
Rùa bò dưới đất, khỉ ngồi
trên cây
Con khỉ sống trên cây, gắn
bó cuộc đời của mình với rừng rậm nên bắt khỉ xa rừng, xa cây nào có khác chi bắt
nó đi vào đường chết?
Vượn xa cây có ngày vượn rũ
Anh xa nàng mặt ủ mày châu
Thế cho nên đôi lứa yêu nhau
mà bị chia lìa cũng được người bình dân ví von với sự xa cách rừng cây của loài
khỉ, anh thiếu nàng thì tương tư rầu rĩ, khỉ xa cây thì rũ rượi héo hon.
Và cũng do cái đặc tính có
cuộc sống gắn liền với những rừng cây rậm rạp nên lại có thành ngữ Rung
cây nhát khỉ, muốn làm cho khỉ sợ thì chỉ có cách rung cây nghĩa là làm xáo động
nơi ở của nó, gây ra cảnh tượng hỗn loạn khiến nó phải sợ hãi mà bỏ chạy, phải
thò đầu ra khỏi nơi ẩn nấp, lúc đó mới dễ dàng bắt được. Nhưng thật ra khi càng
rung thì khỉ càng bám chặt vào thân cây hơn vì khỉ đủ khôn để biết đấy chính là
nơi trú ẩn an toàn nhất của giống loài nó. Vậy nên nghĩa bóng của thành ngữ này
ý nói việc rung cây dọa khỉ là việc làm công cốc, không có hiệu quả, không có
tác dụng, kiểu lo bò trắng răng. Cũng tương tự với ý làm những việc
không hiệu quả như thành ngữ trên là câu Dạy khỉ trèo cây, trèo cây
là việc bản năng của loài khỉ, khi vừa mới sinh ra nó đã biết làm và làm rất giỏi
rồi, cho nên có ai hơi đâu mà dạy cho khỉ làm việc đó. Dân gian Việt Nam cũng
có một thành ngữ rất độc đáo tương tự ý trên là Dạy đĩ vén váy.
Cái gọi là xấu xí ở đây
không chỉ là cái vẻ không được ưa nhìn bên ngoài mà còn nhằm để miêu tả cái xấu
xa trong tính cách con người. Để chê ai đó xấu xí, hay cau có khó ưa, dân gian
Việt Nam hay dùng các cụm từ Mặt nhăn như khỉ, Mặt nhăn như khỉ ăn ớt,
Mặt nhăn như khỉ ăn ruốc hay Nhăn nhó như khỉ ăn gừng. Nghĩa đen
của các câu thành ngữ này nhằm miêu tả cái bộ mặt nhăn nhó khó coi nhìn rất khổ
sở của loài khỉ khi chúng ăn nhằm phải các thứ đồ cay như gừng, ớt hay món ăn
có mùi khó chịu như ruốc. Mặt khỉ bình thường đã nhiều nếp nhăn thuộc loại bậc
nhất trong các loài động vật rồi nên khi khỉ nhăn mặt thì còn thấy nhàu nhĩ gấp
bội phần. Ông cha xưa dùng hình ảnh nhăn nhúm khổ sở của mặt khỉ nhằm ám chỉ
con người đang có tâm trạng lo lắng hay đang có điều gì đó khó chịu, cau có, quạu
quọ với tất cả những người xung quanh.
Có một bài ca dao hài hước,
trong đó có một ý chê bai gương mặt nhăn nhó xấu xí của con người, và cái gương
mặt đó được ví von với gương mặt của loài khỉ:
Ông Trăng mới bảo ông Trời
Những người hạ giới đẹp thời
như tiên
Ông Trời mới bảo ông Trăng
Những người hạ giới mặt nhăn
như tườu
Tườu ở đây là một từ
dùng để chỉ loài khỉ, đây là một từ rất hiếm gặp trong văn chương lẫn trong đời
sống thực tế. Bài ca dao là một câu chuyện xoay xung quanh ba nhân vật: mặt trời,
mặt trăng và con người. Tại sao cũng chỉ là con người thôi mà cách đánh giá của
mặt trời và mặt trăng lại khác nhau một trời một vực? Mặt trăng thì cho rằng
người đẹp giống tiên, mặt trời lại cho rằng mặt người nhăn như mặt khỉ. Phải
chăng dưới sáng dịu dàng của vầng trăng, gương mặt con người luôn có một cái vẻ
nhẹ nhõm dễ chịu và có chút lung linh huyền ảo như người ở cõi tiên?
Còn dưới ánh nắng chói chang của mặt trời thì đương nhiên là gương mặt của con người sẽ trở nên nhăn nhúm khó coi. Bài ca dao ngắn ngủi nhưng chứa đầy triết lý của cha ông về cách nhìn nhận và đánh giá con người, và vấn đề mà tôi muốn đề cập đến ở đây là cái chỗ “mặt nhăn như tườu”, hễ cứ nhăn nhó cau có là mặt người luôn được ví von với loài khỉ chứ không phải là một loài động vật nào khác.
Còn dưới ánh nắng chói chang của mặt trời thì đương nhiên là gương mặt của con người sẽ trở nên nhăn nhúm khó coi. Bài ca dao ngắn ngủi nhưng chứa đầy triết lý của cha ông về cách nhìn nhận và đánh giá con người, và vấn đề mà tôi muốn đề cập đến ở đây là cái chỗ “mặt nhăn như tườu”, hễ cứ nhăn nhó cau có là mặt người luôn được ví von với loài khỉ chứ không phải là một loài động vật nào khác.
Thêm một bài ca dao hài hước
ví von sự xấu xí của con người với loài khỉ, ở đây là nhằm để chê bai nhan sắc
của người vợ trong thế đối sánh với người chồng. Để chê bai người phụ nữ có
hình thức xấu xí đến mức ma chê quỷ hờn, dân gian đã không ngại so sánh với khỉ:
Thân anh như trống như bưng
Vợ anh như khỉ trong rừng mới
ra
Thân anh như ngọc như ngà
Vợ anh ở nhà như thể ma trời…
Ta có thể đoán, biết đâu đây
là lời dè bỉu chê bai của một người phụ nữ khác, vì muốn có được chồng của người
ta nên không ngớt lời chê bai đến mức mạt sát hình thức không được ưa nhìn mấy
của người vợ?
Nếu bộ mặt nhăn nhó của khỉ
được ví với sự cau có khó chịu, thì gương mặt rầu rĩ của khỉ lại được dùng để
miêu tả nỗi buồn, nỗi khổ tâm hay tuyệt vọng của con người. Câu thành ngữ Rầu
rĩ như khỉ chết con khiến ta hình dung ra hình ảnh một con khỉ ngồi buồn
rũ rượi, bần thần, ngơ ngác trông rất thảm thương tội nghiệp. Con khỉ là một
loài động vật có tình thương và cảm xúc y hệt con người nên có lẽ cũng giống
như con người, đối với loài khỉ có nỗi đau nào ví được bằng nỗi đau mất con hay
mất đi người thân thương ruột thịt. Dân gian Việt Nam lấy hình ảnh khỉ chết con
để ví von với tình cảnh thảm thương, hụt hẫng của một con người vừa đánh mất đi
một thứ gì đó quý giá đối với mình.
Tuy nhiên cũng có câu thành
ngữ ví von ngược lại với những câu trên, nếu gương mặt nhăn nhó, rầu rĩ của con
người được ví với khỉ thì gương mặt cười thỏa mái, cười hết cỡ cũng được ví với
gương mặt đang mừng vui của khỉ, đó là câu Cười như khỉ được mùa ngô.
Rồi cũng do tại bởi cái hình
thức đa phần đều gầy gò, khô khan, quắt queo, nói chung là xấu xí của loài khỉ
mà con người lại hay lôi khỉ ra để mắng mỏ, chê bai người khác. Khi chê ai quá
nhỏ bé, gầy yếu, tong teo thì dân gian bảo “cái đồ khỉ khô”. Hoặc để mắng mỏ những
người có tính nghịch dai, hay trêu ghẹo mọi người thì dân gian lại dùng cụm từ
“đồ khỉ gió”. Có lẽ do khỉ gió là một giống khỉ có hình dạng nhỏ nhắn như loài
sóc, lông dài mượt, lại hay nhảy nhót, nhanh nhẹn và tinh nghịch, thích đùa ghẹo
và có thể đùa vui nghịch ngợm với nhau cả ngày không biết mệt.
Nói về hình thức xấu xí của
khỉ còn có những câu tục ngữ như:
Con chó chê khỉ lắm lông
Khỉ thời chê chó ăn dông ăn
dài
Hay
Chuột
chù chê khỉ rằng hôi
Chưa bàn đến nghĩa bóng của
những câu tục ngữ trên, xét về mặt nghĩa đen ta thấy trong quan niệm của dân
gian thì khỉ là một loài động vật có “lắm lông” và có mùi cơ thể rất hôi hám.
Trong trường hợp của hai câu tục ngữ trên, vì khỉ bị chó và chuột chê bai nên
đã nói móc lại hai con vật trên về những thói xấu của chúng, chó thì ăn dông ăn
dài, ăn lai rai, ăn tạp, ăn suốt ngày, bạ đâu ăn đó, còn chuột chù thì cũng chả
phải thơm tho gì cho hơn loài khỉ. Nghĩa bóng của hai câu tục ngữ trên ý nói rằng
trước khi mở miệng chê bai ai cái gì thì mình hãy tự nhìn lại mình, hãy tự phán
xét mình trước, xem mình có khuyết điểm gì không, có gì xấu xí không, có gì hơn
thiên hạ không mà dám mở miệng chê bai người này người nọ. Với những người
không biết tự nhìn nhận bản thân mà cứ chê bai dè bỉu người khác thì coi chừng
có ngày “há miệng mắc quai”, bị người ta chê bai ngược lại như con chó và con
chuột ở trên.
Bên cạnh đó trong truyện cổ
tích Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, đều có câu chuyện về sự tích của
loài khỉ, trong đó có nhắc đến cái mông đỏ au của một số loài khỉ hiện nay là
do vô tình ngồi trên những lưỡi cày sắt đã được nung đỏ. Con khỉ theo sự tích
dân gian là do những người giàu có nhưng gian ác bị hóa thành. Những con người
này tuy dư thừa của cải nhưng ăn ở thất đức, hành hạ người làm, cướp bóc của
người nghèo và cư xử tệ hại với người tàn tật già nua, cho nên bị tiên ông hóa
thành khỉ. Tuy nhiên dù bị đuổi vào rừng sâu nhưng khỉ vẫn còn tiếc nuối gia sản
của mình nên tối tối cứ kéo nhau về vây quanh nhà cũ mà la ó. Con người bèn
nghĩ ra cách nung nóng các lưỡi cày sắt bỏ khắp sân, khỉ về đặt mông lên đó ngồi
thì bị cháy phỏng mông và từ đó đít của loài khỉ đỏ au cho đến bây giờ. Để nói
đến đặc tính hình thức này của loài khỉ, người Nghệ Tĩnh cũng có câu tục ngữ:Ở
với khỉ mới biết khỉ đỏ khu, ở với tru mới biết tru nhọn sừng.
3. Làm
càn làm quấy cứ lấy khỉ mà so
Như ở trên là nói đến cái xấu
xí về mặt hình thức của khỉ nên cũng bị so với hình thức xấu xí của con người,
còn xét về mặt tính cách, trí tuệ, tâm tính mà xấu xa, phản phúc, ngu đần…thì
dân gian Việt Nam cũng có không ít câu mang khỉ ra mà ví. Muốn chửi ai
ngu si, đần độn, khó dạy bảo thì kêu là Cái đồ chà vá đục đạc. Chà vá
là một loài vượn khoang, còn đục đạc là chỉ con khỉ đột, hai giống khỉ bị dân
gian cho rằng có đầu óc ngu si, khó dạy. Để mắng chửi người dốt nát mà ưa bày
trò hay thích múa may làm trò để qua mặt thiên hạ thì dân gian lại có cụm từ làm
trò khỉ hay cái đồ làm khỉ làm khọn, tức là làm những chuyện
chướng tai gai mắt người ta.
Câu làm trò khỉ hay làm
khỉ làm khọn cũng tương đương như nghĩa của câu thành ngữ Khỉ mặc áo
tế, áo tế là một loại trang phục nghiêm trang dùng để cho những người giữ vai
trò quan trọng (như chủ tế) trong các buổi lễ mặc để hành lễ. Con khỉ vốn lốc
cha lốc chốc, hành vi không được nghiêm trang lại khoác cái trang phục ấy lên
người thì thật là không phù hợp, không ra thế thống gì mà chỉ làm trò cười cho
thiên hạ. Cũng tương tự với ý như vậy, khi muốn nói về sự kệch cỡm, buồn cười,
không phù hợp giữa nội dung và hình thức, dân gian cũng hay dùng câu Cóc
đi guốc, khỉ đeo hoa. Trong quan điểm của người bình dân, những người có hình
thức bề ngoài xấu xí như cóc như khỉ thì cho dù có khoác lên người những thứ
xinh đẹp đi nữa thì cũng Khỉ lại hoàn khỉ, mèo lại hoàn mèo. Bản chất như
thế nào thì không thể thay đổi được, cho dù có giỏi biến hóa và giỏi làm
trò khỉ bao nhiêu đi nữa thì rốt cuộc cũng quay về là chính nó, chẳng thay
đổi được gì thêm ngoài việc mang lại cho thiên hạ một trận cười hả hê. Vì thế
khi để diễn tả việc khó có thể xẩy ra, khó ngờ tới, khó tin, ca dao còn có câu
liên quan đến khỉ:
“Bao giờ cho khỉ đeo hoa
Cho voi đánh sáp, cho gà nhuộm
răng”
Bên cạnh đó, để chê trách,
phê bình những con người không biết giữ chữ tín, không thực hiện lời hứa của
mình, ông cha ta lại có câu thành ngữ ví von Hứa hươu hứa vượn. Có lẽ do
xuất phát từ đặc tính hay chạy nhảy và rất nhanh nhẹn của loài hươu và loài khỉ,
thoắt ẩn thoắt hiện rất khó bắt giữ nên dân gian cho rằng những người hứa đó rồi
quên đó cũng thuộc kiểu mau chóng thay đổi trạng thái như loài hươu và loài vượn
mà thôi.
Không biết từ tính cách gì của
con khỉ mà ông cha xưa để lại những câu tục ngữ nhằm miêu tả sự phản phúc,
không trung thành của loài khỉ mà cũng là nhằm để ví von với những con người vô
tình bạc nghĩa, đâm lén, hãm hại người khác sau lưng như như Nuôi ong tay
áo, nuôi khỉ dòm nhà hay Nuôi khỉ khỉ đốt nhà, nuôi gà gà mổ mắt.Có một
giai thoại truyền lại trong dân gian rằng, ngày xưa có một đôi vợ chồng nọ nuôi
một con khỉ trong nhà, khỉ rất hay dòm ngó hành vi của con người mà bắt chước
làm theo.
Một hôm người vợ bắt nước sôi luộc gà, khỉ thấy vậy thì ghi nhớ trong đầu. Khi hai vợ chồng đi vắng, khỉ ở nhà cũng bắt nước sôi và bắt chước cho đứa trẻ con của đôi vợ chồng đó vào nồi luộc chín. Hay giai thoại kể về một con khỉ được con người nuôi nấng từ nhỏ, một lần thấy ông bà chủ gom rơm rạ hun khói đốt đồng, nó về nhà thấy mái tranh lòa xòa tưởng rơm nên cũng lấy lửa đốt nhà, hại chết cả những đứa bé trong nhà. Từ những giai thoại này dân gian cho rằng không nên nuôi khỉ dòm nhà nghĩa là không nên nuôi những kẻ ngu đần và thiếu trí tuệ ở trong nhà, những người đó chỉ biết làm theo một cách máy móc, không biết phân biệt đúng sai nên sẽ có lúc gây hại cho gia chủ. Còn câu tục ngữ nuôi khỉ đốt nhà nghĩa là cũng như nuôi một kẻ phản phúc trong nhà, có lúc sẽ gây hoạ cho người nuôi.
Một hôm người vợ bắt nước sôi luộc gà, khỉ thấy vậy thì ghi nhớ trong đầu. Khi hai vợ chồng đi vắng, khỉ ở nhà cũng bắt nước sôi và bắt chước cho đứa trẻ con của đôi vợ chồng đó vào nồi luộc chín. Hay giai thoại kể về một con khỉ được con người nuôi nấng từ nhỏ, một lần thấy ông bà chủ gom rơm rạ hun khói đốt đồng, nó về nhà thấy mái tranh lòa xòa tưởng rơm nên cũng lấy lửa đốt nhà, hại chết cả những đứa bé trong nhà. Từ những giai thoại này dân gian cho rằng không nên nuôi khỉ dòm nhà nghĩa là không nên nuôi những kẻ ngu đần và thiếu trí tuệ ở trong nhà, những người đó chỉ biết làm theo một cách máy móc, không biết phân biệt đúng sai nên sẽ có lúc gây hại cho gia chủ. Còn câu tục ngữ nuôi khỉ đốt nhà nghĩa là cũng như nuôi một kẻ phản phúc trong nhà, có lúc sẽ gây hoạ cho người nuôi.
Còn câu tục ngữ dưới đây Khinh
khỉ thì mắc độc già có ý nói về tính cách dữ tợn có phần hung ác của loài
khỉ độc, tức là một loài khỉ có vóc dáng rất to lớn và thường sống một mình, có
thể tấn công và giết chết người đi rừng. Câu tục ngữ này có ý cho rằng khi con
người tỏ vẻ khinh thường những con khỉ nhỏ bé láu lỉnh hay bày trò phá phách
lăng nhăng thì lại gặp những con khỉ độc to lớn và hung dữ hơn gấp nhiều lần.
Nghĩa bóng của câu này có ý khuyên con người không nên chủ quan trước những trở
ngại trong cuộc sống, vì có khi đằng sau những khó khăn tưởng nhỏ nhặt lại là
những thứ còn nhiều thử thách chúng ta hơn. Đồng thời còn có thể hiểu theo
nghĩa khuyên con người đừng nên kén cá chọn canh vì biết đâu tránh vỏ dưa lại gặp
vỏ dừa.
Trong quan niệm của người Việt
Nam, phụ nữ nếu không may được sinh vào năm Thân sẽ lận đận về đường duyên nợ,
một là muộn đường chồng con, hai là nếu lấy chồng sớm sẽ phải qua 2, 3 lần đò
(2,3 chồng), sau đó mới được yên ổn hạnh phúc. Cho nên khi tính tuổi sinh con,
dân gian cũng hay tránh năm Thân, đặc biệt là năm Canh Thân đối với dự định
sinh con gái hay năm Giáp Thân đối với kế hoạch sinh con trai. Ca dao có câu:
Người ta tuổi tí tuổi
mùi
Còn em luống chịu bùi
ngùi tuổi Thân
để nói đến cái lo lắng, bùi
ngùi cho thân phận mình sẽ gặp tình duyên lận đận dở dang của một cô gái trót
được cha mẹ sinh nhằm vào năm Thân. Phụ nữ cầm tinh con khỉ trong tư tưởng của
người xưa phần nhiều có cuộc đời lận đận, do đa sầu, đa cảm và đa tình nên hay
gặp rắc rối trong chuyện tình cảm, có khi còn không may phải góa chồng sớm.
Hình ảnh người vợ góa chồng một mình nuôi con nhỏ cũng khiến cho dân gian chạnh
lòng ví von với hình ảnh con khỉ bồng con hái trái:
Khỉ bồng con lên non hái
trái
Anh cảm thương nàng phận gái
mồ côi
Theo cách nghĩ của người
xưa, những người cầm tinh con khỉ thường có hành vi… giống khỉ, giống theo kiểu
hay nhanh hay nhảu mà thành hậu đậu, thường thích hoạt động luôn tay luôn chân,
hay đi xa chứ không thể ngồi yên một chỗ. Người tuổi thân thường thích đi lại
nên cũng dễ thay đổi môi trường làm việc, muốn được bay nhảy và đối đầu với thử
thách ở những nơi mới mẽ. Cho nên đối với con khỉ, thật khổ khi phải sống trong
lùm cây hay bụi rậm vì môi trường sống lý tưởng của nó là phải ở những rừng cây
rậm rạp để nó có thể tha hồ nhảy nhót, và nhiều khi để thỏa mãn được cái tính
khí hay leo trèo mà khỉ gây ra những chuyện nực cười như trong câu ca dao dưới
đây.
Tuổi thân con khỉ ở lùm
Nhảy qua nhảy lại té
ùm xuống sông
Trong bài dân ca Lý Đất
Giồng của người Nam Bộ có những câu hát đối đáp qua lại của một chàng trai
tuổi Giáp Thân và một cô gái tuổi Canh dần. Theo tử vi thì đây là 2 tuổi xung
khắc mạng với nhau trong tứ hành xung Dần- Thân- Tỵ- Hợi. Khi nhìn thấy người
con gái mình yêu đang vất vả gánh nước tưới rau trên giồng đất, chàng trai đã
buông lời hỏi han thật lòng thật dạ:
Hỡi cô gánh nước đàng xa
Còn bao gánh nữa để qua gánh
dùm?
Ngay lập tức, cô gái cũng
buông lời trêu ghẹo lại chàng:
Tuổi thân con khỉ ở lùm
Cuốc không lo cuốc, lo dòm
người ta
Chàng trai dù bị cô gái trêu
đùa, ví von mình với con giáp mà mình cầm tinh và cho rằng mình không lo làm
ăn, cứ lo núp bờ núp bụi dòm lén cô gánh nước nhưng anh không thấy buồn mà còn
cảm thấy vui mừng. Vì nếu không để ý đến anh, không để lòng để dạ thương anh
thì cô gái làm sao biết được anh cầm tinh con khỉ. Biết được người ta đã có
chút tình cảm dành cho mình nên anh được dịp tiếp tục than thở, gợi lòng
thương:
Tuổi thân con khỉ là qua
Tình duyên dang dỡ xót xa mấy
lần
Trước những thở than mà cũng
là lời giới thiệu hoàn cảnh hôn nhân “tinh duyên dang dỡ”, tức là chưa có gia
đình của chàng trai, cô gái đã trả lời nửa đùa nửa thật mà cũng như là lời nhắn
nhủ:
Nếu anh chẳng thấy ngại ngần
Kết duyên thì hãy nhớ Canh Dần
tuổi em
Nghĩa rằng lòng cô đã chịu dạ
anh nhưng hỏi anh có ngại ngần chi không khi giữa hai người lỡ rơi vào mệnh
xung khắc, hai cái tuổi Thân và Dần liệu có ăn đời ở kiếp được với nhau hay
không. Bên cạnh đó với quan niệm của ông bà xưa con gái tuổi Dần dữ như cọp, liệu
có khiến anh chùn lòng không dám bước tới với cô hay không? Cô gái nhà quê gánh
nước tưới rau lo là lo vậy, chẳng xa xôi to tát gì, chẳng quan tâm anh có nhà
cao cửa rộng hay không mà chỉ lo cái quan niệm tâm linh xem tuổi chồng tuổi vợ
của cha ông từ xa xưa đến nay khiến hai người rồi sẽ thành dang dỡ mà thôi.
Tóm lại, hình ảnh con khỉ đã
từ đời sống đi vào văn học dân gian Việt Nam và xuất hiện ở rất nhiều thể loại
khác nhau, từ thành ngữ tục ngữ đến ca dao dân ca và cả truyện cổ tích, sự
tích.
Do đặc tính giống người về cả hình thức lẫn cảm xúc nên con khỉ thường được
dân gian mang ra ví von với cả tính cách lẫn hành vi, lối sống của loài người,
mỗi ví von đều chứa đựng một thông điệp, một bài học, một lời nhắn nhủ của cha
ông truyền lại cho những thế hệ sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét