Nghìn lẻ một đêm 4
Tâu bệ hạ, trong kinh thành một vương quốc
thuộc Trung Hoa, rất giàu và rộng mà tiện thiếp không nhớ tên, có một người thợ
may tên là Mustafa, đặc điểm không gì khác ngoài phong thái nghề nghiệp.
Mustafa rất nghèo, công việc chỉ vừa đủ ăn cho ông, vợ và một đứa con trai Trời
ban cho.
Đứa con trai, Aladdin, được nuôi dạy rất cẩu
thả nên tiếp xúc với những xu hướng xấu, nghịch ngợm, bướng bỉnh, không vâng lời
bố mẹ. Lớn lên một ít, bố mẹ không giữ được cậu bên mình, ngay từ sáng sớm cậu
ra khỏi nhà suốt ngày rong chơi trên đường ở những nơi công cộng, với những đứa
trẻ lang thang thậm chí ít tuổi hơn cậu.
Đến tuổi cậu phải học nghề, song bố cậu không
thể tạo dựng cho cậu một công việc gì khác ngoài nghề nghiệp của mình, ông đưa
con vào cửa hiệu tập cho may vá. Nhưng kể cả ngọt ngào lẫn đe doạ, ông bố không
sao ngăn được tính lêu lổng của con, không buộc được cậu chịu khó, chăm chỉ và
chú tâm vào công việc như ông mong muốn. Mustafa quay lưng đi, là Aladdin chạy
ngay ra ngoài đi suốt ngày không về. Bố trừng phạt Aladdin mấy cũng không sửa
chữa được. Và dù rất tiếc, Mustafa đành phải bỏ mặc con lêu lổng. Việc đó làm
ông đau lòng và nỗi buồn không dạy được con khiến ông lâm bệnh nặng sau mấy
tháng thì chết.
Mẹ Aladdin thấy con không học nghề của chồng,
liền đóng cửa hiệu may, bán đồ đạc hành nghề của chồng để mẹ con sinh sống, phụ
thêm vào chút ít tiền công mà bà kiếm được nhờ kéo sợi.
Aladdin không còn phải sợ bố nữa và lại càng
không sợ mẹ, thậm chí bà chỉ hơi mắng mỏ là cậu đã doạ lại bà nên cậu thoả sức
tự do càng ngày eàng ehơi bời say sưa hơn trước đây với lũ trẻ cùng lứa! Cậu tiếp
tục cuộc sống như thế cho đến năm mười lăm tuổi, không làm gì để mở mang trí tuệ
và chẳng suy nghĩ sau này mình sẽ ra sao. Trong tình trạng đó, một hôm cậu đan chơi ngoài bãi rộng với toán trẻ lang thang thì một người lạ đi qua đứng lại
nhìn cậu.
Người này chính là một lão phù thuỷ đáng gờm,
người ta gọi lão là phù thuỷ châu Phi.
Có lẽ lão phù thuỷ châu Phi biết tướng số nhận
thấy trên mặt Aladdin những gì cần thiết cho việc thực hiện mục đích của mình
hoặc lão đã khôn khéo thăm dò về gia đình, bản thân và khuynh hướng của cậu.
Lão lại gần chàng trai, kéo cậu ra cách bạn bè mấy bước, hỏi:
- Này cậu, bố cậu có phải là ông thợ may
Mustafa không?
- Thưa ông đúng đấy nhưng bố tôi mất lâu rồi.
Nghe nói thế, lão phù thuỷ châu Phi ôm lấy
Aladdin hôn nhiều lần, nước mắt xen lẫn thở than. Aladdin thấy lão khóc, liền hỏi
vì sao. Lão phù thuỷ kêu lên:
- Chà, cháu ơi! Làm sao không khóc được? Ta
là chú của cháu, bố cháu là người anh phúc hậu của ta. Ta đi xa đã nhiều năm và
lúc về với hy vọng gặp lại anh, đưa niềm vui lại cho anh thì cháu cho biết bố
chết rồi! Ta rất đau đớn vì không có được niềm an ủi như mong đợi. Nhưng ta
cũng nhẹ lòng một phần thấy trên khuôn mặt cháu có những nét của anh ta, ta thấy
đã không lầm khi hỏi chuyện cháu.
Tay bỏ vào túi tiền lão hỏi mẹ cậu ở đâu.
Aladdin trả lời ngay và lão phù thuỷ vừa đưa cho cậu một nắm tiền lẻ, vừa nói:
- Cháu ạ, về gặp mẹ nói chú gửi lời chào, nếu
thời gian cho phép, ngày mai chú sẽ đến thăm mẹ để tự an ủi thấy được nơi anh
chú sinh sống và đã qua đời.
Lão phù thuỷ vừa rời cậu cháu vừa nhận nhằng,
Aladdin liền chạy về gặp mẹ, vui sướng muốn khoe số tiền chú vừa cho.
- Mẹ ơi - cậu hỏi - con có một người chú
không?
- Không con ạ - Bà mẹ trả lời - Bên bố con
cũng như bên mẹ không có người chú nào cả.
- Thế mà con vừa gặp một ông nói là chú về
bên bố vì là em bố con. Điều làm con tin chắc là vì khi con nói, bố chết rồi,
ông khóc và ôm lấy con - Cậu đưa tiền ra và nói thêm - Con nói thật đấy. Ông ấy
cho con tiền đây, gửi lời chào mẹ và nói nếu ngày mai có thì giờ ông sẽ đến
thăm nhà và nơi bố con mất.
- Con ạ - Bà mẹ lại nói - Đúng bố con có một
người em nhưng chết đã lâu và mẹ không bao giờ nghe nói có người em nào nữa.
Hai mẹ con không nói gì hơn về người lạ ấy.
Hôm sau lão phù thuỷ lại gặp Aladdin lần thứ
hai đang chơi một chỗ khác trong thành phố. Lão ôm lấy cậu như lần trước, bỏ
vào tay cậu hai đồng tiền vàng và nói:
- Cháu ơi, đưa cái này về cho mẹ nói chiều
nay ta đến thăm, bà đi mua gì để chúng ta cùng ăn tối với nhau. Trước hết chỉ
cho ta nhà cháu ở đâu đã.
Cậu nói rõ địa chỉ và lão để cậu đi về.
Aladdin đưa hai đồng vàng cho mẹ. Nghe nói ý
định của ông chú, bà đi mua thức ăn ngon và sang hàng xóm mượn thêm một số nồi
niêu. Bà để cả buổi chuẩn bị bữa ăn tối. Và chiều đến khi bữa ăn đã sẵn sàng,
bà bảo con:
- Có lẽ chú con không biết nhà chúng ta, con
đi đón chú đưa ông về.
Tuy đã chỉ rõ nhà mình cho lão phù thuỷ châu
Phi, song Aladdin cũng sắp đi thì nghe tiếng gõ cửa. Cậu mở và thấy ông ta đang
bước vào, mang theo mấy chai rượu và nhiều loại quả cây cho bữa tối.
Đưa những thứ cho Aladdin lão chào bà mẹ, xin
bà cho biết chỗ ông anh Mustafa thường ngồi. Bà vừa chỉ chỗ lão liền, quỳ xuống
hôn chỗ ấy nhiều lần, rớt nước mắt đầm đìa kêu lên:
- Ông anh khốn khổ, em rất đau lòng không đến
được sớm hơn để ôm hôn anh một lần nữa truớc khi anh mất! Dù mẹ Aladdin mời nhiều
lần, lão vẫn không ngồi vào chỗ ấy.
- Không - Lão nói - Tôi ngồi đối điện đây để
nếu không được thoả mãn gặp người anh thân yêu mà tôi kính trọng như chính bố của
mình thì ít nhất tôi cũng được nhìn như thấy anh đang ở đấy.
Khi đã chọn được chỗ ngồi khác, lão bắt đầu
nói chuyện với mẹ Aladdin:
- Chị quý hoá của tôi, chị đừng ngạc nhiên
không thấy tôi trong suốt thời glan chị là vợ anh Mustafa. Tôi ra đi khỏi đất
nước này đã bốn mươi năm. Từ ngày đó sau khi đi hết Ấn Độ, Ba Tư, A Rập, Xy Ri,
Ai Cập qua những thành phố đẹp nhất các nước đó, tôi sang châu Phi và ở lại đó
lâu nhất: Cuối cùng theo lẽ tự nhiên của người dù xa quê hương đến mấy cũng
không quên nhớ về bố mẹ và anh em ruột thịt, tôi chuẩn bị hành lý và lên đường
mong muổn trở về đất nước mình, đến ôm hôn người anh thân yêu trong lúc còn sức
và lòng can đảm làm một cuộc hành trình dài. Tôi không kể lại với chị thời gian
lăn lộn trải qua những gian nan, vất vả để về được đến đây. Chỉ nói với chị
không gì làm tôi day dứt, buồn rầu bằng được tin anh đã mất, người anh tôi luôn
yêu kính với một tình cảm thực sự. Tôi chú ý đến những nét của anh trên khuôn mặt
cháu và điều đó làm tôi phân biệt cháu với những đứa trẻ khác cùng chơi. Cháu
có thể nói tôi buồn đến mức nào khi biết anh tôi đã mất. Nhưng cũng phải tạ ơn
Trời về mọi việc: tôi tự an ủi thấy lại người anh trong đứa con trai giữ được
những nét nổi bật của anh.
Lão phù thuỷ châu Phi thấy bà mẹ đau lòng về
kỷ niệm ông chồng, liền thay đổi câu chuyện, ngoảnh lại Aladdin hỏi tên cậu.
- Cháu là Aladdin - Cậu trả lời.
- Thế cháu làm việc gì Aladdin? Cháu có biết
nghề gì không?
Nghe hỏi thế, Aladdin cúi mặt bối rối. Mẹ cậu
trả lời:
- Aladdin là một đứa lười biếng. Bố nó lúc
còn sống đã ra sức dạy nghề của ông cho nó nhưng không được. Từ khi ông mất, mặc
đù tôi nhắc nhở hàng ngày, nó không làm nghề gì khác ngoài việc lêu lổng, suốt
ngày chơi với trẻ con như chú thấy, không nghĩ mình chẳng còn bé nữa; nếu chú
không làm cho nó thấy xấu hổ, và không sửa chữa nhân dịp này, tôi sẽ thất vọng
vì không bao giờ nó có thể nên người. Nó biết bố mất chẳng để lại tài sản gì và
cũng thấy tôi kéo sợi suốt ngày khó kiếm đủ ăn. Tôi đã quyết định một ngày nào
đó sẽ đuổi nó ra khỏi nhà cho đi kiếm sống ở chỗ khác.
Sau khi bà mẹ vừa khóc vừa nól thế, lão phù
thuỷ châu Phi bảo Aladdin:
- Như vậy không tốt cháu ạ, cần phải tự lực
mà kiếm sống. Có nhiều nghề nghiệp, phải tìm cho mình một hướng ưa thích. Có lẽ
cháu không thích nghề của bốvà thấy mình phù hợp với một nghề khác hơn; đừng giấu
chú suy nghĩ của mình, chú sẽ tìm cách giúp cháu.
Thấy Aladđin không trả lời, lão nói:
- Nếu cháu sợ phải học nghề mà vẫn muốn trở
thành một người lương thiện, chú sẽ mở cho một cửa hàng vải vóc đẹp, cháu đứng
bán lấy tiền mua tiếp hàng, với cách đó cháu sẽ sống xứng đáng. Hãy tự nói thật
với chú: ý của cháu ra sao? Cháu nhớ là bao giờ chú cũng giữ lời hứa.
Sự giúp đỡ đó kích thích Aladdin vốn không muốn
làm công việc chân tay và cũng khá hiểu biết để nhận thấy những cửa hàng loại ấy
sạch sẽ, có nhiều người đến, những người bán hàng ăn mặc đẹp và được coi trọng.
Cậu lưu ý lão phù thuỷ mà cậu xem là chú mình rằng cậu có xu hướng về mặt ấy
hơn cả và rất cám ơn chú về điều tết ông định xây dựng cho mình. Lão phù thuỷ
châu Phi lại nói:
- Vì cháu thích công việc ấy, mai chú đưa
cháu cùng đi, cho cháu ăn mặc sạch sẽ, sang trọng phù hợp với phong cách một
nhà buôn lớn trong thành phố này; ngày kia chúng ta sẽ nghĩ đến việc mở cửa
hàng như chú nói.
Mẹ Aladdin trước đó vẫn không tin người lạ là
em chồng bà, lúc này nghe mọi điều tốt lành lão hứa xây dựng cho con thì không
còn nghi ngờ gì nữa. Bà cảm ơn lão về dự định quý hoá ấy, khuyên nhủ Aladdin cố
gắng xứng đáng với những điều tốt đẹp chú sẽ giúp cho rồi bà bày bữa ăn tối. Cuộc
nói chuyện xoay quanh vấn đề ấy suốt bữa ăn cho đến lúc thấy đã khuya, lão phù
thuỷ xin phép ra về.
Sáng hôm sau, lão trở lại nhà bà vợ goá ông
thợ may Mustafa như đã hứa, dẫn Aladdin đi theo mình, đến một cửa hàng bán quần
áo may sẵn đủ các loại vải, phù hợp với mọi lứa tuổi và mọi tầng lớp. Lão bảo
cho xem quần áo vừa cỡ người Aladdin, để riêng những loại lão ưng ý rồi nói với
Aladdin:
- Cháu chọn trong số này những bộ quần áo
thích nhất đi.
Cậu phấn khởi về thái độ thoải mái của ông
chú mới, chọn một bộ. Lão phù thuỷ mua tất cả những gì kèm theo và trả tiền
không cần mặc cả.
Khi Aladdin thấy mình mặc quần áo đẹp từ chân
đến đầu, cậu vô cùng cám ơn ông chú; lão phù thuỷ còn hứa không bao gíờ rời cậu.
Thực thế, lão đưa cậu đến những chỗ đông vui nhất thành phố, vào những cửa hàng
vải vóc nhiều và đẹp nhất bảo Aladdin:
- Rồi cháu sắp thành một thương nhân như những
người cháu thấy, nên đi lại với họ và để họ quen biết cháu.
Lão cũng dẫn cậu đi xem nhà thờ Hồi giáo đẹp và
lớn nhất, ung dung vào lâu đài những thương nhân nước ngoài tạm trú. Sau khi
cùng nhau đi khắp những chỗ đẹp của thành phố, họ đến một lâu đài và thuê một
căn hộ. Ở đấy có một số thương nhân lão làm quen khi vừa mới đến, mời họ cùng tập
hợp ăn uống với nhau và giới thiệu đứa cháu hờ.
Tiệc xong trời vừa tối. Aladdin muốn xin phép
chú ra về nhưng lão phù thuỷ không muốn để cậu đi một mình, đích thân đưa cậu về
với mẹ. Thấy con trai ăn mặc đẹp đến thế bà mẹ vui mừng khôn xiết, rối rít cám
ơn ông chú đã chi tiêu nhiều cho con mình:
- Chú thật độ lượng, chị không biết làm thế
nào để cám ơn lòng hào phóng của chú, chị biết con chị không xứng đáng với điều
tết lành chú đưa lại nếu như nó không cố gắng đáp ứng được ý chú định xây dựng
cho nó một cơ ngơi làm ăn vững vàng. Riêng chị - Bà nói thêm - chị vô cùng cảm
kích, chúc chú trường thọ để chứng kiến lòng biết ơn của con trai chị thể hiện
tất nhất ở cách quản lý cửa hàng theo lời chú dạy.
Lão phù thuỷ đáp:
- Aladdin là một đứa trẻ ngoan biết nghe lời,
và tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm được điều gì đó cớ kết quả. Chỉ phiền là chưa thể
thực hiện lời hứa vào ngày mai, thứ sáu, các cửa hàng đóng cửa hết, thương nhân
chỉ vui chơi, đành để lại ngày thứ bảy. Nhưng ngày mai tôi sẽ đến đưa cháu đi
chơi ở các công viên, chỗ giới khá giả lui tới. Có lẽ nó chưa biết gì về những
trò giải trí ở đấy, cho đến nay nó chỉ tiếp xúc với trẻ con, phải cho cháu gặp
người lớn.
Lão phù thuỷ cáo lui. Aladdin vô cùng sung sướng
vì đã được diện quần áo sang trọng, tận hưởng trước một niềm vui lớn được dạo
quanh thành phố vốn rất đẹp và dễ chịu.
Hôm sau cậu dậy sớm, ăn mặc tử tế chờ chú đến
đưa đi. Có vẻ như chờ lâu, cậu nóng lòng mở cửa, đứng ở bậc thềm nhìn ngóng. Thấy
lão, cậu báo tin với mẹ và chào từ biệt bà, đóng cửa lại chạy đến vớl ông chú.
Lão phù thuỷ thấy cậu, vuốt ve và cười cợt
nói:
- Nào, cháu thân yêu, hôm nay ta muốn cho
cháu thấy những điều còn kỳ diệu hơn nhiều những lâu đài tuyệt vời, với những
khu vườn tươi tốt kia.
Trước mỗi lâu đài lão lại hỏi cậu thấy có đẹp
không, Aladđin, lại đáp:
- Thưa chú, đây lại là một toà đẹp hơn những
toà chúng ta vừa đi qua.
Tuy nhiên họ mỗi lúc một tiến dần ra phía
ngoài thành phố mà lão phù thuỷ vừa tinh ranh muốn đi xa hơn nữa để thực hlện ý
định trong đầu. Thừa dịp vào trong một khu vườn, lão đến ngồi gần chiếc bể lớn
có nước chảy ra từ mõm một con sư tử bằng đồng đen, giả vờ mệt để nghỉ.
- Cháu ạ - lão nói - chắc cháu cũng mệt như
chú, chúng ta nghỉ một lúc cho lại sức để tiếp tục đi dạo.
Lão lấy ở thắt lưng ra một túi bánh và các loại
quả cây bày trên thành bể, chia đôi bánh và để Aladdin chọn nhũng quả mình
thích. Trong bữa ăn tạm đó, lão khuyên cậu cháu hờ thôi lêu lổng với bọn trẻ
con nên quan hệ với những người lớn tuổi thông thái và không ngoan để tranh thủ
nghe họ và học hỏi qua những lời trao đổi của họ. Lão bảo: Rồi cháu sẽ là người
lớn như họ, sẽ sớm quen nói những lời tất đẹp theo gương họ . Ăn xong họ đứng dậy
tiếp tục đi qua nhiều khu vườn cách nhau bằng nhiều hào nhỏ làm ranh giới nhưng
vẫn qua lại được: Những người dân ở kinh thành này có lòng tin vào nhau, không
cần phải bảo vệ kỹ hơn để ngăn chặn việc làm hại lẫn nhau. Không ai nhận thấy
lão phù thuỷ đã đưa Alađdin qua những khu vườn khá xa, qua những cánh đồng gần
đến rừng núi.
Aladdin suốt đời chưa đi nhiều như thế, thấy
rất mệt mỏi. Cậu nói với lão phù thuỷ:
- Chú ơi, chúng ta đi đâu vậy? Đã qua những
khu vườn rất xa và cháu chỉ thấy rừng núi. Nếu đi nữa không biết cháu còn đủ sức
trở về thành phố không?
- Can đảm lên cháu, ta muốn cho cháu thấy một
khu vườn tuyệt vời hơn rất nhiều những khu cháu vừa thấy. Không xa đây đâu, chỉ
một bước chân nữa thôi và tới nơi, cháu sẽ không thấy phí công chút nào.
Aladdin bị thuyết phục, lão phù thuỷ còn dẫn
cậu đi rất xa, vừa đi vừa kể những chuyện vui làm cậu thấy con đường đỡ buồn và
đỡ mệt mỏi hơn.
Cuối cùng họ đến giữa hai ngọn núi thấp ngang
nhau, giữa là một khu đồi hẹp. Đấy là nơi đáng chú ý mà lão phù thuỷ muốn đưa
Aladdln đến để thực hiện một ý đồ đã đưa lão từ cuối châu Phi đến đất nước
Trung Hoa. Lão nói với cậu:
Chúng ta không đi xa hơn nữa; ta muốn cho
cháu thấy ở đây những vật khác thường người đời không biết và khi thấy cháu sẽ
cám ơn ta đã cho cháu chứng kiến những kỳ quan có một không hai. Trong lúc ta
chuẩn bị, cháu thu thập mọi cành lá xung quanh, những ìoại khô nhất để đất lửa.
Aladdin dồn rất nhiều rác rưởi thành một đống
to. Lão phù thuỷ châm lửa và trong lúc cành lá bùng cháy, lão vứt vào đấy một
loại bột thơm đã chuẩn bị sẵn. Một làn khói dày đặc bốc lên, lão quay hết phía
này sang phía khác và lẩm nhẩm những cậu thần chú mà Aladdin, chẳng hiểu gì.
Cùng lúc ấy mặt đất nơi đó rung chuyển, trước
mặt hai người lộ ra một tảng đá rộng khoảng một bộ rưỡi vuông và dày một bộ bằng
phẳng, giữa gắn chặt một vòng đồng đen dùng nâng tảng đá. Alađđin sợ hãi thấy
những gì xảy ra trước mắt, muốn bỏ chạy. Cần đảm bảo bí mật, lão phù thuỷ giữ cậu
lại, mắng và tát một cái mạnh đến nỗi cậu ngã ra đất và răng cắn vào miệng đến
chảy máu Cậu bé khốn khổ run rẩy khóc nói:
- Chú ơi, cháu đả làm gì mà chú đánh cháu đau
như vậy?
- Ta có lý do để đánh - Lão phù thuỷ trả lời
- Ta là chú, bây giờ thay thế bố, cháu không được cãi lại. Nhưng cháu ạ - Lão dịu
lại nóỉ thêm - Đừng sợ, ta không đòi hỏi gì cháu ngoài việc theo đúng lời ta bảo
nếu cháu muốn cố gắng đạt được và xứng đáng với những món lợi lớn ta làm cho
cháu.
Những lời hứa ngọt ngào ấy làm Aladdin yên
lòng và khi thấy cậu đã hoàn toàn bình tĩnh, lão tiếp tục nói:
- Cháu đã thấy đlều gì xảy ra nhờ bột thơm và
lời thần chú. Nên biết hiện tại dưới tảng đá này có một kho báu dành riêng cho
cháu, người mà một ngày nào đó sẽ giàu hơn tất cả những ông vua lớn nhất trên
thế giới. Điều ấy là sự thực vì không ai trên đời này ngoài cháu được phép sờ
vào tảng đá, nâng lên để chui vào. Cả ta cũng không được sờ vào và xuống kho
báu khi đã mở. Cháu phải thực hiện đúng từng điểm theo lời ta bảo. Công việc có
kết quả rất lớn đối với cháu và với ta.
Aladdin vô cùng ngạc nhiên về điều mình thấy
và những gì vừa nghe ông chú nói về kho báu sẽ làm cậu sung sướng cả đời. Quên
hết chuyện vừa bị đánh mắng cậu đứng dậy nói với lão phù thuỷ:
Nào! Thưa chú, cần làm gì đây? Chú ra lệnh
đi, cháu sẵn sàng vâng lời.
- Cháu của ta, ta hân hoan thấy cháu đồng ý -
Lão vừa ôm hôn cậu vừa nói - Lại gần đây, cầm lấy chiếc vòng nâng tảng đá lên.
- Nhưng thưa chú, cháu không đủ sức nâng nó
lên; chú phải giúp cháu.
- Không, cháu không cần chú giúp, chúng ta sẽ
không làm được gì nếu ta giúp cháu, cháu nâng lên một mình thôi. Cứ gọi tên bố
cháu và tên ông cháu khi cầm chiếc vòng nhấc lên, cháu sẽ thấy không khó khăn
gì.
Aladdin làm như lão phù thuỷ bảo, nâng tảng
đá lên dễ dàng đặt sang bên cạnh.
Tảng đá được cất đi lộ ra một căn hầm nhỏ sâu
ba đến bốn bộ, có một cánh cửa và bậc thang đi xuống. Lão phù thuỷ bèn nói với
Aladdin:
- Cháu của ta, hãy làm đúng như ta bảo. Cháu
đi xuống căn hầm, đến bậc thang cuối cùng sẽ thấy cánh cửa mở đưa cháu đến một
vòm rộng chia làm ba phòng lớn liên tiếp nhau. Trong mỗi phòng cháu thấy bên phải
và bên trái có bốn chiếc vại lớn bằng đồng đen, đựng đầy vàng và bạc nhưng đừng
sờ vào. Trước khi vào phòng thứ nhất cháu vén áo buộc chặt vào người; vào trong
ấy cháu đi thẳng qua phòng thứ hai không dừng lại, từ đó qua phòng thứ ba cũng
không dừng lại. Chú ý đừng lại gần và đụng vào những bức tường, nếu đụng vào tường,
đù chỉ là áo đụng vào cháu cũng chết ngay. Cuối gian phòng thứ ba có một cánh cửa
mở ra khu vườn cây rất đẹp đầy quả. Cháu cứ đi thẳng, qua khu vườn theo con đường
dẫn đến bậc thang năm mươi bậc đưa lên một cồn đất. Trên cồn đất cháu thấy một
cái hốc và trong hốc có chiếc đèn thầp sáng. Cháu cầm lấy đèn, tắt đi, vứt bỏ
ngọn đèn, đổ nước trong đó ra, bỏ đèn vào lòng mình đưa ra cho chú. Cháu đừng sợ
hỏng áo vì nước ấy không phải dầu và khi không còn nước, đèn sẽ khô ráo. Nếu
cháu thích quả cây, cứ hái bao nhiêu cũng được, việc ấy không bị cấm.
Nói thế xong, lão phù thuỷ rút chiếc nhẫn đeo
ở ngón tay, đeo vào một ngón tay của Aladdin nói là để dự phòng những gì xấu có
thể gặp phải và dặn dò nhớ kỹ lời lão. Tiếp đó lão bảo:
- Đi đi, cháu của ta, bước xuống táo bạo lên,
chúng ta sắp giàu suất đời rồi.
Aladdin nhẹ nhàng nhảy vào căn hầm, xuống tận
bậc đưới cùng, vào cửa thấy ba gian phòng như ông chú tả, và cậu cẩn thận đi
qua các phòng, qua khu vườn không dừng lại Cậu leo lên cồn đất, cầm lấy chiếc
đèn đang cháy trong hốc, vứt ngọn đổ nước trong đèn ra, thấy khô ráo như lão
phù thuỷ đã nói bèn bọc vào lòng. Cậu xuống khỏi cồn đất, đứng lại trong vườn
ngắm những quả cây đã thấy khi đi qua. Cây trong vườn đầy những quả khác thường,
mỗi cây mang quả màu sắc khác nhau. Có những quả trắng, ánh lên và trong suốt
như thuỷ tinh, những quả đỏ, xanh, tím, hơi vàng và nhiều màu khác. Những quả
cây màu trắng là ngọc, lấp lánh và trong suốt là kim cương, màu đỏ là hồng ngọc,
màu xanh là ngọc bích vân vân... Những quả ấy to lớn và hoàn hảo người ta chưa
từng thấy trên đời. Aladdin không biết giá trị, không xúc động gì trước những
quả ấy, không thích bằng những quả vả, nho và những quả ngon khác phổ biến ở
Trung Hoa. Cậu hình đung đây chỉ là những quả thuỷ tinh màu, không đáng giá hơn
nhiều. Tụy vậy những màu săc muôn vẻ, mỗi quả lại đẹp và to lớn khác thường làm
cậu muốn hái đủ các loại nhét đầy hai túi chiếc áo và hai túi vải mới lão phù
thuỷ mua cho. Khi áo đã căng phồng, cậu buộc vào hai bên thắt lưng còn giắt vào
gấp nếp thắt lưng và không quên nhét vào bụng, giữa áo dài và sơ mi quấn quanh
người.
Aladdin mang bao nhiêu của cải như thế mà
không biết, trở lại gấp con đường để ông chú khỏi phải chờ lâu. Sau khi qua ba
gian phòng cẩn thận như lần trước, cậu bước lên lối vào căn hầm chỗ lão phù thuỷ
đang nóng lòng chờ đợi. Thấy lão, cậu nói:
- Thưa chú, chú đưa tay kéo glúp cháụ lên.
Lão phù thuỷ bảo:
- Cháu ạ, đưa chiếc đèn cho chú trước đã khỏi
bị vướng.
- Xin lỗi chú, nó không làm vướng cháu đâu,
lên đến nơi cháu sẽ đưa.
Lão phù thuỷ cương quyết muốn Aladdin đưa chiếc
đèn trước khi kéo cậu lên và Aladdin vướng chiếc đèn với các loạl quả cây mang
khắp người nhất định từ chối đưa chiếc đèn trước khi lên khỏi hầm. Thất vọng về
sự chống cự của chàng trai, lão phù thuỷ điên lên vì giận, ném một ít bột thơm
vào lửa, vừa đọc mấy câu thần chú thì tảng đá tự chuyển ìại chỗ cũ đóng cửa hầm,
đất lại phủ lên trên như trước lúc lão và Aladdin mới đến.
Chắc chắn lão phù thuỷ không phải em ông
Mustafa thợ may, do đó không phải là chú của Aladdin. Lão là người châu Phi,
sinh ra tại đó, châu Phi là một nước có nhiều người hành nghề phù thuỷ hơn bất
cứ chỗ nào. Lão tập làm từ khi còn trẻ và sau khoảng bốn mươi năm làm phù phép,
bói toán đọc sách phù thuỷ lão phát hiện ra trên đời có một chiếc đèn thần, nếu
chiếm được sẽ có quyền lực hơn bất cứ một ông vua nào trên thế giới. Theo một đợt
bói phong thuỷ, lão biết chiếc đèn đang để trong đất nước Trung Hoa, ở một chỗ
mà trong quang cảnh như đã nói trên. Tin chắc vào sự phát hiện đó lão tiến hành
một cuộc đi xa, vất vả, đến gần thành phố tiếp cận với kho báu. Nhưng tuy chiểc
đèn đúng ở chỗ đã biết, lão không được phép tự mình nâng tảng đá lên và xuống
đưới căn hầm. Phải có một người khác xuống đấy lấy chiếc đèn đưa vào tay lão.
Vì thế lão làm quen với Aladdin, cậu có vẻ là một đứa trẻ vô tư thích hợp với
việc lão cần và lão quyết định khi đã có chiếc đèn, sẽ phù phép đóng cửa hầm,
hy sinh cậu bé để phi tang. Lão tát Aladdin và ra oai với cậu nhằm làm cậu sợ
nhất nhất vâng lời để khi bảo đưa chiếc đèn thần cậu phải đưa ngay. Sự việc diễn
ra ngược lại ý muốn, lão vội độc ác thủ tiêu Aladdin, sợ chần chừ sẽ có người
nghe, biết điều muốn giấu kín.
Khi lão phù thuỷ thấy không còn hy vọng lão
lên đường trở về châu Phi, không qua thành phố nơi lão ra đi với Aladdin, sợ
nhìều người đã thấy cùng đi với cậu mà trở lại không có cậu.
Xem ra người ta không được nghe nói về
Aladdin nữa. Nhưng ngay cả người muốn cậu biến mất mãi mãi cũng quên việc lão
đã đeo vào ngón tay Aladdin một chiếc nhẫn có thể cứu cậu.
Aladdin chưa hề nghĩ đến tâm địa độc ác của
ông chú mạo danh chỉ biết đến những âu yếm và điều tết lão đã làm cho cậu. Khi
thấy bị chôn sống, cậu gọi chú hàng nghìn lần, kêu lên sẵn sàng đưa chiếc đèn
nhưng vô ích. Đành ở trong cảnh tối tăm của căn hầm, sau khi khóc chán chê cậu
xuống cuối thang định ra ngoài ánh sáng khu vườn đã đi qua. Bức tường trước đây
mở ra vì phép lạ đã tự đóng lại rồi, cậu sờ soạng khắp nơi không thấy cánh cửa,
cậu càng kêu khóc gấp bội, ngồi ở bậc thang căn hầm không hy vọng gì thấy lại
ánh sáng, buồn bã chắc chắn về cái chết đến gần.
Aladdin trong tình trạng đó hai ngày không ăn
uống. Ngày thứ ba thấy cái chết không tránh khỏi, cậu giơ hai tay lên kêu trời.
Với cử động chắp hai tay ấy, cậu vô tình xát mạnh chiếc nhẫn lão phù thuỷ đeo
vào ngón tay cho mà chưa biết quyền lực của nó. Ngay lập tức một vị thần khuôn
mặt đồ sộ, cái nhìn đáng sợ, sừng sững hiện ra trước mặt như từ dưới đất lên, đầu
đung tới vòm hầm, nói với Aladdin:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lệnh Người
như kẻ nô lệ của những người có chiếc nhẫn ở ngón tay, tôi và những kẻ nô lệ
khác của chiếc nhẫn đều thế.
Ở mọi trường hợp khác, Aladdin vốn không quen
thấy như vậy, sẽ sợ hãi và không nói nên lời trước khuôn mặt kỳ lạ ấy. Nhưng lo
lắng về mối nguy hiểm hiện tại, cậu không ngập ngừng bảo:
- Ông là ai cũng thế, nếu có quyền lực thì
đưa tôi ra khỏi nơi này.
Cậu vừa dứt lời, mặt đất mở ra và cậu đã đứng
ngoài cửa hầm, đúng ở chỗ lão phù thuỷ dẫn đến.
Aladdin ở lâu trong đêm tối, lúc đầu khó chịu
đựng được ánh sáng ban ngày. Mắt quen dần, cậu nhìn quanh mình thấy rất lạ không
có lỗ hổng trong đất, không hiểu mình ra khỏi lòng đất bằng cách nào. Chỉ còn
chỗ đất rác làm cậu nhận ra tương đối căn hầm ở đâu. Ngoảnh về phía thành phố,
cậu thấy những khu vườn quanh đấy và nhận ra con đường lão phù thuỷ đã đẫn cậu
đến đây. Cám ơn trời đất đã cho mình được trở về cuộc sống, cậu theo đường ấy
trở lại thành phố và mệt nhọc lê về đến nhà. Vui mừng gặp lại mẹ, thêm vào sức
yếu vì ba ngày không ăn, cậu ngất đi một lúc. Bà mẹ đã khóc con vì mất tích hay
đã chết, thấy cậu trong tình trạng ấy, lo chạy chữa để cậu tỉnh lại. Bước đầu hồi
phục, những lời đầu tiên của cậu là:
- Mẹ ơi, trước hết cho con ăn đã, đã ba ngày
nay con không được ăn tí gì.
Bà mẹ đưa lại cho con những gì mình có,và bảo:
- Con trai, đừng ăn vội vàng rất nguy hiểm,
ăn từng ít một rồi sau hãy ăn tuỳ thích, con cần nghỉ ngơi, thậm chí mẹ không
muốn con nói chuyện. Khi đã khoẻ con sẽ kể lại với mẹ. Được gặp lại con mẹ rất
yên tâm sau bao lọ lắng từ hôm thứ sáu thấy trời tối mà con không về nhà.
Aladdin nghe lời mẹ, bình tĩnh ăn dần dần, uống
từng ngụm. Xong bữa, cậu nói với mẹ:
- Mẹ ơi, con rất buồn là mẹ đã dễ dàng phó
thác con cho cái người có ý định thủ tiêu con và tròng lúc con đang nói đây, hắn
chắc chắn con đã chết rồi. Mẹ nghĩ hắn là chú con và con cũng tưởng thế. Chài Chúng
ta nghĩ thế nào khác được trước một người âu yếm, tốt với con và hứa hẹn những
việc làm có lợi như thế? Mẹ biết không, hắn chỉ là một kẻ phản phúc, độc ác, lừa
lọc. Hắn tốt với con, hứa hẹn như thế để đi tới mục đích thủ tiêu con như con
đã nói mà cả mẹ và con đều không biết vì nguyên nhân gì. Mẹ sẽ hiểu ra khi nghe
con kể lại cặn kẽ sự việc xảy ra từ khi con đi với hắn cho đến khi hắn thực hiện
ý đồ.
Aladdin thuật lại những gì từ ngày thứ sáu
lão phù thuỷ đến dẫn cậu đi xem nhũng lâu đài, những khu vườn bên ngoài thành
phố trên đường đến hai ngọn núi, chỗ lão phù thuỷ làm phép lạ vứt một loại bột
thơm vào ngọn lửa và đọc mấy câu thần chú, mặt đất mở ra ngay và có một lối vào
căn hầm dẫn tới kho báu vô giá. Cậu không quên cái tát của lão phù thuỷ và sau
đó dịu lại, lão hứa hẹn nhiều, đeo chiếc nhẫn vào ngón tay cậu, bảo đi xuống
căn hầm. Cậu không bỏ sót một chút nào về những gì mình đã thấy qua ba gian
phòng, khu vườn và cồn đất. Sau đó cậu đưa cho mẹ xem chiếc đèn cậu đã lấy ở đó
cùng những quả cây trong suốt, nhiều màu đã hái khi trở lại bỏ đầy hai túi vải.
Những quả ấy thực ra là những đá quý, lóng lánh như mặt trời, chiếu sáng cả
gian phòng, có thể đoán được giá trị rất lớn. Mẹ Aladdin cũng chẳng biết gì về
những cái đó hơn con trai, bà được nuôi dưỡng trong điều kiện khốn khó, chồng
bà không giàu có để cho bà những đá quý, bà cũng không bao giờ thấy những đá
quý như vậy ở nhà người thân hoặc hàng xóm. Vì vậy không lạ lùng gì khi bà nhìn
chúng như những vật ít giá trị, có chăng chỉ làm vui mắt vì nhiều màu sắc. Do
đó Aladdin để những túi đá quý phía sau chiếc ghế cậu đang ngồi. Cậu kể tiếp
câu chuyện từ lúc sắp sửa ra khỏl cửa hầm, vì từ chối đưa cho lão phù thuỷ chiếc
đèn, lão ta phù phép làm cửa hầm đóng ngay lại. Cậu không ngăn được nước mắt chảy
khi kể tình trạng khổ sở dưới hầm lúc thấy mình bị chôn sống trong lòng đất và
chỉ trở lại trên đời nhờ vô tình chà xát vào chiếc nhẫn. Kể xong cậu nói với mẹ:
- Phần còn lại mẹ đã biết không cần nói thêm
gì. Đây là cuộc phiêu lưu của con, mối nguy hiểm con trải qua từ khi mẹ không
thấy con nữa.
Mẹ Aladdin chăm chú nghe hết câu chuyện thần
kỳ lạ lùng đã làm đau lòng người mẹ yêu thương con mình tuy nó có những khuyết
điểm. Trong những chỗ cảm động nhất thể hiện rõ tmh gian đốl của lão phù thuỷ
bà không ngăn được cử chỉ giận dữ căm ghét của mình. Con trai kể xong, bà chửi
rủa tên lừa bịp hàng tràng, gọi hắn là lừa đảo, gian dối, dã man, giết người,
phù thuỷ, kẻ thù phá hại loài người. Bà nói thêm:
- Đúng đấy con ạ, hắn là một lão phù thuỷ, là
kẻ thù của mọi người, phù thuỷ quan hệ với ma quỷ bằng những phù phép, hành động
bí hiểm. Nhờ Trời con thoát được cái chết không tránh khỏi vì việc làm độc ác của
hắn không thực hiện được .
Bà còn nói nhiều điều, căm ghét lão phù thuỷ
lừa gạt con trai bà nhưng nhận thấy Aladdin đã ba ngày không ngủ, bà bảo con đi
nằm và bà cũng đi ngủ.
Chàng trai ngủ say suốt đêm, chỉ thức đậy rất
muộn vào sáng hộm sau. Cậu ra gặp mẹ, câu đầu tiên cậu nói với mẹ là đói, rất
vui sướng được mẹ cho ăn trưa. Bà mẹ trả lời:
- Than ôi? Con trai, mẹ không còn một mẩu
bánh cho con; hôm qua con đã ăn hết số thực phẩm ít ỏi còn lại trong nhà. Nhưng
con chịu khó một lúc, mẹ có một số sợi vải đưa đi bán, chẳng mấy chốc sẽ mua
bánh và thức ăn về chúng ta cùng ăn tối.
- Mẹ ơi - Aladdin nói - Mẹ để dành sợi vải
vào dịp khác; đưa con chiếc đèn con đem về hôm qua, con sẽ đi bán lấy tiền mua
thứ gì ăn trưa, tối và có lẽ sẽ đủ cho cả bữa khuya nữa đấy.
Bà mẹ vào chỗ bà đã cất giữ lấy đèn ra:
- Đây bà nói với con - nhưng bẩn lắm, lau
chùi sạch đi chắc sẽ có giá hơn.
Bà lấy cát mịn và nước để đánh sạch đèn. Vừa
xát vào chiếc đèn, ngay lập tức trước mặt bà và cậu con xuất hiện một vị thần xấu
xí, to lớn đồ sộ, giọng oang oang:
- Người muốn gì? .Tôi sẵn sàng vâng lệnh như
kẻ nô lệ của Người, nô lệ của những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ
khác của đèn đều thế.
Mẹ Aiadđin không còn sức để trả lời. Thấy
khuôn mặt xấu xí, đáng sợ, vừa nghe thần cất tiếng nói bà đã kinh hãi ngã lăn
ra bất tỉnh.
Aladđin đã thấy thần xuất hiện gần như thế dưới
căn hầm, nên không bỏ phí thì giờ suy xét, cầm ngay lấy chiếc đèn bổ sung thiếu
sót của mẹ, cậu trả lời thay bà:
- Tôi đói, đem thức gì ăn đến cho tôi.
Vị thần biến mất, một lúc sau trở lại đội trên
đầu một khay lớn bằng bạc đựng mười hai đĩa bạc đầy thức ăn thật ngon cùng sáu
chiếc bánh trắng như tuyết, hai chai rượu vang và hai chiếc ly bạc cầm tay. Ông
ta đặt những thứ ấy lên ghế xô-pha rồi biến mất.
Việc ấy xảy ra chỉ trong giây lát trong lúc mẹ
Aladdin đang bất tỉnh. Cậu con trai phải vẩy nước lên mặt mẹ đến mấy lần để
giúp bà hoàn hồn và có lẽ cả mùi vị thức ăn ngon vị thần đưa tới cũng có góp phần
tác động, nên một lúc sau bà tỉnh ìại. Aladdin nói:
- Mẹ ơi, việc đó không là gì đâu, mẹ đậy và lại
ăn đi, đây là những thứ làm mẹ yên lòng và thoả mãn yêu cầu ăn uống của con. Đừng
để nguội lạnh nhửng thức ăn ngon như thế, chúng ta ăn thôi.
Bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi thấy khay lớn đầy
các thứ ăn ngon, bánh, rượu và mùi thơm toả ra từ những đa thức ăn, hỏi con:
- Con ơi, do đâu mà dồi dào đến thế và chúng
ta phải ơn ai về sự hào phóng này? Có phải nhà vua biết chúng ta nghèo khó đã
chiếu cốcho chúng ta không?
- Thưa mẹ, chúng ta lại bàn ăn thôi, mẹ cũng
cần như con, ăn xong con sẽ nói rõ với mẹ.
Trong lúc ăn, mẹ Aladdin nhìn ngắm không mỏi
khay và những đa thức ăn tuy không biết rõ bằng bạc hay chất liệu gì vì chưa từng
thấy những dụng cụ như vậy, nói đúng ra là không biết giá trị của chúng mà chỉ
sự mới lạ của chúng đã đủ làm bà thán phục, con trai bà cũng chẳng biết gì hơn.
Aladdin và mẹ không nghĩ đó chỉ là một bữa ăn
trưa đơn giản mà họ dùng làm bữa ăn tối luôn. Những thức ăn tuyệt ngon làm họ
thấy ngon miệng và vì trong lúc thức ăn còn nóng, họ nghĩ nhập hai bữa ăn làm một
cũng tốt, không phải ăn làm hai lần. Bữa ăn kép xong, còn lại không chỉ cho bữa
ăn khuya mà khá đủ cho hai bữa ăn no nê vào ngày hôm sau.
Sau khi mẹ Aladdln ăn xong và cất riêng thức
ăn còn lại cho những bữa sau bà đến ngồi trên ghế xô pha gần con mình.
- Aladdin - Bà nói - Ta nóng lòng muốn nghe
câu chuyện con đã hứa.
Aladdin kể lại đúng việc xảy rạ giữa vị thần
và cậu trong lúc bà mẹ ngất đi.
Bà rất ngạc nhiên về lời kể của con và sự xuất
hiện của vị thần, liền hỏi con:
- Con muốn nói gì về những vị thần của con thế?
Từ khi ta sinh ra đến nay, không nghe nói có ngườl nào đã gặp thần thánh. Tại
sao vị thần xấu xí ấy đến trước mặt mẹ? Vì lẽ gì ông ấy nới với mẹ chứ không phải
với con, người mà ông đã xuất hiện trước mặt dưới căn hầm?
- Thưa mẹ, vị thần vừa rồi không phải là người
đã đến với con. Họ giống nhau về đáng đlệu khổng lồ nhưng hoàn toàn khác nhau về
khuôn mặt và cách ăn mặc. Họ thuộc về những người chủ khác nhau. Nếu mẹ nhớ lại,
người con đã thấy xưng là nô lệ của chiếc nhẫn ở ngón tay con và người mẹ vừa
thấy là nô lệ của chiếc đèn mẹ cầm trong tay.
- Thế nào? Như vậy chiếc đèn của con là
nguyên nhân vị thần đáng sợ ấy nói với mẹ? Chà, con ơi? Con cất chiếc đèn khỏi
mắt ta, để vào đâu tuỳ thích, ta không muốn sờ mó đến nố nữa. Ta bằng lòng vứt
nó hoặc bán đi còn hơn nguy cơ chết vì sợ hãi. Nếu tin mẹ, con cũng nên bỏ chiếc
nhẫn đi. Không nên quan hệ với các vị thần, đó là những ma quỷ mà các nhà tiên
tri đã nói.
- Thưa mẹ, nếu mẹ cho phép, con sẽ không bán
nó như đã dự định, chiếc đèn sẽ rất có ích cho mẹ con chúng ta. Mẹ không thấy
nó vừa cho ta những gì à? Phải để nó tiếp tục cung cấp cho chúng ta ăn, mặc. Chắc
mẹ cũng đoán được phải có lý đo gì ông chú hờ độc ác của con mới có hành động ấy,
làm một chuyến đi dài và vất vả như vậy. Chính để chiếm được chiếc đèn thần,
ham muốn hơn cả mọi vàng bạc ông ta biết có trong các phòng và con cũng đã thấy
tận mắt. Ông ta biết rõ giá trị của chiếc đèn nên chẳng đòi hỏi gì khác ngoài
kho báu dồi đào ấy. Sự tình cờ đã cho chúng ta biết quyền lực của đèn, chúng ta
phải sử dụng nó, cho có lợi nhưng phải thật kín đáo, để chòm xóm khỏi thèm muốn
và ghen ghét chúng ta. Con sẽ cất giấu một chỗ khuất mắt mẹ, sẽ tìm lại khi cần.
Về chiếc nhẫn con cũng không vứt bề được, không có nhẫn mẹ đã không bao giờ gặp
lại con nữa. Mẹ cho con giữ nó lại và luôn đeo nó vào ngón tay như vật quý. Biết
đâu con sẽ gặp một hiểm nguy khác, mẹ và con không lường được và chính nó sẽ cứu
con?
Aladdin nói rất có lý, mẹ cậu không có gì bàn
cãi thêm. Bà nói:
- Con trai, con hãy làm như con nghĩ. Riêng mẹ,
mẹ không muốn dính líu với các vị thần. Mẹ nói rồi, mẹ không dính líu về chuyện
đó hơn nữa.
Chiều tiếp théo và bữa khuya ăn nốt thức ăn vị
thần đã đưa tới. Hôm sau Aladdin không chờ đói thôi thúc, cầm một chiếc đĩa bạc
giấu dưới áo đem đi bán ngay từ sáng sớm. Cậu gặp một người Do Thái trên đường,
kéo riêng ra đưa chiếc đa cho xem hỏi có muốn mua không.
Ngựời Do Thái, tinh ranh, cầm chiếc đĩa ngắm
nghía, biết ngay thuộc loại bạc tốt, hỏi giá bao nhiêu. Aladdin vốn không biết
giá trị và chưa mua bán loại này bao giờ đành bảo lão tự nói giá trị của chiếc
đĩa và cậu tin tưởng lão thành thật. Người Do Thái bối rối trước thái độ ngây
thơ của Aladdin, nhưng lão nghĩ rằng cậu không biết chất lượng và giá trị, nên
rút ra một đồng tiền vàng chỉ là một phần sáu mươi hai, giá bán chiếc đĩa đưa
cho cậu. Aladdin vội cầm lấy đồng tiền và đi ngay khiến người Do Thái chưa hài
lòng về món lời chưa thật lớn, ông ta bực mình vì đã không nghĩ Aladdin không
biết giá, lẽ ra phải trả tiền ít hơn nhiều. Lão ta định đi theo chàng trai lấy
lại một ít nhưng Ataddin chạy đã xa đuổi không kịp.
Aladdin trên đường về nhà, dùng đồng tiền
vàng mua bánh cho mẹ và mình, số tiền thừa đưa cho mẹ đi chợ mua thực phẩm, cần
thiết để mẹ con ăn mấy ngày.
Họ tiếp tục sống như thế, nghĩa là Aladdin
bán tất cả những chiếc đĩa cho người Do Thái lần lượt đến chiếc thứ mười hai
theo như lần đầu tiên mỗi khi gia đình hết tiền. Người Do Thái đứa một đồng tiền
vàng như lần trước, không dám bớt sợ mất món hời quá lớn lão trả tất cả những
chiếc đĩa cùng một giá. Đến lượt chiếc khay, nặng gấp mười lần mỗi chiếc đĩa cậu
đã đưa cho người Do Thái đem về nhà; lão ta sau khi cân trọng lượng, trả ngay
mười đồng vàng, Aladdin chấp nhận.
Khi tiêu hết mười đồng tiền vàng, cậu lại nhờ
vào đèn. Cầm chiếc đèn trong tay tìm chỗ mẹ đã xát vào đó, cậu xát như mẹ đã
làm, vị thần trước đây xuất hiện ngay. Do Aladdin xát nhẹ hơn, thần nói với giọng
dịu hơn:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lời như kẻ
nô lệ của Ngườỉ và tất cả những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của
đèn cũng thế.
Aladdin bảo:
- Tôi đói, mang cho tôi thức gì ăn.
Thần biến đi, một lúc sau trở lại đội một bữa
ăn như lần trước để trên ghế xô-pha và biến mất.
Mẹ Aladdin được báo về ý định của con, ra
ngoài làm một số công việc để không ở nhà khi thần đèn xuất hiện. Ít lâu sau đó
bà trở về, cũng gần ngạc nhiên như lần trước về tác dụng kỳ diệu của chiếc đèn.
Hai mẹ con ngồi vào bàn và sau khi ăn xong phần còn lại của thức ăn vẫn còn đủ
cho hai ngày sau.
Khi Alađdin thấy trong nhà không còn bánh, thực
phẩm khác, cũng không có tiền để mua, cậu cầm một chiếc đĩa bạc đi tìm người Do
Thái để bán. Qua cửa hiệu một người thợ kim hoàn một người đáng kính vì già cả;
trung thực và ngay thẳng, bỗng ông gọi cậu vào bảo:
- Con trai, ta thấy anh đi qua đây nhiều lần
cầm cái gì đó như mọi lần đến gặp người Do Thái ấy và trở về không cầm gì nữa,
ta hình dung anh đã bán cho ông ta. Có lẽ anh không biết đấy là một tay lừa bịp,
thậm chí mánh khoé hơn những người Do Thái khác và những ai đã biết rõ không
quan hệ với ông ta. Ta nói thật đấy. Ánh đưa ta xem anh mang cái gì vậy và muốn
bán, ta sẽ trả đúng giá nếu phù hợp với ta, nếu không ta sẽ giới thiệu với những
nhà buôn khác không lừa bịp anh.
Hy vọng được nhiều tiền hơn, Aladdin rút chiếc
đĩa dưới áo ra đưa cho người thợ kim hoàn xem. Ông già biết là bạc tinh khiết,
hỏi cậu có bán những chiếc đa loại này cho người Do Thái không và ông ta trả
bao nhiêu? Aladdin ngây thơ nói đã bán mười hai chiếc, mỗi chiếc một đồng vàng.
Người thợ kim hoàn kết luận:
- Chàl Thằng ăn cướp! Nhưng con trai, việc gì
đã làm là xong, không nghĩ đến nữa. Ta cho anh xem chiếc đĩa đáng giá ra sao,
đó là loại bạc tốt nhất ta vẫn dùng ở cửa hiệu, anh sẽ biết rõ tay Do Thái lừa
anh đến mức nào.
Ông lấy cân ra, cân trọng lượng chiếc đĩa và
sau khi giải thích chất lượng bạc, ông lưu ý cậu theo trọng lượng chiếc đĩa, nó
giá đến bảy mươi hai đồng vàng, ông đếm trả ngay bằng tiền mặt nói:
- Đấy là giá đúng của chiếc đĩa. Nếu anh nghi
ngại cứ đi hỏi những thợ kim hoàn khác tuỳ thích, họ nói đáng giá hơn ta hứa sẽ
trả anh gấp đôi. Chúng ta chỉ lãi về công làm đồ trang sức với số bạc chúng ta
mua và những người Do Thái chính trực nhất cũng không làm thế.
Aladdin rất cám ơn người thợ kim hoàn về lời
khuyên xác đáng, và nhờ đó cậu đã có lợi lớn. Sau đó cậu bán cho ông những chiếc
đĩa khác và cả chiếc khay, được trả đúng giá thực trọng lượng. Tuy Aladdin và mẹ
có một nguồn tiền bạc vô tận từ chiếc đèn, họ vẫn tiếp tục sống đạm bạc như trước,
để dành tiền lại sống một cách lương thiện và mua một số vật dụng cần thiết. Mẹ
cậu cũng chỉ tiêu pha, may quần áo dựa vào số tiền mười hai chiếc đĩa và khay bạc
bán cho người thợ kim hoàn. Họ sống theo cách đó mấy năm, thỉnh thoảng mồi phải
dùng đến đèn thần.
Trong thời gian ấy chàng rất chăm gặp gỡ những
người có tiếng tăm trong giới cáe nhà buôn lớn nhất về chăn đệm quý, vải vóc đẹp,
tơ lụa và đồ trang sức. Qua những câu chuyện của họ, chàng có được phong thái của
tầng lớp quý tộc từ lúc nào không hay đặc biệt qua những cửa hàng trang sức đá
quý, chàng biết mình đã lầm tưởng những quả cây trong suốt nhiều màu hái trong
khu vườn khi đi lấy đèn chỉ là thuỷ tinh màu, đấy chính là những đá quý rất cao
giá. Nhiều lần thấy người ta mua bán các loại đá quý, chàng biết được giá trị của
chúng và thấy không có loại nào đẹp và lớn như những quả của chàng, chàng hiếu
rõ mình đã có một kho báu vô giá. Chàng khôn ngoan không nói với ai, kể cả với
mẹ và đinh ninh sự im lặng đó đưa lại cho chàng một số phận cao sang.
Một hộm dạo chơi trong một khu phố, Aladdin
nghe thông báo một mệnh lệnh của nhà vua bắt đóng cửa các hàng quán, các cửa
nhà và mọi người phải ở trong nhà đế công chúa Badroulboudour, con gái vua đi
qua ra nhà tắm cho đến khi lúc trở về.
Lời thông báo ấy làm Aladdin nảy sinh tò mò
muốn nhìn mặt công chúa không che mạng. Chàng có thể làm việc đó bằng cách đứng
trong nhà một người quen hé nhìn, song chàng không hài lòng thế vì theo phong tục,
công chúa phải che mặt. Để thoả mãn chàng tìm một cách chắc chắn hơn đó là đến
đứng phía sau cánh cửa nhà tắm nấp kín để nhìn được mặt công chúa.
Aladdin chờ không lâu. Chàng thấy nàng đi tới
với một đoàn thị nữ hộ tống xung quanh và phía sau. Khi cách cánh cửa nhà tắm
ba bốn bước, nàng cất tấm mạng che mặt làm vướng víu đi nên Aladdin nhìn thấy
nàng thoải mái đi thẳng lại phía chàng.
Cho đến lúc đó Aladdin chưa từng được nhìn
người phụ nữ nào khác cởi mạng che mặt ngoài mẹ mình vốn đã là không còn những
nét đẹp đáng kể để thấy những người đàn bà khác đẹp hơn. Chàng có nghe nói về sắc
đẹp lạ thường của công chúa nhưng chưa có lời nói nào tả được hết vẻ đẹp như
chính bản thân sắc đẹp của nàng.
Khi thấy công chúa Badroulbouđour, chàng mất
hẳn ý nghĩ mọi phụ nữ đều gần giống như mẹ. Tâm trạng bối rối và tim chàng
không thể không hướng về đối tượng vừa làm chàng ngây ngất. Thực vậy, công chúa
là cô gái đẹp nhất trên đời. Đôi mắt to tinh nhanh và lóng lánh, cái nhìn hiền
dịu và khiêm tốn, mũi cân đối, miệng nhỏ, đôi môi tuyệt đẹp hài hoà. Tóm lại,
những nét trên khuôn mặt đều đặn hoàn hảo. Không lạ gì khi Aladdin bị choáng ngợp,
thất thần trước vẻ đẹp xưa nay lạ lẫm đối với cậu. Ngoài những nét tuyệt hảo ấy
công chúa có một thân hình đầy đặn, phong thái trang nghiêm mà chỉ nhìn thấy
nàng người ta đã hết lòng kính trọng.
Khi công chúa vào phòng tắm, Aladdin đứng ngẩn
người một lúc, khoan khoái hình đung lại những gì làm chàng say mê tận đáy
lòng. Bình tĩnh lại, thấy công chúa đã đi vào chàng có đứng tại chỗ cũng vô lch
vì khi ra nàng đã che mặt nên chỉ thấy lưng, chàng đành rút lui khỏi chỗ .
Về đến nhà Aladdin không giấu được mẹ sự bối
rối băn khoăn của mình. Bà ngạc nhiên thấy chàng buồn và mơ mộng trái với thường
ngày nên hỏi có việc gì xảy ra hay chàng bị ốm. Chàng không trả lời, luôn lơ
đãng ngồi xuống ghế xô-pha, bận tâm vẽ lại hình ảnh tuyệt vời của công chúa
Badroulboudour. Bà mẹ chuẩn bị bữa ăn khuya không gặng hỏi thêm. Khi xong bà
đưa lại gần eùng ăn nhưng chàng con vẫn không hề chú ý. Bà giục chàng ăn mà khó
khăn lắm chàng mới thay đổi tư thế ngồi. Chàng ăn ít, cúi mặt, tuyệt đối im lặng;
bà mẹ không sao gặng được chàng nói một lời về sự thay đổi khác thường ấy.
Sau bữa ăn, bà mẹ lại muốn hỏi về nỗi buồn
sâu nặng ấy nhưng chàng muốn đi nằm hơn là cho mẹ biết chuyện của mình.
Chẳng cần kể lại Aladdin say mê sắc đẹp công
chúa Badrouthoudour đã qua một đêm như thế nào, chỉ biết hôm sau ngồi trên ghế
trước mặt mẹ đang kéo sợi chàng nói với mẹ như thế này:
- Mẹ ơi, hôm qua ra ngoài khu phố lớn trở về
con im lặng mãi làm mẹ phiền lòng, cỏn biết. Con nói để mẹ rõ, con không đau ốm
gì như mẹ nghĩ, bây giờ cũng không. Nhưng có thể nói điều con cảm thấy vâ không
ngừng trăn trở còn tệ hại hơn một căn bệnh. Con không biết thế nào nhưng nghe
con nói chắc mẹ biết rõ.
Trong khu người ta không biết, mẹ cũng không
thế biết chiều hôm qua công chúa Badroulboudour, con gái nhà vua đi tắm. Đang
đi ngoài đường phố con nghe được tin ấy. Người ta ra lệnh đóng các cửa hàng,
vào trong nhà để đảm bảo danh dự cho công chúa, cho nàng tự do đi trên đường.
Con đang ở gần nhà tắm, tò mò muốn xem mặt công chúa nên nảy ra ý định đến nấp
sau cửa nhà tắm nghĩ rằng nàng sẽ bỏ mạng che mặt lúc bước vào. Mẹ biết cánh cửa
được bố trí ra sao rồi và có thể đoán con đã nhìn nàng thoải mái. Thực thế,
nàng bỏ mạng ra khi vào nhà tắm và con có diễm phúc chiêm ngưỡng sắc đẹp của
công chúa. Thưa mẹ đấy là nguyên cớ tình trạng của con khi về nhà và giữ im lặng
cho đến bây giờ. Con yêu công chúa dữ dội đến mức không diễn tả được với mẹ;
lòng say mê của con lúc nào cũng mãnh liệt, tươi nguyên và con cảm thấy tình
yêu ấy chỉ được thoả mãn khi lấy được công chúa Badroulboudour nên con quyết định
phải xin hỏi nàng làm vợ .
Mẹ Aladdin chú ý nghe con nói đến hết nhưng
khi biết ý định của con là xin hỏi công chúa làm vợ, bà phá lên cười Aladdin muốn
tiếp tục nói nhưng bà lại ngắt lời con:
- Này, con ơi, con nghĩ gì thế? Phải mất trí
rồi mới nói với mẹ điều ấy.
- Mẹ ơi, xin cam đoan với mẹ, con không mất
trí đâu, rất tỉnh táo, con đã lường trước mẹ sẽ mắng con điên rồ, quái gở và những
gì mẹ có thể làm, nhưng tất cả những điều đó không ngăn cản được con nói một lần
nữa với mẹ là con đã quyết định xin nhà vua cho hỏi công chúa Badroulboudour
làm vợ.
- Thực ra con ơi, - bà mẹ lại rất nghiêm chỉnh
nói với con, - mẹ không thể không nói là con quên mất mình là ai rồi, và dù con
muốn thực hiện ý định đó thì mẹ chẳng thấy ai là người con đám nhờ chuyển yêu cầu
đó lên nhà vua.
- Nhờ ngay chính mẹ chứ ai.
- Nhờ mẹ à?- Bà mẹ kêu lên kinh ngạc. - Đến đề
nghị nhà vua? Chà! Mẹ không dấn thân làm việc đó đâu. Con là ai, con trai, mà
dám ngông cuồng nghĩ đến con gái vua? Con quên con là con trai một người thợ
may hèn kém trong kinh thành và của một người mẹ nguồn gốc không cao quý rồi ư?
Con có biết những ông vua không thèm gả con gái cho cả những người con trai vua
không hy vọng cũng có ngôi vị tôn quý như họ?
- Mẹ ơi - Aladdin đáp - Con nói con đã dự kiến
trước những điều mẹ vừa nói với con và con cũng nói như vậy về những điều mẹ có
thể nói thêm nữa. Mẹ nói gì và thái độ ra sao cũng không làm con thay đổi tình
cảm được. Con đã nói nhờ mẹ đi xin hỏi công chúa Badrouthoudour làm vợ, đấy là
với lòng kính trọng xin mẹ làm ơn. Con khẩn cầu mẹ đừng từ chối nếu mẹ không muốn
con chết đi hơn là cho con cuộc sống một lần nữa.
Mẹ Aladdin rất bối rối thấy con ngoan cố với
ý định xa rời lẽ phải như vậy. Bà nói:
- Con trai, ta là mẹ con là người mẹ smh ra
con không có gì hợp lý và thích hợp hơn là sẵn sàng vì yêu con mà làm việc đó.
Nếu nói về hôn nhân của con với một cô gái hàng xóm, điều kiện giống hoặc gần
như con, mẹ sẽ không nề hà điều gì, dốc lòng giúp con bằng mọi khả năng vốn có.
Những người nghèo như chúng ta khi muốn kết hôn, trước hết phải nghĩ lấy gì để
sống. Nhưng không nghĩ đến nguồn gốc nghèo hèn, về tài năng của cải ít ỏi, con
mơ quá cao đến bậc thang cao nhất của vận mệnh, tham vọng quá lớn, khi muốn hỏi
công chúa làm vợ, con gái vị vua mà chỉ một tiếng nói, đủ nhận chìm, đè nát
con. Mẹ muốn con phải suy nghĩ như thế nào về điều phi lý ấy. Mẹ nói về việc
liên quan đến mẹ. Làm sao con có ý nghĩ khác thường bảo mẹ đến xin vua cho cưới
con Người được? Dù mẹ không phải táo tợn mà l1ều lĩnh đến xin gặp vua với một đề
nghị lố lăng như thế, ai cho mẹ vào? Con nghĩ người đầu tiên nghe mẹ trình bày
không cho mẹ là điên và đuổi mẹ ra nhục nhã ư? Lại cho rằng việc tiếp kiến nhà
vua không khó khăn lắm: mẹ biết người ta có thể đến gặp vua để xin xử kiện, xin
gia ân và được Người chấp nhận nếu xứng đáng. Nhưng con có ở trong trường hợp
đó không? Con có xứng đáng xin gia ân không? Con đã làm gì cho vua và đất nước
mình? Không được thế làm sao mẹ dám đến đề nghị? Làm sao mẹ dám mở miệng trước
phong thái oai nghiêm của nhà vua và quang cảnh rực sáng của triều đình? Còn một
lẽ khác, con trai, người ta không đến xin gặp vua về một việc gì đó mà không có
món quà cầm tay. Ít nhất quà cáp cũng có lợi và đù từ chối gia ân, vua cũng chiếu
cố nghe lời trình bày. Con có món quà gì? Và nếu con có vật gì đó xứng đáng được
một nhà vua hùng mạnh như thế để ý đến cũng sánh sao được vớl lời yêu cầu của
mình? Con hãy nhìn lại mình đi nghĩ đến điều con không thể nào mong đạt được?
Aladdin im lặng nghe những lời mẹ khuyên để cậu
từ bỏ ý định và sau khi suy nghĩ mọi lý lẽ, chàng thưa với mẹ:
- Mẹ ạ, con thú nhận đã rất táo tợn đám có ý
đồ vượt quá hoàn cảnh mình đòi hỏi mẹ sốt sắng đến cầu hôn con gái vua mà trước
hết không tạo những điều kiện thuận lợi cho mẹ, con xin mẹ tha lỗi. Nhưng niềm
say mê mãnh liệt làm con không hình dung hết những gì có thể làm con toại nguyện.
Con yêu công chúa Badroulboudour vượt ra ngoài điều mẹ tưởng tượng, càng tôn
sùng nàng con càng quyết tâm cưới nàng. Đây là một vấn đề dứt khoát, đã xác định
chắc chắn trong tâm trí con. Con cám ơn mẹ đã gợi mở cho con bước đi đầu tiên hứa
hẹn có kết quả.
Mẹ bảo thông thường xin tiếp kiến nhà vua phải
có một món quà và con không có gì xứng đáng. Con đồng ý về món quà, xin thú nhận
đã không nghĩ đến điều ấy. Mẹ nói con không có gì đáng đưa tặng, mẹ không nghĩ
những vật con mang về ngày thoát chết ở căn hầm không ìà một món quà đáng kể đối
với vua sao? Con nói về những gì con đựng trong hai chiếc túi và dắt vào thắt
lưng mà chúng ta tưởng những quả thuỷ tinh màu, đó chính ìà những viên đá quý
vô giá chỉ thích hợp với những nhà vua lớn. Tất cả những viên con thấy trong những
cửa hàng đá quý không thể sánh về độ lớn, sắc đẹp với những viên đá chúng ta có
nhưng chúng đã được bán với giá cao vô cùng. Thực tế, chúng ta không biết giá
những viên đá quý của chúng ta nhưng theo kinh nghiệm con đã có, con chắc chắn
chúng sẽ là món quà nhà vua rất hài lòng. Mẹ lấy một chiếc bình sứ lớn, đổ vào những
viên đá quý, đủ mọi màu sắc, mẹ cứ mang đi để xem tác đụng ra sao.
Mẹ Aladdin đưa bÌnh sứ ra con trai bà ìấy đá
quý xếp vào đó: Dưới ánh sáng ban ngày, màu sắc khác nhau của những viên đá ánh
lên, lóng lánh đến mức làm mẹ con chói loà, sửng sốt vì trước nay họ chỉ thấy
dưới ngọn đèn nhỏ. Đúng là Aladdin đã thấy chúng trên cây tạo nên một quang cảnh
mê hồn nhưng khi đó chàng còn bé, chàng chỉ xem là những vật để chơi, mang về với
ý nghĩ đó, không hiểu biết gì hơn.
Sau khi ngắm nghía một lúc, Aladdin nói:
- Thưa mẹ, mẹ thoái thác không đến gặp nhà
vua vì không có quà. Con nghĩ đây là một món quà sẽ làm cho mẹ được tiếp đón
thuận lợi. Con nghĩ đây là một món quà sẽ làm cho mẹ được tiếp đón thuận lợi.
Tuy bà mẹ ngẩn người vì vẻ đẹp và nét lấp
lánh của món quà, bà không nghĩ nó có giá trị lớn như con khẳng định nhưng để
làm chàng vui lòng bà không bàn cãi về điều đó nữa. Bà vẫn lo lắng về sự chấp
nhận của nhà vua nên nói với con:
- Con trai ạ, mẹ cũng cho là món quà này có
tác dụng nhưng khi thỉnh cầu vua mẹ cảm thấy rõ là không đủ sức và sẽ câm lặng
thôi. Như vậy không chỉ mất công đi mà mất cả món quà là cả một tài sản khác
thường và mẹ sẽ thẹn thùng trở về báo tin vô vọng. Mẹ đã nói rồi và con hãy tin
là thế - Bà nói thêm: - Dù mẹ muốn cố gắng chiều ý con, đủ sức dám thỉnh cầu
vua như con mong đợi, chắc chắn hoặc nhà vua sẽ cười nhạo rồi đuổi mẹ đi như một
kẻ điên hoặc ông nổi giận mà con và mẹ sẽ là nạn nhân.
Mẹ Aladdin còn nói nhiều lý lẽ khác để chàng
thay đổi ý kiến nhưng sắc đẹp của công chúa Badroulboudour tác động quá mạnh đến
trái tim không làm chàng lay chuyển được. Aladdin nài nỉ mẹ thực hiện điều
chàng đã quyết định. Vừa thương yêu vừa sợ chàng làm điều gì liều lĩnh, bà mẹ cố
nén nỗi lo sợ làm theo nguyện vọng của con.
Vì đã muộn không đên được cung vua nữa, công
việc để lại ngày hôm sau.
Hai mẹ con không nói gì về việc khác trong phần
thì giờ còn lại của ngày hôm đó. Aladdin cẩn thận gợi ý với mẹ những suy nghĩ của
mình để bà vững tẩm đến xin tiếp kiến nhà vua. Mặc dù con trai đưa ra nhiều lý
lẽ, bà mẹ vẫn không tin tưởng thành công và thực tế bà nghi ngại cũng phải. Bà
bảo con:
- Này con, mẹ mong nhà vua cho được gặp và
bình tĩnh lắng nghe lời mẹ thỉnh cầu nhưng sau việc tiếp đón khá tất ấy nếu ông
hỏi nhà cửa, tài sản, đất đai của con ở đâu, vì đấy là những vấn đề vua quan
tâm trước cả bản thân con, nếu ông hỏi thế thì con bảo mẹ trả lời ra sao?
- Mẹ ơi, chúng ta đừng lo lắng trước về một
việc có lẽ sẽ không xảy đến. Chúng ta cứ nghĩ trước hết về sự tiếp đón và câu
trả lời của nhà vua đã. Nếu ông muốn biết về những điều mẹ vừa nói, con sẽ liệu
để trả lời, con tin tưởng ở chiếc đèn nhờ nó lâu nay chúng ta không thiếu thốn
gì.
Mẹ Aladdin không có gì cãi lại điều con trai
vừa nói. Bà nghĩ chiếc đèn có thể giúp cho họ những việc thần kỳ lớn hơn việc
cung cấp ăn uống cho họ. Điều đó làm bà hài lòng đồng thời rũ bỏ được những khó
khăn có thể làm bà lùi bước. Aladdin hiểu ý nghĩ của mẹ chàng nói:
- Thưa mẹ, ít nhất mẹ cũng nhớ giữ bí mật của
chúng ta: mọi kết quả tốt đẹp trong việc này tuỳ thuộc vào điều ấy đấy
Hai mẹ con chia tay nhau đi nghỉ. Nhưng tình
yêu mãnh liệt và những dự kiến lớn về tài sản trong tâm trí làm chàng không
bình tĩnh ngủ yên như lòng mong muốn. Chàng đậy trước lúc trời sáng ra đánh thức
mẹ dậy, thúc mẹ mặc nhanh quần áo đến cổng hoàng cung kịp giờ mở cửa và yết kiến
nhà vua cùng lúc với các quan lớn nhỏ vào triều đình tham dự cuộc xét xử thường
kỳ mà bao giờ vua cũng trực tiếp chủ trì.
Mẹ Aladdin làm mọi việc như con bảo. Bà lấy
chiếc bình sứ để những viên đá quý làm quà, bọc một lớp vải rất mịn và sạch sẽ,
một lớp khác ít mịn hơn bà buộc nối bơn góc cho dễ mang. Bà ra đi, hướng về
hoàng cung làm Aladdin rất thoả mãn trong lòng. Các quan đại thần, những vị có
chức vụ cao ở triều đình đã vào hoàng cung khi bà đến trước cổng lâu đài. Đám
người có việc đến triều đình rất đông; khi mở cổng bà đi cùng họ vào phòng xét
xử. Đây là một phòng khách rất đẹp, rộng rãi và tráng lệ, cửa ra vào trang nghiêm.
Bà dừng lại, cố thu xếp đứng trước mặt chỗ vua ngồi, các triều thần tham dự ngồi
bên phải, bên trái nhà vua. Người ta gọi lần lượt mọi người theo thứ tự đơn thỉnh
cầu của họ nêu lên và xét xử cho đến giờ nghỉ thường lệ. Vua đứng dậy, giải tán
quần thần vào trong phòng riêng có vị tể tướng đi theo. Những quần thần khác
trong triều cũng ra về. Những người đến xin được bày tỏ nguyện vọng cũng giải
tán, những người này hài lòng vì được lợi, những người khác phàn nàn về kết quả
xét xử đối với họ, có những người lại hy vọng vào buổi xét xử khác.
Mẹ Aladdin thấy vua đứng dậy về cung, nghĩ rằng
trong ngày đó ngài sẽ không trở lại nữa vì mọi người đều bỏ đi, nên bà cũng ra
về. Aladdin thấy mẹ vào nhà với quà tặng vua vẫn mang theo, không biết kết quả
ra sao? Sợ có điều gì bi thảm, chàng không dám mở miệng hỏi. Bà mẹ phúc hậu
chưa bao giờ đặt chân tới cung vua và không biết gì về công việc hàng ngày ở
đó, để con trai khỏi băn khoăn. bà kể lại với chàng một cách rất thật thà:
- Con ạ, mẹ đã thấy nhà vua và chắc chắn Người
cũng thấy mẹ, mẹ đứng ngay trước mặt mà không có ai cản trở Người trông thấy mẹ
nhưng người bận rộn phải nghe rất nhiều người trình bày. Việc đó kéo dài mãi,
cuối cùng mẹ nghĩ Người buồn chán quá nên đã bất ngờ đứng đậy bỏ vào không chờ
nghe những người đang xếp hàng chờ đến lượt trình bày. Tuy vậy điều đó làm mẹ
hài lòng vì mẹ đã bắt đầu sốt ruột, mệt mỏi vì chờ quá ìâu. Không có gì thay đổi,
mẹ sẽ trở lại hoàng cung vào ngày mai, có lẽ vua không quá bận.
Dù say mê đến mấy Aladdin cũng đành nén lòng
vì sự việc như vậy. Ít nhất chàng cũng hài lòng thấy mẹ đã vượt qua bước đi khó
khăn nhất, chịu đựng được trước mặt vua và hy vọng bà noi gương những người
trình bày với vua, sẽ không ngần ngại làm việc được uỷ thác khi có dịp được
nói:
Ngày hôm sau cũng sáng sớm như hôm trước mẹ
Aladdin đến hoàng cung nhưng vô ích. Bà thấy cổng đóng, hỏi thăm được biết triều
đình chỉ xét xử hai ngày một lần nên phải trở lại vào ngày tiếp đó. Bà đưa tin
về và khuyên con trai phải kiên nhẫn thêm. Bà lại đến hoàng cung sáu lần vào những
ngày qui định cũng không có hiệu quả và có lẽ bà sẽ trở lại đến hàng trăm lần
khác cũng vô ích nếu vua luôn thấy bà trước mặt mình nhưng không lưu ý đến bà.
Điều ấy rất có thể xảy ra vì chỉ có những người thưa kiện lần lượt lại gần vua
để trình bày và mẹ Aladdin không ở trong trường hợp đó.
Cuối cùng hôm đó sau khi dừng thiết triều về
cung, vua nói với vị tể tướng:
- Mấy hôm nay ta thấy một người đàn bà đến đều
đặn vào những buổi ta xét xử, mang vật gì bọc trong vải và đứng trước mặt ta từ
đầu đến cuối buổi. Khanh có biết bà ấy đề nghị gì không?
Vị tể tướng cũng chẳng biết gì hơn nhà vua,
ông trả lời:
- Thưa bệ hạ, phụ nữ thường khiếu kiện về những
việc không đâu. Bà này có lẽ đến trình với bệ hạ việc người ta bán bột xấu cho
bà hoặc việc gì tương tự không đáng kể.
Vua không hài lòng về câu trả lời đó, bảo:
- Ngày tập trung sắp tới nếu bà ấy lại đến,
khanh cho gọi lại để ta nghe xem có việc gì.
Vị tể tướng hạ bàn tay rồi đưa lên phía trên
đầu mình để thể hiện nếu ông quên việc đó sẽ xin bị chặt đầu. Mẹ Aladdin đã
quen đến trong buổi xét xử trước mặt nhà vua, không kể gì vất vả đi lại để con
trai yên lòng. Vào ngày thiết triều, bà lại đến đứng trước mặt vua như thường lệ.
Vị tể tướng chưà trình lên vụ kiện nào thì
nhà vua đã trông thấy mẹ Aladdin. Cảm động vì lòng kiên trì chờ đợi đã chứng kiến,
ông bảo tể tướng:
- Trước mọi việc, sợ khanh quên mất, kia là
người đàn bà ta đã nói tới: cho gọi bà ấy lên, chúng ta bắt đầu nghe và giải
quyết việc đã đưa bà ấy tới đây.
Tể tướng ra hiệu cho tuỳ tùng dẫn bà tiến lại
trước mặt vua.
Mẹ Aladdin theo gương bao nhiêu người đến
trình bày với nhà vua quỳ xuống dập trán vào tấm thảm phủ trên bậc ngai vàng,
giữ tư thế đó cho đến lúc vua cho lệnh dậy. Bà đứng lên, nhà vua hỏi bà:
- Người đàn bà phúc hậu, ta thấy bà đến đây
đã nhiều lần và đứng ở cửa ra vào từ đầu đến cuối buổi xét xử. Có việc gì mà bà
phải tới vậy?
Mẹ Aladdin nghe hỏi, lại quỳ xuống lần thứ
hai rồi đứng dậy nói:
- Thưa đức vua trên mọi nhà vua trong đời,
trước khi trình bày với bệ hạ vấn đề khác thường thậm chí không tin được đã dẫn
thần tới trước ngai vàng anh minh thần khẩn cầu Người tha thứ cho sự táo tợn đã
dám có lời trơ trẽn xin Người Điều ấy thật bất thường khiến thần run sợ và thật
xấu hổ.
Để bà tự đo thổ lộ, vua ra lệnh mọi người ra
ngoài và để một mình ngài và quan tể tướng ở lại rồi bảo bà có thể trình bày đừng
sợ hãi gì.
Mẹ Aladdin không chỉ yên tâm về lòng tốt của
vua đã miễn cho bà phải nói trước mọi người, bà còn muốn vua không nổi giận khi
nghe bà cầu xin đlều ngài không ngờ tới. Bà lại nói:
- Thưa bệ hạ, thần dám xin Người đồng ý tha
thứ, gia ân cho thần nếu thấy lời thỉnh cầu của thần có khía cạnh xúc phạm hoặc
không vừa lòng Người.
- Dù sự việc ra sao, - nhà vua nói, - ngay từ
bây giờ ta tha thứ cho bà, không có điều gì làm hại đến bà. Nào, hãy mạnh dạn
nói đi.
Khi mẹ Aladdln đã đề phòng về nỗi lo vua giận
dữ khi nghe lời đề nghị không hợp lý của bà, bà thành thực kể lại trường hợp
Aladdin đã thấy mặt công chúa Badrouthoudour, tình yêu mãnh liệt nảy sinh từ sự
gặp gỡ vận mệnh dó, lời chàng nói ra với bà và những gì bà đã làm để chàng từ bỏ
sự say mê bất kmh đối với công chúa. Bà tiếp tục trình bày:
- Con trai thần thay vì nghe lời khuyên và nhận
biết sự ngông cuồng của mình, lại ương bướng say mê đến mức đe doạ thần sẽ có
hành động tuyệt vọng nếu thần từ chối đến xin bệ hạ cho cầu hôn eông chúa và
sau khi thúc ép thần quá đáng thần buộc phải làm vừa lòng nó. Thần khẩn cầu một
lần nữa xin nhà vua hãy tha thứ cho không chỉ riêng thần mà cả Aladdin con trai
thần đã có ý nghĩ táo tợn hy vọng vươn lên sự cầu thân cao cả như vậy.
Vua rất hiền và phúc hậu nên ngài lắng nghe
toàn bộ lời trình bày không hề thể hiện một dấu hiệu giận dữ nàơ, cũng không
đùa cợt về lời cầu xin. Trước khi trả lời người đàn bà, ngài hỏi bà mang gì bọc
trong vải. Bà lấy ngay bình sứ để ở chân ngai vàng trước khi quỳ xuống, mở ra
trình lên nhà vua.
Không thể tả hết sự kinh ngạc và lạ lùng của
nhà vua khi thấy trong chiếc bình bao nhiêu viên đá quý giá, hoàn hảo, sáng
loáng và kích cỡ to lớn ngài chưa từng thấy như vậy. Ngài đờ người ngắm nghía một
lúc rồi bình tĩnh nhận món quà từ tay bà mẹ Aladdin, kêu lên vui sướng:
- Chà! Đẹp quá! Nhiều quá!
Sau khi nhìn ngắm, xáo trộn từng viên đá,
đánh giá mỗi viên về những điểm đặc blệt, ông ngoảnh lại phía quan tể tướng và
chỉ vào chiếc bình:
- Khanh xem, phải công nhận không thấy gì
trên đời phong phú và hoàn hảo hơn thế.
Tể tướng tấm tắc khen ngợi. Nhà vua tiếp tục:
- Thế nào? Khanh bảo sao về một món quà như
thế? Phải chăng thật xứng đáng với công chúa, con gái ta, và với giá ấy, ta có
thể gả công chúa cho người đến cầu hôn.
Lời nói ấy làm tể tướng bối rối. Cách đây
không lâu, ông được biết vua có ý định gả công chúa cho một con trai của ông.
Ông sợ, không phải không có cơ sở, nhà vua loá mắt vì món quà phong phú và kỳ lạ
đến thế sẽ thay đổi tình cảm. Ông lại gần vua nói nhỏ vào tai:
- Thưa bệ hạ, không thể phủ nhận món quà thật
xứng đáng với công chúa. Nhưng thần khẩn cầu bệ hạ lùi lại ba tháng nữa sẽ quyết
định. Thần hy vọng trong thời gian đó con trai thần mà bệ hạ đã có lòng tất
nhìn đến sẽ có cái gì đáng giá hơn món quà của Aladdin mà bệ hạ chưa biết.
Nhà vua tuy chắc chắn tể tướng không thể tìm
được cho con trai một món quà đáng giá như thế để tặng công chúa, vẫn nghe và
gia ân cho ông ta điều ấy. Ngài ngoảnh lại phía mẹ Aladdin nói:
- Được rồi, bà mẹ phúc hậu. bà trở về nhà đi
và nói với con trai bà ta vui lòng về đề nghị của cậu ấy nhưng ta không thể cưới
con gái mà không làm cho con một toà lâu đài sẵn sàng trong ba tháng nữa. Như
thế bà sẽ trở lại đây trong thời hạn ấy.
Mẹ Aladdin đi về với nỗi vui mừng càng lớn vì
với hoàn cảnh mình, lúc đầu bà cho là không thể vào gặp vua nhưng đã nhận được
câu trả lời tốt đẹp như vậy, thay vì bị gạt bỏ nhục nhã. Thấy mẹ bước vào nhà,
Aladdin nhận thấy hai điều: một, bà về sớm hơn mọi lần và đlều kia, nét mặt bà
cởi mở, vui vẻ. Chàng hỏi:
- Thế nào mẹ? Con có thể hy vọng hay phải chết
vì thất vọng đây?
Bà bỏ mạng che mặt, bảo con ngồi với mình ở
ghế xô- pha và nói:
- Con trai ạ, để con khỏi phải phân vân nhiều,
mẹ sẽ nói là còn lâu con mới phải nghĩ đến chuyện chết, con vẫn còn có cái để
hy vọng.
Bà kể lại việc bà được nhà vua cho gặp trước
mọi người ra sao nên hôm nay về được sớm, cách đề phòng cơn giận của vua, lời cầu
hôn công chúa Badroulboudour và câu trả lời đồng tÌnh từ miệng nhà vua. Bà kể
thêm những cử chỉ của vua do món quà tác động đã đưa lại câu trả lời thuận lợi
ra sao. Bà còn nói: Mẹ cũng còn hơi lo vì tể tướng đã nói nhỏ điều gì đó vào
tai vua, mẹ sợ ông ấy làm vua thay đổi ý định của mình .
Aladdin nghe tin ấy cho mình là người sung sướng
nhất trên đời. Chàng cám ơn mẹ đã vất vả theo đuổi việc này mà kết quả tốt đẹp
rất quan trọng đôí với cuộc sống của chàng. Tuy nàng lòng mong được có đối tượng
mình say mê, ba tháng đối với chàng như kéo dài vô tận, chàng cũng kiên trì chờ
đợi dựa vào lời hứa của nhà vua mà chàng cho là không thể bàn cãi. Trong lúc
chàng tính từng giờ, từng ngày, từng tuần lễ, vào lúc hai tháng đã qua, một buổi
tối mẹ chàng muốn châm đèn, nhận ra trong nhà không còn dầu, bà đi ra ngoài phố
mua, thấy khắp mọi nơi tưng bừng như ngày lễ. Các cửa hiệu mở rộng, trang trí
hoa lá, đèn sáng trưng cố làm cho thật lộng lẫy, đẹp đẽ. Mọi người nhộn nhịp
vui chơi, đường phố ùn tắc vì những vị quan mặc quần áo ngày lễ cưỡi ngựa thắng
yên cương đẹp, kéo theo một số lớn người hầu đi đi lại lại. Bà hỏi người bán dầu
vì sao có quang cảnh như thế. Ông này nói:
- Bà ở đâu ra vậy? Không biết đêm nay con trai
quan tể tướng cưới công chúa Badroulboudour con gái vua ư? Nàng sắp tắm xong và
các vị quan kia tập hợp để tháp tùng nàng về cung làm lễ cưới.
Mẹ Aladdin không muốn nghe thêm nữa. Bà chạy
vội về nhà thở không ra hơi, tìm con trai báo tin không ngờ đó.
- Con ơi - Bà nói - Việc của con hỏng hết rồi.
Con tin vào lời hứa đẹp đẽ của vua, không là gì đâu.
Aladdin hết hoảng về tin đó:
- Thưa mẹ, nhà vua không grữ lời hứa với con ở
chỗ nào? Làm sao mẹ biết?
- Tối nay con trai tể tướng sẽ làm lễ cưới
công chúa Badroulboudour trong hoàng cung.
Bà kể lại với con bà biết điều đó và những cảnh
đang diễn ra không thể sai được.
Nghe tin Aladdin đứng lặng người như bị sét
đánh. Một người nào khác sẽ suy sụp ngay nhưng một nỗi ghen tuông thầm kín làm
chàng không đứng yên lâu được. Ngay lúc đó chàng nhớ đến chiếc đèn cho đến nay
rất có ích cho mình, không giận hờn vô ích đối với nhà vua, tể tướng hoặc con
trai tể tướng chàng chỉ nói với mẹ:
- Thưa mẹ, con trai tể tướng sẽ không hạnh
phúc như chàng ta mong muốn tối nay đâu. Trong lúc con vào phòng một lúc, mẹ cứ
chuẩn bị bữa ăn khuya đi.
Mẹ Aladdin hiểu con trai muốn sử dụng chiếc
đèn để ngăn cản, nếu có thể thì thủ tiêu đám cưới của con trai tể tướng với
công chúa. Bà đã không nhầm. Vào trong phòng Aladdin lấy chiếc đèn thần, tránh
cho mẹ sợ khi thấy vị thần xuất hiện. Chàng xát vào chiếc đèn ở chỗ những lần
trước. Vị thần xuất hiện ngay, nói với Alađdin:
- Ngươi muốn gì? Tôi sẵn sàng theo lệnh như kẻ
nô lệ của Người và những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn
cũng thế.
- Nghe đây, cho đến nay thần đã mang thức ăn
cho tôi khi cần, bây giờ có một việc quan trọng hoàn toàn khác. Tôi đã cầu hôn
công chúa Badroulboudour, con gái vua, ông đã hứa gả và hẹn trong ba tháng.
Thay vì giữ lời hứa, đêm nay ông làm lễ thành hôn công chúa với con trai tể tướng.
Tôi vừa được tin ấy và chắc chắn thế. Điều tôi đề nghị thần đèn là ngay khi đôi
tân hôn vừa đi nằm, thần mang họ và cả giường của họ đến đây.
- Ổng chủ, tôi xin vâng lời. Người còn điều
gì ra lệnh nữa không?
- Bây giờ thì không - Aladdin đáp.
Cùng lúc ấy vị thần biến mất. Aladdin ra ăn
cùng với mẹ, vẫn bình lặng như thường ngày. Sau bữa ăn chàng nói chuyện một lúc
về đám cưới của công chúa như không bận tâm nữa rồi vào phòng mình để mẹ đi nằm.
Chàng không ngủ, chờ thần đèn thi hành lệnh trở về.
Trong thời gian ấy trong hoàng cung trang
hoàng lộng lẫy cho buổi công chúa thành hôn. Lễ hội, vui chơi mãi tận khuya.
Công việc xong, theo dấu hiệu của người chủ trì hôn lễ, con trai tể tuớng khôn
khéo lẩn ra, ông này dẫn chàng vào giường tân hôn trong phòng công chúa đã chuẩn
bị sẵn. Chàng vào nằm trước. Một lúc sau hoàng hậu, có thị nữ tháp tùng, dẫn
người vợ mới đến. Nàng chống cự theo thủ tục các cô dâu. Hoàng hậu giúp công
chúa cởi áo quần ngoài, đưa nàng vào giường như ép buộc và sau khi ôm hôn nàng
chúc phúc, bà ra ngoài với mọi người cùng đi. Người ra sau cùng đóng cửa lại. Cửa
phòng vừa đóng, thần đèn trung thành và chính xác thực hiện lệnh của những người
có đèn trong tay, không để người chồng có thì giờ đụng chạm đến vợ, ông ta nâng
bổng chiếc giường cùng đôi vợ chồng mới cưới trước sự kinh sợ của hai người,
mang đến đặt vào phòng của Aladdin.
Aladdin nôn nóng, không muốn để con trai tể
tướng nằm cùng giường với công chúa. Chàng bảo thần đèn:
- Đưa người chồng mới này nhất vào trong xó
và mờ sáng ngày mai trở lại đây.
Thần đèn bế ngay con trai tể tướng ra khỏi
giường, đưa vào chỗ Aladdin chỉ, thổi vào chàng ta một ngọn gió thấm từ đầu đến
chân không cựa quậy được nữa.
Tuy say mê công chúa Badrouthoudour, Aladdin
cũng không nói dài dòng khi còn lại một mình với nàng. Thái độ rất say mê chàng
tâm sự:
- Công chúa tôn kính, nàng đừng sợ gì, ở đây
an toàn cho nàng và dù tình yêu mãnh liệt tôi cảm nhận trước săc đẹp của nàng,
không bao giờ tôi vượt quá giới hạn lòng kính trọng sâu sắc đối với nàng. Nếu tôi
buộc phải đến mức này, không phải để xúc phạm nàng mà để ngăn cản kẻ tình địch
bất công chiếm được nàng trái với lời hứa của phụ hoàng nàng đã chấp nhận tôi.
Công chúa không biết gì về những chuyện đó,
và cũng chưa từng lưu tâm đến những gì Aladdin nói. Sự sợ hãi và kinh ngạc về
cuộc phiêu lưu lạ lùng, bất ngờ này, đã đẩy nàng vào tình trạng Aladdin không
sao moi ra được một lời nào từ miệng nàng. Chàng không dừng lại đấy, cởi áo quần
ngoài nằm vào chỗ con trai tể tướng, quay lưng về phía công chúa sau khi cẩn thận
đặt một thanh gươm giữa công chúa và chàng, tỏ ý chàng sẽ bị trừng phạt nếu đụng
chạm đến danh dự công chúa.
Aladdin hài lòng vì đã lấy đi hạnh phúc của
tình địch trong đêm tân hôn nên chàng bình tĩnh ngủ ngon. Công chúa thì không
thế, trong đời nàng chưa bao giờ qua một đêm tồi tệ như vậy và con trai tể tướng
người chồng mới qua một đêm ở trong xó nhà còn đáng buồn hơn nhiều. Sáng hôm
sau Aladdin không cần xát vào đèn để gọi thần đèn. Thần xuất hiện theo giờ đã dặn,
lúc chàng đang mặc quân áo:
- Có tôi đây, người ra lệnh gì?
- Mang con trai tể tướng từ chỗ hôm qua đến,
bỏ vào giường và đem trả tất cả về hoàng cung.
Aladdin cầm lại chiếc gươm. Thần đèn lại chỗ
con trai tể tướng bỏ người chồng mới vào cạnh công chúa rồi mang cả chiếc giường
trở về hoàng cung, đặt vào phòng công chúa ở chỗ cũ. Nhưng trong suốt quá trình
này, hai vợ chồng mới không trông thấy thần đèn, hình dạng ghê gớm của thần có
thể làm họ chết vì sợ, họ cũng không nghe được gì về lời nói qua lại giữa
Aladdin và thần đèn, chỉ nhận thấy chiếc giường rung chuyển, được đưa từ chỗ
này đến chỗ khác và như vậy đã đủ kinh hoàng.
Thần đèn đặt chiếc giường cưới vào chỗ cũ vừa
lúc nhà vua muốn biết con gái qua đêm tân hôn ra sao, vào phòng để chúc mừng
công chúa. Con trai tể tướng, lạnh cóng suốt cả đêm chưa đủ ấm người, nghe tiếng
mở cửa vội đứng dậy chạy lại phía chiếc tủ tối hôm qua quần áo cởi ra vẫn treo
để ở đấy.
Vua lại gần giường công chúa, hôn con gái
theo tập quán, và mỉm cười hỏi tối hôm qua nàng cảm thấy ra sao. Ngẩng đầu lên
và nhìn kỹ công chúa, ông rất ngạc nhiên thấy con không đỏ mặt hay có những đấu
hiệu gì khác làm ông thoả tò mò. Nàng chỉ nhìn ông rất buồn thể hiện một nỗi
đau sâu xa vẻ phật ý. Ông còn nói vài lời với con nhưng thấy nàng không trả lời,
cho rằng do e thẹn nên ông rút lui. Tuy thế, không khỏi nghi ngờ có điều gì
khác thường trong sự im lặng đó, ông đến ngay phòng hoàng hậu kể lại thái độ của
công chúa.
- Thưa bệ hạ - Hoàng hậu nói - Điều đó Người
đừng lấy làm lạ, không có cô dâu mới nào lại không có thái độ như vậy khi đón
hoàng phụ đúng như nghĩa vụ. Để thiếp đi thăm con, nếu công chúa cũng có thái độ
ấy thì thiếp đã rất lầm.
Hoàng hậu mặc quần áo xong, đến phòng công
chúa ở thấy nàng vẫn chưa dậy. Bà lại gần giường chào và ôm hôn con. Nhưng bà
quá ngạc nhiên, không chỉ nàng không trả lời gì mà bà con thấy rõ thần sắc của
nàng sa sút nên bà nghĩ đã có điều gì không suôn sẻ. Bà hỏi:
- Con gái, do đâu con đáp lại sự ân cần của
ta lơ là như vậy? Con tiếp đón mẹ mình theo cách ấy ư? Con nghĩ ta không biết
những gì sẽ đến với con sao? Ta cho rằng con không có ý ấy, vậy phải có điều gì
đó khác thường đã xảy ra với con, con nói thật với ta đi, đừng để nỗi lo lắng
làm ta phiền muộn.
Cuối cùng công chúa Badroulboudour chấm dứt
yên lặng bằng một hơi thở dài:
- Chà! Mẫu hậu tôn kính? - Nàng kêu lên - Tha
thứ cho con đã thất lễ với mẹ. Tâm trí con đang hoảng loạn về những điều kỳ lạ
đến với con tối hôm qua, con chưa thể hoàn hồn lại được vì quá ngạc nhiên và sợ
hãi.
Nàng bèn kể lại rành mạch từ lúc nàng và chồng
vừa đi nằm, chiếc giường được nâng lên, mang tới một gian phòng bẩn và tối tăm.
Ớ đấy chỉ còn lại một mình nàng người chồng không biết biến đi đâu, rồi một
chàng trai đến nói mấy lời với nàng mà vì sợ hãi nàng không nghe được gì. Chàng
ta nằm bên cạnh nàng, thế vào chỗ của người chồng sau khi đặt giữa nàng và
chàng một thanh gươm. Sáng dậy người ta đem chồng nàng trả lại và chiếc giường
lại được mang về chỗ cũ trong chốc lát.
- Những việc đó vừa xong - Nàng nói thêm -
thì phụ hoàng bước vào phòng. Con buồn bã đến mức không đủ sức nói với Người một
lời. Do đó con chắc Người sẽ giận về cách con tiếp nhận vinh dự Người dành cho
con, con mong Người tha thứ cho con khi biết được cuộc phiêu lưu đáng buồn và
tình trạng của con lúc này.
Hoàng hậu bình tĩnh lắng nghe những gì công
chúa đã kể lại nhưng bà không muốn tin. Bà nói:
- Con gái, con đã đúng khi không nói điều ấy
với phụ hoàng. Con đừng nói gì với ai, người ta sẽ cho là con điên khi nghe con
nói như vậy.
- Thưa mẫu hậu - Công chúa lại nói - Con cam
đoan là con rất tỉnh táo. Mầu hậu có thể hỏi thêm chồng con. Chàng sẽ cũng nói
thế.
- Ta sẽ hỏi và khi chàng cũng kể lại như con,
ta có thể tin. Bây giờ con dậy đi, đừng nghĩ đến điều ấy nữa. Con đừng bối rối
vì hình ảnh đó trong lúc lễ hội tổ chức nhân dịp thành hôn của con thật đẹp đẽ
và sẽ tiếp tục nhiều ngày ở hoàng cung và trong cả vương quốc. Con không nghe
âm thanh kèn trống não bạt vang lên rồi sao? Những cảnh đó sẽ gây cho con niềm
vui thích, làm quên đi những điều vớ vẩn con vừa nói với ta.
Hoàng hậu gọi thị nữ đến đỡ công chúa dậy và
khi thấy nàng đi tắm rửa bà đến phòng nhà vua. Bà bảo công chúa cớ vài ý nghĩ
viển vông trong đầu nhưng không sao. Bà cho gọi con trai tể tướng để biết một
ít về điều công chúa đã nói nhưng chàng trai cảm thấy vô cùng vinh dự được kết
thân với hoàng gia nên giấu kín việc đó. Hoàng hậu hỏi:
- Phò mã của ta, con có tin chắc về tình cảnh
đó như vợ con không?
- Thưa mẫu hậu - Con vị tể tướng nói -Cho
phép con dám hỏi: Người muốn biết về chuyện gì ạ?
Những cuộc vui tiếp tục suốt ngày trong hoàng
cung, hoàng hậu không để riêng công chúa một mình, luôn tạo nên các cuộc vui
cho nàng tham gia. Tuy vậy nàng bị tác động quá mạnh về những gì xảy ra trong
đêm nên luôn nghĩ về điều ấy. Con trai tể tướng cũng không kém bận tâm về một
đêm tồi tệ phải trải qua nhưng tham vọng làm cậu giấu kín đi và người ta nhìn cậu
như một người chồng rất hạnh phúc.
Aladdin được biết rõ những gì trong hoàng
cung, tin rằng đôi vợ chồng mới cưới lại tiếp tục nằm ngủ cùng nhau tuy đã qua
cuộc phiêu lưu đêm trước. Không muốn để họ nghỉ ngơi, nên đêm vừa về khuya,
Aladdin nhờ đến chiếc đèn hỗ trợ. Thần đèn xuất hiện, nghẹ lệnh như những lần
trước. Aladdin bảo:
- Con trai tể tướng và công chúa
Badroulbaudour đêm nay lại nằm ngủ chung. Thần đến đó và khi họ đi nằm, mang cả
giường đến đây như hôm qua.
Thần đèn thực hiện trung thành và chính xác
như hôm trước. Con tể tướng lại qua đêm cũng lạnh lẽo, khổ sở như đêm trước,
công chúa lại nhục nhã có Aladdin nằm bên cạnh, thanh gươm để giữa hai người.
Theo lệnh chủ, thần đèn trở lại vào sáng hôm sau, đặt chồng bên cạnh vợ, nâng
chiếc giường cùng đôi vợ chồng mới cưới mang về hoàng cung để vào chỗ cũ.
Nhà vua, sau cách tiếp đón của công chúa hôm
trước, lo ngại muốn biết qua đêm thứ hai, nàng còn thế không, lại đến phòng
nàng vào sáng sớm. Con trai tể tướng, xấu hổ và nhục nhã hơn đêm trước, vừa
nghe vua tới đã vội dậy chạy vào tủ áo.
Vua đến tận giường công chúa chào, âu yếm
nàng như hôm đầu:
- Nào, con gái? Sáng nay có khó ở như hôm qua
không? Con qua đêm thế nào?
Công chúa vẫn im lặng và nhà vua nhận thấy
tâm trí nàng có vẻ chấn động và suy sụp hơn. Ông chắc có việc gì ký lạ xảy ra với
con. Bực bội vì nàng giấu giếm, ông cầm lấy thanh gươm và nổi giận nói:
- Con gái, hoặc con nói đã giấu ta điều gì hoặc
ta chặt đầu con ngay tức khắc.
Công chúa nhìn thấy thanh gươm tuốt trần và
giịng nói đe doạ của vua cha, bèn hoảng sợ khóc lóc kêu lên:
- Thưa phụ hoàng tôn quý, xin Người tha cho
con đã xúc phạm đến Người, con mong lòng tốt và sự độ lượng cảm thông thay thế
sự giận dữ khi con thành thực kể lại tình trạng buồn bã đáng thương con phải chịu
sụốt đêm qua và đêm trước đó.
Lời mở đầu làm dịu lòng nhà vua, công chúa
trung thành kể lại những gì xảy ra qua hai đêm tồi tệ, một cách cảm động đến nỗi
vua thấy đau lòng vì tình yêu và sự trìu mến của ông đối với con gái là rất lớn.
Nàng kết thúc bằng những lời sau:
- Nếu bệ hạ có chút nghi ngờ về điều con kể,
xin hỏi người chồng bệ hạ đã cho con; con tin chắc Người sẽ xác minh được sự thật.
Nhà vua rất phiền muộn vì đã gây một cuộc
phiêu lưu kỳ lạ như thế cho công chúa. Ông nói:
- Con gái, con sai lầm vì hôm qua không giải
thích cho ta rõ việc lạ lùng ấy mà ta đã rất quan tâm. Ta không gả chồng cho
con với ý định làm con khổ sở mà phải sung sướng và hài lòng, để con hưởng hạnh
phúc con xứng đáng được hưởng và có thể hy vọng ở một người chồng ta thấy có vẻ
thích hợp với con. Con hãy xoá bỏ những ý nghĩ xấu về những gì con vừa kể. Ta sẽ
sắp xếp lại mọi việc để con khỏi phải trải qua những đêm khó chịu đựng như những
đêm trước nữa.
Về cung vua cho gọi ngay quan tể tướng đến hỏi:
- Khanh đã gặp con mình rồi chứ, cậu ấy có
nói gì với khanh không?
Thấy vị tể tướng trả lời chưa gặp, nhà vua
thuật lại cho ông ta nghe câu chuyện công chúa vừa kể. Rồi nhà vua kết luận:
- Ta chắc con gái ta đã nói thật, tuy vậy ta
muốn con trai khanh xác định thêm. Khanh về hỏi cậu ấy sự việc ra sao đi.
Vị tể tướng đi gặp ngay con trai ông ta, cho
biết điều vua vừa nói và bảo cậu nói rõ sự thật đừng che giấu. Cậu con trả lời:
- Thưa cha con không giấu giếm gì. Những điều
công chúa trình bày với nhà vua là thật nhưng nàng còn chưa biết con bị đối xử
tệ hại như thế nào. Mới hai ngày cưới con đã trải qua hai đêm ác độc không thể
tưởng tượng nổi, con không đủ lời diễn tả nổi con đã chịu khổ sở trong chiếc
giường mà không thấy người nâng mà bay được từ chỗ này đến chỗ khác không biết
được bằng cách nào. Cha thấy đấy thật tệ hại khi con chỉ được mặc sơ mi đứng suốt
hai đêm trong một xó nhà hẹp không cựa quậy được khỏi chỗ người đi ta đặt con,
phải bất lực trong một thứ trói buộc vô hình. Qua đó không cần dài dòng kể lể
chi tiết với cha những đau đớn con phải hứng chịu, tuy con rất yêu thương, kính
trọng, biết ơn công chúa vợ con nhưng con thú nhận thực lòng với cha, thật vinh
dự và tự hào vì đã cưới được con vua thật đấy, song con muốn chết đi còn hơn là
được sống lâu trong cái quan hệ cao sang này nhưng lại phải chấp nhận đối xử
tàn ác như con đã phải chịu đựng. Con chắc công chúa cũng có những ý tưởng như
con, nàng sẽ vui vẻ chấp nhận việc chia tay nhau vì cả hai đều quá mệt mỏi. Do
vậy, thưa cha, con khẩn cầu cha cùng với niềm thương mến đã muốn tạo dựng hạnh
phúc cho con, mong cha xin với nhà vua hủy bỏ cuộc hôn nhân này.
Dù tham vọng của tể tướng mong con mình được
là phò mã của nhà vua lớn đến đâu, nhưng thấy con mình quyết tâm chia tay với
công chúa như vậy, ông thấy không nên khuyên con gắng chịu đựng thêm mấy ngày nữa
làm gì. Ông để con ở lại, và đến tâu lại với vua, thú nhận việc đó rất thật sau
khi được nghe con trình bày. Không chờ nhà vua bảo huỷ bỏ hôn nhân mà ông thấy
rõ nhà vua đã sẵn sàng, ông xin phép vua cho con trai rời hoàng cung về nhà, lấy
lý do không nên để công chúa chịu hình phạt ghê gớm ấy thêm nữa.
Quan tể tướng được vua đồng ý ngay. Sau đó
nhà vua ra lệnh chấm dứt những cuộc vui chơi trong hoàng cung, trong thành phố
và cả đất nước và chẳng mấy chốc những cuộc vui chơi công cộng kết thúc.
Việc thay đổi đột ngột và không ngờ ấy làm nảy
sinh những bàn luận khác nhau. Người ta hỏi nhau sao lại có những lệnh trái ngược
như thế nếu không thấy tể tướng và con trai buồn rầu từ hoàng cung ra về. Chỉ
có Aladdin hiếu rõ điều bí mật ấy, cậu vô cùng hoan hỉ về thành công của thần
đèn. Như vậy, biết chắc tình địch đã rời hoàng cung, cuộc hôn nhân đã hoàn toàn
bị bãi bỏ, chàng không cần xát vào đèn nhờ thần can thiệp nữa. Điều đặc biệt là
cả vua và quan tể tướng đều đã quên Aladdin và lời thỉnh cầu của bà mẹ, không
có một chút ý nghĩ nào về việc chàng có thể đóng vai trò gì vào phép lạ khiến
cho cuộc hôn nhân của công chúa phải hủy bỏ.
Chàng đợi hết ba tháng vua đã hứa hẹn cho đám
cưới giữa công chúa và chàng. Chàng tính cẩn thận từng ngày và khi hết thời hạn
đó, ngày hôm sau chàng nhờ mẹ vào hoàng cung nhắc vua nhớ lại lời hứa.
Mẹ Aladdin vào hoàng cung như con bảo, đứng ở
chỗ ra vào phòng xét xử như những lần trước. Vua vừa nhìn thấy bà, nhận ra ngay
đồng thời nhớ lại lời thỉnh cầu của bà và thời gian ông trì hoãn lại. Lúc ấy
quan tể tướng đang tâu lại với nhà vua về một sự việc gì đó. Nhà vua ngắt lại
và bảo:
- Tể tướng, ta thấy người đàn bà mấy tháng
trước đây đã dâng lên ta một món quà thật đẹp. Cho bà ấy lại đây, ta sẽ nghe lời
tấu của ông sau.
Tể tướng nhìn ra cửa thấy bà mẹ Aladdin, liền
gọi ngay viên hầu cận chỉ vào bà ra lệnh cho đưa vào.
Mẹ Aladdin tlến đến chân ngai vàng quỳ xuống
theo thủ tục. Khi bà đứng lên nhà vua hỏi bà yêu cầu gì:
- Thưa bệ hạ, thần lại xin tiếp kiến bệ hạ để
nhân danh Aladdin con trai thần dám trình Người đã hết hạn ba tháng Người hoãn
lời thỉnh cầu của thần được vinh dự dâng lên, xin Người nhớ lại cho.
Nhà vua hẹn ba tháng sẽ trả lời người đàn bà
phúc hậu này song nhà vua đã nghĩ rằng sẽ không bao giờ phải nghe nhắc đến một
cuộc hôn nhân chênh lệch đến thế cho công chúa con gái ông, chắc là họ rất
nghèo hèn vì mẹ Aladdin mặc một bộ quần áo tầm thường. Tuy vậy việc nhà vua phải
giữ lời hứa làm ông rất lúng túng, không biết nên trả lời sao. Nhà vua liền hỏi
ý kiến quan tể tướng và tỏ ra không muốn gả công chúa cho một người vô danh mà
ông cho là không có tài sản gì.
Tể tướng không ngần ngại giải thích điều mình
suy nghĩ. Ông nói:
- Thưa bệ hạ, thần thấy có một cách nhất định
khéo léo tránh được một cuộc hôn nhân không tương xứng như vậy mà Aladdin không
phàn nàn được. Bệ hạ hãy đòi đồ sính lễ cầu hôn công chúa lớn đến mức anh ta
chưa từng nghĩ đến trước khi dấn thân vào khiến cho gia sản của anh ta dù giàu
có đến mức nào cũng không vươn tới được. Đây là cách làm anh ta phải từ bỏ cái
tham vọng táo tợn đến thế.
Vua nghe lời khuyên của tể tướng, ngoảnh lại
phía bà mẹ Aladdin và sau một lúc sủy nghĩ ông nói:
- Các vị vua phải giữ lời hứa, ta sẵn sàng giữ
lời của mình, cho phép con trai ngươi sung sướng được kết hôn với con gái ta.
Nhưng ta không thể gả chồng cho công chúa mà không biết rồi công chúa có được mọi
điều thuận lợi không, ngươi về nói với con trai ngươi ta sẽ thực hiện lời hứa
khi chàng ấy đưa đến cho ta bốn mươi chậu vàng lớn đầy những loại như ngươi đã
dâng lên ta, được từng ấy nô lệ da đen mang đến, có bốn mươi nô lệ da trắng trẻ
đẹp, cao lớn dẫn đường, tất cả ăn mặc thật đẹp. Đấy là những điều kiện ta sẵn
sàng gả công chúa. Nhà ngươi về đi, ta chờ ngươi đưa câu trả lời của chàng ấy đến
cho ta.
Mẹ Aladdin lại quỳ xuống trước ngai vàng rồi
lui ra. Trên đường bản thân bà cũng cười về sự tưởng tượng điên rồ của con
trai. “Thực tế nó tìm (đâu ra bấy nhiêu chậu vàng và số lượng thuỷ tinh màu nhiều
đến mức đầy các chậu ấy? Nó có định trở lại căn hầm đã đóng cửa để hái những quả
trên cây không? Và tìm ở đâu được những nô lệ nhừ vua đòi hỏi? Thế là ý nguyện
xa vời rồi, ta nghĩ nó sẽ không hài lòng về nhiệm vụ sứ giả của ta”. Về đến nhà
tâm trí bà đầy ý nghĩ Aladdin không còn gì để hy vọng. Bà bảo con:
- Con trai, mẹ khuyên con không nên nghĩ đến
việc cưới công chúa Badroulboudour nữa. Nhà vua tiếp mẹ rất tử tế và mẹ nghĩ
ông có ưu ái đến con nhưng quan tể tướng nếu mẹ không nhầm, đã làm ông thay đổi
tình cảm. Con có thể đoán như mẹ khi nghe mẹ kể lại. Sau khi trình bày với vua
ba tháng đã hết hạn và nhân danh con mẹ nhắc vua nhớ lại lời hứa, mẹ để ý Người
chỉ trả lời mẹ sau khi đã trao đổi riêng với quan tể tướng.
Mẹ Aladdin thuật lại chính xác với con những
gì vua nói với bà và những điều kiện cần có để nhà vua chấp nhận hôn nhân của
công chúa và chàng. Cuối cùng bà nói:
- Con ạ, vua chờ con trả lời nhưng chúng
ta... – Bà mỉm cười nói tiếp - Người sẽ đợi lâu đấy.
- Không lâu như mẹ tưởng đâu, thưa mẹ -
Aladdin đáp - Và vua đã nhầm khi nghĩ nêu lên những đòi hỏi quá đáng ấy, Người
cho rằng con không dám nghĩ đến công chúa Badroulboudour nữa sao. Con chờ đợi
những điều yêu cầu khó khăn hơn hoặc Người sẽ đòi những đồ sính lễ cầu hôn cao
xa hơn nữa. Bây giờ thì con hài lòng vì điều vua đòi hỏi ít ỏi hơn so với những
gì con có thể làm để lấy được công chúa. Trong lúc con đi kiếm các thứ dâng lên
nhà vua, mẹ tìm gì để chúng ta ăn tối và cứ mặc con xoay xở.
Khi bà mẹ đã ra phố mua thức ăn, Aladdin cầm
chiếc đèn xát mạnh. Thần đèn hiện ra ngay, nói sẵn sàng đợi lệnh. Aladdin nói:
- Vua đã cho phép tôi kết hôn với công chúa
con gái Người nhưng trước hết Người đòi hỏi bốn mươi chậu bằng vàng chất đầy những
quả cây trong vườn tôi lấy đèn. Những chậu vàng ấy được từng ấy nô lệ da đen
mang đến, có bốn mươi nô lệ da trắng đi trước, trẻ, đẹp, cao lớn và ăn mặc sang
trọng. Thần đèn mang cho tôi món quà ấy thật sớm để tôi mang tới hoàng cung trước
khi nhà vua ngừng thiết triều.
Thần đèn vâng lệnh rồi biến mất.
Một lúc sau thần đèn trở lại cùng bốn mươi nô
lệ da đen, mỗi người đội một chậu bằng vàng rất nặng chất đầy ngọc trai, kim
cương, hồng ngọc, ngọc bích, sắc đẹp và kích cỡ được chọn lựa hơn hẳn loni đã
biếu nhà vua. Mỗi chậu phủ một tấm vải bạc hoa vàng. Tất cả những nô lệ vừa da
đen vừa trắng, với những chậu vàng đứng chật gần hết ngôi nhà vốn tầm thường
phía trước có một sân nhỏ và phía sau là mảnh vườn của gia đình Aladdin. Thần
đèn hỏi Aladdin có hài lòng không và còn ra lệnh gì thêm. Aladdin trả lời không
cần gì hơn nữa nên thần biến mất ngay.
Mẹ Aladdin đi chợ về, vào nhà hết sức kinh ngạc
vì đông người và nhiều của cải đến thế. Khi đã sắp gọn thực phẩm mang về, bà
đang định bỏ mạng che mặt thì cậu con trai ngăn lại. Chàng bảo:
- Mẹ ơi, không còn thì giờ nữa, trước khi vua
kết thúc buổi thiết triều, mẹ phải trở lại hoàng cung dẫn theo đoàn người dâng
quà và lễ vật cầu hôn công chúa mà nhà vua đòi hỏi để Người thấy tấm lòng nhiệt
tình và thành thực của con muốn được vinh dự kết thân qua sự đáp ứng nhanh
chóng và đầy đủ này.
Không chờ mẹ trả lời, Aladdin mở cửa cho đoàn
người nô lệ nối tiếp nhau ra, cứ một nô lệ đa trắng đi trước một nô lệ da đen đội
chậu vàng trên đầu. Khi mẹ đã lên đường theo sau người nô lệ da đen cuối cùng,
chàng đóng cửa ngồi yên trong phòng, hy vọng với món quà như vua đòi hỏi, cuối
cùng nhà vua sẽ nhận chàng làm phò mã.
Người nô lệ da trắng đầu tiên ra khỏi nhà
Aladdin làm những người qua đường trông thấy dừng lại và đến khi đoàn tám mươi
người nô-lệ cả đen và trắng ra hết khỏi nhà, đường phố đã đầy một đám đông từ
các nơi chạy đến xem một quang cảnh đẹp đẽ, khác thường chưa từng thấy. Quần áo
của những người nô lệ đều may bằng vải đắt tiền và giắt đầy đá quý, những người
sành sỏi đều phải khâm phục trước giá trị của từng cái áo. Của cải nhiều, ăn mặc
đồng phục đẹp, dáng điệu trang trọng, thân hình lực lưỡng của từng nô lệ, bước
đi oai nghiêm cách nhau đều đặn với ánh lấp lánh đá quý kích cỡ lớn giắt cân đối
quanh thắt lưng bằng vàng, và những gia huy cũng bằng đá quý trên mũ có một thẩm
mỹ riêng khlến đoàn người đến xem vô cùng thán phục, ngắm nhìn không biết mệt
đoàn người. Đường quá đông người nên ai cũng đành đứng tại chỗ trông theo.
Do phải đi qua nhiều đường phố để đến hoàng
cung, nên một phần lớn của thành phố với đủ loại người của mọi tầng lớp đều được
chứng kiến một cảnh huy hoàng lộng lẫy Người đầu tiên trong số tám mươi nô lệ
vào đến cổng sân trước của hoàng cung, những người gác cửa đã đứng thành hàng
rào khi thấy đoàn người lại gần, họ nghĩ anh ta là một ông vua vì anh ta ăn mặc
quá sang trọng. Họ tiến tới hôn vạt áo nhưng người nô lệ đã được thần đèn dặn
dò, ngăn họ lại và nghiêm trang nói:
Đoàn nô lệ vào đến sân thứ hai, chỗ hoàng
cung được trang hoàng lộng lẫy trong lúc nhà vua đang thiết triều. Những võ
quan đứng đầu mỗi toán lính canh gác ăn mặc rất đẹp nhưng đều bị lu mờ trước sự
có mặt của tám mươi người nô lệ mang quà tặng của Aladdin. Trong hoàng cung
không có gì đẹp và lấp lánh đến thế và những phục sức của các đại thần trong
triều cũng không có gì sánh được sự rực rỡ của đoàn người.
Vua đã được báo tin về đoàn nô lệ tới, ngài
ra lệnh cho họ vào. Vì vậy họ bước vào phòng rất trật tự, một phần bên phải, một
phần bên trái. Sau khi vào đứng thành nửa vòng tròn trước ngai vua, những nô lệ
da đen đặt chậu vàng xuống, rồi cùng quỳ xuống dập trán xuống thảm. Những nô lệ
da trắng cũng làm như vậy. Sau đó tất cả đứng dậy, những người da đen khéo léo
bỏ vải che những chiếc chậu rồi đứng thẳng lên tay khoanh trước ngực rất từ tốn.
Mẹ Aladdin tiến lại gần ngai vua, quỳ xuống
nói:
- Thưa bệ hạ, Aladdin con trai thần biết món
quà tặng này còn kém xa những gì công chúa Badroulboudour đáng được hưởng. Dù
sao nó cũng hy vọng bệ hạ vui long và làm vừa lòng công chúa với niềm tin tưởng
cố gắng lo đủ những gì bệ hạ đã chiếu cố nêu ra cho.
Vua không còn tâm trí nghe lời của mẹ
Aladdin. Ngài không ngớt thán phục khi nhìn vào bốn mươi chậu vàng đựng đầy đá
quý sáng loáng quý giá nhất chưa thấy trên đời và tám mươi nô lệ như những ông
vua qua dáng điệu và quần áo sang trọng. Thay vì trả lời mẹ Aladdin, ngài nói với
quan tể tướng đang kinh ngạc không hiểu ở đâu ra một khối lượng của cải lớn đến
vậy:
- Này! Tể tướng - Nhà vua hỏi to - Khanh nghĩ
người này là ai, là người thế nào mà gửi đến cho ta món quà tặng giàu có và kỳ
lạ đến thế, khi cả ta và khanh đều cùng chưa biết người đó? Khanh có tin anh ta
không xứng đáng cưới công chúa Badroulboudour con gái ta chăng?
Dù ghen tỵ và đau đớn thấy một người lạ mặt sắp
thay thế con trai ông trở thành rể nhà vua, nhưng tể tướng không giấu nổi sự cảm
phục của mình. Rõ ràng quà tặng của Aladdin quá đủ để được nhận một sự kết thân
cao quý. Ông chân thành trả lời nhà vua:
- Thưa bệ hạ, không ai dám có ý nghĩ người
dâng món quà xứng đáng như thế đối với bệ hạ lại không xứng đáng với vinh dự
Người muốn ban cho, thần cam đoan anh ta xứng đáng vì chắc chắn anh ta có một
kho báu khá lớn trên đời để cân bằng với công chúa con gái bệ hạ.
Những quan đại thần tham dự buổi thiết triều
vỗ tay đồng tình với quan tể tướng.
Vua không trì hoãn nữa, thậm chí ngài không hỏi
để biết Aladdin có những đức tính gì khác phù hợp với người rể tương lai của
ngài. Chỉ nhìn vào của cải nhiều đến thế và sự nhanh nhẹn đáp ứng đòi hỏi của
ngài, không tỏ một chút khó khăn về những điều kiện quá sức, ngài đã dễ dàng
tin chắc chàng không thiếu điều gì nếu chàng muốn. Vì vậy để bà mẹ Aladđin vui
vẻ trở về, ông bảo bà:
- Người đàn bà phúc hậu, bà về nói với con
trai, ta chờ chàng ấy để mở rộng tay ôm hôn chàng và chàng càng đến nhanh tiếp
nhận từ tay ta công chúa con gái ta càng làm ta vui lòng.
Mẹ Aladdin vội ra về nói với niềm vui thấy
con trai mình vươn tới một vị trí cao ngoài sự mong đợi, còn nhà vua cho ngừng
thiết triều. Rời ngai vàng ngài ra lệnh cho các thái giám phục vụ công chúa đến
mang những chậu vàng về nhà nữ chủ rồi ngài đến đấy thoả thích ngắm chung cùng
con gái.
Tám mươi nô lệ da trắng, da đen cũng không bị
bỏ quên; người ta đưa họ vào hậu cung và sau đó vua cho gọi họ đến để công chúa
thấy sự đẹp đẽ của họ vượt xa những lời ngài đã kể lại cho nàng.
Mẹ Aladdin về nhà với dáng vẻ nói lên tin tất
lành bà đưa về cho con. Bà nói:
- Con trai, con có mọi cái để hài lòng: thực
hiện được mọi mong muốn ngoài điều mẹ chờ đợi. Nhà vua, với sự hoan nghênh của
cả triều đình, tuyên bố con xứng đáng được có công chúa Badroulboudour. Người
chờ để ôm hôn con và làm đám cưới. Con nên nghĩ đến ra mắt cho tương xứng với
những gì tốt đẹp người ta đang bàn tán về con. Sau khi thấy những kỳ quan con
đã tạo được, mẹ chắc chắn rồi sẽ không thiếu thứ gì con không làm được. Mẹ cũng
không quên nhắc với con nhà vua đang nóng lòng chờ con cần đến gặp Người gấp.
Aladdin hân hoan vì tin ấy và cảm kích về vật
đã tạo ra phép lạ, nói vài lời với mẹ rồi vào phòng mình. Cầm lấy chiếc đèn cho
đến lúc ấy đã gián tiếp cung cấp cho chàng mọi điều cần thiết và mong muốn,
chàng vừa xát mạnh thì thần đèn đã xuất hiện ngay thể hiện rất vâng lệnh.
Aladdin nói:
- Thần đèn, tôi gọi ông để ông đưa tôi đi tắm,
sau đó chuẩn bị sẵn sàng cho tôi một bộ quần áo giàu sang và đẹp nhất chưa một
vua chúa nào có.
Cậu vừa bảo xong, thần đèn biến cậu thành vô
hình như mình, nâng cậu lên đưa đến một nhà tắm toàn bằng đá cẩm thạch tinh khiết,
nhiều màu khác nhau và rất đẹp. Không thấy ai đã phục vụ mình, nhưng cậu thấy
mình được cởi quần áo trong một phòng khách tráng lệ và sạch sẽ. Từ phòng khách
những bàn tay vô hình đưa cậu vào phòng tắm, độ ấm vừa phải, cậu được kỳ cọ tắm
rửa với nhiều loại nước thơm. Sau khi qua nhũng độ nóng thích hợp tuỳ theo các
phòng tắm khác nhau, cậu đi ra, khác hẳn khi mới vào. Nước da mát mẻ, trắng, hồng
hào và người thấy nhẹ nhàng, khoan khoái hơn. Cậu bước vào phòng khách, không
thấy quần áo cũ nữa, thần đèn đã cẩn thận để vào đấy bộ quần áo cậu yêu cầu.
Aladdin ngạc nhiên thấy bộ quần áo đẹp chưa từng thấy, đẹp ngoài sức tưởng tượng.
Xong xuôi thần mang cậu về lại trong căn phòng thần đã mang cậu đi và hỏi còn
phải làm gì nữa. Có đấy, Aladdin trả lời, thần dắt đến cho tôi một con ngưa vượt
xa con ngựa được ưa chuộng nhất trong chuồng ngựa của nhà vua, yên cương đáng
giá trên một triệu đồng tiền vàng. Thần cũng đồng thời đưa tới hai mươi nô lệ
ăn mặc sang trọng, thanh thoát như những nô lệ đưa tặng quà để đi bên cạnh và
sau tôi thành toán, hai mươi người như thế đi trước tôi thành hai hàng. Đưa đến
cho mẹ tôi sáu nô lệ nữ để phục vụ bà, ăn mặc, ít nhất cũng sang trọng như nữ
nô lệ của công chúa, mỗi người đội thêm một bộ quần áo lộng lẫy như của hoàng hậu:
Tôi cũng cần mười nghìn đồng vàng bỏ trong mười chiếc túi. Tôi ra lệnh thế đấy,
thần làm chóng lên .
Aladdin vừa nói xong, thần đèn biến mất, chẳng
mấy chốc trở lại với con ngựa, bốn mươi nô lệ trong đó mười người mỗi người
mang một túi vải một nghìn đồng vàng và sáu nô lệ nữ mỗi người đội trên đầu một
bộ quần áo khác nhau bọc trong vải bạc đành cho mẹ Aladdin. Thần đèn giao tất cả
cho Aladdin.
Trong mười túi tiền cậu đưa cho mẹ bơn túi
nói để dùng khi cần. Cậu giao sáu túi kia cho những nô lệ mang theo ra lệnh giữ
lấy và tung từng nắm cho dân chúng trên những đường phố đi qua để tới hoàng
cung, cho đi trước cậu với những nô lệ khác, ba người bên phải, ba bên trái. Cậu
giới thiệu với mè sáu nô lệ nữ, nói họ thuộc về bà, có thể sử dụng như nữ chủ của
họ và quần áo họ mang đến là để bà dùng.
Khi đã xếp đặt xong mọi việc, chàng nói thần
đèn có thể đi và sẽ gọi lại khi cần phục vụ, thần biến ngay tức khắc. Aladdin
chỉ còn nghĩ đến đáp ứng ý muốn của nhà vua mong sớm gặp chàng. Chàng cử một
trong số bốn mươi nô lệ đến hoàng cung, lệnh gặp đội trưởng bảo vệ hỏi xem có
được vinh dự đến quỳ trước nhà vua không. Người nô lệ hoàn thành nhiệm vụ liên
lạc không lâu, mang về câu trả lời nhà vua nóng lòng chờ cậu.
Aladdin không trì hoãn lên ngựa, ra đi theo
trật tự như đã sắp xếp. Tuy chưa bao giờ đi ngựa nhưng lần đầu này chàng đi
không kém duyên dáng, một kỵ sĩ đày dạn kinh nghiệm cũng không cho chàng là người
mới tập. Những đường phố cậu đi qua đầy ngượi hâm mộ, như cùng một lúc vang lên
trên không tiếng hoan hô, khen ngợi, chúc mừng, đặc biệt khi sáu nô lệ mang túi
tiền tung lên từng nắm bên phải và bên trái. Những lời hoan nghênh tuy vậy
không phải do những người xô đẩy và cúi xuống nhặt tiền mà do những người tầng
lớp cao hơn không ngăn được mình ca ngợi tính hào phóng của Aladdin. Không chỉ
những người đã có tuổi từng thấy chàng chơi lang thang trên đường phố không nhận
ra chàng nữa mà cả những người mới gặp chàng cách đây không lâu cũng vậy vì
chàng đã thay đổi quá nhiều. Điều này do chính đèn tạo dần cho những người có
nó với điều kiện người đó sử dụng tốt chiếc đèn. Người ta lúc ấy chú ý nhiều đến
bản than Aladdin hơn là đoàn hộ tống vì phần lớn trong cùng ngày đã nhìn thấy
đoàn nô lệ mang quà tặng đi qua. Con ngựa được những người sàng sỏi thán phục
vì họ phân biệt được vẻ đẹp của nó mà không loá mắt vì kim cương, đá quý phủ đầy
mình nó. Có tiếng đồn nhà vua gả công chúa cho chàng, nhưng không ai nghĩ đến
nguồn gốc, không một người nào đố kị về tài sản và bước cao sang của chàng vì
thấy rất xứng đáng.
Aladdin vào đến hoàng cung, ở đó nhà vua đã
cho chuẩn bị để tiếp đón chàng. Đến cổng thứ hai chàng muốn xuống ngựa để phù hợp
với nghi lễ mà từ tể tướng cho đến các tướng lĩnh những chức vụ hàng đầu đều phải
tuân theo. Nhưng những đội trưởng bảo vệ chờ ở đấy theo lệnh vua, đã ngăn lại
và dẫn chàng đến tận phòng thiết triều, đỡ chàng xuống tuy chàng khước từ. Đội
bảo vệ đứng thành hàng rào đôi ở cửa ra vào, đội trưởng để Aladdin đi bên phải,
đưa qua giữa hàng rào và đẫn đến tận ngai vua.
Khi vua nhìn thấy Aladdin, ngài rất ngạc
nhiên thấy chàng ăn mặc lộng lẫy đến mức ngài chưa từng thấy bao giờ và trái với
ý nghĩ của ngài, khuôn mặt tuấn tú, khổ người đẹp và có phong thái cao sang
khác xa với dáng điệu thấp hèn của bà mẹ đã đến gặp. Sự ngạc nhiên không cản trở
ngài nhanh nhẹn đứng dậy, bước xuống ngai vàng hai ba bậc để ngăn Aladdin quỳ
dưới chân mình và ôm hôn chàng đầy tình thân mến. Sau thủ tục ngoại giao đó,
Aladdin còn muốn quỳ xuống chân vua nhưng vua cầm tay buộc chàng bước lên ngồi
giữa mình và tể tướng.
Aladdin bèn lên tiếng:
- Thưa bệ hạ - Chàng nói - Thần nhận những
vinh dự Người ban cho vì Người có lòng tốt và thích làm thế nhưng xin cho phép
thần trình bày với bệ hạ: thần sinh ra vốn là nô lệ của Người, thần biết rõ quyền
lực của Người và không quên nguồn gốc của thần đặt dưới ánh hào quang rực rỡ về
hàng ngũ tối cao của Người. Nếu có vài chỗ thần có thể xứng đáng với một sự tiếp
đón ân huệ như thế, thần xia thú nhận là do sự táo tợn của một sự tình cờ thần
đã đặt tầm nhìn, ý nghĩ và lòng mong muốn vào công chúa thánh thiện, thần ao ước
của mình. Thần xĩn bệ hạ tha thứ cho sự liều lĩnh của thần nhưng thần không xoá
bỏ được và sẽ chết vì đau khổ nếu thần không có hy vọng thực hiện.
- Con trai - Vua vừa ôm hôn chàng một lần nữa
vừa nói - Con làm ta có lỗi nếu có lúc nghi ngờ về sự thành thực trong lời nói
của ta. Từ nay cuộc sống của con than thiết với ta nên ta muốn dành cho con một
niềm tin tưởng. Ta vui lòng trông thấy con và đồng ý sát nhập của cải của ta
vào của con.
Nói xong ông ra hiệu lệnh và lập tức vang lên
tiếng kèn, não bạt, nhà vua dẫn Aladdin vào một phòng khách rất đẹp đã chuẩn bị
một bữa tiệc. Vua ăn một mình cùng Aladdin. Quan tể tướng và những người khác,
cùng ngồi theo thứ tự chức vụ của họ trong bữa ăn. Nhà vua luôn để mắt đén
Aladdin, thể hiện vui thích được gặp chàng, nói về nhiều đề tài khác nhau.
Trong câu chuyện với nhà vua, chàng tỏ ra rất hiểu biết và thông minh làm nhà
vua càng cảm thấy mình đã đúng khi đánh giá tốt về cậu.
Bữa tiệc kết thúc, vua cho gọi quan hành pháp
của kinh thành ra lệnh làm ngay thủ tục kết hôn cho công chúa Badroulboudour và
Aladdin. Trong lúc đó ông nói với Aladdin về nhiều chuyện trước mặt các cận thần,
ai cũng khen ngợi sự vững vàng về trí tuệ, cách nói năng lưu loát và những ngôn
từ tế nhị của chàng trong lời nói.
Khi quan hành pháp làm các loại thủ tục cho
hôn lễ, nhà vua hỏi Aladdin có muốn ở lại hoàng cung để làm lễ cưới trong cùng
ngày không.
- Thưa bệ hạ - chàng trả lời - Dù nóng lòng
được tận hưởng những ân đức của bệ hạ, con xin Người cho phép con hoãn lại đến
lúc con cho xây dựng một lâu đài để đón tiếp công chúa xứng đáng với danh vị của
nàng. Đi làm việc đó, con xin Người ban cho một địa điểm thích hợp trước mặt
hoàng cung để con tiện triều kiến. Con sẽ hết sức hoàn thành xây dựng thật
nhanh.
- Phò mã của ta - Nhà vua nói - Con hãy sử dụng
tất cả đất dai xét thấy cần thiết: trước hoàng cung còn quá trống trải và ta đã
nghĩ phải xây dựng thêm ở đấy. Con nhớ rằng hãy khẩn trương để tăng thêm niềm
vui của ta không muốn chờ đợi lâu mới thấy con gái ta thành đôi lứa.
Nói rồi ngài lại ôm hôn Alađđin, sau đó chàng
xin rút lui lễ phép như đã từng sống trong triều đình.
Aladdin nhảy lên ngựa, trở về nhà theo trật tự
tháp tùng như khi đến, qua đám đông cũ, được dân chúng hoan hô, chúc mừng mọi
thứ hạnh phúc và thịnh vừợng. Vừa đặt chân vào nhà, chàng cầm chiếc đèn gọi thần
như đã quen làm. Thần đèn không để chờ đợi, xuất hiện và sẵn sàng phục vụ.
Aladdin bảo: Tôi hết lòng khen ngợi sự thực hiện chính xác những gì tôi yêu cầu
cho đến nay nhờ quyền lực của đèn, chủ nhân của thần. Hôm nay tôi mong vì tình
cảm với chủ nhân, nếu có thể thần thể hiện nhiệt tình và vâng lời như chưa bao
giờ có. Tôi mong càng nhanh càng tốt theo khả năng của thần, xây dựng cho tôi một
toà lâu đàl xứng đáng với công chúa Badroulboudour, đối diện hoàng cung với một
khoảng cách vừa phải. Tôi để thần tự đo chọn nguyên vật liệu nghĩa là thần có
thể tuỳ thích dùng đá vân ban, ngọc thạch anh, mã não, đá màu xanh da trời và cẩm
thạch mịn nhất, nhiều màu để xây dựng nhưng trên nóc lâu đài thần cho xây một
phòng khách lớn mái vòm, bốn mặt bằng nhau, những chỗ ngồi bằng vàng, bạc khối
đặt cách nhau, hai mươi bốn cửa sổ, treo hai mươi bốn chiếc mành sáo được trang
trí thật nghệ thuật, cân đối bằng kim cương, hồng ngọc, ngọc bích, tôi muốn để
lại một tác phẩm chưa từng bao giờ toàn bích đến thế, làm cách sao mà trên đời
người chưa ai từng thấy một lâu đài tương tự. Lâu đài có sân trước, một sân rộng,
khu vườn và trên tất cả, có một kho báu đầy tiền vàng, bạc ở một chỗ thần sẽ
nói với tôi sau. Tôi cũng muốn trong lâu đài có nhà bếp, phòng tiếp khách, kho
hàng, kho đồ gỗ với bàn ghế gỗ quý cho các mùa và tương xứng với vẻ đẹp của lâu
đài, có những chuồng gia súc đầy ngựa đẹp với những người huấn luyện ngựa, người
chăm sóc ngựa, thần đừng quên trang bị dụng cụ săn bắn. Cũng phải có những người
quản lý giao dịch, nhân viên nhà bếp, nữ nô lệ cần thiết cho việc phục vụ công
chúa. Thần hiểu cho ý định của tôi, đi làm đi và trở lại khi đã hoàn tất.
Chương 36:
Aladdin và chiếc đèn thần (tiếp theo)
Aladdin giao nhiệm vụ xây dựng
lâu đài cho thần đèn xong thì mặt trời vừa lặn. Rạng sáng hôm sau, Aladdin vừa
dậy thì thần đèn đã đến trước mặt nói: Ông chủ, lâu đài của ông đã xong, ông đến
xem có hài lòng không”. Chưa trả lời được rất muốn thì thần đã mang chàng đến đấy
ngay. Chàng thấy nhà vượt xa sự mong đợi của mình, không ngớt khen ngợi. Thần dẫn
chàng đi khắp nơi, chỗ nào cũng chỉ thấy giàu sang, sạch sẽ và đẹp đẽ, với những
nô lệ, tất cả đều ăn mặc theo thứ bậc và công việc được giao. Thần không quên,
như một trong những điều chủ yếu, đưa chàng đến xem kho của cải có người trông
kho : trung thành canh giữ, có nhũng túi tiền kích thước khác nhau theo lượng
tiền chứa đựng, xếp cao đến trần, thứ tự trông thật thích mắt. Ra ngoài thần dẫn
chàng đến những chuồng ngựa có người đang chăm sóc nhộn nhịp những con ngựa đẹp
nhất trên đời, đến những kho hàng đủ mọi thứ cần thiết cho ngựa.
Khi Aladdin quan sát hết từng
căn nhà, từng phòng trong lâu đài, từ trên xuống dưới đặc biệt là phòng khách
hai mươi bốn cửa sổ, chàng chỉ thấy toàn của cải, tráng lệ với mọi tiện nghi
chàng không ngờ tới, chàng nói với thần đèn:
Thần đèn, tôi không thể nào
hài lòng hơn. Còn một việc tôi chưa nói với thần vì chưa nghĩ ra, đó là trải một
tấm thảm nhung tất nhất từ cửa căn phòng dành cho công chúa trong lâu đài này để
nàng bước đi trên thảm khi từ hoàng cung tới.
- Tôi trở lại ngay - Thần
đèn nói.
Thần biến mất và một lúc sau
Aladdin thấy điều mình mong muốn đã được thực hiện, không biết bằng cách nào.
Thần trở lại, đưa chàng trở về nhà trong lúc người ta mở cổng hoàng cung.
Những người gác cửa rất kinh
ngạc thấy ở khu đất trống trước đây một toà lâu đài có tường bao quanh và từ
phía ấy một tấm thảm nhung trải đến tận cửa nhà vua. Lúc đầu họ không phân biệt
rõ nhưng cấng ngạc nhiên hơn khi nhìn kỹ toà lâu đài tráng lệ của Aladdin. Tin
tức về một kỳ quan kỳ lạ chẳng mấy chốc lan khắp hoàng cung. Quan tể tướng đến
tận cổng hoàng cung cũng ngạc nhiên không kém những người khác. Ông là người
đưa tin đầu tiên đến vua nhưng cho việc đó là một phù thủy. Vua nói:
- Tể tướng, sao khanh lại
nghĩ là một phù thủy? Khanh cũng biết rõ như ta đấy là lâu đài của Aladdin xây
dựng, được ta cho phép trước mặt khanh để công chúa con gái ta ở. Sau những của
cải chúng ta đã thấy, chúng ta còn lấy gì làm lạ khi chàng ấy cho xây dựng lâu
đài này nhanh như thế. Chàng muốn làm chúng ta ngạc nhiên và cho thấy với tiền
của trong tay người ta có thể làm nên phép lạ. Giờ thiết triều đã đến nên họ
không nói về vấn đề ấy nữa.
Khi Aladdin đã được thần đèn
mang trở về nhà và biến đi, chàng thấy mẹ đã dậy và bắt đầu diện một bộ trang
phục chàng cho mang đến. Gần đến giờ vua thiết triều xong, Aladdin đưa cho để mẹ
đến hoàng cung cùng với những nô lệ nữ thần đèn đưa tới. Chàng muốn mẹ tấu
trình với vua rằng mình đến để vinh dự đi cùng công chúa vào buổi tối, sang lâu
đài mới. Bà và nô lệ nữ đều ăn mặc như những bà hoàng và ra đi. Aladdin đi ngựa,
không quên mang theo chiếc đèn đã đưa chàng lên hạnh phúc tột đỉnh, cùng đoàn
tuỳ tùng đến hoàng cung hôm trước, đàng hoàng tiến về lâu đài của mình. Khi những
người gác cổng thấy mẹ Aladdin đang tới, họ liền tâu lên vua. Nhà vua lệnh cho
những toán kèn đồng, não bạt, sáo, kèn ô-boa chờ sẵn ở các gò quanh hoàng cung,
lên tiếng nhạc hoà âm thông báo niềm vui vang khắp kinh thành. Các thương gia bắt
đầu trang hoàng cửa hiệu và chuẩn bị ánh sáng rực rỡ cho ban đêm. Thợ thủ cống
nghỉ việc, dân chúng vội vã đến tập trung ở quảng trường nằm gìữa hoàng cung và
lâu đài của Aladdin. Điều làm họ hết sức kinh ngạc là không hiểu có một phép lạ
nào đã cho họ thấy một lâu đài đẹp đến thế tại chỗ ngày hôm trước không có
nguyên vật liệu hoặc nền móng gì.
Mẹ Aladdin đươc đón tiếp trọng
thể trọng cung, có tlưởng thái giám đẫn vào căn phòng của cộng chúa
Badroulboudour. Công chúa vừa nhìn thấy bà vội chạy đến ôm hôn bà, mời ngồi lên
ghế xô-pha và trong lúc thị nữ chuẩn bị mặc quần áo, trang sức cho nàng những
viên đá quý nhất Aladdin đã tặng, nàng thiết đãi bà một bữa ăn rất ngon. Nhà
vua đến để kéo đài hơn giây phút chia tay với công chúa trước khi nàng sang lâu
đài của Aladdin cũng gặp chúc mừng bà. Mẹ Aladdin đã nói nhiều lần với nhà vua
giữa công chúng nhưng ngài chưa thấy bà bỏ mạng che mặt như lúc đó. Tuy bà đã
có tuổi nhưng vẫn còn những nét cho biết rõ thời trẻ bà là một trong số những
phụ nữ đẹp. Vua mới chỉ thấy bà ăn mặc giản đị nếu không nói nghèo nàn, nay
ngài vô cùng thán phục thấy bà mặc quần ao cũng giàu sang và đẹp như của cổng
chúa. Điều đã làm ngài hài lòng Aladdin vừa khôn, thông minh và biết điều trong
mọi việc.
Đêm xuống, công chúa cáo biệt
phụ hoàng. Sự chia tay của họ lưu luyến xen lẫn nước mắt, họ ôm hôn nhau nhiều
lần không nói gì, cuối cùng công chúa ra đi cùng với mẹ Aladdin bên trái nàng,
theo sau là một trăm nô lệ nữ ăn mặc thật đẹp. Các toán âm nhạc vẫn tiếp tục
hoà tấu từ khi mẹ Aladdin đến, lúc ấy tập hợp nhau lại bắt đầu cùng đi phía sau
là một trăm thị vệ, ngần ấy thái giám da đen bước theo hai hàng, dẫn đầu là chỉ
huy của họ. Bốn trăm thị đồng trẻ của nhà vua đi thành hàng hai bên mỗi người cầm
một bó đuốc hòa thêm vào ánh sáng của hoàng cung và lâu đài Aladdin làm nên nguồn
ánh sáng thật đẹp trong đêm.
Theo thứ tự đó công chúa bước
trên tấm thảm trải từ hoàng cung đến lâu đàì và càng tiến tới tiếng hoà nhạc của
toán đi trước đoàn người càng gần lại và hoà lẫn với tiếng nhạc vang lên từ bậc
thềm lâu đài, tạo nên một âm vang tuy lẫn lộn mà rất kỳ lạ, càng tăng thêm niềm
vui không chỉ trên quảng trường đông người mà cả trong hai lâu đài, toàn thành
phố và xa hơn nữa.
Công chúa đến lâu đài mới,
Aladdin vui mừng không hình dung nổi chạy đến căn phòng dành cho nàng để đón tiếp
Mẹ chàng có ý làm cho công chúa nhận rõ con trai mình trong đám người vây
quanh, công chúa hân hoan nhận thấy chàng rất tuấn tú. Aladdin trông thấy công
chúa, kính cẩn chào và nói:
- Công chúa đáng tôn thờ, nếu
tôi bất hạnh làm nàng không vừa lòng vì cả gan mong muốn có được một nàng công
chúa đáng yêu đến thế, tôi xin nói nàng phải trách cứ chính đôi mắt đẹp và sự
duyên dáng của nàng chứ không phải tôi.
- Phò mã, bây giờ đây thiếp
có quyền xử sự như thế này đây - Công chúa trả lời - Thiếp vâng lệnh phụ hoàng
và chỉ mong gặp chàng để nói thiếp đã vâng lệnh mà không ân hận.
Aladdin phấn khởi vì câu trả
lời êm dịu và làm chàng hài lòng, không để công chúa đứng lâu sau khi đi đường,
nàng vốn không quen, chàng cầm lấy tay công chúa hôn rất tươi vui, dẫn nàng vào
một phòng khách lớn được vô số ngọn nến chiếu sáng và thần đèn đã sắp sẵn một bữa
tiệc tuyệt vời. Các đá đều bằng vàng khối đựng đầy thịt ngon. Bát đĩa, cốc chén
và tủ thức ăn chất đầy đều bằng vàng và được chế tạo công phu. Những trang trí
khác cũng hoàn toàn phù hợp với của cải dồi dào. Công chúa vui thích thấy bao
nhiêu của cải tập trung vào một chỗ như thế, nói với Aladdin:
- Phò mã, thiếp đã nghĩ trên
đời không có gì đẹp hơn hoàng cung của phụ hoàng thiếp nhưng chỉ nhìn riêng
phòng khách này thiếp nhận thấy mình đã nhầm.
- Công chúa - Aladdin trả lời
và đưa nàng ngồi vào chỗ dành cho nàng - rất thành thực mà nói ta biết mình phải
tin vào điều gì.
Công chúa Badroulboudour,
Aladdin và bà mẹ cùng ngồi vào bàn ăn và bỗng một bản hoà tấu thật du dương, cảm
động nhất kèm theo những giọng hát rất mê ly của phụ nữ kéo dài tận hết bữa ăn.
Công chúa say mê đến mức nàng nói chưa bao giờ được nghe đàn hát như thế ở lâu
đài của phụ hoàng. Nàng không biết những nhạc sĩ, ca sĩ ấy là những tiên nữ do
thần đèn chọn.
Bữa ăn khuya kết thúc, người
ta dọn dẹp nhanh chóng và một toán nam nữ nghệ sĩ múa tiếp theo các nhạc công.
Họ múa nhiều điệu vũ khác nhau hình dung theo phong tục trong nước, kết thúc bởi
một nam và một nữ nhảy riêng với nhau nhẹ nhàng lạ kỳ, mỗi người đều thể hiện sự
duyên dáng, khéo léo của họ trong điệu nhảy. Đã gần nửa đêm, theo phong tục thời
ấy, Aladdin đứng dậy đưa tay cho công chúa mời nàng cùng nhảy và như vậy kết
thúc lễ cưới của họ. Họ nhảy rất đẹp được cả cử toạ khen ngợi. Cuối điệu nhảy,
Aladdin không buông tay công chúa, họ cùng nhau qua gian phòng đã chuẩn bị giường
tân hôn. Thị nữ cởi quần áo cho công chúa, đưa nàng lại giường, hầu cận của
Aladdin cũng làm thế và mọi người rút lui. Như vậy là kết thúc lễ cưới và những
vui chơi trong hôn lễ của Aladdin và công chúa Badroulboudour.
Sáng hôm sau, Aladdin vừa thức
dậy những người hầu phòng đã đến mặc quần áo cho chàng một bộ khác bộ ngày cưới
cũng sang trọng và đẹp như vậy. Sau đó họ dắt đến một trong những con ngựa dành
riêng. Chàng lên ngựa đi tới hoàng cung giữa một toán đông nô lệ đi trước, đi
sau và bên cạnh. Nhà vua tiếp đón chàng với những vinh dự như lần đầu, ôm hôn,
cho ngồi bên cạnh ông và ra lệnh chuẩn bị bữa ăn trưa. Aladdin nói:
- Thưa phụ hoàng, con xin bệ
hạ hôm nay miễn cho con vinh dự đó. Con đến đề nghị Người đến ăn một bữa trong
lâu đài của công chúa cùng tể tướng và các cận thần của Người.
Vua vui lòng ban ân huệ đó.
Ngài đứng dậy ngay và vì đường không xa, ngài muốn đi bộ. Như vậy là ngài ra khỏi
cung, Aladdin bên phải tể tướng bên trái, các cận thần theo sau, đi trước là
các thị vệ và những võ quan chủ yếu trong cung.
Càng đến gần lâu đài của
Aladdin vua càng thấy đẹp. Vào trong nhà càng khác hẳn, ông không ngớt khen từng
phòng một. Nhưng lên đến phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, thấy sự trang trí nhất
là những chiếc mành sáo giắt kim cương, ngọc bích, hồng ngọc tất cả đều hoàn hảo
tuyệt mỹ về cả số lượng và nghệ thuật, ông ngạc nhiên sững người. Sau một lúc đứng
lm lặng, ông nói với. tể tướng đang đứng gần ông:
- Tể tướng, có thể nào trong
vương quốc ta và gần ngay hoàng cung vẫn có một lâu đài đẹp đến thế mà đến nay
ta không biết.
- Thưa bệ hạ - Tể tướng trả
lời - bệ hạ có thể nhớ lại ngày hôm kia Người cho phép Aladdin vừa được chấp nhận
làm rể, xây dựng một lâu đài đối diện với hoàng cung. Ngay ngày ấy lúc mặt trời
lặn còn chưa có lâu đài ở chỗ này và hôm qua thần được vinh dự đầu tiên báo cáo
với Người lâu đài đã xây dựng xong.
- Ta nhớ nhưng còn đang nghĩ
lâu đài ấy là một kỳ quan trên đời. Dưới bầu trời này tìm đâu ra nền nhà toàn bằng
vàng, bạc khối thay vì đá hoặc cẩm thạch, cửa sổ thì giắt đầy kim cương, hồng
ngọc và ngọc bích? Không bao giờ trên đời làm được vật như vậy.
Vua thích thú ngắm nghía hai
mươi bốn chiếc cửa sổ. Đêm lần lượt mành cửa ông thấy chỉ có hai mươi ba chiếc
cùng trang trí lộng lẫy quý giá như nhau, chiếc thứ hai mươi bốn đang dở dang.
Ông bảo tể tướng (vì ông này có nhiệm vụ luôn ở bên cạnh vua):
- Tể tướng, ta rất lạ vì một
lâu đài như thế này mà chưa hoàn tất vì một chỗ này.
- Thưa bệ hạ - Tể tướng trả
lời, - có vẻ Aladdin vội quá, không đủ thì gỉờ trang trí cửa sổ này như những
cái khác nhưng tin rằng cậu đủ đá quý để bổ sung vào ngày đầu tiên.
Aladdin ra ngoài sai bảo người
hầu một lát, lúc đó đã trở lại.
- Phò mã - Nhà vua nói -
phòng khách này là chỗ đáng thán phục nhất. Có điều ta lấy làm lạ là chiếc màn
cửa này chưa hoàn thành. Phải chăng vì quên, lơ là hoặc thợ không đủ thì giờ
làm nất cho xong một mảnh kiến trúc đẹp như vậy?
- Thưa bệ hạ, không phải vì
những lý do đó đâu ạ. Đây là thợ làm theo kế hoạch của con. Con muốn để bệ hạ
ra lệnh cho hoàn thành phòng khách này và đồng thời là hoàn thành lâu đài. Xin
bệ hạ vui lòng chấp nhận ý định của con để con luôn nhớ đến ân đức của Người.
- Nếu con có ý định đó, ta rất
sẵn lông và sẽ cho lệnh làm việc đó ngay.
Thực vậy ông ra lệnh triệu tập
những nhà kim hoàn nhiều đá quý nhất và những thợ trang sức giỏi nhất trong
kinh thành. Vua xuống khỏi phòng khách, Aladdin dẫn ông đến phòng mở tiệc trong
ngày cưới. Một lúc sau công chúa đến, đón tiếp vua cha với thái độ làm ông vui
mừng biết nàng rất hài lòng về cuộc hôn nhân. Hai bàn đầy thức ăn ngon trên bát
đĩa bằng vàng. Nhà vua ngồi vào bàn trước tiên, cùng ăn với công chúa, Aladdin
và tể tướng. Các cận thần khác của triều đình được chiêu đãi ở chiếc bàn thứ
hai rất dài. Vua thấv thức ăn rất ngon, thú nhận chưa bao giờ được thưởng thức
ngon hơn. Ngài cũng nói như thế về rượu, đó cũng là loại hảo hạng. Ngài khen ngợi
nhất là bốn chiếc tủ búp phê đầy chai lọ, bát đĩa bằng vàng khảm ngọc. Ngài
cũng rất thích những bản nhạc hoà tấu trong phòng khách trong lúc tiếng vang những
kèn, trống, não bạt ở một khoảng cách vừa phải bên ngoài, bổ sung cho nhau đầy
thi vị.
Lúc vua vừa ăn xong, người
ta tâu lên rằng các nhà kim hoàn và thợ trang sức được gọi đã tới. Ngài trở lên
phòng khách hai mươi bơn cửa sổ, chỉ cho thợ kim hoàn đi theo mình chiếc cửa
chưa xong:
- Ta cho gọi các ngươi đến để
các ngươi hoàn thành chiếc cửa này, cũng tinh xảo như những cửa sổ khác. Hãy
quan sát kỹ đi và làm thật giống cho ta. Những người thợ kim hoàn quan sát rất
kỹ hai mươi ba mành cửa và sau khi trao đổi với nhau, xác nhận mỗi người đóng
góp được phần việc nào, họ đến trình diện trước vua và người thường phụ trách
trang sức trong hoàng cung trình bày
- Thưa bệ hạ, chúng thần sẵn
sàng đem khả năng kỹ nghệ ra để vâng theo lời Người nhưng dù chúng thần hành
nghề đã lâu, chúng thần vẫn không có đá quý và nhiều đến nhừ thế để làm công
trình lớn này.
- Ta có - Vua nói - và nhiều
hơn số lượng cần thiết đấy. Đến hoàng cung ta đưa cho mà chọn.
Về cung, vua cho đem một lượng
rất lớn đá quý đặc biệt từ số Aladdin đưa tặng. Họ đưa tới làm nhưng không đủ,
trở lại lấy thêm nhiều lần và trong một tháng chưa hoàn thành một nửa công
trình. Họ dùng tất cả những đá quý của vua và cả số đá quý mà tể tướng cho mượn,
tất cả cũng chỉ làm được một nửa tấm mành.
Aladdin biết vua cố gắng cho
làm cũng không giống được và không bao giờ hoàn thành, liền gọi thợ kim hoàn đến
không những bảo họ không làm nữa mà còn gỡ ra hết những gì đã làm, đưa trả lại
tất cả những đá quý của vua và của vị đại thần.
Công trình thợ kim hoàn ra sức
trong sáu tuần lễ chỉ phá ra trong mấy giờ. Họ ra về để một mình Aladdin trên
phòng khách. Chàng lấy chiếc đèn xát mạnh, thần hiện ra ngay Aladdin bảo:
- Tôi ra lệnh cho thần để lại
một tấm mành chưa hoàn thành, thần đã làm thế, bây giờ tôi gọi thần đến cho làm
nốt giống như những tấm kia.
Thần đèn biến mất, Aladdin
xuống dưới nhà, ít lâu sau trở lên thấy tấm mành cửa đã như chàng mong muốn và
giống hệt những tấm kia.
Trong lúc đó thợ kim hoàn về
cung, được đưa vào gặp vua. Trưởng toán thợ đưa ra những viên đá quý mang trả lại
và thay mặt anh em trình bày:
- Thưa bệ hạ, chúng thần đã
bỏ ra biết bao nhiêu thời gian, đưa kỹ nghệ tinh xảo vào để thực hiện công việc
Người giao cho. Công trình đã tiến hành khá kết quả nhưng Aladdin không những bảo
thôi làm mà còn phá bỏ hết đưa trả lại bệ hạ và tể tướng tất cả những viên đá
quý.
Vua hỏi lý do, họ bảo
Aladdin không nói gì. Ông ra lệnh thắng ngựa ra đi, chỉ có hầu cận đi bộ theo hộ
tống. Ngài tới lâu đài con gái, xuống ngựa lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ,
không báo tin cho Aladdin biết, nhưng vừa lúc Aladdin có mặt đúng lúc đón nhà
vua ở cửa.
Không để Aladdin phân trần,
ngài nói:
- Phò mã, ta đến hỏi con vì
lý do gì lại muốn để dở dang một phòng khách đẹp và đặc biệt đến thế như phòng
khách của lâu đài con.
Aladdin giấu lý do thực sự
là vua không đủ đá quý để tiêu tốn như vậy nhưng để ông biết lâu đài này không
chỉ vượt hẳn hoàng cung mà hơn mọi lâu đài trên đời và không phải chàng không
thể hoàn tất, trả lời:
- Bệ hạ, đúng là Người đã thấy
phòng khách chưa trang trí xong hẳn nhưng bây giờ xin Người xem lạl có thiếu gì
không.
Nhà vua lại thẳng cửa sổ trước
đó có tấm mành bỏ dở thấy nó cũng giống hệt nhũng tấm khác, đã ngỡ mình nhầm.
Ngài quan sát hai cửa sổ bên cạnh và lần lượt từng cái khác công nhận tấm mành
ngài cho làm trong bao nhiêu thời gian, tốn nhiều công thợ vừa mới hoàn tất
không mấy chốc. Ngài hết sức ngạc nhiên ôm lấy Aladdin hôn vào trán và nói:
- Phò mã, con là ai mà làm
những việc kỳ lạ đến thế trong nháy mắt? Con không giống ai trên đời; càng biết
rõ con, ta càng thán phục.
Aladdin rất khiêm tốn đáp lời
khen của nhà vua:
- Thưa bệ hạ, thật vinh dự lớn
cho con được nhận lòng tốt và lời khen của bệ hạ. Con cam đoan sẽ không quên điều
gì để ngày càng xứng đáng với hai ân huệ đó.
Vua trở về hoàng cung theo
cách ngài đến, không cần Aladdin tháp tùng. Ngày thấy tể tướng đang chờ ngài ở
đấy Nhà vua còn hoan hỉ về kỳ quan vừa chứng kiến, kể lại mọi điều làm tể tướng
tin vào lời vua và càng khẳng định lại mối nghi ngờ lâu đài của Aladdin do phù
phép mà có như ông đã nói với vua ngay lúc lâu đài xuất hiện. Ông muốn nhắc nhở
lại vua điều ấy. Nhà vua ngắt lời ông:
- Tể tướng, khanh cũng đã
nói với ta như thế, ta thấy rõ là ông chưa quên việc kết hôn của con gái ta yà
con trai ông.
Vị tể tướng cho là nhà vua đang
thoả lòng, nên không muốn cãi lại nhà vua. Hàng ngày như thành lệ, khi vua ngủ
dậy đã không quên đến một căn phòng có thể thấy rõ toàn bộ lâu đài Aladdin và
trong ngày cũng tới đó ngăm nghía và thán phục.
Aladdin không khép mình
trong lâu đài, môi tuần ra phố một vài lần, đi dọc kinh ở nhà thờ hoặc đến thăm
tề tướng hoặc những cận thần chính của nhà vua mà chàng thường đãi tiệc. Mỗi lần
chàng ra ngoài, chàng cho vài nô lệ đi kèm bên ngựa tung những nắm tiền vàng
trên đường phố đi qua hoặc ở những quảng trường đông đân chúng. Vả lại không một
người nghèo nào đến trước lâu đài Alađdin không hài lòng trở về với sự hào
phóng người ta đối xử theo lệnh chàng.
Tuần lễ nào Aladdin cũng đi
săn ít nhất một lần, lúc thì xung quanh thành phố, đôi lúc xa hơn, bao giờ trên
đường đi chàng cũng hào phóng. Xu hướng độ lưòng đó được dân chúng hàm ơn nhiều
có thể nói với thái độ dễ mến và hào phóng, chàng được dân chúng mến mộ hơn cả
vua, tuy không che lấp vua mà chàng triều kiến rất đều đặn. Với những đức tính
vốn có chàng nhiệt tình, đề cao quyền lợi quốc gia làm người ta không ngớt khen
ngợi. Chàng lại chứng tỏ sốt sắng nhân dịp một cuộc nổi loạn xảy ra ở biên giới
vương quốc. Vừa nghe vua thành lập một toàn quân đi tiễu trừ, chàng xin nhận việc
chỉ huy. Nhà vua chấp thuận dễ dàng. Đứng đầu đoàn quân chàng mau lẹ dẹp tan cuộc
nổi loạn. Việc đó làm tên tuổi chàng vang khắp vương quốc rộng lớn nhưng lòng
chàng không thay đổi, vẫn hiền lành dễ mến như trước đây.
Đã nhiều năm Aladdin sinh sống
như vậy cho đến lúc lão phù thuỷ kẻ đã vô tình tạo điều kiện cho chàng giàu
sang cao độ, đã trở về châu Phi bỗng nhớ đến chàng. Tuy luôn nghĩ Aladdin đã chết
dưới hầm đất từ khi lão chôn sống chàng, lão cũng muốn biết cụ thể kết cục ra
sao. Vốn giỏi bói toán, lão lấy trong tủ ra một hộp vuông dùng để bói toán. Ngồi
trên ghế xô-pha đặt chiếc hộp mở ra trước mặt, với ý định xem Aladdin có chết
dưới long đất không, lão san bằng cát trong hộp, vẽ hình, tính toán vị trí các
sao theo cách tính tử vi. Quan sát các sao trong tử vi để phán đoán, thay vì thấy
Aladdin chết trong long đất, lão thấy chàng đã ra khỏi đó, sống một cuộc đời cực
kỳ tốt đẹp, rất giàu, chồng một công chúa, được kính trọng, tôn vinh.
Nhờ ma thuật biết được điều
đó xong lão phù thủy bèn nổi giận điên người tự nhủ:
- Thằng con trai thợ may khốn
kiếp đã phát hiện ra bí mật của chlếc đèn thần. Ta tưởng nó chết nhưng nó lại
đang hưởng thành quả công sức và mong ước của ta. Ta thà chết chứ không thể để
nó hưởng thụ lâu hơn nữa.
Không đắn đo gì về việc phải
làm nữa, ngay sang hôm sau lão lên ngựa sẵn có trong chuơng ra đi. Qua thành phố
này đến thành phố khác, tỉnh này đến tỉnh khác, không ngừng lại trừ khi cần thiết
cho ngùa khỏi mệt, lão đến Trung Hoà và vào ngay kinh thành Aladdin đang sống với
con gái nhà vua. Lão xuống ngựa vào một nhà trọ, thuê phòng ở lại qua đêm cho lại
sức.
Hôm sau, trước hết, lão phù
thuỷ châu Phi thăm dò xem người ta nói về Aladdin như thế nào. Đi trong thành
phố lão vào những chỗ thường những người có danh tiếng lui tới, chỗ người ta tập
hợp uống một chén nước nóng lão đã quen lần đến tlước. Vừa ngồi xuống chỗ người
ta mời lão một chén nước. Vùa nhấm nháp lão vừa lắng nghe xung quanh mọi người
nói chuyện về lâu đài Aladdin. Uống xong lão đến gần một trong bọn họ, hỏi về
lâu đài nào mà người ta nói sôi nổi như vậy. Người này nói:
- Ông ở đâu tới thế? Phải mới
đến đây cho nên mới chưa thấy hoặc được nghe nói về lâu đài của phò mã Aladdin
(Người ta gọi chàng như thế từ khi cưới công chúa Badrouthoudour). Tôi chưa nói
với ông đấy là một trong những kỳ quan mà còn chưa từng có một kỳ quan nào trên
đời, to lớn, giàu sang và lộng lẫy đến thế. Chắc ông đến từ xa lắm mới chưa biết.
Từ khi lâu đài ấy xây dựng đến nay người ta chỉ nói về nó. Ông đến xem và sẽ thấy
là tôi không nói sai sự thật.
- Thứ lỗi cho tôi - Lão phù thuỷ
lại nói- Tôi từ tận cùng châu Phi vừa đến hôm qua, lúc tôi đi thì tiếng tăm về
lâu đài chưa tới đó. Đi đường vì công việc gấp, tôi chắng thấy gì khác và không
dừng lại để tìm hiểu, nên không biết điều ông vừa nói. Nóng lòng thoả tính tò
mò, tôl sẽ đi ngay bây giờ, nhờ ông chỉ đường cho.
Người kia sẵn lòng hướng dẫn
lão phù thủy phải đi qua con đường nào. Để thấy lâu đài Aladdin lão phù thuỷ đứng
dậy đi ngay. Đến nơi, lão quan sát các mặt của lâu đài, chắc chắn Aladdin dùng
chiếc đèn dựa vào những nô lệ thần đèn để cho xây dựng những kỳ công như thế.
Căm tức vì Aladdin hạnh phúc và đã trở nên tôn quý không khác gì nhà vua, lão
trở về nhà trọ suy tính kế hoạch.
Phải biết chiếc đèn ở đâu,
Aladdin có mang trong người không hay để một chỗ nào đó và lão phù thuỷ phát hiện
nhờ bói toán. Lão lấy hộp vuông và cát mang theo, vẽ hình tính toán, biết rõ
chlếc đèn để trong lâu đài, lão vui mừng tự nhủ: Ta sẽ lấy lại chiếc đèn, thách
Aladdin ngăn cản được ta và sẽ đẩy nó xuống đến đáy vực vì dám bay cao .
Thật không may cho Aladdin
là chàng vừa đi khỏi lâu đài ba ngày, để săn bắn trong tám ngày. Lão phù thuỷ
sau khi bói toán biết chiếc đèn vẫn ở trong lâu đài, liền đến lân la chuyện trò
với người gác cổng nhà trọ. Lão nói đã thấy lâu đài Aladdin, khuếch trương những
gì kỳ lạ nhất, đã làm mọi người phải ngưỡng mộ:
- Tôi tò mò nhìn ngắm rất kỹ
nhưng chưa thoả mãn vì không thấy ông chủ toà lâu đài tuyệt vời ấy.
- Gặp ông ấy không khó đâu,
hầu như không ngày nào không có dịp nếu ông ở trong thành phố nhưng ông đã đi vắng
ba ngày nay, để dự một cuộc săn bắn tám ngày.
Lão phù thuỷ châu Phi không
muốn biết gì hơn, lão chào người gác cổng về phòng, và tự nhủ: Đúng lúc phải
hành động rồi, không được bỏ lỡ dịp. Lão ra một hiệu làm và bán đèn, bảo:
- Ông chủ, tôi cần một tá
đèn bằng đồng, ông có làm được không?
- Người bán nói hiện còn thiếu
mấy chiếc nếu chịu khó chờ đến ngày mai sẽ có đủ. Lão phù thuỷ đồng ý, dặn dò
phải thật cẩn thận đẹp đẽ lão sẽ trả giá cao và về nhà trọ.
Ngày hôm sau lão đến nhận mười
hai chiếc đèn, trả theo giá người bán đòi hỏi không bớt, bỏ vào chiếc giỏ mang
theo đi về hướng lâu đài Aladdin. Khi lại gần lâu đài lão rao to:
- Ai đổi đèn cũ lấy đèn mới
đây?
Đi trên đường, trẻ con đang
chơi nghe tiếng rao chạy tới đi theo, nhìn lão cho là người điên. Những người
qua đường cười nhạo về trò ngốc nghếch của lão. Ông ấy phải mất trí, - họ nói,
- mới đổi đèn mới lấy đèn cũ .
Lão phù thủy không ngạc
nhiên về đám trẻ con cũng như những gì người ta nói về lão, để đổi hết hàng tiếp
tục rao to:
- Ái muốn đổi đèn cũ lấy đèn
mới nào?
Lão luôn rao như thế, đi đi
lại lại trên quảng trường, trước lâu đài và quanh đó. Công chúa Badroulboudour
đang ở trên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ nghe tiếng người, không phân biệt
rõ vì trẻ con đi theo và người đông ồn ào, bảo một nữ nô lệ gần đấy xuống xem
có việc gì.
Nữ nô lệ chẳng mấy chốc lên
phòng khách cười không dứt khiến công chúa cũng cười theo.
- Này! Đồ điên - Công chúa bảo
- Sao em cười đến thế?
- Thưa công chúa, em không
ngăn được cười khi thấy một người điên, giỏ đèn mới trên tay không bán mà chỉ đổi
lấy đèn cũ. Trẻ con bao quanh rất đông làm ồn lên đấy ạ.
Nghe nói thế một nữ nô lệ
khác nói:
- Về đèn cũ không biết công
chúa có để ý chúng ta có một chiếc đèn cũ để ở gờ tường không? Đổi lấy chiếc
đèn mới cũng hay đấy. Nếu công chúa đồng ý, Người sẽ biết ngay kẻ điên kia có
thật điên không khi cho một chiếc đèn mới lấy chiếc cũ mà không đòi hỏi thêm
gì.
Chiếc đèn người nữ nô lệ nói
đó là chiếc đèn thần Aladdin sử dụng để lên đến mức cao sang hiện nay, trước
khi đi cậu đã đề lên gờ tường sợ đem theo bị mất. Ngoài những buổi đi săn bao
giờ cậu cũng mang trong người mình. Không nô lệ, thái giám nào kể cả công chúa
để ý đến nó khi cậu đi vắng. Việc Aladdin đề phòng như vậy là tốt, nhưng ít nhất
cậu cũng nên cho vào chỗ khoá cẩn thận mới phải. Đây là một trong những sơ suất
mà người ta thường mắc phải.
Công chúa Badroulboudour
không biết chiếc đèn quý giá và Aladdin cũng không nói nó quan trọng đến mức
không được sờ vào và phải giữ gìn rất cẩn mật chiếc đèn nên trong lúc vui đùa
nàng bảo một thái giám lấy đem đi đổi Vâng lời, thái giám đưa đèn ra khỏi lâu
đài, gặp ngay lão phù thuỷ bảo:
Nào, đưa đèn mới đổi chiếc
đèn cũ này đi.
Lão phù thuỷ châu Phi biết
chắc chắn đó là chiếc đèn mình đang tìm. Không thể có cái nào khác như thế
trong lâu đài vì đồ dùng toàn bằng vàng bạc. Lão lấy ngay chiếc đèn tròng tay
người thái giám giắt vào người, đưa giỏ đèn mới cho thái giám chọn một chiếc
đưa về cho công chúa. Trẻ con cười ồ lên, chế nhạo lão già ngu ngốc.
Lão mặc cho trẻ con la hét,
im lặng đi khỏi vùng quanh lâu đài, nghĩa là không rao đổi đèn cũ nữa: không muốn
những đèn khác ngoài chiếc lão đã lấy được. Trẻ con giải tán dần và để lão đi.
Ra khỏi quảng trường giữa
hoàng cung và lâu đài, lão phù thuỷ đi vào những đường vắng người, vứt giỏ đèn ở
một con đường không ai qua lại. Lão sang một con đường khác đi gấp về phía cổng
thành. Ra đến đồng ruộng lão đến một chỗ khuất, đừng lại đó cho đến lúc thấy
phù hợp để thực hiện ý đồ của mình.
Chờ đến một giờ đêm, xung
quanh tối đặc, lão lấy chiếc đèn bọc trong người ra xát mạnh. Thần đèn xuất hiện.
- Người muốn gì? Tôi sản
sàng theo lệnh Người và những người có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của
đèn cũng thế.
- Ta ra lệnh - Lão phù thuỷ
nói - Ngay lúc này thần bưng lâu đài mà thần hoặc những nô lệ khác đã xây dựng
trong thành phố, mang nguyên cả khối và tất cả những người sống ở đó, cùng với
ta nữa sang một nơi ở châu Phi. Không trả lời, thần đèn và nhũng thần nô lệ
khác của đèn mang lão và toàn bộ lâu đài đến một chỗ lão chỉ dẫn,
Nhà vua thức dậy, theo thói
quen vào trong gian phòng trống để thích thú ngắm nhìn và thán phục lâu đài của
Aladdin. Ngài nhìn về phía thường ngắm lâu đài, chỉ thấy một khoảng trống trải
như trước đây chưa xây dựng. Ngỡ mình nhầm, ngài dụi mắt nhưng không thấy gì
hơn lấn trước tuy trời trong xanh, bình minh lên soi sáng mọi vật. Hết sức kinh
ngạc, ngài sững người tại chỗ, nhìn về phía lâu đài trước đây, không thể hiểu
vì sao một lâu đài to lớn, thực tại như lâu đài Aladdin, hàng ngày ngài vẫn thấy
từ khi ngài cho phép xây đựng và vừa mới hôm trước còn đấy, đã biến mất không
còn một dấu vết. Ta không nhầm đâu, - ngài tự nhủ lâu đài vẫn ở đấy. Nếu nó đổ,
nguyên vật liệu phải thành đống ở đấy và nếu bị nhấn chìm trong đất cũng để lại
vài dấu vết!. Dù đã xảy ra việc gì, tuy công nhận lâu đài không còn, ngài vẫn để
chờ ít lâu xem mình có nhầm không. Ngoái lại nhìn phía sau trước khi trở về
phòng mình, ngồi trong phòng tâm trí ngài rối loạn không biết nên làm thế nào,
đành cho gọi quan tể tướng đến thật gấp.
Tể tướng tới vội vã, đến nỗi
cả ông và hầu cận không ai để ý đến lâu đài chẳng còn. Những người gác cổng mở
cửa nhưng cũng không nhận thấy.
Tể tướng hỏi nhà vua:
- Thưa bệ hạ, Người cho gọi
thần gấp nên thần cho là có việc gì khác thường lắm vì Người cũng biết hôm nay
là ngày thiết triều và lát nữa như thường lệ thần phải đến chầu.
- Việc xảy ra là điều rất
khác thường như khanh nói. Ta hỏi khanh, lâu đài của Aladdin đâu rồi?
- Thưa bệ hạ! Thần vừa đi
ngang qua, lâu đài hình như vẫn ở đấy. Những kiến trúc vững chắc như thế không
dễ dàng đổi chỗ được.
- Lên phòng trống ngó xem rồi
xuống nói với ta khanh còn thấy lâu đài ấy không.
Tể tướng lên phòng trống
cũng sửng sốt như nhà vua. Khi chắc chắn lâu đài Aladdin đã biến mất, ở đấy
không còn dấu vết, ông xuống trình điện trước mặt nhà vua.
- Thế nào, khanh có thấy lâu
đài không?- Vua hỏi.
- Thưa bệ hạ, xin nhớ lại thần
đã có vinh dự nói với Người, lâu đài ấy được Người khen ngợi với bao của cải vô
biên chỉ là công trình phù phép của một phù thuỷ nhưng bệ hạ không lưu ý cho.
Nhà vua vốn không chịu nghe
điều tể tướng đã nhắc nhở, nay phải thừa nhận sự nghi ngại của ông ta là đúng.
Ngài liền nổi giận dữ dội. Nhà vuạ quát:
- Tên lừa bịp bỉ ổi ấy đâu để
ta cho chặt đầu?
- Thưa bệ hạ, cách đây mấy
ngày Aladdin tới xin bệ hạ nghỉ đi san, phải cho người đến hỏi xem lâu đài đâu
rồi, hắn phải biết.
- Như vậy quá đại lượng -
Vua lại nói - Ra lệnh cho ba mươi kỵ sĩ trói dẫn hắn về đây cho ta.
Tể tướng đi ban lệnh của vua
cho kỵ sĩ, dặn dò viên chỉ huy cẩn thận không để thoát kẻ có tội. Họ ra đi và gặp
Aladdin cách thành phố năm, sáu dặm. Viên chỉ huy bảo vua nóng lòng mụốn gặp, cử
họ đi đưa tin rồi cùng nhau trở về.
Aladdin không một chút nghi
ngờ về lý do thực sự của việc cử toán cận vệ đi tìm, vừa săn bắn vừa đi về
cung. Nhưng khi cách thành phố nửa dặm, toán kỵ sĩ vây quanh chàng và viên chỉ
huy lên tiếng:
- Phò mã Aladdin, rất tiếc
phải tuyên bố lệnh của nhà vua bắt ông và dẫn về như tội phạm quốc gia. Chúng
tôi đề nghị đừng nghĩ chúng tôi làm nhiệm vụ là sai trái và tha lỗi cho.
Lời tuyên bố ấy làm Aladdin
hết sức ngạc nhiên, hỏi viên chỉ huy mình bị kết tội gì, ông này trả lờị ông và
người của ông không biết gì hết.
Aìaddin thấy người của mình
ít hơn toán quân nhiều tuy họ ở đàng xa, chàng xuống ngựa và nói:
- Tôi đây, các ông cứ làm
theo mệnh lệnh. Tôi chỉ có thể nói mình chẳng phạm một tội gì đối với nhà vua
cũng như đối với quốc gia.
Người ta quàng vào cổ chàng
một dây xích khá to và dài quấn vào quanh người bó cả hai tay. Khi viên chỉ huy
bước lên đi đầu, một kỵ sĩ cầm đầu dây xích, đi bên cạnh chỉ huy dẫn Aladdin phải
đi bộ về thành phố.
Khi đoàn kỵ sĩ vào đến ngoại
ô, những người đầu tiên thấy người ta dắt Aladdin như tội phạm quốc gia, nghĩ rằng
triều đình sẽ chặt đầu chàng. Dân chúng vốn mến mộ chàng, nhiều người cầm gươm
và vũ khí khác, những người không có vũ khí cầm đá, cùng ào theo toán ky sĩ. Chẳng
mấy chốc đám đông dân chúng lấn át cả toán kỵ sĩ, rất may họ có thể về đến
hoàng cung không bị dân chúng cướp mất Aladdin. Họ cẩn thận lúc nói rộng hàng,
lúc khép chặt choán hết bề rộng đường đi. Đến quảng trường hoàng cung tất cả
dân chúng có vũ khí đứng thành một hàng ngang ngoảnh mặt về phía hoàng cung cho
đến khi chỉ huy dẫn Aladdin vào trong hoàng cung và những người gác đóng chặt cửa.
Aladdin bị dẫn đến trước nhà
vua đang đứng chờ trên ban công cùng quạn tể tướng. Vừa thấy chàng ngài ra lệnh
cho đao phủ chờ sẵn ở đấy chặt đầu phạm nhân, không muốn nghe một lời thanh
minh nào.
Đao phủ nắm lấy Aladdin, bỏ
dây xích ở cổ và quanh người, trải trên đất một tấm đa đầy máu những người bị
hành hình, bắt chàng quỳ xuống và bịt mắt chàng. Ông ta rút gươm, lấy đà, múa
gươm lấp lánh ba vòng và chờ lệnh vua để hạ thủ.
Trong lúc đó quan tể tướng
thấy đám đông đân chúng trên quảng trường dồn toán kỵ sĩ vào và trèo lên nhiều
chỗ tường hoàng cung để xông vào. Trước khi vua ra hiệu xử tử, tể tướng vội
ngăn nhà vua lại:
- Thưa bệ hạ, xin Người nghĩ
kỹ về việc sắp làm. Hoàng cung có thể bị phá và mọi chuyện sẽ trở nên nguy hiểm.
- Hoàng cung của ta bị phá?
Kẻ nào có gan như vậy?
- Thưa bệ hạ, xin Người nhìn
vào những bức tường hoàng cung và quảng trường, Người sẽ thấy rõ điều thần nói
là đúng.
Vua thấy kinh thành của mình
náo động mạnh mẽ như thế, vội sợ hãi, ra lệnh ngay cho đao phủ bỏ gươm xuống, bỏ
vải bịt mắt và để Aladdin được tự do. Ngài cũng ra lệnh cho quân cận vệ hô lớn
nhà vua đã gia ân cho Aladdin và mọi người lui ra ngoài.
Những người đã trèo lên tường
hoàng cung thấy như vậy, từ bỏ ý đồ tấn công. Họ nhảy xuống vui mừng vì đã cứu
được người họ thực sự yêu mến, và thông báo điều đó với những người vây quanh.
Tin được truyền đến dân chúng ở quảng trường cùng tiếng loan báo của quân thị vệ
được loa báo rộng. Vua vừa trả tự do cho Aladdin làm nguôi dân chúng, việc náo
động chấm đứt và rồi ai về nhà nấy.
Aladdin được cởi trói, ngẩng
đầu nhìn lên nhà vua cao giọng với thái độ xúc động:
- Thưa bệ hạ con khẩn cầu Người
gia ân cho them một điều là cho biết con phạm tội gì?
- Tội gì à, kẻ phản trắc?
Ngươi không biết sao? – Vua nói - Lên đây và ta cho ngươi biết rõ.
Aladdin đi lên.
- Đi theo ta - Vua bảo và
quay lưng đi trước không nhìn đến chàng. Ngài dẫn chàng đến cửa sổ gian phòng
trống: - Vào đi, ngươì phải biết lâu đài của ngươi ở đâu, nhìn mọi phía và cho
ta biết nó ra sao rồi.
Aladdin nhìn không thấy gì.
Chàng nhìn khắp vùng đất đã xây dựng lâu đài, không đoán được vì sao nó biến mất.
Tình huống khác thường và kỳ lạ này làm chàng lung túng, ngạc nhiên hết sức
không thể trả lời nhà vua một lời. Nhà vua sốt ruột nhắc lại:
- Ngươi hãy nói lâu đài của
ngươi ở đâu, con gái ta ở đâu?
Aladdin lên tiếng nói:
- Thưa bệ hạ, con thấy rõ,
xin thú thực, lâu đài con cho xây dựng không còn ở chỗ cũ; con thấy nó đã biến
mất và cũng không thể nói nó ở đâu nhưng con cam đoan với bệ hạ con không làm
gì trong hiện tượng này.
- Ta không cần biết lâu đài
của ngươi ra sao rồi. Ta lo về con gái ta hàng triệu lần hơn. Ta muốn ngươi tìm
lại cho được con ta, nếu không ta chặt đầu ngươi không gì cản trở ta được.
- Thưa bệ hạ - Aladdin lại
nói - Con cầu xin bệ hạ cho con bốn mươi ngày để cấp tốc đi tìm. Nếu trong thời
gian ấy con không tìm được con xin hứa sẽ đưa đầu mình đến trước chân Người.
Người muốn làm gì con cũng thoả lòng.
- Ta cho ngươi bốn mươi ngày
theo yêu cầu nhưng đừng lạm dụng sự gia ân của ta, đừng hy vọng thoát khỏi cơn
giận dữ của ta. Bất cứ ngươi trốn chỗ nào trên mặt đất ta cũng tìm được ngươi.
Aladdin rút lui, rất nhục
nhã trong tình trạng đáng thương. Chàng qua các sân hoàng cung đầu cúi xuống,
không dám ngẩng mặt nhìn, những võ quan trong sân quay lưng lại nên không thấy
chàng và chàng cũng không muốn gặp họ nữa. Nhưng nếu họ lại gần để an ủi hoặc
giúp đỡ, họ sẽ không nhận ra Aladdin nữa: bản thân chàng cũng không nhận ra
mình, không còn tỉnh táo gì nữa. Điều ấy thể hiện rất rõ khi ra khỏi hoàng
cung, không nghĩ đến việc mình làm, chàng đi gõ cửa từng nhà và hỏi những người
gặp trên đường có thấy lâu đài của chàng ở đâu không hoặc có biết tin gì về nó
không.
Những lời hỏi đó làm mọi người
nghĩ Aladdin mất trí. Một số chỉ cười nhưng những người biết điều hơn đặc biệt
những người có quan hệ bạn bè hoặc buôn bán với cậu thực sự thông cảm. Chàng ở
trong thành phố ba ngày, lúc chỗ này lúc ehỗ khác, chỉ ăn khi người ta mang cho
và không biết làm gì khác.
Cuối cùng không thể sống
trong tình trạng khốn khổ như vậy trong thành phố trước đây mệnh danh giá thế,
chàng ra khỏi thành phố đi về đồng ruộng, qua nhiều cánh đồng với tình trạng
không ổn định khổ sở và đến tối thì nghĩ tới một bờ sông. Chàng tuyệt vọng: Ta
tìm lâu đài ở đâu bây giờ? Đến tỉnh nào, nước nào, phần đất thế giới nào để tìm
ra nó và công chúa thân yêu của ta? Không bao giờ có kết quả được, phải giải
thoát bao mệt nhọc và buồn tủi đang hành hạ ta thì hơn . Chàng sắp nhảy xuống
song nhưng nghĩ là một người Hồi giáo trung thành, phải rửa tay trước khi chết.
Chàng lại bờ sông rửa mặt, rửa tay theo tập quán. Chỗ này hơi dốc và ẩm ướt,chàng
trượt chân và rơi xuống sông nếu không kịp bám vào một hòn đá gần chỗ đứng. May
mắn cho chàng đang đeo chiếc nhẫn lão phù thuỷ đưa cho lúc xuống hầm ngài lấy
chiếc đèn thần. Để giữ mình ,khỏi rơi xuống sông, chàng Xát mạnh chiếc nhẫn vào
đá Ngay lúc ấy thần nhẫn đã xuất hiện trước đây dưới hang lại có mặt, hỏi
chàng:
- Người muốn gì? Tôi sẵn
sàng vâng lệnh Người như kẻ nô lệ của Người và tất cả những ai đeo nhẫn trên
tay, tôi và những nô lệ khác của nhẫn đều thế.
Aladđin phấn khởi vì sự xuất
hiện bất ngờ trong tình thế tuyệt vọng của mình, trả lời:
- Thần nhẫn cứu tôi một lần
nữa bằng cách cho biết lâu đài tôi xây dựng ở đâu và đưa nó về lại chỗ cũ cho
tôi.
- Điều Người yêu cầu - Thần
nhẫn nói - Không thuộc phạm vi của tôi, Người phải đề nghị với thần đèn.
- Nếu vậy, theo quyền lực của
nhẫn, ta ra lệnh thần mang tôi đến chỗ lâu đài, bất cứ ở đâu trên quả đất, và đặt
tôi dưới cửa sổ công chúa Badroulboudour.
Aladđin vừa dứt lời, thần nhẫn
ôm lấy chàng đưa sang châu Phi giữa một bãi cỏ có lâu đài, không xạ một thành
phố lớn và đặt chàng đứng dưới cửa sổ căn phòng công chúa. Mọi việc đó chỉ xảy
ra trong giây lát.
Mặc dù đêm tối, Aladdin nhận
rõ lâu đài của mình và phòng công chúa Badroulboudour. Đêm đã khuya, chàng lui
ra một đoạn, đến ngồi dưới gốc một cây to. Chứa chan hy vọng nghĩ về hạnh phúc
của mình nhờ một sự tình cờ, cậu cảm thấy bình tâm lại sau khi bị bắt, dẫn tới
trước nhà vua và được trả tự do với nguy cơ mất mạng sống. Suy nghĩ một lúc về
triển vọng tốt đẹp, qua, năm sáu ngày không ngủ, chàng không cưỡng đựợc giấc ngủ
vì mỏi mệt, chàng thiếp đi dưới gốc cây.
Hôm sau bình minh vừa lên
Aladdin thoải mái tỉnh giấc vì tiếng hót của chim trên cây chàng nằm ngủ đứới gốc
và những cây rậm rạp quanh lâu đài. Chàng nhìn ngay về phía lâu đài tráng lệ, cảm
thấy vui mừng không tả nổi vì sắp trở lại là ngựời chủ và một lần nữa có công
chúa bên mình. Trong lúc chờ đợi, chàng suy nghĩ do đâu xảy ra tai hoạ và nhớ
ra đã bỏ lại chiếc đèn ở nhà lúc đi săn. Điều làm cậu bối rối hơn là không hình
dung ra ai là kẻ ghen tức với hạnh phúc của chàng. Trước hết chàng hiểu ra cậu
và lâu đài đang ở châu Phi gợi lên trong trí chàng về lão phù thuỷ châu Phi, kẻ
thù cố hữu của chàng.
Công chúa Badroulboudour từ
khi bị bắt cóc đưa sang châu Phi ngủ dậy sớm hơn thường lệ. Cho đến nay nàng buộc
phải mỗi ngày gặp lão phù thuỷ một lần nhưng mỗi lần nàng đối xử rất nghiêm khắc
nên lão chưa dám liều ở lại Nàng mặc quần áo xong thì một thị nữ nhìn qua mành
cửa, trông thấy Aladdin, chạy đi báo tin với chủ. Công chúa không thể tin vào
điều ấy, chạy tới cửa sổ và nhận ra chồng mình. Nàng kéo mạnh cửa. Nghe tiếng động
Aladdin ngẩng đầu lên, thấy công chúa và vui mừng khôn xiết chào nàng. Công
chúa bảo:
- Để khỏi mất thì giờ, thị nữ
sẽ mở cánh cửa bí mật chàng vào và lên đi.
Cánh cửa bí mật phía dưới
phòng công chúa được mở ra, Aladdin lên phòng công chúa. Không thể tả hết nỗi
vui mừng hai vợ chồng gặp lại nhau khi đã tưởng phải xa cách nhau vĩnh viễn. Họ
ôm hôn nhau nhiều lần, thể hiện với nhau tình yêu và trìu mến sau cuộc chia cắt
đáng buồn và bất ngờ của. họ. Sau những vồn vã thắm đượm nước mắt vui mừng, họ
ngồi lại với nhau và Aladdin lên tiếng trước:
- Công chúa, trước khi kể mọi
chuyện, ta khẩn cầu vì quyền lợi của chính nàng, của phụ hoàng kính mến và của
riêng ta, nàng cho biết chiếc đèn cũ trước khi đi săn ta để ở gờ tường bây giờ
ra sao rồi?
- Chà? Chàng thân yêu - Công
chúa trả lời- Thiếp đã ngờ tai hoạ của chúng ta đến từ chiếc đèn và thiếp rất
buồn lại chính do thiếp gây ra.
- Công chúa, nàng đừng nhận
lỗi về mình, tất cả là do ta, đáng lẽ phải giữ gìn nó cẩn thận hớn. Chúng ta chỉ
nên nghĩ cách sửa chữa sự mất mát ấy, muốn thế nàng làm ơn kể lại sự việc xảy
ra thế nào và đèn mất vào tay ai?
Công chúa Badroulboudour kể
lại việc đổi chiếc đèn cũ lấy đèn mới và đêm sau đó nàng nhận thấy lâu đài bị
chuyển đi. Sáng dậy thấy mình ở một đất nước xa lạ này, được biết từ miệng tên
phản trắc là đang ở châu Phi và bị mang tới do bùa phép.
- Công chúa - Aladdin ngắt lời
- Nàng đã cho ta biết tên phản trắc. Hắn là kẻ xảo trá nhất thiên hạ nhưng
không phải lúc kể lại với nàng nhiều hơn về sự độc địa của hắn. Chỉ xin nàng
nói hắn đã làm gì với chiếc đèn và để nó ở đâu?
- Hắn bọc chiếc đèn rất kỹ bỏ
trong người, em đã chứng kiến hắn lấy ra khoe với em như một kỳ công.
- Công chúa của ta, đừng giận
vì ta yêu cầu nhiều điều làm nàng mệt mỏi. Những điều đó rất quan trọng đối với
nàng và với ta, Để đi tới việc ta đặc biệt quan tâm, xin nàng nói rõ nàng thấy
cách đối xử của một kẻ gian ác, xảo trá ấy hàng ngày ra sao?
- Từ khi thiếp đến đây, mỗi
ngày hắn đến gặp thiếp một lần và chắc rằng không được thoả mãn vì những cuộc
viếng thăm nên hắn ít quấy rối thiếp thường xuyên. Mọi câu chuyện hắn nói với
thiếp nhằm làm mất lòng tin của thiếp đối với chàng và lấy hắn làm chồng, muốn
làm cho thiếp không hy vọng gặp lại chàng, rằng chàng đã bị phụ hoàng chặt đầu
chết rồi. Hắn còn giải thích thêm rằng chàng là một kẻ vô ơn, mọi của cải của
chàng do hắn mà có và hang nghìn điều nữa nhưng em cứ mặc hắn nói. Do thiếp chỉ
đáp lại bằng những kêu van khổ sở và nước mắt, hắn buộc phải rút lui không hài
lòng như khi mới đến. Tuy thế thiếp chắc hắn có ý định chờ những đau khổ qua đi
thiếp sẽ thay đổi tình cảm và cuối cùng nếu thiếp kiên trì chống đối hắn sẽ
dùng sức mạnh. Bây giờ, chàng thân yêu, có mặt chàng em không còn lo ngại nữa.
- Công chúa - Aladdin ngắt lời
nàng - Ta tin tưởng những lo ngại của nàng mất đi không vô ích, ta nghĩ đã tìm
được cách giải thoát nàng khỏi tay kẻ thù.
Muốn thế ta phải ra phố, buổi
trưa trở lại đây, sẽ trao đổi với nàng ý đồ như thế nào và nàng phải làm gì để
góp phần thành công. Xin báo trước với nàng đừng ngạc nhlên khi ta mặc quần áo
khác và nàng nhớ lệnh cho người chờ ta ở cửa bí mật, mở ngay khi ta gõ lần đầu.
Công chúa hứa sẽ có người chờ
ở cửa và mở cửa ngay.
Khi Aladdin vẫn theo cánh cửa
bí mật ấy ra ngoài, nhìn bốn phía thấy một nông dân đang đi về đường làng. Người
nông dân đi ngược phía lâu đài và lúc đã xa, chàng bước vội cho kịp, đề nghị đổi
bộ quần áo đang mặc chàng nói khéo nên người nông dân đồng ý.
Việc thay đổi quần áo tiến
hành sau bụi rậm và chia tay nhau Aladdin đi vào thành phố. Qua cổng thành,
chàng đến những đường phố sầm uất, vào một cửa hàng, hỏi mua một loại bột mê.
Người bán nhìn vào quần áo nghĩ chàng nghèo, nói có loại ấy nhưng rất đắt. Aladdin
biết ý nghĩ của chủ hàng, liền rút túi tiền ra để lộ vàng, bảo bán cho nửa đồng
cân. Người bán gói bọt mê lại đưa cho chàng, đòi giá một đồng vàng. Aladdin cầm
gói bột trả tiền, dừng lại trong thành phố một lát để ăn uống rồi trở lại lâu
đài. Cửa bí mật mở ngay không làm chàng phải chờ, chàng bước thẳng lên phòng
công chúa Badrouthoudour. Chàng nói với công chúa:
- Nàng đã thể hiện sự ghê tởm
đối với kẻ cướp đoạt, có lẽ nàng sẵn sàng làm theo lời ta khuyên. Cho phép ta
nói với nàng đã đến lúc cần giấu kín ý nghĩ mình, thậm chí phải dùng bạo lực nếu
nàng muốn thoát khỏi sự hành hạ của kẻ thù và làm phụ vương hài lòng được gặp lại
nàng. Nếu nghe theo lời ta, ngay từ bây giờ nàng hãy mặc bộ quần áo đẹp nhất và
khi lão phù thuỷ đến thăm nàng nên tiếp đón hết sức tử tế, thật tự nhiên, nét mặt
cởi mở, bởi nếu còn vài nét ưu tư hắn cũng nhận thấy hắn sẽ làm cho tất cả cùng
biến mất đi vĩnh viễn. Trong lúc trò chuyện nàng cho hắn biết nàng sẽ cố gắng để
quên ta đi hãy làm hắn tin chắc nàng thực lòng. Nàng mời hắn ở lại ăn khuya với
nàng,và bảo nàng muốn uống loại rượu tốt nhất trong nước. Hắn nhất định sẽ đi
kiếm rượu. Trong lúc chờ hắn trở lại, khi bữa ăn đã chuẩn bị xong, nàng bỏ loại
bột này vào một chiếc cốc nàng vẫn thường dùng uống để riêng ra, báo trước với
thị nữ phục vụ rượu chú ý đừng nhầm lẫn. Lão phù thuỷ trở lại và cùng ngồi vào
bàn ăn, sau khi ăn uống một lúc, thấy thích hợp, nàng ra hiệu đưa cốc rượu có bột
ra và đổi cốc của nàng với cốc của hắn. Hắn sẽ thấy tình cảm ưu ái của nàng quá
lớn nên không từ chối, sẽ uống cạn cốc rượu và ngã vật ra ngay. Nếu nàng ghê tởm
uống vào cốc của hắn thì chỉ giả vờ uống, nàng đừng ngại. Tác động của loại bột
rất nhanh chóng, hắn không đủ thì giờ nghĩ xem nàng có uống hay không uống.
- Thiếp thú nhận với chàng
làm như thế đối với lão phù thuỷ là em đã dùng bạo lực. Nhưng đối với một kẻ
thù độc ác thì có giải pháp nào ta không làm được? Thlếp sẽ làm như chàng
khuyên vì sự yên bình của thiếp cũng như của chàng.
Dặn đò công chúa xong, Aladdin
tạm biệt nàng ra vùng gần lâu đài chờ đến tối lại gần cánh cửa bí mật. Công
chúa Bađdoulboudour buồn khôn nguôi không chỉ vì phải xa Aladdin, người chồng
nàng đã yêu thực sự mà còn vì phụ hoàng thân yêu vốn yêu thương trìu mến nàng hết
mực, từ lúc xa cách đau đớn này nàng không chăm sóc được. Có thể nói nàng đã
quên cả việc trang điểm theo bản tính. Đặc biệt khi lão phù thuỷ đến gặp nàng lần
đầu, được thị nữ cho biết chính hắn là người rao đổi chiếc đèn, nàng ghê sợ về
sự lừa lọc nguy hại ấy. Cơ hội trả thù đáng giá này nàng chưa từng đám hy vọng
khiến nàng càng quyết tâm nghe theo lời Aladdin. Nên khi chàng đã rút đi, nàng
tắm rửa bảo thị nữ mặc quần áo cho nàng, chọn bộ sang trọng và phù hợp nhất,
kèm với thắt lưng là chiếc vòng mười ba viên ngọc trai, mỗi bên cân đối sáu
viên, viên giữa to nhất và quý nhất mà những hoàng hậu, công nương sung sướng
có được một bộ đầy đủ độ lớn chỉ bằng hai viên nhỏ nhất của công chúa. Những
vòng tay lẫn lộn kim cương và hồng ngọc phù hợp tuyệt vời với chiếc thắt lưng
và chiếc vòng giàu có.
Mặc quần áo đầy đủ xong,
công chúa Badroulboudour soi gương bảo các thị nữ ngắm sửa sang và khi đã thấy
không còn thiếu vẻ đẹp nào có thể ìàm say mê lão phù thuỷ châu Phi, nàng ngồi
trên ghế xô-pha chờ lão tới.
Lão phù thuỷ không quên đến
theo giờ thường lệ. Khi công chúa thấy lão bước vào phòng khách hai mươi bốn cửa
sổ, nơi nàng đang ngồi chờ, nàng liền đứng dậy với mọi vẻ đẹp và duyên dáng,
giơ tay chỉ chỗ danh dự và chờ lão cùng ngồi một lần, cử chỉ giao tiếp đặc biệt
chưa bao giờ nàng đối xử với lão.
Lão phù thuỷ choáng ngợp về
ánh mắt đẹp của công chúa hơn là màu sắc lóng lánh của đá quý nàng trang điểm,
và hết sức ngạc nhiên. Phong thái oai nghiêm và nét duyên dáng nàng đón tiếp
trái ngược với những lần đón tiếp từ trước tới nay làm lão bối rối. Lúc đầu lão
muốn ngồi trên thành ghế xô-phạ nhưng thấy công chúa không muốn ngồi vào chỗ của
mình nếu lão không ngồi vào chỗ nàng mời nên lão vâng theo.
Khi lão phù thuỷ châu Phi đã
ngồi xuống, để lão khỏi lúng túng như nàng thấy, nàng lên tiếng với cách nhìn
làm lão nghĩ mình không còn ghê tởm như trước đây nàng tỏ ra với lão. Nàng nói:
- Ông ngạc nhiên thấy tôi
khác hẳn như đã thấy tôi cho đến nay, nhưng sẽ không lạ gì nữa khi tôi nói với
ông tính tình của tôi trái ngược với sự buồn rầu, chán nản, với những lo buồn
mà tôi tìm cách rũ bỏ từ khi tôi thấy vấn đề đã qua đi. Tôi suy nghĩ điều ông
nói về số phận của Aladdin, tôi biết tính phụ hoàng, chắc chắn chàng không
thoát khỏi sự giận dữ của Người. Do vậy dù có than khóc suốt dời tôi cũng không
làm chàng sống lại được. Vì thế sau khi đã làm trọn nhiệm vụ với chàng, kể cả
cho đến lúc chàng xuống mồ, tôi thấy phải tìm mọi cách để khuây khoả. Đó là những
lý do ông thấy tôi thay đổi. Để bắt đầu rũ bỏ mọi chuyện phiền muộn, nhất định
rũ bỏ đi hoàn toàn và tin chắc ông muốn làm bạn với tôi, tôi đã bảo chuẩn bị một
bữa khuya chúng ta cùng ăn uống với nhau. Nhưng tôi chỉ có rượu Trung Quốc mà
đang ở châu Phi, tôi muốn thử nếm rượu ở đây làm ra và tôi nghĩ, nếu có, ông sẽ
tìm được loại tốt nhất.
Lão phù thuỷ châu Phi không
nghĩ hạnh phúc có thể đến mau lẹ và dễ dàng được công chúa Badroulboudour gia
ân cho như thế, lão giãi bày rằng không có đủ lời để nói lên sự cảm động của
lòng mình trước lòng tốt của công chúa. Lão nói đến rượu châu Phi công chúa vừa
gợi ra, ca tụng trong những thế mạnh châu Phi có thể tự hào, việc sản xuất rượu
ngon là một trong những mặt chính đặc biệt trong vùng này có loại bảy năm chưa
đùng đến và không đánh giá quá đáng, là loại rượu vượt hẳn những rượu ngón nhất
trên thế giới. Lão nói thêm:
- Nếu công chúa cho phép,
tôi sẽ đi kiếm hai chai và trở lại ngay.
Tôi không muốn làm phiền ông
việc ấy, có lẽ cử một người nào đó đi thì hơn.
- Tôi cần thiết phải tự mình
đi. Không ai ngoài tôi biết chủ hiệu ở đâu và mở được chỗ chứa bí mật.
- Nếu thế - Công chúa nói -
Ông cứ đi và chóng trở lại. Càng lâu tôi càng nóng lòng gặp lại ông và nên nhớ
chúng ta ăn cùng nhau ngay khi ông trở về.
Lão phù thuỷ tràn đầy hy vọng,
không phải chạy mà đúng hơn là bay đi lấy rượu bảy năm và nhanh chóng trở về
Công chúa chắc lão sẽ vội vã, tự mình bỏ loại bột Aladdin đưa cho vào một chiếc
cốc để riêng. Họ ngồi đối diện nhau ở bàn ăn, lão phù thuỷ quay lưng về phía tủ
buýp-phê. Công chúa nói:
- Nếu ông muốn, tôi sẽ cho
biểu diễn ca nhạc nhưng chỉ ông và tôi với nhau, tôi nghĩ chúng ta nói chuyện
thích thú hơn.
Lão thấy việc chọn lựa ấy của
công chúa lại là một ân huệ mới.
Sau khi ăn một lúc, công
chúa đòi uống. Nàng chúc sức khoẻ lão phù thuỷ mà uống xong nàng nói:
- Ông đúng thật khi ca tụng
rượu của các ông, tôi chưa bao giờ uống loại rượu ngon đến thế.
- Công chúa xinh đẹp - Lão vừa
nói vừa cầm lên chiếc cốc người ta đưa - Rượu chúng tôi nhận được một vị ngọt mới
vì công chúa đã khen.
- Hãy uống chúc sức khoẻ
tôi, ông sẽ thấy tôi cũng biết thưởng thức rượu.
Lão uống chúc sức khoẻ công
chúa và nhìn vào cốc rượu nói:
- Thưa công chúa, tôi rất
sung sướng đã đánh loại rượu này vào một dịp tốt như thế, tôi tự thú nhận trong
đời chưa bao giờ uống loại rượu ngon đến vậy và trong trường hợp vui vẻ như bây
giờ.
Họ tiếp tục ăn và uống ba lần
nữa, công chúa bằng sự chiều chuộng làm lão phù thuỷ say mê, ra hiệu cho thị nữ
rót rượu đầy cốc cho mình và cũng rót vào cốc của lão phù thuỷ. Khi mỗi người đã
cầm một cốc rượu, công chúa nói với lão:
- Tôi không biết ở nước ông
khi ngườị ta yêu nhau người ta uống rượu với nhau như thế nào? ớ Trung Quốc
chúng tôi, trai gái yêu nhau đổi cốc cho nhau và uống chúc sức khoẻ nhau.
Đồng thời nàng đưa cốc rượu
nàng đang cầm và giơ tay kia nhận cốc rượu của lão.
Lão phù thuỷ vội vã đổi cốc,
vui vẻ nhìn nhận việc này là biểu hiện chắc chắn nhất đã chinh phục được trái
tim công chúa nên thấy hạnh phúc tột độ. Trước khi uống lão cầm cốc rượu trên
tay nói:
- Thưa công chúa, người châu
Phi chúng tôi cũng tinh tế trong nghệ thuật yêu đương với mọi khía cạnh của nó,
học được cách này tôi cũng phải thể hiện để biết nhạy cảm với ân huệ tôi được
đón nhận. Công chúa đáng mến, không bao giờ tôi quên, khi uống cốc rượu của
nàng, đã tìm lại được cuộc sống mà sự lạnh nhạt của nàng làm mất hết hy vọng.
Công chúa Badroulboudour
chán ngấy lời nói bất tận của lão phù thuỷ, liền ngắt lời lão:
- Chúng ta uống đi, sau đó
ông nói tiếp với tôi.
Nàng đưa cốc rượu lên miệng
chỉ đụng vào môi trong lúc lão phù thuỷ vội vàng tỏ cho nàng thấy lão thành tâm
uống một hơi không để lại giọt nào. Lão ngả đầu về phía sau uống cạn cốc rượu,
cho chóng hết. Lão đứng một lúc như thế rồi công chúa thấy đôi mắt đảo ngược,
lão ngã đập lưng xuống bất tỉnh.
Công chúa không cần bảo đi mở
cửa bí mật cho Aladdin. Thị nữ đã được bố trí đúng cách nhau từng đoàn từ phòng
khách đến dưới cầu thang nên lão phù thuỷ vừa ngã xuống thì cánh cửa vừa mở.
Aladdin bước vào, lên phòng
khách. Thấy lão phù thuỷ nằm ngửa trên ghế xô-pha, chàng ngăn công chúa vừa đứng
lên, mừng rỡ đến ôm hôn mình:
- Công chúa - Chàng nói -
Chưa phải lúc này, ta buộc phải đề nghị công chúa hãy đi về phòng, bảo mọi người
để ta ở lại một mình để làm việc đưa nàng trở về Trung Quốc cũng nhanh như khi
đến.
Khi công chúa đã ra ngoài
cùng các thị nữ và thái giám, Aladdin đóng cửa, lại gần xác lão phù thuỷ mở rộng
áo lấy chiếc đèn bọc kín trong đó như công chúa bảo. Cậu xát mạnh vào đèn, thần
đèn xuất hiện nói như thường lệ. Aladdin bảo:
- Thần đèn, tôi gọi thần để
ra lệnh nhân danh cây đèn, chủ nhân của thần, đưa ngay lâu đài này trở lại
Trung Hoa đặt vào đúng chỗ, đúng vùng đã bị mang đi.
Thần gật đầu vâng lệnh rồi
biến đi. Việc chuyển dịch lâu đài chỉ trong một thời gian rất ngắn, người ta chỉ
cảm thấy hai chấn động rất nhẹ, một nhấc lên ở châu Phi và một đặt xuống ở
Trung Hoa đối điện với hoàng cung như trước.
Aladdin xuống phòng công
chúa, lúc ấy mới ôm hôn nàng:
- Công chúa - Chàng nói - Ta
có thể đảm bảo niềm vui của nàng và của ta sẽ trọn vẹn vào sáng mai.
- Công chúa chưa ăn khuya
xong và Aladdin cũng cần ăn, nàng cho đưa thức ăn đã chuẩn bị nhưng chưa đụng tới
lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ. Hai người ngồi ăn với nhau, uống loại rượu
của lão phù thuỷ, thoả mãn hàn huyên rồi đi về phòng ngủ.
Từ khi lâu đài và công chúa
Badroulboudour bị bốc đi, vua cha buồn bã không nguôi, cho rằng con mình đã mất.
Hầu như đêm ngày ông cũng không ngủ và thay vì tránh nhắc tới những điều có thể
làm mình buồn, ông lại càng hay tìm đến hơn. Trước đây chỉ buổi sáng ông mới lên
gian phòng trống để ngắm không chán lâu đài, nay ông lên đấy nhiều lần mỗi
ngày, khóc than, đắm sâu hơn và đau khổ với ý nghĩ không thấy điều mình thích nữa
và mất đi người ông thân thiết nhất trên đời. Trời vừa sáng nhà vua lên căn
phòng bỏ trống cùng ngày lâu đài Aladdin vủa được mang trở lại. Vào phòng trong
lòng đau khổ, ông buồn bã nhìn về chỗ quen thuộc nghĩ vẫn trống không. Thấy
không còn chỗ trống, lúc đầu ông cho vì sương mù nhưng nhìn kỹ hơn ông thấy
đúng là lâu đài của Aladdin. Niềm vui và lòng phấn khởi thay cho buồn rầu. Ông
vội vã trở về phòng mình, ra lệnh thắng một con ngựa đi ngay sang lâu đài
Aladdin.
Aladdin dự kiến những việc
có thể xảy ra, dậy từ bình minh và sau khi mặc một bộ quần áo đẹp nhất, lên
phòng khách hai mươi bốn cửa sổ thì thấy nhà vua đang đi đến. Chàng xuông nhà,
vừa đúng lúc để đón vua ở cuối bậc thang, giúp ông xuống ngựa. Vua bảo:
- Aladdin, ta chỉ có thể nói
chuyện với anh sau khi gặp và hôn con gái ta.
Aladdin đưa nhà vua lên
phòng công chúa Badroulboudour. Nàng lúc dậy đã được Aladdin báo là không còn ở
châu Phi nữa mà đang ở Trung Hoa, trong kinh thành, trước mặt hoàng cung. Nàng
vừa mặc quần áo xong thì vua cha vào, nước mắt dàn dụa ôm hôn nàng nhiều lần.
Công chúa vô cùng vui sướng được gặp lại cha mình.
Vua không thể mở miệng nói
ngay vì khóc và nghĩ con gái đã bị mất hẳn còn công chúa khóc vì vui sướng được
trở về bên cạnh vua cha.
Cuối cùng nhà vua nói:
- Con gái, ta nghĩ niềm vui
gặp lại ta làm con có vẻ ít thay đổi như đã không gặp điều gì xấu. Tuy vậy ta
biết con đã đau khổ nhiều. Bị mang đi trong cả một lâu đài, gấp gáp như vậy hẳn
phải rất lo sợ. Ta muốn con kể lại sự việc ra sao và đừng giấu ta điều gì.
Công chúa vui sướng trả lời:
- Thưa bệ hạ, nếu con ít
thay đổi, xin bệ hạ biết cho là con mới bắt đầu thở được từ sáng hôm qua khi có
mặt Aladdin, ngườí chồng thân yêu đã giải phóng cho con, người mà con tưởng đã
mất đi cùng hạnh phúc, được ôm hôn chàng con hồi phục được sắc thái như trước.
Thực ra mọi khổ cực của con
là bị tách khỏi bệ hạ và chồng thân yêu của con, không chỉ riêng về tình nghĩa
vợ chồng mà còn mối lo chàng bị bệ hạ nóng giận xử oan. Con đau khổ ít hơn vì
tên cướp đoạt với những lời nói trái tai của hắn nhưng con biết cách ngăn chặn
hắn. Về việc con bị bắt cóc Aladdin không biết gì hết: chính vì con đã rất vô
tư.
Để vua cha tin nàng kể lại tỷ
mỷ chuyện tên phù thuỷ trá hình làm người bán đèn rao đổi đèn mới lấy đèn cũ và
để vui đùa nàng cho đưa xuống đổi chiếc đèn của Aladdin mà nàng không biết nó
là vật linh thiêng liên quan tới việc di chuyển lâu đài sang châu Phi. Sau khi
đổi đèn, nhận ra tên phù thuỷ xảo trá lúc hắn đến gặp và tán tỉnh lấy nàng làm
vợ, nàng thực sự đau đớn về tâm trí cho đến khi Aladdin đến. Rồi họ bày mưu để
lấy lạI chiếc đèn thần bằng cách nàng phẩi giả vờ thân thiện, mời hắn ăn khuya
và đầu độc hắn. Phần còn lại, nàng nói để Aladdin kể tiếp.
Aladdin kể nốt đoạn cuối cho
nhà vua:
- Thưa bệ hạ, khi người ta mở
cửa bí mật, con lên phòng khách thấy tên phản trắc đã nằm chết trên ghế vì uống
phải thuốc độc. Để công chúa ở lại không tiện, con bảo công chúa về phòng cùng
thị nữ. Còn một mình, con lấy chiếc đèn trong người lão phù thuỷ ra, bí mật ra
lệnh như hắn đã làm để di chuyển toà lâu đài. Con đưa lâu đài về đúng chỗ cũ, dẫn
công chúa về với bệ hạ như Người đã ra lệnh. Con không dám giấu giếm gì bệ hạ,
xin Người lên phòng khách sẽ thấy tên phù thuỷ đã bị trừng phạt thật đúng tội.
Để tin được tất cả là sự thật,
nhà vua đứng dậy đi lên tầng trên và khi thấy lão phù thuỷ châu Phi đã chết mặt
trắng bệch vì thuốc độc. Ngài trìu mến ôm hôn Aladdin và nói:
- Phò mã, đừng trách ta về
cách xử sự đối với con, tình cảm cha con buộc ta phải thế và ta đáng được con
tha lỗi vì đã làm quá với con.
- Thưa bệ hạ, con không hề
dám phàn nàn về cách đối xử của bệ hạ, Người chỉ làm việc cần phải làm. Tên phù
thuỷ, bất nhân, kẻ tệ hậi nhất trong thiên hạ là nguyên nhân độc nhất về sự bất
hạnh của con. Khi bệ hạ rảnh con sẽ kể một thủ đoạn khác hắn đã làm đối với
con, không kém đen tối như việc vừa rồi mà nhờ Trời con thoát được.
- Ta sẽ dành một buổi rảnh
rang sau này. Bây giờ chúng ta vui mừng hàn huyên đã và cho đưa vật bẩn thỉu
này đi.
Aladdin ra lệnh lấy xác lão
phù thuỷ châu Phi vứt vào đống rác làm mồi cho chim và thú vật. Nhà vua cho nổi
trống kèn và các nhạc cụ khác, tổ chức lễ hội trong mười ngày mừng công chúa,
Aladdin và toà lâu đài đã trở về.
Như vậy là Aladdin lần thứ
hai thoát khỏi cái chết hầu như không tránh khỏi, nhưng không phải đã hết,
chàng còn phải trải qua nguy hiểm thứ ba nữa.
Lão phù thuỷ châu Phi có một
người em không kém lão về bùa phép phù thuỷ, có thể nói còn hơn lão về độc ác
và mưu mẹo. Hai anh em không luôn chung với nhau ngay cả trong cùng một thành
phố, thường một người ở đầu mặt trời mọc thì người kia ở đầu mặt trời lặn nhưng
hàng năm qua bói toán họ vẫn biết tin tức của nhau, tình trạng thế nào, có cần
giúp đỡ nhau không.
Ít lâu sau khi lão phù thuỷ
bị thảm bại vì việc quấy rối hạnh phúc của Aladdin, em lão không ở châu Phi mà ở
tại một đất nước rất xa, qua một năm không được tin và muốn biết anh ở đâu, sức
khoẻ ra sao và đang làm gì. Em lão vẫn luôn mang theo hộp bói toán, lấy hộp ra,
san cát vẽ hình, lập bản tử vi đoán số, nhận thấy anh đã bị đầu độc chết ngay
trong một ngôi nhà ở Trung Quốc, tại một địa điểm trong kinh thành do một người
nguồn gốc thấp kém nhưng lấy được công chúa đầu độc.
Biết được như thế, em lão
phù thuỷ không mất thì glờ khóc lóc thương tiếc chẳng làm anh hắn sống lại được.
Hắn quyết định ngay phải báo thù và lên ngựa sang Trung Quốc. Qua bao nhiêu đồng
bằng, sông, núi, sạ mạc và sau một hành trình dài, vất vả không tưởng được, cuối
cùng hắn đến Trung Quốc và vào kinh thành hắn đã tìm ra trong bói toán. Chắc chắn
mình đã không lầm lẫn về cả kinh thành và vương quốc, hắn tìm một chỗ ở.
Ngày hôm sau hắn ra phố, bỏ
qua mọi thú vui cảnh đẹp, quyết tâm thực hiện một ý đồ nham hiểm. Hắn lui tới
những nơi đông người và chú ý lắng nghe những điều người ta nói chuyện. Ỏ một
nơi tổ chức nhiều trò chơi, trong lúc một số người chơi, thì có những người ngồi
trò chuyện về những tin tức vừa xảy ra, rồi chuyện trong gia đình. Hắn nghe kể
về đạo đức lòng thương người của một phụ nữ ẩn đật tên là Fatime và những phép
lạ của bà. Hắn nghĩ người phụ nữ này có thể có ích gì đó cho việc làm của mình.
Hắn lân la làm bạn với một người trong bọn, xin cho biết rõ về người đàn bà
thánh thiện ấy và bà có những phép lạ gì. Người ấy nói:
Sao? Ông chừa bao giờ thấy
và nghe nói về bà ư? Bà là niềm thán phục của toàn thành phố nêu gương tết cho
mọI người về sự chay tịch hà khắc. Trừ ngày thứ hai, thứ sáu bà không rời khỏi
nơi ân dật, những ngày ra phố bà làm những điều tốt lành vô cùng, không có ai
đau đầu mà không được chữa khỏi do bàn tay bà đặt lên đầu.
Không mong muốn gì hơn, hắn
hỏi chỗ ở của người phụ nữ thánh thiện ấy.
Dù đã được ngườI ta chỉ,
nhưng để nắm rõ hơn hắn theo dõi những việc làm của bà ngay ngày đầu tiên bà ra
phố và theo sát đến chíều tối khi bà về nơi ẩn dật. Biết rõ địa điểm rồi hắn trở
lại chỗ cũ, nơi ngườI ta uống một chén nước nóng và nếu muốn, có thể ngủ qua
đêm, nhất là những ngày nóng nực ở địa phương này người ta thích nằm trên một
chiếc chiếu hơn trên giường.
Tên phù thuỷ trả một ít tiền,
nằm lại đó và nửa đêm dậy đi thẳng đến chỗ ẩn dật của người phụ nữ thánh thiện,
Fatime như cả thành phố gọi bà. Cửa mở chẳng khó khăn gì vì chỉ đóng bằng một
cái chết. Hắn bước vào, khẽ khép cửa lại, thấy Fatime đang ngủ dưới ánh trăng,
trên một chiếc ghế xô-pha tựa lưng vào vách nhà. Hắn lại gần bà, rút ngọn dao
găm ra và đánh thức bà dậy.
Mở mắt, Fatime khốn khổ rất
ngạc nhiên thấy một người đàn ông sắp đâm mình. Dí dao vào ngực bà, hắn nói:
- Nếu bà kêu lên hoặc làm một
tiếng động nào, tôi giết ngay. Bà hãy dậy đi và làm như tôi bảo.
Fatime đang mặc cả quần áo
ngoài nằm ngủ, sợ run rẩy đứng dậy. Hắn nói:
- Đừng sợ, tôi chỉ muốn mặc
bộ quần áo của bà, cởi ra đưa cho tôi và bà mặc quần áo tôi.
Họ đổi cho nhau và sau khi mặc
quần áo của Fatime xong, lão phù thuỷ bảo:
- Bà tô mặt cho tôi giống
như của bà và màu không được phai.
Thấy bà còn run và để bà yên
tâm làm theo lời mình hắn nói:
- Bà đừng sợ, tôi nhắc lại,
nhân danh Chúa, tôi không giết bà đâu.
Fatime đưa hắn vào phòng,
châm đèn, lấy một loại nước trong lọ dùng bàn chải xát vào mặt hắn, khiến cho mặt
hắn cùng màu với mặt bà. Sau đó bà đội mũ với tấm mạng của bà lên đầu hắn, hướng
dẫn hắn làm thế nào để che mặt khi đi ra phố. Cuối cùng, sau khi quàng vào cổ hắn
vòng tràng hạt xuống đến nửa người, bà đặt vào tay hắn chiếc gậy bà thường dùng
và đưa gương soi cho hắn xem:
- Ông nhìn đi, ông giống tôi
đến mức không làm hơn thế được.
Lão phù thuỷ thấy mình đã
như mong muốn nhưng không giữ lời như đã trịnh trọng hứa với Fatime phúc hậu. Để
khỏi có máu vì đâm dao, hắn bóp cổ bà, khi thấy bà đã chết, hắn nắm chân kéo vứt
vào góc nơi ẩn dật của bà.
Lão phù thuỷ cải trang thành
Fatime, người đàn bà thánh thiện ở lại trong nơi ẩn dật suốt đêm còn lại sau
khi làm một vụ giết người ghê tởm. Sáng hôm sau, tuy không phải là ngày người
phụ nữ thánh thiện ra ngoài, hắn vẫn đi, tin chắc người ta không hỏi về điều ấy
và dù có hỏi hắn cung vẫn có cách để trả lời. Vì việc đầu tiên hắn đến đây là để
thăm dò về toà lâu đài và chính muốn thực hiện ý đồ mà hắn đi ngay về hướng đó.
Khi người ta thấy người phụ
nữ thánh thiện như họ nghĩ, lão phù thuỷ đội lất đã được nhiều người vây quanh.
Những người này xin cầu nguyện, những người khác hôn. tay. Một số dè dặt hơn chỉ
hôn vạt áo, một số hoặc đau đầu hoặc muốn được chiếu cố, cứ quỳ xuống trước mặt
để đọc kinh, hắn bắt chước người phụ nữ thánh thiện khéo đến nỗi mọi người nhầm
hắn là bà ấy. Sau khi phải dừng lại nhiều lần để thoả mãn những người dân muốn
được bà Fatime đặt bàn tay lên đầu, hắn đến chỗ quảng trường trước lâu đài
Aladdin. Ở đây nhiều người dồn lại quanh hắn. Những người mạnh khoẻ hơn chen
vào đám đông lấy chỗ nên cãi cọ nhau tiếng ồn lên tận phòng khách hai mươi bốn
cửa sổ đang có công chúa Badroulboudour ở đấy.
Công chúa hỏi vì sao có tiếng
ồn ào như vậy và bảo người xuống xem rồi lên báo cho nàng biết. Không ra khỏi
phòng khách, một trong số thị nữ vén mành cửa nhìn xuống và trở lại nói với
nàng: tiếng ồn ào do một đám người chen lấn nhau bao quanh người đàn bà thánh
thiện để bà đặt tay vào đầu chữa bệnh.
Công chúa từ lâu đã nghe nói
về người đàn bà làm nhiều việc thiện nhưng chưa thấy mặt, nàng tò mò muốn gặp
và nói chuyện với bà. Một thái giám thấy công chúa tỏ ý thích liền tâu với nàng
nếu cần thì cho lệnh gọi bà ấy lên. Công chúa lệnh cho ông ta cử ngay bốn thái
giám dẫn người họ nghĩ là người đàn bà thánh thiện lên lâu đài.
Lúc nhũng người thái giám ra
khỏi lâu đài, đám đông thấy họ đi lại phía lão phù thuỷ cải trang, liền giải
tán dần. Được tự do và thấy các thái giám đến, tên phù thủy vui mừng vì trò lừa
đảo của mình đã có hiệu quả. Một thái giám nói với hắn: Người đàn bà thánh thiện,
công chúa muốn gặp bà, hãy theo chúng tôi”.
- Công chúa làm cho tôi rất
vinh dự - Fatime giả trả lời - Tôi xin sẵn sàng vâng lệnh Người.
Hắn liền theo thái giám đi về
phía lâu đài.
Lão phù thuỷ che giấu con
tim ma quỷ dưới lốt thánh thiện được đưa lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ.
Thấy công chúa, hắn bắt đầu ngay bằng một tràng cầu nguyện cho sức khoẻ và sự
thịnh vượng, nguyện vọng của nàng, và chúc cho mọi nguyện ước của nàng đều trở
thành sự thực. Hắn thả hết mọi huênh hoang lừa bịp và đạo đức giả gieo vào tâm
trí công chúa dưới vỏ bọc một người kính tin. Hắn đã đạt được kết quả vì công
chúa bản chất phúc hậu, nghĩ rằng mọi người đều tốtt như nàng, đặc biệt những
người ẩn dật phụng sự Chúa.
Khi Fatime giả chúc tụng dài
dòng xong, công chúa nói:
- Mẹ phúc hậu của tôi, xin
cám ơn những lời cầu nguyện của mẹ, tôi rất tin tưởng và mong Chúa ban phát
cho. Mẹ lại gần ngồi bên cạnh tôi đây - Fatime giả vờ khiêm tốn ngồi và công
chúa lại nói: - Mẹ phúc hậu, tôi đề nghị một điều đừng từ chối: mẹ ở lại đây với
tôi để giữ gìn sức khoẻ và để tôi học được ở mẹ những gương tốtt phải phụng sự
Chúa như thế nào.
- Thưa công chúa, tôi cầu
xin công chúa đừng buộc tôi điều tôi không dám chấp nhận vì phải bỏ những buổi
lễ cầu nguyện và hành lễ kính tin.
- Việc đó chẳng khó khăn gì.
Tôi có nhiều căn phòng để trống, mẹ chọn một phòng thích hợp nhất có thể hành lễ
tự do như nơi ẩn dật của mẹ.
Lão phù thuỷ không có mục
đích nào khác là chui được vào lâu đài Aladdin để dễ dàng thực hiện âm mưu của
mình, ở đó dưới sự bảo trợ của công chúa tốt hơn là đi đi về yề từ lâu đài đến
chỗ ẩn dật, hắn không để công chúa nài nỉ nhiều lần vội nhận lời ngay.
- Thưa công chúa- Hắn nói -
Dù đã muốn dứt bỏ khỏi những sinh hoạt thế tục, nhưng một người đàn bà khốn khổ
như tôi, đâu dám táo tợn từ chối ý muốn và sự sai bảo của một công chúa có đức
tin và nhân ái đến thế.
Nghe trả lời thế, công chúa
đứng dậy nói:
- Mẹ cùng tôi đi xem những
căn phòng trống và tự chọn lấy.
Hắn đi theo công chúa
Badroulboudour, xem tất cả những phòng công chúa đẫn tới, tất cả đều sạch sẽ và
trang bị tốtt, chọn một căn phòng có vẻ kém nhất, vờ nói nó đã quá rất tốtt đối
với mình và hắn chọn lựa chỉ để làm vừa lòng công chúa.
Công chúa muốn dẫn hắn lên
phòng khách hai mươi bốn cửa sổ để cùng ăn trưa. Lúc ăn thì phải bỏ mạng hắn vẫn
che mặt cho đến lúc đó, sợ công chúa biết hắn không phải người đàn bà thánh thiện
như nàng nghĩ, hắn khẩn nài miễn việc ấy cho nói hắn chỉ ăn bánh và mấy quả
cây, xin để hắn ăn trong phòng mình. Công chúa chấp thuận nói:
- Mẹ phúc hậu, mẹ tự do như ở
nơi ẩn đật, tôi cho người đem bữa ăn đến nhưng nhớ rằng tôi chờ mẹ sau khi ăn
xong đấy.
Công chúa đi ăn trưa. Fatime
đến gặp nàng khi được thái giám báo nàng đã ăn xong. Công chúa nói:
- Mẹ phúc hậu của tôi, tôi rất
hân hoan có một phụ nữ thánh thiện như mẹ chúc phúc cho lâu đài này. Nhân tiện,
mẹ thấy lâu đài này ra sao? Trước khi đưa mẹ đi xem từng phòng, trước hết xin mẹ
hãy nói xem mẹ nghĩ gì về phòng khách này?
Nghe hỏi, Fatime giả, cho đến
lúc đó chỉ luôn cúi đầu thậm chí không nhìn quanh để đóng tốtt trò lừa bịp, ngẩng
nhìh phòng khách khắp lượt rồi nói:
- Thưa công chúa, phòng
khách này đúng là rất đẹp. Tuy nhiên, theo ý riêng của tôi có thể thấy không có
gì trên đời đẹp hơn thế, tôi thấy hình như vẫn còn thiếu mất một thứ.
- Thứ gì vậy, mẹ phúc hậu Mẹ
nói cho biết đi. Tôi vẫn nghĩ và tôi cũng nghe nói thế, ở đây chẳng còn thiếu
gì nếu thiếu mất thứ gì đó, tôi sẽ cho làm thêm.
- Thưa công chúa - Fatime giả
lại nói rất dè dặt – Xin tha lỗi cho lời nói bộc phát của tôi. Theo tôi nghĩ thật
quan trọng nếu trên cao, giữa mái vòm treo một quả trứng đại bàng thì không có
gì trên thế giới sánh bằng, lâu đài của công chúa sẽ là một kỳ quan trong vũ trụ.
- Mẹ phúc hậu, đại bàng là
loại chim gì và có thể tìm một quả trứng ở đâu?
- Thưa công chúa, đó là một
con chim to lớn thần kỳ ở trên ngọn núi cao nhất vùng Caucase, kiến trúc sư lâu
đài này có thể tìm được một quả trứng cho công chúa.
Sau khi cám ơn Fatime giả,
công chúa Badroulboudour trao đổi những chuyện khác nhưng nàng không quên quả
trứng đại bàng, dự định sẽ nói với Aladdin khi chàng đi săn về. Chàng đi săn đã
sáu ngày và lão phù thuỷ biết thế muốn lợi dụng thời gian chàng vắng nhà. Ngay
tối hôm ấy chàng trở về trong lúc Fatime giả vừa xin phép công chúa rút lui về
phòng mình. Aladdin lên ngay phòng công chúa bưôc vào, chào và ôm hôn công chúa
nhưng hình như nàng tiếp còn hơi lạnh nhạt.
- Công chúa - Chàng nói - Ta
thấy nàng không vui như mọi lần. Trong lúc ta đi vắng có điều gì làm nàng buồn
và không bằng lòng chăng? Nàng đừng giấu ta: không có gì ta không làm theo sức
mình để nàng hết buồn.
- Việc nhỏ thôi - Công chúa
trả lời - Thiếp không lo gì về chuyện đó nên không nghĩ đã thể hiện lên nét mặt
để chàng nhận thấy. Nhưng trái lại vì chàng thấy có suy nghĩ gì đó nên thiếp
không giấu nguyên nhân tuy rất không đáng kể. Thiếp vẫn nghĩ như chàng lâu đài
chúng ta đẹp nhất, hoàn hảo nhất trên đời. Tuy thế em chợt nghĩ sau khi quan
sát kỹ phòng khách hal mươl bốn cửa sổ, chàng có thấy như thiếp, không có gì
tuyệt vời hơn nếu có một quả trứng đại bàng treo giữa nóc vòm?
- Công chúa, chỉ cần nàng thấy
thiếu một quả trứng đại bàng treo ở đấy, ta sẽ nhanh chóng cho làm thêm ngay;
không có điều gì ta không làm vì tình yêu đối với nàng.
Ngay lúc đó Aladdin lên
phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, lấy ra chiếc đèn mà từ khi có mối nguy hiểm vì
thiếu gìn giữ chàng mang luôn trong người và xát mạnh. Thần đèn hiện ra,
Aladdin bảo:
- Thần đèn, trên vòm này thiếu
một quả trứng đại bàng treo ở giữa. Tôi cầu mong, nhân danh đèn, thần làm thế
nào để bổ sung vào.
Aladdin nói chưa dứt câu, thần
đèn thét lên một tiếng rất to và đáng sợ khiến gian phòng rung lên và Aladdin
loạng choạng suýt ngã nhào.
Thế nào? Khốn nạn - Thần đèn
quát làm run cả người vững vàng nhất - Tôi và các bạn tôi đã làm mọi việc cho
Người vẫn chưa đủ sao mà còn vô ơn khôn cùng, đòi hỏi tôi mang chủ tôi đến và
treo lên giữa vòm này? Việc xúc phạm đó đáng thiêu huỷ tất cả thành tro ngay,
Người vợ Người và toà lâu đài. Người còn may không phải chính Người trực tiếp
nghĩ ra lời cầu xin đó. Người cần biết kẻ xúi bẩy: em lão phù thuỷ châu Phi, kẻ
thù của Người, đang ở trong lâu đài đội lốt Fatime người đàn bà thánh thiện mà
hắn đã giết. Hắn đã gợi ý cho vợ Người lời thỉnh cầu nguy hại Người vừa nói. Ý
đồ của hắn là giết Người, phải chú ý cẩn thận - Nói xong thần đèn biến mất.
Aladdin không để mất thì giờ.
Chàng đã nghe nói về người đàn bà thánh thiện, cách bà chữa bệnh đau đầu như
người ta đồn đại. Chàng xuống phòng công chúa, không nói gì về việc xảy ra, ngồi
xuống than phiền cảm thấy rất đau đầu, đưa tay lên bóp trán. Công chúa bảo người
đi mời người đàn bà thánh thiện đến và trong lúc chờ đợi nàng kể lại với chồng
trường hợp bà ấy có trong lâu đài, và nàng đã cho bà ta ở một gian phòng.
Fatime giả bước vào phòng,
Aladdin nói:
- Mẹ phúc hậu của tôi, mẹ lại
gần đây. Tôi rất sung sướng được gặp mẹ và hạnh phúc được mẹ ở lại đây. Tôi vừa
bị một cơn đau đầu dữ dội. Tôi cầu xin mẹ cho những lời cầu nguyện và hy vọng mẹ
không từ chối làm ơn giúp tôi chữa khỏi bệnh ấy.
Dứt lời chàng đứng dậy, đầu
cúi xuống nhăn nhó. Fatime giả tiến đến bên cạnh nhưng tay để vào đầu dao găm
mang trong mình dưới tà áo. Aladdin để ý thấy, liền nắm lấy tay trước khi hắn
rút ra và dùng dao của mình đâm vào tim hắn, vứt xác hắn trên sàn.
- Chàng thân yêu, chàng làm
gì vậy? - Công chúa rất ngạc nhiên kêu lên - Chàng giết chết người đàn bà thánh
thiện rồi.
- Không, công chua của ta -
Aladdin không hề cảm động trả lời - Ta không giết Fatime mà là một tên bất nhân
sẽ ám hại ta nếu ta không được báo trước: Tên gian ác này - Chàng vừa nói thêm
vừa lật mạng che mặt hắn - Hắn đã bóp cổ Fatime mà nàng thương tiếc và cải
trang dưới lốt của bà để đến giết ta: Ta nói để nàng biết rõ hơn, hắn chính là
em lão phù thuỷ đã bắt cóc nàng.
Aladdin kể lại nhờ ai mình
biết những chi tiết ấy và cho người mang xác chết đi. Như vậy Aladdin thoát khỏi
hai anh em lão phù thuỷ làm hại mình. Ít năm sau nhà vua già quá mất đi. Vì
không có con trai, với tư cách thừa kế chính thống, công chúa Badroulboudour nối
ngôi cha trị vì san sẻ quyền lực tối cao cùng Aladdin. Hai vợ chồng trị vì đất
nước trong nhiều năm, để lại một đàn con đông vui và vững mạnh.
Thưa bệ hạ, hoàng hậu
Scheherazade nói khi kết thúc những cuộc phiêu lưu về chiếc đèn thần, bệ hạ chắc
nhận thấy trong bản chất lão phù thuỷ châu Phi một con người say mê quá đáng của
cải bằng những con đường tội lỗi, phát hiện ra nhiều nhưng không được hưởng thụ
vì không xứng đáng. Ỏ Aladdin Người thấy ngược lại, một người có nguồn gốc thấp
hèn đã vươn lên đến địa vị các vua chúa vì biết sử dụng đủ mức cần thiết những
của cải vô tình rơi và tay mình. Trong con người nhà vua, bệ hạ đã biết đó là một
đấng quân vương phúc hậu, công bằng và chính trực đã trải qua nguy hiểm như thế
nào, thậm chí suýt bị lật đổ chỉ vì một mệnh lệnh bất công quá phi lý, trái với
mọi nguyên tắc công minh, vội vã kết tội tử hình một người vô tội không thèm
nghe thanh minh. Cuối cùng chắc bệ hạ ghê tởm hành động tồi tệ... của hai lão
phù thuỷ bỉ ổi, một lão hy sinh đời mình để có của cải và lão kia đem cuộc sống
và tôn giáo của mình báo thù cho một kẻ cũng bỉ ổi như lão và cũng như kẻ ấy, bị
trừng phạt vì việc làm độc ác của mình.
Vua Ấn Độ cho hoàng hậu
Scheherazade, vợ mình biết ông rất hài lòng về những điều kỳ diệu vừa được nghe
về chiếc đèn thần và những chuyện mỗi đêm bà kể làm ông rất vui thích. Thực vậy
chúng rất thú vị và hầu như luôn luôn thấm đậm đạo đức. Ông thấy rõ hoàng hậu
khéo léo tiếp nối những chuyện này với chuyện khác và không giận vì cách đó
nàng làm ông trì hoãn lời thề long trọng chỉ giữ một người đàn bà trong một đêm
và sáng hôm sau cho đem hành hình. Thậm chí ông hầu như không có ý nghĩ nào
khác để xem cuối cùng ông có làm cho nàng cạn kiệt nguồn chăng.
Với ý định ấy, sau khi nghe
hết câu chuyện Aladdin và Badroulboudour, khác hẳn những chuyện cho đến lúc đó,
sau khi thức dậy, ông hỏi hoàng hậu cũng vừa thức dậy đã hết chuyện kể chưa.
- Hết chuyện kể ư, thưa bệ hạ?
- Hoàng hậu trả lời và xin đề nghị tiếp - Còn lâu thiếp mới hết: số lượng lớn
quá đến nỗi thiếp cũng không tính được chính xác với bệ hạ. Điều thiếp sợ là cuối
cùng Người thấy buồn, mệt mỏi không muốn nghe nữa chứ không phải thiếp không
còn gì kể.
- Nàng đừng sợ thế - Vua lại
nói - Xem nàng có gì mới kể cho ta nghe nào.
Hoàng hậu Scheherajade được
Dinarjade, em nàng, đánh thức đậy, kể cho vua Ấn Độ chồng nàng, câu chuyện ông
đang muốn nghe.
Nàng nói: - Thưa hoàng đế
hùng mạnh, trong một thành phố của Ba Tư giáp biên giới vương quốc của bệ hạ có
hai anh em tên là Cassim và Ali Baba. Bố để lại một ít của cải, họ chia đều cho
nhau, có vẻ tài sản bằng nhau nhưng tình cờ thành ra khác hẳn.
Cassim lấy một người vợ, ít
lâu sau khi cưới bỗng được thừa kế một cửa hiệu đàng hoàng, một cửa hàng đầy
hàng hoá tốt lại có cả nhà cửa đất đai, bỗng chốc cuộe sống của họ trở nên thoải
mái, và là một trong những thương gia giàu có nhất thành phố.
Ali Baba ngược lại, cưới một
người vợ cũng nghèo như mình, chỗ ở đã lụp sụp, bác lại còn không có một nghề
nghiệp nào để kiếm sống nuôi gia đình ngoài việc đi kiếm củi ở rừng bên đem ra
thành phố bán. Chở trên ba con lừa là toàn bộ tài sản có được kiếm được trong
ngày của bác.
Một hôm Ali Baba vào rừng
đang đốn củi mong đủ cho lừa chở thì bỗng thấy một đám bụi tung bay lên không
và tiến thẳng về phía mình. Nhìn kỹ bác nhận ra một toán đông người cưỡi ngựa
đang phi nhanh lại.
Tuy không nghe nói về trộm
cướp trong vùng, Ali Baba vẫn nghĩ có thể là toán cướp và không tính đến những
con lừa sẽ ra sao, bác chạy trốn mong thoát thân. Bác trèo lên một cây to cành
nhánh thấp quây tròn và sít nhau chỉ hở rất nhỏ, nấp vào giữa đám cành lá cây bảo
đảm có thể nhìn xuống mà không ai thấy. Cây lại mọc từ chân một tảng đá lẻ loi
bốn phía, cao hơn cây nhiều và dốc đứng tưởng như không ai leo lên cao được.
Những kẻ cưỡi ngựa đều to lớn,
khoẻ mạnh trang bị đầy đủ và có vũ khí tốt lại gần tảng đá xuống ngựa; Ali Baba
đếm được bốn mươi, theo điệu bộ và trang bị, chắc chắn là những tên cướp: Thực
tế đã không nhầm đây là bọn cướp không làm hại gì quanh vùng mà chỉ trộm cướp rất
xa rồi hẹn gặp nhau ở chỗ này.
Mỗi kỵ sĩ tháo yên ngưa, buộc
ngựa, đeo vào cổ từng con vật một túi lúa mạch mang theo và cả bọn bỏ những xuống,
phần lớn những chiếc hòm rất nặng đầy tiền và vàng bạc.
Kẻ trông oai nhất Ali Baba
cho là chỉ huy của cả bọn, cũng vác hòm như những tên kia, rẽ một đường đi
trong đám cây bụi lại gần tảng đá sát ngay cây to bác đang ẩn nấp, nói rõ ràng
một câu: Vừng ơi, mở cửa? Tên tướng cướp niệm thần chú xong, một cánh cửa mở
ra, sau khi để đồng bọn vào trước hắn cũng vào theo và cánh cửa đóng lại.
Bọn cướp ở lâu trong tảng
đá; Ali Baba sợ một tên hoặc cả toán đi ra khi mình tụt xuống bỏ chạy nên đành
ngồi trên cây kiên trì chờ đợi. Bác cũng nghĩ hay là xuống lấy hai con ngưa, cưỡi
lên một và dắt một, vừa chạy về thành phố vừa đuổi ba con lừa đi trước nhưng lại
ngại chưa chắc đã thoát nên ở lại chắc chắn hơn.
Cuối cùng cửa mở, bốn mươi
tên cướp đi ra; tên chỉ huy vào sau cùng đã ra trước, lúc thấy đồng bọn lần lượt
qua hết trước mặt, Ali Baba nghe hắn đóng cửa bằng câu thần chú: “Vừng ơi, đóng
lại? Mỗi tên xem lại ngựa của mình, tháo dây, buộc lại hòm và lên ngựa. Chỉ huy
thấy tất cả đã sẵn sàng, thúc ngựa lên đầu cùng đồng bọn trở lại con đường đã tới.
Lúc đầu Ali Baba chưa xuống đất, tự nhủ: “Có thể chúng quên gì đó phải trở lại
sẽ bắt gặp mình . Bác đưa mắt nhìn theo cho đến khi không trông thấy nữa và một
lúc lâu mới xuống để bảo đảm thật an toàn. Nhớ những câu chỉ huy bọn cướp nói,
bác tò mò muốn thử nói xem có tác dụng như thế không, đi qua đám cây bụi và thấy
cánh cửa bị che lấp. Đứng trước cửa bác niệm: Vừng ơi, mở cửa! Cánh cửa mở rộng
ra ngay.
Ali Baba nghĩ sẽ vào một chỗ
tối tăm nhưng ngạc nhiên thấy rất sáng sủa, rộng rãi, ánh sáng từ trên cao rọi
xuống qua lỗ khoét. Bác thấy rất nhiều thực phẩm, những túi lớn hàng hoá đẹp xếp
thành đống, vải lụa và gấm, những tấm thảm đắt giá, nhất là vàng và tiền bạc
hàng đống trong những túi vải hoặc túi da lớn chồng lên nhau. Nhìn tất cả những
cái đó hình như không phải nhiều năm mà trong nhiều thế kỷ hang này là chỗ cất
giữ của cải của bọn cướp kế tiếp nhau.
Ali Baba không đắn đo phải
làm gì; đã vào hang và cánh cửa khép lại. Bác nhằm vào bạc và tiền vàng, đặc biệt
trong các túi, bác lấy tiền vàng đủ cho ba con lừa chở: Bác gom lũ lừa, đưa
chúng lại gần tảng đá, chất những túi vàng lên và phủ một số củi lên trên để
người ta không nhận thấy. Khi xong bác lại gần cửa, chưa nói xong câu Vừng ơi,
đóng lại” thì cửa đã đóng. Khi vào cửa tự động khép lại nhưng khi ra vẫn để mở.
Sau đó Ali Baba trở về thành
phố, về đến nhà bác cho lừa vào sân nhỏ phía sau và đóng cửa cẩn thận, bỏ củi
xuống, mang những túi nặng vào nhà xếp trước mặt vợ đang ngồi trên ghế.
Vợ bác, sờ vào các túi thấy
đầy vàng, bạc, nghi ngờ chồng đi trộm cướp về nên khi bác mang vào hết, bác gái
không ngăn được mình nói: Ali Baba, anh khốn khổ đến nỗi... Chồng bác ngắt lời:
im đi em. Đừng làm ồn lên, anh không phải kẻ trộm, ít nhất khi lấy của bọn cướp.
Em sẽ không quan niệm anh xấu như thế nếu nghe anh kể chuyện về số của cải này.
Bác đổ các túi ra, cả một đống vàng lớn làm vợ loá mắt, sau đó kể lại sự việc từ
đầu đến cuối và dặn vợ giữ kín.
Người vợ bình tĩnh không khiếp
sợ nữa, phấn khởi cùng chồng về hạnh phúc đến với họ và muốn đếm ngay số vàng
trước mặt. Em này - Ali Baba bảo - em chẳng khôn ngoan chút nào, định làm gì thế?
Anh đi đào hố chôn chúng vào đó, không mất thì giờ được đâu .
- Ít nhất chúng ta cũng nên
biết đại khái có bao nhiêu. Em đi mượn chiếc cân bên hàng xóm trong lúc anh đào
hố - người vợ nói.
- Em à, điều ấy chẳng cần
thiết nhưng nếu muốn em cứ làm theo ý thích; nhớ phải bí mật đấy.
Để thoả mãn, vợ Ali Baba đi
sang nhà Cassim ông anh chồng ở gần đấy. Cassim không ở nhà, bác đã sai lầm hỏi
mượn chị dâu chiếc cân một lúc. Bà chị hỏi chiếc cân to hay nhỏ, bác ta chỉ hỏi
mượn một chiếc nhỏ.
- Sẵn lòng thôi - Bà chị dâu
nới - Thím chờ tôi lấy cho. Bà này đi tìm cân, nhưng biết Ali Baba nghèo, muốn
làm rõ họ cân loại hạt gì, bà liền khôn khéo bôi một ít mờ vào đáy đĩa cân và
ra đưa cho em đâu, sau khi xin lỗi để bác phải chờ lâu vì khó tìm.
Vợ Ali Baba về nhà, để cân
lên đống vàng, hết đầy vào và lần lượt cân đổ lên ghế. Cân xong bác gái hài
lòng về số lượng vàng rất nhiều, và kể cho với người chồng vừa đào xong hố.
Trong lúc Ali Baba chôn
vàng, vợ bác tỏ ra đúng hẹn và nhanh nhẹn, đem trả cân cho chị dâu mà không chú
ý đến một đồng vàng dính dưới cân.
- Chị ơi - Vợ Ali Baba nói -
Em trả chị chiếc cân và cám ơn chị; chị thấy đấy em không dám giữ lại lâu cân của
chị.
Bác gái vừa quay lưng ra về
thì vợ Cassim nhìn đáy cân, ngạc nhiên không tưởng được thấy có một đồng vàng
dính vào đấy. Lòng tham trỗi dậy ngày, bà tự nhủ: Thế nào? Ali Baba có vàng
đong bằng cân! Kẻ khốn khổ này lấy vàng từ đâu ra vậy?. Cassim chồng bà ở
ngoài cửa hàng đến tối mới về. Bà nóng lòng chờ chồng về để báo tin, mỗi lúc tưởng
như mồt trăm năm thế kỷ.
Lúc Cassim về, bà nói ngay:
- Cassim, ông khá giàu nhưng
nhầm rồi đấy. Ali Baba giàu hơn ông nhiều, không đếm vàng như ông đâu mà cân
vàng!
Cassim gạn hỏi, bà bèn kể lại
đã làm sao để phát hiện đíều đó và đưa ra đồng tiền vàng thấy dưới đáy cân lên,
đồng tiền cũ có tên nhà vua ở một triều khá xa lạ đối với họ.
Thay vì mừng cho hạnh phúc đến
với em có thể thoát khỏi nghèo nàn, Cassim ghen tức muốn chết, suốt đêm không
ngủ được. Sáng hôm sau ông ta đến nhà em khi mặt trời chưa mọc. Đối xử như
không phải với em mình mà ông đã quên từ sau ngày cưới bà vợ giàu.
- Alì Baba - Ông ta bảo -
Chú kín đáo quá đáng: giả nghèo giả khổ, ăn ở rách nát nhưng đếm vàng bằng cân!
- Thưa anh - Ali Baba trả lời
- Anh nói về điều gì em không rõ, anh giải thích cho.
- Đừng làm như ngu dốt -
Cassim vừa nói vừa đưa ra đồng tiền vàng vợ giao cho - Chú có bao nhiêu đồng
như thế này mà vợ tôi thấy dính vào đáy cân vợ chú sang mượn hôm qua?
Nghe nói thế, Ali Baba hiểu
(vì sự cứng đầu của vợ mình) vợ chồng Cassim đã biết điều bác muốn giấu kín. Đã
lầm lỗi rồi không sửa chữa được nữa. Để ông anh khỏi lạ lùng và buồn, bác kể lại
việc tình cờ phát hiện kho của cải của bọn cướp và xin ông giữ kín bác sẽ san sẻ
một phần số của cải cho ông.
Cassim kiêu kỳ nói:
- Tôi cũng đoán đúng như thế
nhưng vẫn muốn biết chính xác kho của ấy ở đâu, dấu hiệu thế nào và nếu cần tôi
có thể vào đó bằng cách nào; nếu chú không chỉ rõ tôi sẽ đến báo cho quan toà.
Chú mà giấu giếm thì không những chú chẳng còn mong có thêm gì mà còn mất nất số
của cải đã lấy được còn tôi, tôi sẽ có một phần vì đã có công báo quan .
Ali Baba với bản tính hiền
lành rất sợ những lời doạ nạt trâng tráo của ông anh tham tàn, vội nói rõ những
điều ông ta mong muốn, cả những câu dùng để vào hay ra cửa hang.
Cassim không đòi hỏi gì hơn,
ra khỏi nhà em hy vọng một mình chiếm lấy kho của. Sáng hôm sau ông ta đi thật
sớm với mười con la chở những hòm lớn định chất đầy vàng, trù tính chuyến thứ
hai sẽ lấy đi nhiều hơn tuỳ theo số lượng của cải có trong hang. Theo đường Ali
Baba chỉ dẫn, đến gần tảng đá ông ta nhận ra những dấu hiệu và cây to Ali Baba ẩn
nấp. Tìm đừợc cửa, ông ta nói: Vừng ơi mở cửa! . Cánh cửa mở ra, ông vào và cửa
tự đóng lại. Quan sát kỹ hang ông vô cùng thán phục thấy nhiều của cải hơn mình
nghĩ khi nghe Ali Baba kể chuyện; xem xét riêng từng thứ ông càng thán phục. Vốn
keo kiệt và góp nhặt của cải, nếu không nghĩ đến đây để lấy đủ chở cho mười con
la, ông ta sẽ ở lại suốt ngày để nhìn ngắm vàng. Lấy thật nhiều túi gắng sức
mang và khi ra đến cửa trí óc chỉ mải nghĩ làm thế nào để mang được nhiều, ông
ta quên mất từ cần thiết. Đáng lẽ “Vừng ơi ông nói: “Đại mạch ơi, mở cửa và rất
kinh ngạc thấy cửa vẫn đóng. Ông gọi tên nhiều loại hạt khác, không đúng loại cần
nên cửa không mở.
Cassim không ngờ gặp tình huống
đó. Trước nguy cơ hiển nhiên, ông ta sợ hãi run người, càng cố gắng nhớ càng rối
mù và đứng sững người như trời trồng. Ông vứt những túi vàng xuống đất, bước
đài trong hang lúc bên này lúc bên kia, chẳng còn màng gì đến những của cải
xung quanh nữa.
Bọn cướp trở lại hang vào buổi
trưa, tới gần thấy nhũng con la của Cassim quanh tảng đá chở đẩy hòm, lo lắng về
sự lạ đó, chúng liền phi nhanh đến đuổi mười con la Cassim không buộc vào đâu cả
làm chúng tản mát trong rừng, rất xa không nhìn thấy nữa. Bọn cướp không cần đuổi
theo lũ la mà quan trọng là lũ la của kẻ nào. Trong lúc một số tên đi quanh tảng
đá tìm klếm, tên chỉ huy cùng những tên khác xuống ngựa, đi thẳng đến cửa hang
rút gươm cầm tay, đọc thần chú và cửa mở.
Cassim nghe tiếng vó ngựa,
biết chắc bọn cướp đến và mình sẽ chết. Quyết định ít nhất cũng cố gắng để
thoát khỏi tay chúng, ông chuẩn bị chạy ra ngoài khi cửa mở. Nghe tiếng nói: Vừng
ơi...? mà ông quên, cửa vừa mở, ông lao nhanh đến nỗi tông vào tên chỉ huy ngã
lăn xuống đất. Nhưng không thoát khỏi những tên cướp khác với lưỡI gươm trong
tay, ông bị chúng chém chết.
Sau việc đó bọn cướp vào
trong hang thấy gần cửa có những túi vàng Cassim lấy ra để đem đi, chúng bỏ vào
chỗ cũ không nhận thấy mất những túi vàng Ali Baba mang về lần trước. Họp nhau
lại bàn về hiện tượng này, chúng hiểu Cassim không mở được cửa ra khỏi hang
nhưng không hình dung nổi ông ta làm sao mà vào được. Chúng đã nghĩ có thể ông
ta xuống từ chỏm tảng đá những lỗ ánh sáng vào cao quá mà phía trên tảng đá bên
ngoài không trèo lên được nên đành chịu không rõ. Có thể ông ta vào từ cửa
nhưng chúng cũng không tin chắc vì đinh ninh chỉ chúng mới biết mật hiệu mở cửa;
đó là điều chúng nhầm, không biết Ali Baba đã rình nghe biết được.
Sự việc đã xảy ra rồi, chẳng
còn cách nào khác để của cải được an toàn, chúng bàn với nhau chặt xác Cassịm
ra làm bốn đoạn bỏ phía trong cửa hang, mỗi bên cửa hai đoạn để làm kẻ nào đó
vào hang sẽ phải khiếp sợ. Còn bọn chúng chỉ phải một thời gian lâu mới về
hang, chờ mùi hôi thối bay đi hết đã. Quyết định như thế, chúng thực hiện ngay
rồi đóng cửa hang, lên ngựa tới những con đường mà các đoàn người ngựa thường
qua lại để cướp bóc như thường lệ.
Vợ Cassim thấy đêm xuống lâu
rồi mà chồng chưa về nên rất lo. Bà đến nhà Ali Baba hốt hoảng nói:
- Chú em này, tôi nghĩ chú
cũng biết anh chú vào rừng để làm gì rồi. Đêm đã khuya mà ông ấy chưa về, tôi sợ
có tai hoạ xảy ra với ông ấy chăng.
Ali Baba vẫn ngờ ông anh vào
rừng sau khi nghe kể chuyện và vì thế hôm ấy bác không đi kiếm củi để khỏi làm
phiền anh. Không trách móc gì, bác khuyên bà chị dâu không nên hoảng hốt có lẽ
Cassim muốn trở về thành phố trong đêm khuya thì tốt hơn chăng.
Vợ Cassim cũng nghĩ thế nhất
là bà thấy cần glữ kín việc làm của chồng chắc chờ đến nửa đêm ông ta mới trở về
nhà. Nhưng sau đó bà càng lo sợ nhiều hơn và cảm thấy đau đớn ghê gớm mà không
thể kêu than vì biết không nói ra được nguyên nhân. Bà ân hận đã tò mò muốn đi
sâu vào công việc của vợ chồng người em, đó là một sai lầm không sửa chữa được,
Khóc thầm cả đêm, hôm sau vừa rạng sáng bà chạy đến nhà họ khóc lóc chứ không
nói được.
Ali Baba không chờ chị dâu đề
nghị đi xem Cassim ra sao: Bác vào rừng ngay với ba con lừa sau khi an ủi bà chị
hãy bớt đau buồn. Đến gần tảng đá, nhìn khắp nơi không thấy ông anh và mười con
la, rất lạ thấy máu gần cánh cửa, anh nghĩ có chuyện không hay rồi. Đứng trước
cửa, anh đọc câu thần chú, cửa mở và bác thấy cảnh tượng buồn thảm của thân thể
ông anh bị chặt làm bốn khúc. Không ngần ngại làm nhiệm vụ cuối cùng đối với
ông anh lạnh nhạt, bác tìm vải trong hang gói bốn khúc xác cho lên một con lừa
chở với gỗ để che khuất. Hai con lừa còn lại, bác chất đầy những túi vàng bạc,
bỏ gỗ củi lên như lần trước, đọc thần chú ra lệnh đóng cửa rồi đi về thành phố
nhưng cẩn thận dừng lại ở bìa rừng chờ tối đến mới ra về. Đến nhà bác cho hai
con lừa chở vàng bạc vào sân, để cho vợ dỡ xuống và sau khi cho bác gái biết việc
gì đã xảy ra với Cassim, bác dẫn con lừa kia sang nhà chị dâu.
Ali Baba gõ cửa, Morgiane ra
mở. Morgiane là một nô lệ nữ khéo léo, hiểu biết rộng và có nhiều sáng kiến giải
quyết thành công những điều khó khăn nhất. Ali Baba biết cô như vậy. Vào đến
sân bác tháo củi và hai gói xuống, nói riêng với Morgiane:
- Morgiane, trước hết tôi đề
nghị cô tuyệt đối giữ bí mật, điều đó tối cần thiết đối với bà chủ và với tôi.
Thân thể ông chủ ở trong hai gói này. Phải chôn cất như ông chết bình thường.
Chú ý cẩn thận như tôi đã nói và đưa tôi vào nói chuyện với bà chủ.
Morgiane vào báo trước với
bà chủ sau đó Ali Baba đi theo cô bước vào.
- Thế nào chú, - bà chị dâu
nóng lòng chờ đợi hỏi.
- Tin tức về chồng tôi thế
nào? Trên mặt chú tôi không thấy có biểu hiện gì an ủi được tôi.
- Thưa chị, tôi không thể
nói gì trước khi chị hứa nghe tôi từ đầu đến cuối câu chuyện mà không mở miệng.
Đối với chị cũng như với tôi điều quan trọng nhất về việc xảy ra là phải rất bí
mật vì lợi ích và sự yên bình của chị.
- A! - Bà chị dâu khẽ kêu
lên - Lời dạo đầu ấy cho tôi biết rõ chồng tôi không còn nữa. Đồng thời tôi thấy
cần thiết phải giữ kín như chú dặn dò. Tôi phải rất cố gắng vậy, chú nói đi,
tôi nghe đây.
Ali Baba kể lại chuyến đi
cho đến lúc về với thân thể Cassim. Bác nói thêm:
- Chị ạ, đây là một nỗi buồn
lớn mà chị ít ngờ tới nhất. Tuy nỗi đau không phương cứu chữa nhưng nếu có thể
an ủi chị, tôi sẽ đem của cải trời cho tôi vào tài sản của chị và cưới chị, bảo
đảm vợ tôi sẽ không ghen và hai ngườI sống hoà hợp với nhau. Nếu chị bằng lòng
như vậy, phải nghĩ cách làm thế nào để như anh tôi chết bình thường; chị có thể
dựa vào Morgiane, tôi sẽ cố góp hết sức mình.
Chẳng còn cách gì hơn, vợ
goá Cassim đành vâng theo lời đề nghị của Ali Baba? Với tài sản chồng trước để
lại, lại tìm được một người glàu hơn mình và với sự phát hiện kho của có thể
càng giàu hơn? Bà không từ chối cách giải quyết ấy mà ngược lại, xem như một níềm
an ủi hợp lý. Chùi nước mắt đã khóc quá nhiều, nén lại những tiếng kêu van bình
thường của những người vợ mất chồng, bà chứng tỏ với Ali Baba mình đã ưng thuận.
Al1 Baba chào bà vợ goá
Cassim, sau khi dặn dò Morgiane lo công việc gia đình cẩn thận rồi về nhà mình
với con lừa.
Morgiane không lơ là; cô ra
ngay cửa hàng dược bên hàng xóm, hỏi mua một loại thuốc rất tác dụng với những
căn bệnh nguy hiểm. Dược sĩ đưa thuốc, nhận tiền rồi hỏI ai trong gia đình chủ
cô bị ốm. Cô thở dài trả lời:
- Chà! Chính ông chủ Cassim
của tôi. Không ai ngờ ông bị căn bệnh nặng đến thế, chẳng nói chẳng ăn gì cả.
Nói rồi cô mang thuốc về mà
thực tế Cassim không thể sử dụng được nữa.
Ngày hôm sau chính Morgiane
lại trở lại cửa hàng dược đầy nước mắt mua một loại thuốc nước người ta chỉ cho
người bệnh uống lúc hấp hối không hy vọng gì sống nữa nếu thuốc ấy không cứu được.
- Than ôi - cô buồn bã nói vừa
nhận thuốc từ tay dược sĩ - tôi sợ loại thuốc này cũng chẳng có tác dụng gì như
thuốc viên lần trước. Chà! Sợ tôi mất đi một ông chủ tốt!
Mặt khác người ta thấy vợ chồng
Ali Baba suốt ngày buồn rầu đi đi lại lại nhà Cassim và tối đến không ai ngạc
nhiên nghe tiếng kêu khóc của vợ Cassim và nhất là của Morgiane loan báo Cassim
đã chết.
Sáng sớm hôm sau chưa rõ mặt
người, Morgiane vốn biết trong vùng có một ông thợ giày tốt bụng đã rất già
ngày nào cũng mở cửa hiệu trước những người khác rất lâu, cô ra đi tìm ông cụ ấy.
Vừa chào và hỏi chuyện, cô bỏ vào tay ông cụ một đồng vàng.
Baba Mustafa, người ta gọi
ông thế, bản chất vui vẻ và bao giờ cũng có tiếng nói gây cười, nhìn đồng tiền
vì trời chưa sáng hẳn, thấy là vàng bèn nói:
- Món quà tốt đấy, có việc
gì vậy? Tôi sẵn sàng làm đây.
- Baba Mustafa - Morgiane bảo
- Ông mang theo những gì cần thiết để khâu may và đi ngay với tôi với điều kiện
đến chỗ ấy tôi phải bịt mắt ông lại.
Nghe nói vậy Baba Mustafa
làm khó dễ:
- Ô! Ồ! Như thế là cô muốn
tôi làm việc gì đó trái lương tâm hay trái danh dự chăng?
Bỏ vào tay ông một đồng tiền
vàng khác, Morgiane lại nói:
- Có trời chứng giám, tôi chỉ
đề nghị ông lâm một việc hoàn toàn trong danh dự. Ông đi cùng tôi, đừng sợ gì cả.
Baba Mustafa đi theo cô và
Morgiane sau khi bịt mắt ông bằng chiếc khăn tay, dẫn ông vào chỗ ông chủ đã mất,
chỉ cất chiếc khăn bịt mắt trong phòng cô đã đặt xác, mỗi khúc thân đúng vào chỗ
của nó. Cô bảo:
- Baba Musta tôi dẫn ông đến
để nhờ khâu những tấm này. Ông làm nhanh chóng khâu xong tôi sẽ trả một đồng
vàng nữa.
Khi Baba Musatafa khâu xong
Morgiane lại bịt mắt ông ngay trong phòng đó, đưa đồng tiền vàng thứ ba như đã
hứa, dặn giữ bí mật và dẫn ông ra chỗ cô đã bịt mắt ông khi đến. Tại đây cô bỏ
khăn bịt mắt để ông trở về nhà, nhìn theo cho đến khi không thấy bóng nữa sợ
ông tò mò trở lại quan sát.
Morgiane đã đun nước nóng rửa
thân thể Cassim, rảy nước hoa và bọc xác chết lại như thường lệ. Thợ mộc cũng
mang đến quan tài Ali Baba đã đặt làm. Để người thợ mộc không thấy gì, Morgiane
nhận quan tài, trả tiền ngoài cổng để ông đi và đưa vào nhà giúp Áli Baba bỏ
người chết vào quan tài. Khi Ali Baba đã đóng kỹ đinh vào ván, cô đến báo tin với
nhà thờ sẵn sàng để an táng. Những người của nhà thờ chuyên lau rửa những người
chết nhận đến làm việc nhưng cô bảo đã hoàn tất rồi.
Morgiane vừa trở về nhà thì
thầy cả và các chức sắc nhà thờ đến. Bốn người hàng xóm nâng chiếc quan tài lên
vai, đi theo thầy cả đọc kinh, mang người chết ra nghĩa địa. Là nô lệ của người
chết, Morgiane khóc lóc, đầu trần đi sau quan tài, than vãn, đấm vào ngực, giật
tóc mình. Ali Baba đi sau đó cùng những người hàng xóm; họ lần lượt tách ra để
thay thế những người mang quan tài cho đến nghĩa địa.
Vợ Cassim ở nhà kêu van,
than khóc với những người phụ nữ quanh xóm theo phong tục chạy đến với tang lễ,
cùng than khóc với chủ nhà làm không khí buồn bã lan mãi cả vùng rất xa khu phố.
Bằng cách ấy, cái chết thê thảm
của Cassim được che giấu bởi Ali Baba, vợ bác, bà vợ Cassim quá cố và Morgiane.
Họ che giấu khéo léo đến nỗi chẳng có ai trong thành phố biết và nghi ngờ gì.
Ba bốn ngày sau khi an táng
Cassim, Ali Baba mang số đồ đạc ít ỏi của nhà mình và của cải lấy được của bọn
cướp, ban đêm đưa sang nhà vợ goá của Cassim bác ở lạI đấy kết hôn mới với chị
dâu. Theo tập quán tôn giáo của họ, những loại đám cưới như thế không ai lấy
làm lạ.
Ỏ cửa hiệu của Cassim, Ali
Baba có một đứa con trai đã tâp sự xong ở nhà một thương gia lớn khác, và được
khen là tốt. Bác giao cửa hiệu cho con, hứa hẹn nếu quản lý tốt chẳng bao lâu sẽ
cưới vợ theo gia thế của mình.
Nói về bọn cướp, chúng trở về
hang vào một thời gian đã định, rất ngạc nhiên không thấy xác Cassim, càng lạ
lùng thấy số túi vàng giảm đi. Tên tướng cướp nói:
- Chúng ta đã bị phát hiện
và mất cắp. Nếu không tìm cách đề phòng gấp và ngăn chặn, chắc chắn chúng ta sẽ
mất hết bao nhiêu của cải cha ông và chúng ta góp nhặt vất vả. Sự thiệt hại vừa
qua là do đứa lấy trộm biết được câu thần chú mở cửa hang, may mắn là chúng ta
đến lúc nó sắp ra. Nhưng không phải một mình nó; phải có một đứa khác biết như
nó. Xác nó bị lấy đi, của cải glảm bớt là những chứng cớ không chối cãi được.
Có vẻ như không ai biết điều bí mật ngoài hai đứa ấy, đã chết một đứa rồi,
chúng ta phải giết nốt đứa kia. Các anh em nghĩ sao? Có đồng ý với nhận định của
ta không?
Ý kiến của tên tướng cướp rất
hợp lý nên cả bọn thống nhất bỏ công việc khác để tìm giết đứa lấy trộm kỳ được.
Tên tướng cướp lại nói:
- Ta tin tưởng vào lòng dũng
cảm của các anh em nhưng trước hết phải có một người táo bạo khôn khéo, xử trí
nhanh, không mang vũ khí, ăn mặc như lữ hành lạ mặt vào thành phố tìm hiểu xem
người ta nói ra sao về cái chết của đứa lấy trộm ta đã giết một cách xứng đáng
với tội trạng và phát hiện nó ở nhà nào. Đó là điều rất quan trọng chúng ta phải
biết đầu tiên để khỏi phải hối hận vì lộ mặt trong đất nước lâu nay không ai biết
chúng ta và cần thiết phải như thế mãi. Trước khi khuyến khích người xung phong
nhận nhiệm vụ, để khỏi báo tin sai gây tai hại cho chúng ta, các anh em có đồng
tình chúng ta sẽ xử tội chết người báo tin sai đó?
Không chờ cả bọn biểu quyết,
một trong những tên cướp nói:
- Tôi chấp nhận điều ấy và
vinh dự lấy mạng sống của mình để nhận nhiệm vụ. Nếu không có kết quả, các bạn
nhớ rằng tôi không thiếu can đảm và tình nguyện vì quyền lợi chung của toán.
Tên cướp sau khi được tên tướng
cướp và đồng bọn hoan nghênh cải trang để không ai nhận ra mình. Chia tay với
toán cướp hắn ra đi trong đêm, trù tính khéo léo đến thành phố trời vừa sáng. Hắn.
tới quảng trường chỉ thấy một cửa hiệu mở cửa, đó là cửa hiệu của Baba Mustafa.
Baba Mustafa ngồi trên ghế
tay cầm dùi thép chuẩn bị làm việc. Tên cướp thấy ông đã có tuổi chào hỏi:
- Chào ông, sao ông bắt đầu
làm việc sớm thế? Ở tuổi ông có lẽ mắt trông chưa rõ, chờ sáng sủa hơn tôi chắc
ông thấy tốt hơn, khâu may dễ hơn.
- Dù anh là ai, nhất định
anh chưa biết rõ tôi. Tuy già nhưng đôi mắt tôi còn rất tốt. Anh sẽ không nghi
ngờ gì điều đó khi biết cách đây không lâu, tôi đã khâu xác chết trong một chỗ
không sáng sủa bằng bây giờ.
Tên cướp rất mừng gặp được
người cho biết tin tức hằn cần mà chưa hỏi. Hắn ra vẻ kinh ngạc để ông nói tiếp:
- Xác chết à? Tại sao phải
khâu một xác chết? Có lẽ ông muốn nói đã khâu may vải liệm?
- Không không - Baba Mustafa
lại nói - Tôi biết ông muốn tôi kể cho nghe nhưng sẽ không biết gì hơn đâu.
Tên cướp chưa cần nói rõ hơn
đã chắc chắn phát hiện ra điều mình tìm kiếm. Hắn lấy ra một đồng vàng bỏ vào
tay ông lão và nói:
- Tôi chỉ tò mò muốn biết điều
bí mật của ông, đảm bảo sẽ không nói ra điều ông thổ lộ. Tôi chỉ xin ông làm ơn
cho biết hoặc chỉ đến ngôi nhà ông đã khâu người chết ấy.
- Dù tôi muốn làm ơn điều
ông đòi hỏi- Baba Mustafa lại nói và cầm đồng vàng sẵn sàng trả lại - Tôi khẳng
định với ông không làm việc ấy được và ông có thể tin tôi. Lý do là người ta dẫn
tôi đến một chỗ rồi bịt mắt tôi lại dắt đến tận nhà; ở đấy sau khi làm xong người
ta cũng theo cách ấy dẫn tôi ra chỗ đó. Ông thấy đấy tôi không giúp gì ông được.
- Ít nhất - Tên trộm lại nói
- Ông cũng nhớ láng máng con đường người ta bịt mắt đưa ông đi. Mong ông đến vớI
tôi chỗ đó, tôi bịt mắt ông và chúng ta cùng đi theo con đường và những khúc
quanh ông có thể nhớ lại được. Mọi sự vất vả đều có thưởng, đây là một đồng
vàng khác nữa: ông đi cùng tôi sẽ rất vui lòng làm như tôi đã đề nghị.
Nói rồi hắn bỏ vào tay ông
lão một đồng vàng khác.
Hai đồng vàng hấp dẫn Baba
Mustafa; ông nhìn chúng trong tay không nói một lời, tự nhủ nên làm thế nào. Cuối
cùng ông rút túi trong người ra bỏ tiền vào và nói với tên cướp:
- Tôi không dám chắc có nhớ
được chính xác con đường người ta dẫn tôi đi không. Nhưng vì ông muốn, chúng ta
cùng đi và tôi cố gắng nhớ lại xem sao.
Ổng lão đứng dậy làm tên cướp
rất thoả mãn và không cần phải đóng cửa, vả lại cũng chẳng có gì để mất, ông dẫn
tên cướp đến chỗ Morgiane đã bịt mắt ông. Đến nơi ông bảo:
- Người ta bịt mắt tôi ở chỗ
này và tôi quay người như thế này.
Tên cướp lấy khăn tay bịt mắt
ông, đi bên cạnh lúc thì dắt ông lúc đi theo cho đến khi ông dừng lại.
Đến đây Baba Mustafa nói:
- Hình như tôi không đi xa
hơn nữa đâu.
Và thực tế ông đứng trước
nhà Cassim mà Ali Baba đang ở. Trước khi mở khăn bịt mắt tên trộm nhanh nhẹn
dùng phấn chuẩn bị sẵn đánh dấu vào cánh cửa và khi đã mở mắt, hắn hỏi ông có
biết nhà của ai đấy không; ông trả lời mình ở khu khác nên không nói được. Tên
cướp thấy không thể biết gì hơn liền để Baba Mustafa trở về cửa hiệu, hắn cám
ơn ông vì đã làm ông vất vả rồi hắn, theo đường vào rừng, chắc mẩm được đồng bọn
đón tiếp tốt.
Một lúc sau khi tên cướp và
ông thợ giày chia tay nhau Morgiane ra khỏi nhà đi mua vài đồ lặt vặt lúc trở về
cô để ý đến dấu phấn ở cánh cửa, suy nghĩ rồi tự hỏi:
- Dấu hiệu này là thế nào?
Có kẻ nào muốn hại chủ mình hay làm để chơi vui. Dù với ý định ra sao tốt hơn
là cứ đề phòng mọi tình huống.
Cô cũng lấy phấn và do hai
ba cửa phía trên, phía dưới giống nhau, cô đánh dấu vào một chỗ như thế và vào
nhà không nói gì với ông bà chủ.
Tên cướp vào rừng gặp đồng bọn
còn sớm, báo tin về kết quả cuộc đi, khuếch trương vận may gặp ngay một người
qua đó nắm được tin tức mà không ai biết được. Hắn được mọi người nghe rất hài
lòng và tên tướng cướp khen ngợi sự nhanh nhẹn của hắn rồi nói:
- Anh em, chúng ta đừng để mất
thì giờ. Chúng ta trang bị vũ khí kín đáo và cùng đi. Vào đến thành phố chúng
ta phân tán để tránh nghi ngờ, hẹn gặp nhau ở quảng trường đứng rải rác cách xa
nhau, trong lúc đó tôi cùng anh đi đến ngôi nhà đã được đánh dấu rồi tôi xét
xem nên làm như thế nào cho phù hợp nhất.
Lời tên tướng cướp được đồng
bọn hoan nghênh, chuẩn bị cùng ra đi. Chúng đi từng hai, ba đứa, cách nhau vừa
phải và vào thành phố không bị nghi ngờ gì. Tên tướng cướp và tên do thám vào
thành phố cuối cùng, đến con đường đã đánh dấu nhà Ali Baba. Tên ấy dẫn tướng
cướp đến trước một trong những cánh cửa Morgiane đánh dấu nói đây là nhà hắn đã
đánh dấu. Nhưng tiếp tục đi để tránh nghi ngờ, tên chỉ huy nhận thấy cánh cửa
nhà sau cũng đánh đấu cách đó và cũng một chỗ như thế, hỏi tên do thám cái này
hay cái trước. Tên này bối rối không biết trả lời thế nào, càng lúng túng khi
chúng thấy bốn, năm cánh cửa những nhà tiếp theo cũng có dấu như vậy. Hắn khẳng
định với chỉ huy hắn chỉ đánh dấu một cánh cửa và nói thêm:
- Tôi không biết kẻ nào đánh
dấu thêm giống nhau đến thế, trong số lẫn lộn này tôi thú nhận không phân biệt
rõ nhà nào do tôi đánh dấu.
Tên chỉ huy thấy ý đồ của
mình bị phá huỷ, trở lại quảng trường nói với đồng bọn:
- Chúng ta đã mất công làm một
hành trình vô ích và chỉ còn cách về lại chỗ ẩn thôi. - Hắn đi trước và cả bọn
theo hắn cũng trật tự như khi chúng đến.
Về đến hang tên chỉ huy giải
thích lý do phải ra lệnh rút về. Tền dẫn đường bị ngay toàn thể toán cướp kết tội
chết; hắn cũng tự nhận thấy đáng lẽ phải đề phòng cẩn thận hơn và cứng cỏi đưa
cổ ra cho tên đến chặt đầu hắn.
- Để bảo vệ cả nhóm, không
thể không chuộc lại sai lầm, một tên cướp khác hứa sẽ làm tốt hơn kẻ bị trừng
phạt và đứng lên xin nhận nhiệm vụ. Được chấp nhận hắn đến hỏi Baba Mustafa như
đứa đầu, và lại được ông lão bịt mắt dẫn di chỉ nhà Ali Baba. Hắn đánh dấu bút
chì đỏ vào một chỗ kín đáo hơn, cho là cách dễ phân biệt với những nhà đánh dấu
phấn trắng.
Nhưng một lúc sau Morgiane
đi ra ngoài trở về, dấu đỏ cũng không thoát khỏi đôi mắt tinh tường của cô. Cô
cũng suy tính như lần trước và đánh dấu bút chì đỏ ở cánh cửa những nhà gần đấy
vào cùng chỗ.
Tên cướp trở về rừng đề cao
cách đề phòng của hắn như là không thể nhầm lẫn nhà ấy với những nhà khác. Tên
tướng cướp và đồng bọn tin tưởng, cùng ra thành phố theo trật tự lần trước,
cũng tráng bị vũ khí như thế, sẵn sàng thực hiện ý đồ đã chuẩn bị. Cả tên tướng
cướp và tên do thám thứ hai đến con đường trước nhà Ali Baba nhưng lại gặp phải
khó khăn như lần trước. Tên tướng cướp bực tức và tên do thám đưa đường cũng bối
rối vô cùng như tên làm nhiệm vụ trước đó.
Tên tướng cướp buộc phải rút
quân về, cũng không hài lòng như ngày vừa qua; tên cướp đi làm nhiệm vụ cũng chịu
hình phạt mà hắn sẵn lòng hứng chịu.
Tên chỉ huy thấy mất hai đồng
bọn dũng cảm, sợ sẽ thiệt hại thêm nếu giao cho những đứa khác đi tìm nhà Ali
Baba. Kinh nghiệm cho hắn thấy chúng hầu hết chỉ giỏi cướp giật không có đầu óc
biết trù tính. Hắn liền tự mình làm công việc ấy, hắn đi ra thành phố, nhờ Baba
Mustafa giúp như hai tên trước và không tiếp tục trò đánh dấu nhận nhà. Hắn
quan sát kỹ, không chỉ chú ý nhìn mà đi lại trước nhà nhiều lần để không nhầm lẫn
được.
Hài lòng về chuyến đi và biết
được điều mong muốn, hắn trở về rừng, vào trong hang chỗ cả toán đang chờ tuyên
bố.
- Các anh em, cuối cùng
không có gì ngăn cản được ta trả thù đích đáng về thiệt hại của chúng ta. Ta biết
chắc chắn nhà của tên có tội và dọc đường ta đã nghĩ cách diệt nó thật khôn
khéo để không kẻ nào biết được chỗ ẩn náu và kho báu của chúng ta mà vẫn tránh
được kết cục thảm bại.
Trong hai, ba ngày, bọn cướp
thu thập đủ những thùng không miệng hơi chật. Tên tướng cướp cho cắt rộng thêm
miệng thùng và sau khi cho từng đứa một vào trong từng thùng với vũ khí cần thiết,
hắn để hở một ít cho chúng thở còn thì đậy lại như những thùng đầy dầu và để ngụy
trang kỹ, hắn còn lấy dầu ở thùng đầy bôi bên ngoài.
Công việc bố trí như thế,
khi những con la mang ba mươi bảy tên cướp không có tên chỉ huy, mỗi đứa trong
một thùng và cả thùng đẩy dầu, tên chỉ huy đóng vai dẫn dắt lên đường vào thành
phố theo giờ đã định, đến nơi vừa mờ tối, khoảng một giờ sau khi mặt trời lặn.
Hắn đến thẳng nhà Ali Baba, dự tính xin ngủ lại với đàn la. Không cần gõ cửa, hắn
gặp Ali Baba ở cổng, đứng hóng mát sau bữa ăn tối. Hắn cho la dừng lại, đến
chào chủ nhà:
- Ông chủ, tôi từ xa đưa dầu
đến mai ra chợ bán, vào giờ này không biết trọ vào đâu. Nếu không làm phiền ông
quá, ông vui lòng cho tôi nghỉ lại nhà ông một đêm, tôi rất đội ơn ông.
Tuý Ali Baba đã thấy trong rừng
tên này, nghe cả giọng nói của hắn nhưng làm sao bác nhận ra tên tướng cướp dưới
lốt một người đi buôn dầu? Bác nói:
- Chúc mừng ông, xin mời vào
- Nói rồi bác né người để hắn vào cùng những con la.
Đồng thời Ali Baba gọi một
người nô lệ ra lệnh khi bỏ hàng xuống xong, đưa la vào chuồng, cho ăn cỏ khô và
lúa mạch. Bác cũng cất công vào bếp bảo Morgiane chuẩn bị ăn khuya nhanh chóng
cho khách vừa tới và chuẩn bị một chiếc giường trong phòng.
Bác còn niềm nở hơn: để đón
tiếp khách hết sức tử tế, khi thấy tên tướng cướp bỏ hàng trên la xuống, đưa la
vào chuồng rồi, đang chuẩn bị một chỗ ngủ ngoài trời, bác đến mời hắn vào phòng
khách và bảo hắn không nên ngủ ngoài sân. Tên tướng cướp cảm ơn, lấy lý do
không muốn làm phiền chủ nhà nhiều nhưng hắn thực sự muốn thực hiện ý đồ cho dễ
đàng và chỉ chấp nhận lòng tốt của Ali Baba sau nhiều lần bác nài ép.
Ali Baba không chỉ ngồi nói
chuyện với kẻ muốn giết bác cho đến lúc Morgiane phục vụ bữa ăn khuya, mà còn
tiếp tục trao đổi những câu chuyện mà bác nghe là khách thích và chia tay khi khách
đã ăn xong. Bác nói:
- Tôi để ông nghỉ ngơi; có
những việc gì cần ông cứ bảo, người nhà tôi sẵn sàng phục vụ ông.
Tên tướng cướp đứng dậy đưa
Ali Baba ra cửa và trong lúc Ali Baba vào bếp dặn dò Morgiane, hắn ra sân lấy
lý do đến chuồng gia súc xem có thiếu gì cho những con la không.
Ali Baba sau khl bảo chú ý
cho khách đừng để thiếu gì nói thêm:
- Morglane, sáng mai ta đi tắm
sớm, chuẩn bị khăn tắm cho ta đưa cho Abdalia (tên người hầu) và làm món cháo
ngon khi trở về để ta ăn - Sau đó bác về phòng đi nằm.
Tướng cướp ở chuồng la ra, đến
ra lệnh cho đồng bọn cần tiến hành công việc ra sao. Đi từ đứa đầu đến đứa cuốI
trong thùng dầu, hắn bảo:
- Khi ta quăng ra những viên
đá nhỏ từ phòng ta ngủ, các bạn dùng dao rạch thùng từ trên xuống dưới để ra
ngoài, ta sẽ ra đón các bạn.
Con dao bọn cướp cầm theo
thân mảnh và nhọn. Hắn đi vào nhà, đến cửa bếp thì gặp Morgiane cầm đèn đẫn hắn
lên phòng đã chuẩn bị cho khách, cô hỏi hắn có cần gì khác nữa không và đi ra.
Để khỏi bị nghi ngờ hắn tắt đèn, mặc cả quần áo đi nằm, sẵn sàng dậy khi đã chợp
mắt một lúc Morgiane không quên lời đặn của chủ, chuẩn bị khăn tắm đưa cho người
hầu, đặt nồi nấu cháo và trong lúc đun vừa sôi nồi cháo ngọn đèn trong bếp phụt
tắt. Không còn dầu, nến cũng hết. Làm sao đây? Cô cẩn có ánh sáng để đun xong nồi
cháo, nói điều đó với người hầu. Anh này bảo:
- Việc gì phải bối rối thế?
Ra lấy một ít dầu ở thùng ngoài sân kia kìa.
Morgiane cám ơn anh về lời
khuyên và trong lúc anh này vào phòng gần chỗ Ali Baba ngủ để sáng cùng đi nhà
tắm, cô cầm lọ đầu đi ra sân. Lại gần chiếc thùng gặp đầu tiên, tên cướp trốn
trong đó hỏi nhỏ:
- Đến giờ lồi ư?
Tuy tên cứớp nói rất nhỏ cô
cũng nghe được, hơn nữa tên tướng cướp kia hạ thùng từ những con la xuống, đã mở
các thùng một ít để đồng bọn hít thở không khí ở tư thế gò bó trong thùng.
Một nô lệ nào khác ngoài
Morgiane sẽ kinh ngạc vì thấy một người thay vì dầu có thể kêu ầm lên đưa đến
tai họa. Nhưng Morgiane khôn hơn, hiểu ngay phải giữ bí mật và hiểu ngay mối
nguy đang đe doạ Ali Baba, gia đình và cả bản thân cô nữa. Nghĩ phải tìm cách
im lặng đối phó theo khả năng mình, cô bình tĩnh lại, không để lộ ra một xúc động
nào, đóng vai tên tướng cướp, trả lời:
- Chưa đâu, lát nữa đã - Cô
lại gần thùng tiếp đó cũng câu hỏi và trả lời như thế cho đến thùng cuối cùng,
đầy dầu.
Qua đó Morgiane biết chủ
mình tưởng cho người buôn dầu nghỉ nhờ nhưng đã cho vào nhà mình ba mươi tám
tên cừớp kể cả chỉ huy của chúng. Cô vội múc đầy lọ dầu ở thùng cuối, trở vào bếp,
đổ dầu vào đèn thắp sáng lên rồi lấy chiếc chảo to, trở ra sân đổ đầy dầu vào,
đưa vào bắc lên bếp cho nhiều củi đun để dầu càng chóng sôi càng tốt nhằm mục
đích cứu cả gia đình. Khi dầu đã sôi, cô bưng chảo đổ vào mỗi thùng một lượng dầu
sôi đủ làm bỏng chết từng tên cướp trong thùng.
Hành động ấy chứng tỏ lòng
can đảm của Morgiane, thực hiện xong cô mang chảo không vào bếp, đóng cửa lại.
Tắt bớt lửa đủ để chín nồi cháo cho Ali Baba rồi thổi đèn, im lặng đứng trong
bóng tối nhìn ra cửa sổ xem việc xảy đến tiếp theo. Quả nhiên chưa đầy mười lăm
phút sau, tên tướng cướp tỉnh dậy. Hắn đứng lên lại mở cửa sổ nhìn ra thấy
không có ánh sáng, bốn phía rất im lặng, hắn ném những viên đá ra hiệu lệnh,
nhiều viên hắn nghe tiếng rơi trên thùng. Lắng tai nghe không thấy đồng bọn hoạt
động gì, hắn lo lắng ném đá lần thứ hai rồi thứ ba. Đá rơi xuống thùng nhưng
không một tên cướp nào động đậy, hắn không hiểu vì sao. Vội vàng ra sân hết sức
lặng lẽ, hắn lại gần chiếc thùng đầu tiên ghé xuống hỏi. đồng bọn tưởng đang ngủ.
Hắn ngửi thấy mùi dầu nóng và khét toát ra, biết rằng mưu mô giết Ali Baba, đất
nhà, lấy lại vàng của hắn đã thất bại. Hắn lại thùng tiếp đó và lần lượt những
thùng khác, thấy tất cả đồng bọn đều cùng chung số phận. Nhìn lượng dẩu thiếu hụt
hắn biết người ta đã làm thế nào để diệt gọn đồng bọn của mình. Thất vọng vì hỏng
việc, hắn chạy lại cửa ra vườn, nhảy tường từ vườn này sang vườn khác bỏ trốn.
Khi Morgiane không nghe tiếng
gì nữa và không thấy tên tướng cướp trở lại, chắc chắn hắn đã chạy qua cửa vườn
vì cổng nhà đã đóng kỹ. Hài lòng và rất vui mừng đã bảo vệ an toàn cho cả gia
đình, cô đi nằm và ngủ thiếp đi.
Ali Baba dậy trước lúc trời
sáng đi tắm cùng người hầu, không biết gì về sự việc kỳ lạ xảy ra trong nhà lúc
anh đang ngủ mà Morgiane không muốn đánh thức bác dậy quấy rầy giấc ngủ của bác
và cũng không đủ thì giờ trong lúc cứu nguy. Đi tắm về, mặt trời đã lên cao,
Ali Baba ngạc nhiên thấy những thùng dầu còn nguyên ở chỗ cũ, người buôn dầu
chưa chở ra chợ bán, hỏi Morgiane nguyên nhân. Cô ra mở cửa vốn để nguyên hiện
trạng cho bác thấy quang cảnh và giải thích:
- Ông chủ tốtt bụng của tôi,
Trời còn giữ gìn cho ông và gia đình! Ông hãy đến cùng tôi xem sẽ hiểu rõ hơn.
Alí Baba đi theo Morgiane đến
chỗ những chiếc thùng. Cô nói:
- Ông nhìn vào thùng xem có
dầu không?
Bác nhìn, thấy có người
trong thùng, sợ hãi lùi lại kêu thét lên. Morgiane bảo:
- Ông đừng sợ gì, người ông
thấy không làm hại được ông nữa. Hắn định làm nhưng không làm được gì nữa đối với
ông hay bất cứ ai; hắn chết rồi.
- Morgiane, cô vừa cho ta
xem như vậy nghĩa là sao? Giải thích rõ cho ta đi.
- Tôi sẽ trình bày rõ với
ông nhưng đừng quá ngạc nhiên và đừng gây ra tò mò cho những người xung quanh
biết điều rất quan trọng mà ông cần giấu kín. Ông cứ xem hết các thùng đi đã.
Ali Baba nhìn lần lượt vào
thùng từ chiếc đầu đến chiếc cuối đựng dầu, thấy lượng dầu giảm đáng kể, sau đó
đứng như bất động lúc nhìn vào những chiếc thùng, lúc nhìn Morgiane không nói một
tiếng vì quá kinh ngạc. Cuối cùng bác hỏi:
- Thế người buôn dầu ra sao
rồi?
- Người buôn dầu, - Morgiane
trả lời - còn ít buôn bán hơn tôi. Tôi cũng sẽ nói với ông hắn ra sao. Nhưng
ông vào phòng nghe kể lại thuận lợi hơn vì đã đến lúc tắm xong ông nên ăn bát
cháo để giữ gìn sức khoẻ.
Trong lúc Ali Baba vào phòng
Morgiane đi lấy cháo mang lên. Trước khi ăn, bác bảo:
- Hãy bắt đầu thoả mãn sự
nóng lòng muốn biết của ta đi. Kể lại cho ta nghe câu chuyện kỳ lạ ấy với mọi
tình tiết .
Vâng lời chủ, Morgiane nói:
- Thưa ông, tối qua lúc ông
đi nằm, tôi chuẩn bị khăn tắm của ông đưa cho Abdalia rồi nhóm bếp nấu cháo. Nước
sôi thì đèn tắt vì hết dầu; trong nhà không còn một giọt, nến cũng không.
Abdalia thấy tôi bối rối, nhắc tôi có những thùng đầy dầu ngoài sân, cậu ta
không ngờ cũng như tôi và chắc ông cũng thế. Tôi cầm lọ đựng dầu ra chỗ chiếc
thùng gần nhất. Lại gần thùng tôi nghe thấy một giọng nói hỏi nhỏ: Đến giờ rồi
ư? Tôi không sợ hãi, vì hiểu ra ngay mánh khoé của kẻ giả dạng lái buôn, tôi
không ngập ngừng trả lời: Chưa đâu nhưng sắp đến rồi. Tôi lần lượt lại các
thùng tiếp theo, nghe câu hỏi và cũng trả lời tương tự. Chỉ có dầu ở thùng cuối
cùng, tôi múc đầy lọ.
Tôi chọ rằng trong sân có ba
mươi bảy tên cướp đang chờ hiệu lệnh của tên tướng cướp để đốt cháy nhà ta mà
ông tưởng là người lái buôn và tiếp đãi tử tế. Không để mất thì giờ, tôi đưa lọ
dầu vào nhà, đốt đèn, lấy chiếc chảo to nhất trong bếp ra múc đầy dầu bắc lên bếp.
Tôi nhóm lửa và khi dầu sôi tôi đem rót vào từng thùng có bọn cướp để ngăn cản
chúng thực hiện ý đồ tàn ác.
Xong đâu đấy tôi trở vào bếp,
tắt đèn và nhìn qua cửa sổ im lặng quan sát việc làm của tên giả danh lái buôn
trước khi đi nằm.
Một lúc sau hắn quăng những
viên đá rơi trên thùng để la hiệu lệnh. Quăng đến lần thứ hai, thứ ba không thấy
đứa nào hành động gì, hắn ra sân đến từng chiếc thùng; do trời tối không trông
rõ, tôi chắc chắn hắn bỏ chạy theo đường qua vườn vì thất vọng về âm mưu thất bại.
Chắc chắn gia đình đã yên ổn, tôi bèn đi ngủ.
Kể xong Morgiane nói thêm:
- Đấy là câu chuyện ông muốn
biết. Đấy là tiếp theo một nhận xét hai, ba ngày nay mà tôi nghĩ không phải báo
với ông là một lần từ thành phố trở về lúc sáng sớm, tôi thấy trên cửa đánh dấu
trắng, ngày hôm sau đánh dấu đỏ, tôi nghĩ ai đó có ý đồ gì xấu nên mỗi lần tôi
cũng đánh dấu tương tự vào cả hai ba nhà trên dưới nhà ta. Nếu ông theo dõi việc
ấy, ông sẽ thấy những cái đó do mưu mô của bọn cướp trong rừng mà tôi không rõ
vì sao thiếu mất hai đứa. Dù sao thì đây là lần thứ ba chúng thề quyết giết hại
ông và nên đề phòng cẩn thận vì vẫn còn không phải chỉ có một tên trên đời. Tôi
sẽ không quên theo dõi để bảo vệ ông theo nhiệm vụ của mình.
Morgiane nói xong, Ali Baba
thấy mình chịu ơn cô nhiều, bác nói với cô:
- Ta không chết khi chưa thưởng
cô xứng đáng với công lao. Ta chịu ơn cô về mạng sống và để bắt đầu chứng tỏ
lòng biết ơn, ngay từ bây giờ ta trả lại tự do cho cô trong lúc chờ đợi làm đầy
đủ thủ tục. Ta khẳng định với cô chính bốn mươi tên cướp đặt bẫy đó với ta.
Chúa giải thoát cho ta qua những cách làm của cô; ta hy vọng: Người tiếp tục bảo
vệ ta trước sự tàn ác của chúng và diệt gọn chúng để giải thoát cho mọi người
những hành động ghê tởm của chúng. Điều chúng ta cần làm là chôn xác lũ bệnh dịch
của dân chúng này thật bí mật để không ai nghi ngờ gì về số phận của chúng. Ta
sẽ cùng làm việc này với Abdalia.
Khu vườn của Ali Baba dài rộng,
cuối vườn có nhiều cây to. Không chần chừ anh cùng người hầu đào một hố to
tương ứng với những xác bọn cướp cần chôn. Đất dễ đào, họ hoàn thành chóng
vánh, kéo xác chết ra khỏi thùng, để riêng vũ khí của bọn cướp, đưa những xác
chết ra cuối vườn xếp nằm trong hố lấp đất lại, phủ đều xung quanh nện mặt đất
bằng phẳng như trước. Ali Baba cho giấu kín những chiếc thùng và vũ khí, còn những
con la, anh cho đưa ra chợ nhiều lần để người hầu đứng bán.
Trong lúc Ali Baba làm mọi
cách để mọi người không biết vì sao bác trở nên rất giàu trong một thời gian ngắn
như thế, tên tướng cướp trở về rừng với sự nhục nhã không chịu nổi và day dứt
đúng hơn là xấu hổ vì thất bại khổ sở, ngược lại với dự tính, vào trong hang hắn
không quyết định được cần phải làm gì để đối phó với Ali Baba.
Cô độc trong chỗ ở tối tăm hắn
tỏ ra thật thảm hại. Hắn kêu lên:
- Những anh em dũng cảm! Các
anh ở đâu. Ta có thể làm gì cho các anh em đây? Phải chăng ta đã tập hợp và chọn
lựa các anh để trông thấy các anh bị giết chết tất cả một lúc thật thảm thương
và không xứng với lòng can đảm của các anh. Ta sẽ đỡ nhớ tiếc hơn nếu các anh
chết như những người dũng cảm gươm cầm trong tay. Bao giờ thì ta lại có được một
toán người hăng hái như các anh? Và khi muốn, làm sao ta có thể giữ gìn và
không để bao nhiêu vàng bạc, của cải làm mồi cho kẻ đã làm giàu một phần nhờ của
cải của chúng ta? Ta không thể không nghĩ đến phải lấy sinh mạng của nó. Điều
đó ta không làm được với sự hỗ trợ mạnh của các anh thì ta sẽ làm một mình và
làm thế nào để kho báu không bị tàn phá, sẽ không có người thừa kế, không có chủ
nào sau ta; của cải phải được bảo vệ và tăng thêm trong hậu thế.
Quyết đình như vậy, hắn
không còn lúng túng tìm cách thực hiện rồi sau đó đầy hy vọng và tâm trí bình
tĩnh hơn, hắn nằm ngủ, qua một đêm khá thanh thản.
Sáng hôm sau tên tướng cướp
dậy sớm, như đã dự dịnh hắn mặc bộ quần áo sạch sẽ phù hợp với việc ra thành phố,
hắn thuê một chỗ ở nhà trọ. Chờ đợi những gì xảy ra ở nhà Ali Baba sẽ có tiếng
vang, hắn hỏi người gầc cửa có tin gì mới trong thành phố không. Thấy người ấy
cho biết ngược hẳn điều hắn nghĩ, hắn cho rằng Ali Baba giữ kín để mọi người
không biết vì sao giàu lên và đo đó mà có kẻ muốn giết hại mình. Điều này càng
kích thích hắn tìm mọi cách để trừ khử Ali Baba cũng theo cách bí mật ấy.
Tên tướng cướp có một con ngựa
dùng để vào rừng đưa nhiều loại vải vóc đẹp ra chỗ trọ rất thận trọng để không
lộ nơi mình đến lấy. Khi đã đưa ra một số vải khá nhiều, hắn tìm thuê một cửa
hiệu, trang bị đầy đủ và mở cửa hàng. Cửa hiệu ở ngay trước mặt cửa hiệu của
Cassim trước đây và bây giờ do con trai Ali Baba quản lý.
Hắn lấy tên là Cogia
Houssain, là người mới đến không lo là quan hệ xã giao với những nhà buôn bên cạnh,
theo phong tục. Con trai Ali Baba rất trẻ tuổi tử tế, có hiểu biết, hắn lui tới
nới chuyện nhiều với cậu hơn những người khác và kết bạn với cậu. Ba, bốn ngày
sau khi hắn mở cửa hiệu, hắn nhận ra Ali Baba đến thăm con như thường vẫn làm
và sau đó được cậu cơn trai giới thiệu đó là bố mình, hắn tăng cường vồn vã,
săn đón, tặng quà, và nhiều lần cả chiêu đãi thân tình.
Con trai Ali Baba không muốn
chịu ơn hắn nhiều mà không trả lại tương xứng nhưng cửa hiệu của cậu chật hẹp
và không thuận tiện chiêu đãi như ý muốn, cậu bàn với bố về ý định của mình,
cho rằng mình không lịch sự nếu không đáp lại sự tử tế của Cogia Houssain.
Ali Baba vui lòng nhận chuẩn
bị bữa tiệc, bảo con:
- Con trai ta, ngày mai thứ
sáu những nhà buôn lớn như Cogin Houssain và con đóng cửa hiệu, sau bữa ăn tối
con đi dạo với ông ta, khi trở về làm thế nào đưa ông đi qua nhà bố và mời ông
vào: làm thế tốt hơn chính thức mờI mọc; ta sẽ bảo Morgiane chuần bị sẵn sàng bữa
ăn khuya.
Ngày thứ sáu, con trai Ali
Baba và Cogia Houssain gặp nhau ở một chỗ hẹn và cùng nhau đi dạo. Lúc trở về,
cơn trai Ali Baba đưa ông bạn đi vào con đường trước nhà bố mình, cậu dừng lại
gõ cửa và nói:
- Đây là nhà bố tôi. Nghe
nói ông cho tôi vinh dự được kết bạn, bố tôi muốn may mắn được làm quen; đề nghị
ông vào chơi cho bố tôi hài lòng như đã làm tôi vui thích.
Tuy Cogia Houssain đã đạt được
mục đích vào nhà Ali Baba nhưng để giết bác mà không bị nguy hiểm đến mình, hắn
giả vờ từ chối, ra vẻ muốn chia tay với ngườI bạn trẻ nhưng vừa lúc đó người hầu
ra mở cửa, con trai Ali Baba bước vào trước rồi cầm tay hắn kéo vào.
Ali Baba đón tiếp Cogia
Houssain cởi mở, hết sức tử tế, cám ơn hắn đã rất tốt với con trai mình. Bác
nói:
- Ông làm ơn cho nó cũng như
cho tôi; nó còn trẻ chưa hiểu biết cuộc sống, ông đã không nề hà góp phần đào tạo
nó.
Cogia Houssain tỏ ra thán phục
Ali Baba, khẳng định con trai bác chưa có kinh nghiệm như những ngườI già nhưng
đã có sự hiểu biết thay cho kinh nghiệm của vô số người.
Sau một lúc trao đổi nhiều vấn
đề khác nhau, Cogia Houssain muốn xin phép ra về. Ali Baba ngăn lại, nói:
- Ông chủ, ông định đi đâu?
Tôi đề nghị được có vinh dự cùng ăn khuya với ông. Bữa ăn tối mời ông rất không
tương xứng với ông nhưng dù sao tôi cũng mong ông sẵn lòng chấp nhận tấm lòng của
chúng tôi.
- Thưa ông Ali Baba - Cogia
HousBain nói - tôi rất tiếc lòng tốt của ông; nên tôi xin ông đừng cho là xấu
khi rút lui không dùng bữa với ông, mong ông tin rằng không phải vì tôi coi thường
hoặc bất lịch sự mà vì một lý do ông có thể tha thứ cho.
- Có thể là lý do gì ông chủ?
Ông cho biết được không?
- Vấn đề là tôi không ăn thịt,
không ăn ra-gu có muối. Ông thử nghĩ tôi sẽ Chịu đựng thế nào được khi cùng ăn
với ông.
- Nếu chỉ vì lý do đó thì
ông không thể từ chối làm tôi hài lòng vì bữa ăn được. Trước hết, trong bánh
nhà tôi không có thịt và ra-gu tôi hứa sẽ cũng không cớ muối trong khẩu phần phục
vụ ông; như vậy ông cứ ở lại tôi sẽ đi bảo nhà bếp làm, một lát tôi sẽ trở lại.
Ali Baba vào bếp ra lệnh cho
Morgiane đừng bỏ muối và thịt cho khách và chuẩn bị hai, ba ra-gu cũng không có
muối.
Morgiane sẵn sàng phục vụ
nhưng không nén được bất bình về lệnh mới này, nói với Ali Baba:
- Ông này là ai mà khó khăn
thế, không ăn cả muối? Nếu tôi làm nữa sẽ muộn, bữa ăn của ông không ngon.
- Đừng bực mình, Morgiane.
Ông ấy là một người tốt, cứ làm như ta bảo.
Morgiane vâng lời nhưng bất
đắc dĩ. Khi làm xong, tò mò muốn biết người thế nào mà không ăn muối. Abdalia dọn
bàn, cô giúp anh mang thức ăn lên. Nhìn Cọgia Houssain ngay lập tức cô nhận ra
là tên tướng cướp tuy đã khéo cải trang; quan sát kỹ cô thấy hắn có con dao găm
giấu dưới áo. Cô tự nhủ: Mình chẳng lạ là tên gian ác không muốn ăn muối với
ông chủ mình; kẻ thù không độI trời chung, hắn muốn giết hại ông nhưng mình sẽ
ngăn cản hắn .
Trong lúc mọi người ăn, cô
chuẩn bị mọi thứ cần thiết để thực hiện một kế hoạch táo bạo, vừa xong thì
Abdalia vào báo đã đến lúc phục vụ quả cây. Cô mang quả cây lên và phục vụ
khách trong lúc Abdalia dọn bàn. Sau đó cô đặt bên cạnh Ali Baba một chiếc bàn
nhỏ có chai rượu và ba chiếc cốc; đi ra cô dẫn Abdalia như cùng đi ăn với nhau,
để Ali Baba theo phong tục, tự do nói chuyện vui vẻ với khách, mời khách uống
rượu.
Cogia Houssain giả, đúng hơn
là tên tướng cướp nghĩ là dịp thuận lợi giết Ali Baba đã đến. Hắn nghĩ: Mình sẽ
chuốc rượu say cả hai bố con để đứa con trai dù còn sống cũng không cản trở được
mình đâm đao vào tim bố nó, rồi mình chạy trốn qua vườn như đã làm, trong lúc đầu
bếp và người hầu đang ăn hoặc đang ngủ trong bếp.
Giữa bữa ăn, Morgiane biết
rõ ý định của tên mạo danh Cogla Houssaln, không để hắn có thì giờ tiến làm việc
độc ác. Cô mặc chiếc áo vũ nữ sạch sẽ, tóc tai phù hợp, thắt chiếc thắt lưng bạc
nạm vàng, giắt một con dao găm cán và vỏ bao cùng loại kim khí rồi mang chiếc mặt
nạ thật đẹp. Cải trang như thế cô bảo Abdalla:
- Abdalia, anh cầm chiếc trống
đập nhịp, chúng ta ra mua vui cho khách của ông chử, bạn của con ông như đôi
khi chúng ta vẫn làm vào buổi tối.
Abdalia cầm trống đập nhịp bắt
đầu chơi, đi trước Morgiane vào phòng khách. Morgiane theo sau anh, cúi chào
thanh thoát trình diện như muốn xin phép biểu diễn.Ali Baba nói:
- Vào đi Morgiane, Cogia
Houssain sẽ xét xem cô có khả năng đến mức nào và sẽ nói ông nghĩ gì về cô.
–Anh ngoảnh về phía Cogia nói tiếp, - ông đừng nghĩ tôi phải chi phí về trò mua
vui này. Của nhà đấy, cô đầu bếp và người hầu, thỉnh thoảng vẫn biểu dlễn cho
tôi xem. Mong rằng ông không cho là khó chịu.
Cogia Houssain không ngờ Ali
Baba lại cho mua vui sau bũa ăn, hắn sợ không lợi dụng được thời cơ thuận lợi.
Trong trường hợp này hắn đành tự an ủi sẽ tìm được dịp bằng cách tiep tục thắt
chặt tình bạn với bố và con bác. Vì thế tuy muốn Ali Baba không cho biểu diễn
thì hơn, hắn vẫn vờ cám ơn và tỏ ra điều gì làm chủ nhà vui thích thì hãn cũng
vui thích.
Abdalia thấy hai người không
nói chuyện nữa, lại bắt đầu vỗ trống và hát một điệu vũ. Morgiane không kém một
nữ vũ công chuyên nghiệp nào, nhảy với phong cách làm ai cũng phải thán phục,
có lẽ chỉ tên giả danh Cogia Houssain không chú ý lắm.
Sau khi nhảy nhiều bài với
duyên dáng và sức mạnh như từ đầu, Morgiane rút lưỡi dao găm cẩm tay múa một điệu
vũ vượt hẳn những bài khác về động tác nhanh nhẹn, những bước kỳ lạ và những sức
bật tuyệt vời kềm theo kiểu múa dao lúc như tấn công, lúc như tự đâm vào lòng
mình.
Cuối cùng thở hổn hển cô giật
lấy chiếc trống của Abdalia cầm bằng tay trái, cầm dao tay phải, giơ mặt sau rỗng
của trống ra trước mặt Ali Baba, giống những vũ công chuyên nghiệp yêu cầu sự
hào phóng của khán giả.
Ali Baba ném một đồng tiền
vàng vào trống. Morgiane giơ tiếp cho con trai Ali Baba, và cậu cũng theo gương
bố. Cogia Houssaln thấy cô cũng sẽ đến sau đó, hắn liền cho tay vào túi rút sẵn
túi tiền để tặng quà, trong lúc đó Morgiane dũng cảm và quyết đoán, đâm lưỡi
dao vào giữa tim hắn làm hắn chết ngay trước khi cô rút dao ra.
Ali Baba và con trai hoảng hốt
trước hành động đó thét lên:
- A? Khốn nạn? - Ali Baba
kêu lên - Cô này làm gì thế? Muốn hại ta và gia đình à?
- Không phải làm hại; tôi
làm thế để bảo vệ ông – Cô lật áo Cogia Houssain chỉ con dao găm của hắn và nói
- Ổng thấy đấy, ông tiếp xúc với kẻ nguy hiểm nào thế này? Ông nhìn kỹ mặt sẽ
nhận ra kẻ buôn dầu giả mạo và là tên tướng cướp. Ông cũng không nghĩ đến việc
hắn không ăn muối? Ông còn muốn gì hơn nữa để kết thúc cuộc sống tàn ác của hắn?
Trước khi thấy hắn, tôi đã nghi ngờ khi ông bảo có một người khách như thế. Tôi
ra quan sát thì ông xem tôi đã không nhầm.
Ali Baba nhận rõ lại phải chịu
ơn Morgiane lần thứ hai cứu mình, bác ôm hôn Morgiane và nói:
- Morgiane, ta đã trả tự do
cho cô, bây giờ ta hứa lòng biết ơn của ta không đừng lại ở đó mà sẽ bù đắp đầy
đủ. Đã đến lúc ta nhận cô làm dâu trong gia đình.
Ngoảnh lại con trai, Ali
Baba nói:
- Con trai ta, ta nghĩ con rất
hiếu thảo để không lấy làm lạ việc ta cho Morgiane làm vợ con mà không hỏi ý kiến
trước. Con thấy đấy Cogia Houssain kết bạn với con vớí ý đồ dễ dàng giết ta hơn
và nếu hắn làm được việc đó, hắn cũng sẽ trả thù cả con( Hơn nữa con xem cưới
Morgiane làm vợ, con sẽ có chỗ dựa cho gia đình ngay cả khi ta còn sống và là
chỗ dựa của con cho đến cuối đời.
Cậu con trai vui lòng ngay lập
tức về cuộc hôn nhân, không chỉ vì cậu không muốn trái lời bố mà vì cậu cũng muốn
thế.
Sau đó người ta lo chôn cất
xác tên tướng cướp bên cạnh đồng bọn và việc đó làm bí mật đến nỗi qua rất nhiều
năm sau này, mọi người mới biết, nhưng thời gian làm người ta không quan tâm đến
câu chuyện đáng nhớ ấy nữa.
Mấy ngày sau, Ali Baba tổ chức
lễ thành hôn cho con trai và Morgiane trang trọng với buổi tiệc mừng rôm rả kèm
theo nhảy múa và diễn kịch những trò giải trí quen thuộc và hài lòng thấy bạn
bè, chòm xóm được mời tuy không biết rõ lý do đám cưới, nhưng vẫn công nhận những
đùc tính tốt đẹp của Morgiane, và hết lời ca ngợi lòng độ lượng, phúc hậu eủa
ông chủ.
Sau đám cưới, Ali Baba từ
khi mang thi thể của ông anh và vàng bạc ở hang về vẫn không dám đến hang nữa sợ
bị lộ, và còn nán lại một thời gian sau cái chết của ba mươi tám tên cướp kể cả
tên tướng vì nghĩ rằng còn hai tến sống sót.
Nhưng sau một năm, thấy
không có vụ khiêu khích nào đáng lo, tò mò muốn đến đấy xem sao, Ali Baba lên
ngưa đi đến hang. Thấy không có dấu vết người, ngựa gì, bác xuống ngựa buộc vào
cây, lại trước cửa nói: Vừng ơi, mở cửa! Cửa mở, anh bước vào, qua tình trạng
các vật trong hang không có gì thay đổi khoảng từ khi tên giả mạo Cogia
Houssain mở cửa hiệu biết rằng không có ai vào cũng từ thời gian ấy và cả bốn
mươi tên cướp đều đã bị diệt gọn. Bác không còn nghi ngờ gì chỉ một mình trên đời
biết bí mật mở cửa hang và kho báu ở đó đã thuộc về mình. Bác có đem theo chiếc
hòm, chất đầy vàng theo sức ngựa chở và trở về thành phố.
Từ buổi đó, Ali Baba dẫn con
đến cửa hang truyền lại bí mật mở cửa vào và sau đó truyền lại cho các thế hệ
sau của họ, thừa hưởng của cải có chừng mực, trải qua một cuộc sống sang trọng
và được quí mến của hàng ngũ danh giá nhất trong thành phố.
Sau khi kể xong chuyện này
cho vua Schahriar nghe, Scheherazade thấy chưa sáng, nàng bắt đầu kể tiếp chuyện
sau
Chương 38:
Ali Cogia, người lái buôn thành Bagdad
Dưới thời giáo chủ Haroun Alrasehid, ở thành
phố Bagdad có một người lái buôn tên Ali Cogia, không phải một trong những
thương gia giàu nhất cũng không phải loại kém nhất, ông ở trong nhà bố mẹ để lại,
không vợ không con. Trong thời gian nghỉ ngơi, ông rất hài lòng về việc buôn
bán của mình và trong ba đêm liền ông nằm mơ thấy một cụ già đáng kính nghiêm
khắc nhìn, quở trách ông chưa làm nhiệm vụ hành hương đến La Mecque.
Giấc mơ làm Ali Cogia bối rối. Là một tín đồ
Hồi giáo trung thành, ông biết mình có bổn phận tiến hành cuộc hành hương ấy
nhưng bận vì ngôi nhà, đồ đạc và một cửa hiệu, ông vẫn nghĩ có lý do chính đáng
để được miễn trừ, cố gắng thay thế bằng những bố thí và các việc thiện khác. Từ
lúc nằm mơ, lương tâm dồn nén sợ có tai hoạ gì xảy ra nên ông đành quyết định
không chần chừ làm nhiệm vụ đó.
Để năm tới có thể thoả mãn ý nguyện, Ali
Cogia bắt đầu bán hết đồ đạc, sau đó bán cửa hiệu và phần lớn hàng hoá, chỉ
dành lại những gì cần thiết cho cuộc hành hương đến La Mecque; về ngôi nhà ông
cho một người thuê một thời gian dài. Bố trí như thế, ông sẵn sàng chờ đoàn lữ
hành của thành phố Bagdad lên đường đi La Mecque để cùng đi. Việc độc nhất còn
lại là cất giữ an toàn số tiền một nghìn đồng vàng khỏi phải mang theo cồng kềnh
sau khi để riêng số tiền mang theo chi tiêu và cho những việc cần khác.
Ali Cogia chọn một chiếc hũ lượng chứa vừa phải,
bỏ một nghìn đồng vàng vào và chất đầy quả ô-l1iu lên trên. Sau khi gắn miệng
hũ, ông đưa sang nhà một lái buôn hàng xóm. Ông đè nghị:
- Người anh em, ông củng biết ít ngày nữa tôi
sẽ đi La Mecque cùng đoàn lữ hành. Ông làm ơn cho tôi gửi nhờ hũ ô-liu này và
giữ gìn cho đến lúc tôi trở về.
Người hàng xóm sẵn sàng, nói
- Đây là chìa khoá nhà kho của tôi; ông tự
mang hũ của ồng vào đấy, để chỗ nào tuỳ thích. Tôi hứa ông sẽ thấy lại nguyên vẹn
khi trở về.
Ngày đoàn lũ hành Bagdad lên đường đã tới,
Ali Cogia cùng một con lạc đà chở hàng hoá đã lựa chọn, cưỡI lên lưng con vật
đi theo đoàn, may mắn đến La Mecque yên bình. Ông cùng những người hành hương
khác đi viếng ngồi đền thờ nổi tiếng, hàng năm mọi người dân theo Hồi giáo từ
khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng, thành kính quan sát những buổi lễ được
thông báo. Khi làm xong nhiệm vụ hành hương, ông bày những hàng hoá mang theo để
bán hoặc trao đổi.
Hai thương gia đi qua, thấy hàng của Ali
Cogia rất đẹp dừng lài ngắm nghía tuy họ không cần. Thoả mãn tính tò mò rồi,
trong lúc rút lui người này nói với ngườI kia:
- Nếu ông lái buôn này bán ở Caires sẽ rất lời,
ông ta mang tới đó còn hơn bán ở đây quá rẻ.
Ali Cogia nghe họ nói thế và đã nghe nói hàng
nghìn lần về những vẻ đẹp của Ai Cập, ông quyết định ngay nhân dịp này đi một
chuyến du lịch tới đó. Như vậy ông gói lại hàng hoá và đáng lẽ trở về Bagdad,
ông lên đường đi Ai Cập theo đoạn lữ hành đi Caire. Đến đây ông không phải hối
hận về chuyến đi vì chỉ trong ít ngày ông bán hết số hàng hoá lãi rất nhiều so
với dự kiến. Ông mua hàng hoá khác với ý định qua bán ở Damas và chờ một đoàn sẽ
đi trong sáu tuần nữa, để thoả mãn tính tò mò của mình ông xem hết những gì
đáng tham quan ở Caire, ngắm nhìn Kim Tự Tháp, đi ngược đòng sông Nil, thấy những
thành phố nổi tiếng nhất hai bên bờ.
Trong chuyến đi Damas, con đường đoàn lữ hành
Damas qua Jerusalem, nhà buôn Bagdad tranh thủ tham quan ngôi đền mà mọi tín đồ
Hồi giáo xem là thánh đia chỉ sall La Mecque.
Ali Cogia thấy thành phố Damas rất đẹp vì dồi
dào nước, nhiều đồng cỏ, vườn cây mê hồn vượt xa những gì ông đọc được trong những
truyện kể, nên ở ìại đó khá lâu. Tuy thế vẫn không quên mình là người Bagdad,
cuối cùng ông ra đi, đến Halep ở lại một thời gian và từ đó sau khi vượt sông
Euphrate ông đi theo con đường đến Moussoul với ý định rút ngắn đường về xuôi
theo dòng sông Tigre .
Nhưng khi đến Moussoul, những thương giá BaTư
cùng đi với ông từ Halep và đã cùng nhau kết bạn thân thiết, có ảnh hưởng lớn tới
ông vì tính trung thực và chuyện trò dễ nghe, không khó khăn gì khẳng định với
ông không chia tay với đoàn trước khi đến Sehirag, vì từ đó về Bagdad thuận hơn
nhiều. Họ dẫn ông qua nhiều thành phố rồi mới đến Sehirag; ở đây ông lại thoả
thuận đi cùng họ sang Ấn Độ rồi mới trở lại Sehirag với họ.
Cứ thế, tính cả những thời gian lưu lại ở các
thành phố, Ali Cogia xa thành phố Bagdad cũng bảy năm lồi mới lên đường trê về.
Cho đến lúc đó người bạn ông gửi hũ ô- liu trước khi đi không nghĩ gì về ông
cũng như về chiếc hũ. Trong thời gian ông rời Sehirag cùng một đoàn người, người
lái buôn bạn của ông ở nhà trong một bữa ăn tối của gia đình, người ta nói đến
quả ô-liu và bà vợ mong muốn được ăn vì đã lâu lắm trong nhà không có.
Người chồng nói:
- Nhân chuyện ô-liu bà nhắc tôi nhớ ra khi đi
La Mecque cách đây bảy năm Áli Cogia có gửi chúng ta một hũ đầy, tự mình đưa
vào để trong kho và lúc trở về sẽ nhận lại. Nhưng từ khi đi đến nay Ali Cogia ở
đâu. Đúng là khi đoàn lữ hành trở về, có người nói với tôi ông ta sang Ai Cập.
Nhưng đã bao nhiêu năm nay ông không trở về, chắc đã chết bên ấy rồi; chúng ta
có thể ăn ô-liu nếu còn ngon. Ai đó đưa cho tôi cái da và đèn, tôi vào kho lấy
chúng nếm xem sao.
- Ông ơi - Bà vợ lại nói - nhân danh Chúa ông
đừng làm một việc đen tối như vậy; không có gì thiêng liêng hơn việc giữ hộ. Đã
bảy năm Ali Cogia đi La Mecque không về nhưng người ta bảo ông ta đi Ai Cập và
từ Ai Cập ông có biết đâu ông ta đi xa hơn nữa? Chưa có tin chết rồi thì ngày một
ngày hai ông ấy có thể trở về. Nếu ông không đưa trả lại chiếc hũ nguyên vẹn
như lúc gửi thì xấu hổ cho ông và gia đình biết mấy! Tôi tuyên bố với ông tôi
không thèm muốn những quả ô-liu ấy và tôi không ăn đâu. Hơn nữa ông nghĩ sau bấy
nhiêu năm, ô-liu còn ăn được ư? Thối và hỏng hết rồi. Và nếu Ali Cogia trở về
như tôi linh cảm thấy, thấy chúng ta có sờ mó đến ông ta sẽ xét đoán như thế
nào về tình bạn và tính trung thực của ông? Tôi khuyên ông từ bỏ ý định ấy đi.
Bà vợ thuyết phục lâu như vậy vì thấy có sự
ngang bướng thể hiện trên nét mặt chồng. Thực vậy ông không nghe những lời
khuyên đúng đắn, đứng dậy đi vào kho vớI đèn và một cái đĩa. Lúc đó bà vợ nói với
ông:
- Ít nhất ông cũng nhớ cho tôi không tham gia
vào việc ông sắp làm; nếu phải hối hận thì ông đừng đổ lỗi cho tôi.
Người lái buôn vẫn không nghe, cố làm theo ý
mình. Vào nhà kho ông ta lấy chiếc hũ mở nút thấy ô-liu đã hỏng hết. Để xem phần
dưới có nhũn thối như ở trên không, ông đổ ô-liu lên đĩa và trong lúc lắc mạnh
chiếc hũ, có vài đồng vàng rơi xuống.
Thấy thế, người lái buôn bản chất tham lam,
chú ý nhìn vào hũ nhận thấy ô- liu ông ta đă đổ hết xuống đõa, phần còn lại
toàn những đồng vàng rất đẹp. Ông bỏ lại vào hũ tất cả, nút chặt lại và về
phòng.
- Bà ơi - Ông nói với vợ lúc vào - ô-liu thối
hết, tôi đã nút kỹ hũ để Ali Cogia có trở về, ông ấy sẽ không nhận thấy.
- Đáng lẽ ông nghe tôi thì hơn - bà vợ bảo -
đừng sờ mó đến đấy. Mong chúa không để xảy ra điều gì xấu!
Ngườí lái buôn cũng hơi suy nghĩ về lời nói
này và thái độ của vợ. Ông ta nằm gần suốt đêm nghĩ cách chiếm đoạt số vàng của
Ali Cogia, làm thế nào để mình không bị rắc rối gì nếu ông ấy trở về đòi lại
chiếc hũ. Sáng sớm hôm sau ông ta đi mua những quả ô-liu mới trong năm, về vứt
hết những quả cũ trong hũ, lấy vàng giấu đi, bỏ đầy hũ những quả ô-liu mới mua,
gắn kín nút như cũ và đặt vào chỗ Ali Cogia đã đặt hũ.
Khoảng một tháng sau khi người lái buôn thực
hiện việc làm hèn hạ ấy mà ông ta sẽ phải trả giá, Ali Cogia trở về Bagdad sau
chuyến đi dài ngày. Do nhà đã cho thuê trước khi đi ông vào ở một phòng trong
nhà trọ, tin cho người thuê nhà tìm chỗ ở mới. Ngày hôm sau ông đến nhà người
lái buôn bạn; ông này vui mừng ôm hôn ông trở về sau chuyến vắng mặt quá lâu và
nói đã hết hy vọng gặp lại ông. Sau những lời chúc mừng qua lại thường có trong
một buổi gặp mặt như thế, Ali Cogia đề nghị cho xin lại chiếc hũ ông gửi và xin
lỗi đã làm phiền ông bạn nhiều.
- Ali Cogia, bạn thân mến của tôi - người lái
buôn nói - ông sai lầm vì đã xin lỗi tôi, tôi không hề phiền gì về chiếc hũ của
ông. Trong trường hợp ấy tôi cũng nhờ ông theo cách ông nhờ tôi thôi. Chìa khoá
kho của tôi đây, ông vào lấy đi, vẫn nguyên ở chỗ ông đã để.
Ali Cogia vào kho, lấy chiếc hũ, trả chìa
khoá và rất cám ơn đã được nhận lại được chiếc hũ. Trở về nhà trọ mở nắp hũ cho
tay vào phần giấu vàng, ông rất ngạc nhiên không thấy vàng nữa. Sợ mình nhầm
ông lấy đĩa, xoong chảo trút cả hũ ô-liu ra nhưng không có một đồng vàng nào.
Ông đứng lặng người, kinh hoàng giơ hai tay lên trời kêu:
- Có thể thế được chăng, một người tôi xem là
bạn tốt đã lừa lọc tôi hèn hạ đến như vậy?
Hốt hoảng sợ mất đi một số của cải lớn, trở lại
nhà người lái buôn ông nói:
- Ông bạn, ông đừng ngạc nhiên thấy tôi trở lại
đây. Tôi thú nhận đã nhận ra chiếc hũ tôi đã gửi. Cùng với những quả ô-liu, tôi
có để trong đó một nghìn đồng vàng mà bây giờ không thấy. Phải chăng có lúc ông
cần và đã sử dụng vào việc mua bán. Nếu thế, ông cứ sử dụng, chỉ để mong cất bỏ
nỗi phiền lòng cho tội, cho tôi biết và sau đó hoàn trả lại tôi khi thuận tiện.
Người lái buôn đã dự tính Ali Cogia đến nói
thế, cũng đã suy nghĩ câu trả lời.
- Ali Cogia bạn tôi - Ông ta nói - khi ông
mang hũ ô- liu đến, tôi có sờ đến không? Phải chăng tôi đã đưa chìa khỏa kho
cho ông, ông tự mang vào và đã lấy lại ở chỗ ông đặt, tình trạng nguyên vẹn và
nút chặt như cũ? Nếu ông để vàng trong đó ông phải tìm thấy chứ. Ông bảo tôi là
hũ ô-liu tôi cũng tin như vậy. Tôi biết tất cả chỉ thế, ông tin tôi thì tin,
tôi không sờ mó gì đến chiếc hũ.
Ali Cogia dùng mọi lời lẽ nhẹ nhàng để người
lái buôn trả lại số tiền. Ông nói:
- Tôi chỉ thích ổn thoả với nhau, không muốn
đi đến. những biện pháp tận cùng làm ông chẳng danh giá gì trước mọi người mà
tôi cũng phải ân hận. Ông nên nghĩ những thương gia chúng ta cần bỏ mọi lợi ích
để giữ lấy tiếng tăm. Một lần nũa mong ông không nên cố tình như thế buộc tôi
phải đưa vấn đề ra trước pháp luật; tôi vẫn thích thiệt thòi một ít gì đó còn
hơn phải xét xử.
- Ali Cogia - Người lái buôn lại nói - ông thừa
nhận gửi chỗ chúng tôi một hũ ô-liu, ông đã lấy lại rồi và bây giờ trở lại đòi
tôi một nghìn đồng vàng? Ông có nói với tôi có vàng trong đó đâu? Thậm chí tội
không biết có ô-liu không, ông có mở cho tôi xem đâu; rất ngạc nhiên thấy ông
không đòi ngọc hay kim cương thay vì vàng. Thôi, ông về đi, đừng làm nhiều người
tập hợp trước cửa hiệu tôi.
Một số người đã dừng lại đó và những lời nói ấy
của người lái buôn tỏ ra rất căng thẳng không chỉ làm một số đông dừng lại mà
những người buôn quanh đấy cũng phải ra khỏi cửa hàng đến xem họ cãi nhau về việc
gì và cố gắng dàn xếp. Khi Ali Cogia trình bày vấn đề, những người sáng suốt nhất
hỏi ông bạn lái buôn trả lời ra sao.
Người lái buôn nhận có giữ chiếc hũ của Ali
Cogia gửI trong kho nhà mình nhưng chối là không sờ đến; ông ta thề chỉ biết có
ô-liu vì nghe Ali Cogia nói và đề nghị họ làm chứng về việc bị Ali Cogia xúc phạm,
chửu rủa ông ta ngay tại nhà.
Ali Cogia bèn nắm lấy cánh tay người lái buôn
và nói:
- Chính ông chuốc lấy sự xúc phạm. Ông đã
thâm độc như vậy, tôi sẽ nhờ đến luật lệ của Chúa. Để xem ông có dám nói như thế
trước quan toà không.
Trước lời thúc bách ấy mà mọi tín đồ Hồi giáo
đều phải nghe theo để khỏi phản nghịch đối với tôn giáo, người lái buôn không
dám chống cự. Ông ta nói:
- Nào thì đi, tôi cũng đòi hỏi như thế. Rồi sẽ
biết ai sai, ông hay tôi.
Ali Cogia dẫn người lái buôn đến toà án,
trình bày sự việc và kết tội người lái buôn lấy cắp một nghìn đồng vàng. Quan
toà hỏi có người làm chứng không. Ông trả lời không đề phòng đến trường hợp ấy
vì vẫn tưởng gửi ở nhà một người bạn mà cho đến lúc đó ông vẫn nghĩ là người
trung thực.
Người lái buôn không nói gì khác ngoài những
lời đã nói với Ali Cogia và trước mặt những người hàng xóm. Kết thúc ông ta nói
sẵn sàng khẳng định bằng lời thề, lời kết tội ông ta lấy một nghìn đồng vàng là
sai, thậm chí ông cũng không hề biết có vàng. Quan toà bắt ông ta thề và sau đó
cho về miễn bị truy tố.
Ali Cogia, vô cùng đau đớn vì mất một số tiền
lớn, kháng nghị chống lại việc xét xử ấy, tuyên bố với quan toà sẽ kêu lên giáo
chủ Haroun Alraschid nhưng quan toà không lạ việc chống án cho là phản ứng tất
nhiên của người thua kiện, ông ta nghĩ mình đã làm đúng nhiệm vụ không truy tố
một bị cáo không có chứng cứ.
Trong lúc người lái buôn thắng được Ali Cogia
trở về nhà, vui sướng chiếm được một nghìn đồng vàng dễ dàng đến thế, Ali Cogia
viết một lá đơn, ngay hôm sau nắm vững thời gian nhà vua đi nhà thờ cầu kinh đến
trưa trở về cung, ông đứng bên đường lúc nhà vua đi qua hai tay nâng lá đơn và
một võ quan hầu cận tách ra khỏi hàng đến nhận đơn kiện đưa trình lên giáo chủ.
Ali Cogia biết nhà vua Haroun Alraschid có
thói quen về cung sẽ đọc ngay những loại đơn khiếu nại như thế, nên ông đi theo
đoàn hộ tống vào trong cung chờ viên võ quan đã nhận đơn đi ra. Viên võ quan đó
bảo nhà vua đã đọc lá đơn, hẹn giờ xét xử vào ngày hôm sau rồi hỏi địa chỉ người
lái buôn, và chũ người triệu tập ông ta cũng vào giờ đó.
Buổi tối hôm ấy, nhà vua cùng quan tể tướng
Giafar và trưởng thái giám Mesrour cùng cải trang đi khảo sát trong thành phố.
Qua một con đường nghe thấy tiếng ồn, nhà vua bước nhanh tới một cánh cổng nhìn
vào và thấy trong sân khoảng mười, mười hai đứa trẻ chơi đưới trăng sáng.
Tò mò muốn biết những đứa trẻ chơi trò gì, ông
ngồi xuống chiếc ghế đá cạnh cổng, tiếp tục nhìn vào qua khi cửa. ông nghe một
đứa trong bọn, có vẻ nhanh nhẹn, thông minh hơn cả, nói với những đứa kia:
- Chúng ta chơi trò xử án; ta là quan toà;
hãy dẫn vào đây Ali Cogia và người lái buôn ăn cắp một nghìn đồng vàng.
Nghe lời nói của đứa trẻ, nhà vua nhớ đến lá
đơn trình lên ông ngày hôm ấy và ông đã đọc; điều đó càng làm ông chú ý hơn để
xem kết quả xét xử ra sao.
Vì vụ Ali Cogia và người lái buôn mới xảy ra,
gây tiếng vang lớn trong thành phố đến cả bọn trẻ con cũng biết nên những đứa
trẻ khác cùng chơi vui vẻ chấp nhận và thống nhất với nhau phân vai. Tất cả đều
cử đứa trẻ đề xướng làm quan toà. Cậu bé bắt đầu phiên toà với điệu bộ và thái
độ nghiêm trang của một quan toà; một cậu khác trong vai viên thư lại ở toà án
giới thiệu hai cậu, một là Ali Cogia và cậu nữa là người lái buôn mà Ali Cogia
đưa đơn kiện.
Cậu đóng giả quan toà lên tiếng, nghiêm khắc
hỏi cậu bé trong vai Ali Cogia:
- Thế nào, Ali Cogia, ông đòi hỏi điều gì ở
người lái buôn kia?
Cậu đóng Ali Cogia cúi chào rất thấp, kể lại
chi tiết từ đầu đến hết câu chuyện và xin được quan toà phán xử để không mất một
số tiền lớn như vậy.
Lắng nghe trình bày xong, quan toà ngoảnh lại
người lái buôn hỏi vì sao không trả lại Ali Cogia món tiền trên.
Cậu bé đóng vai người lái buôn nói những lý lẽ
như người lái buôn thật nói trước toà án Bagdad và cũng đề nghị khẳng định sự
thật bằng lời thề.
- Không đi nhanh đến thế - Quan toà đóng giả
nói - trước khi để ông thề, ta muốn xem những quả ô-liu đã. Ali Cogia, ông có
mang theo hũ không?
Nghe nói không mang theo, quán toà bảọ:
- Đi lấy đến đây cho ta xem.
Cậu đóng giả Ali Cogia đi một lúc rồi mang
chiếc hũ đến đặt trước mặt quan toà, cậu nói đó chính là chiếc hũ đã gửi và lấyvề
lại. Không bỏ sót thủ tục nào, quan toà hởi người lái buôn có công nhận chiếc
hũ ấy không; người lái buôn im lặng công nhận không dám chối nên quản toà ra lệnh
mở nắp hũ. Ali Cogia mở ra, quan toà nhìn vào trong hũ nói:
- Những quả ô-liu rất đẹp, ta muốn nếm thử.
Vờ lấy một quả nếm,quan toà giả nói thêm:
- Ngon lắm. Nhưng những quả o-liu giữ trong bảy
năm ta thấy hình như không được ngon như vậy. Bảo những người buôn ô-liu tớI chổ
họ xem thế nào.
Hai cậu bé được đưa tới với tính cách lái
buôn ô-liu. Quan toà hỏi:
Thấy họ trả lời đúng là nghề nghiệp ấy của họ,
quan toà hỏi thêm:
- Các ông cho ta biết ô-liu được giữ gìn cẩn
thận, qua bao nhiêu năm vẫn ăn ngon?
- Thưa quan toà - Những cậu bé đóng giả lái
buôn ô- liu trả lời - dù bỏ công sức bảo quản đến mấy, đến năm thứ ba quả ô-liu
không còn đáng giá gì, không màu khộng mùi vị chỉ đáng vứt đi.
- Nếu như thế, các ông nhìn vào hũ kia và cho
ta biết những quả ô-liu ấy người ta bỏ vào đó bao lâu rồi?
Những người lái buôn quan sát, nếm thử và xác
nhận với quan toà những quả ô-liu vừa bỏ vào và còn ngon.Quan toà bảo:
- Các ông nhầm rồi - Ali Cogia nói đã bỏ
ô-liu vào hũ bảy năm rồi kia mà.
- Thưa quan toà - Những người lái buôn được
xem như chuyên gia lại nói - điều chúng tôi có thể khẳng định những quả ô-liu
này vừa hái trong năm nay.
Chúng tôi chắc chắn tất cả những người buôn
ô-liu ở thành phố Bagdad không một người nào nói khác chúng tôi.
Người lái buôn bị Ali Cogia tố cáo định mở miệng
bác lời xác nhận của eác chuyên gia nhưng quan toà không cho nói.
- Im đi, anh là một đứa ăn cắp, đem treo cổ
nó lên!
Bọn trẻ kết thúc trò chơi như thế, vỗ tay vui
vẻ và vờ lao đến kẻ tội phạm giả đưa đi hành hình.
Không tả hết được sự khâm phục của nhà vua
Haroun Alraschid về trí óc khôn ngoan của đứa trẻ vừa xét xử thông minh đến thế
vụ kiện ngày mai sẽ đưa ra trước mặt ông.
Rời mắt khỏi khe cửa, nhà vua đứng dậy hỏi vị
tể tướng cũng vừa chú ý theo dõi việc xảy ra xem ông có nghe việc xét xử của đứa
bé không và ông nghĩ như thế nào về chuyện đó.
- Thưa vị lãnh đạo những tín đồ - Đại thần
Giafar trả lời - người ta không ai ngạc nhiên hơn thần về sự thông minh của lứa
tuổi còn ít như vậy.
- Nhưng ông có biết một điều là ngày mai ta
phải xử chính vụ ấy mà Ali Cogia thật vừa đệ đơn khiếu nại lên ta?
- Tôi có đuợc Người cho biết ạ.
- Ông nghĩ ta có sự xét xử nào khác ngoài việc
phán quyết chúng ta vừa nghe?
- Nếu cũng là vụ việc ấy, tôi thấy có lẽ Người
không thể có cách xử nào khác đúng hơn và tuyên bố đúng hơn được.
- Vậy ông ghi lấy ngôi nhà này và ngày mai
cho dẫn đứa bé đã xét xử vụ ấy đến trước mặt ta. Triệu tập cả quan toà đã miễn
tố tên lái buôn ăn cắp để cho hắn phải học theo gương một đứa bé mà sửa chữa.
Ta cũng muốn ông báo cho Ali Cogia mang hũ ô-liu đến và gọi thêm hai lái buôn
ô-liu đến phiên toà.
Nhà vua chỉ thị như thế và tiếp tục cuộc vi
hành không gặp một điều gì đáng chú ý nữa.
Ngày hôm sau vị tể tướng Giafar đến ngôi nhà
ông đã chứng kiến trò chơi của bọn trẻ, hỏi gặp ông chủ nhưng ông ta đang đi vắng
nên chỉ gặp bà vợ. Tể tướng hỏi về những đứa con. Bà bảo có ba đứa và gọi ra
trước mặt ông. Ông nói:
- Các cháu, tối hôm qua chơi với nhau, cháu
nào đóng vai quan toà thế?
Đứa lớn nhất tái mặt nói chính là mình và
không biết vì sao ông hỏi như vậy. Vị tể tướng nói:
- Con trai ta, con đi với ta, vị lãnh đạo các
tín đồ muốn gặp con.
Bà mẹ hoảng sợ thấy vị tể tướng muốn đưa con
đi, vội hỏi:
- Thưa ngài, có phải nhà vua muốn gặp con tôi
không?
Vị tể tướng liền chấn an bà, và bảo cậu bé sẽ
trở về chóng thôi và khi nó về bà sẽ biết lý do và bà sẽ rất hài lòng.
- Nếu vậy - Bà mẹ xin cho phép tôi bảo cháu mặc
quần áo sạch sẽ hơn khi đến trước đức thống lĩnh của các tín đồ.
Và bà cho con thay ngay quần áo. Vị tể tướng
đưa đứa bé trình diện nhà vua vào giờ ông triệu tập Ali Cogia và người lái buôn
đến nghe xét xử.
Nhà vua chủ thấy đứa bé có vẻ sợ hãi và muốn
chuẩn bị tinh thần cho nó, ông nói:
- Lại đây con trai, có phải con hôm qua đã
xét xử vụ Ali Cogia và tên lái buôn ăn cắp vàng. Ta đã thấy và nghe con xét xử,
ta rất vui lòng.
Đứa bé không bối rối, khiêm tốn trả lời là
chính nó. Nhà vua lại nói:
- Con trai, hôm nay ta cho con ,thấy Ali
Cogia và tên lái buôn thực sự; con đến ngồi đây.
Nhà vua dắt tay đứa bé lên cho ngồi cạnh mình
và ra lệnh đưa các bên nguyên và bị cáo vào. Người ta dẫn họ vào, gọi tên trong
lúc họ quỳ trước ngai vàng dập trán xuống tấm thảm trước đó. Khi họ đứng lên, vị
giáo chủ nói:
Mỗi người trình bày yêu cầu, lý lẽ của mình
đi; đứa bé này sẽ nghe các anh và xét xử,nếu thiếu gì ta bổ sung.
Ali Cogia và người lái buôn lần lượt trình
bày và khi người lái buôn đề nghị cho thề như lần xét xử trước, đứa bé bảo chưa
đến lúc, trước hết đưa xem hũ ô- liu đã.
Ali Cogia đưa hũ ô-liu đến, đăt ở chân nhà
vua và mở nắp. Nhà vua nhìn những quả ô-liu, lấy một quả nếm thử. Hũ được chuyển
cho những người lái buôn có kinh nghiệm được triệu tập đến; họ nhận định những
quả ô-liu vẫn ngon và mới được hái trong năm. Đứa bé nói với họ Ali Cogia khẳng
đlnh đã bỏ vào hũ cách đây bảy năm; họ trả lời đúng như nhũng đứa bé giả làm
lái buôn chuyên nghiệp đêm xét xử.
Đến đây lái buôn bị cáo thấy rõ hai lái buôn
chuyên nghiệp vừa kết án hắn; muốn đưa ra nhiều lý do thanh minh nhưng đứa bé
kiên quyết cho treo cổ. Nó nhìn vị giáo chủ nói:
- Thưa đức Thống lĩnh các tín đồ, đây không
phải là một trò chơi: chính do Người kết án tử hình thực sự chứ không phải con,
hôm qua con làm như thế để cười đùa với nhau thôỉ.
Nhà vua thấy rõ tâm địa xấu của lái buôn bị
cáo, giao cho đao phủ đưa treo cổ sau khi hắn thú nhận chỗ cất giấu tiền. Một
nghìn đồng vàng được đưa trả lại cho Ali Cogia. Vị thống lĩnh này cảnh cáo quan
toà xét xử lần đầu, cũng đăng có mặt, phải học tập một đứa bé trong việc thi
hành công lý cho chính xác hơn. Ông ôm hôn đứa bé, rồi cho nó về với món tiền
thưởng hào phóng là một trăm đồng vàng.
Chương 39: Con ngựa thần diệu
Scheherasade đã tiếp tục kể
những câu chuyện rất hay làm vua Ấn ĐỘ vô cùng vui thích, sau đó nàng chuyển
sang chuyện con ngựa thần. Nàng nói:
- Thưa bệ hạ, ngày mới tức
ngày đầu năm và đầu mùa xuân là một ngày lễ long trọng và lâu đời trên toàn đất
nước Ba Tư. Ngày đó đã được đức thánh tối cao và anh linh của chúng ta đặt ra từ
thủa sơ khai và duy trì cho đén nay; không chỉ có những thành phố lớn, mà không
một thành phố nhỏ nào, không một ngoại ô, xóm làng nào không tổ chức với những
trò vui khác thường.
Những thú vui chơi ấy ở triều
đình thật rầm rộ vì các trò dIễn mới và kỳ lạ; người ở các nước lân cận, thậm
chí ở những nước xa nhất cũng bị thu hút đến vì các phần thưởng và sự hào phóng
của nhà vua đối với những ngườI xuất sắc về sáng kiến và công trình của họ, vì
thế không có chỗ nào trên thế giới có được lễ hội rực rỡ như vậy.
Một trong những buổi lễ ấy,
sau khỉ những người thành thạo, thông minh nhất trong nước cùng những người nước
ngoài đến Schiraj là triều đình lúc đó, trình diễn những trò giải trí cho nhà
vua và triều đình xong nhà vua đã rộng rãi khen thưởng những người tài giỏi đã
biểu diễn những tiết mục kỳ lạ, đẹp, hoàn hảo nhất. Khi vua chuẩn bị ra về và
cho nghỉ thiết triều thì một người Ấn Độ đến trước ngai vàng dắt một con ngựa đầy
đủ yên cương sang trọng, thiết kế tinh vi đến mức lúc đầu người ta tưởng là ngựa
thật.
Người Ấn Độ quỳ xuống trước
ngai vàng rồi đứng lên chỉ vào con ngựa nói:
- Thưa bệ hạ, tuy thần dân
là người cuối cùng tham dự cuộc thi nhưng thần xin cam đoan trong lễ hội này
Người không thấy có trò vui nào tuyệt vời, lạ lùng hơn con ngựa này, khẩn cầu
Người để ý đến cho.
- Ta không thấy con ngựa này
- Vua nói - có gì khác hơn nghệ thuật làm giống như thật nhưng một người thợ
khác có thể cũng làm được như thế, thậm chí hoàn mỹ hơn.
- Thưa bệ hạ, không phải thần
có ý định trình với Người thiết kế và dáng vẻ bề ngoài con ngưa mà là một kỳ
quan. Chính bởi cách sử dụng của thần và bất cứ ai thần trao đổi về bí mật điều
khiển. Khi thần lên ngựa bất cứ ở đâu, xa xôi mấy, nếu muốn bay trên không thần
cũng thực hiện được ngay. Tóm lại, thưa bệ hạ, đớ là một kỳ quan và chưa ai được
nghe nói; nếu bệ hạ ra lệnh thần sẽ làm thử để Người xem.
Vua Ba Tư, tò mò về tất cả
những gì kỳ diệu, sau khi đã thấy và tìm tòi để thấy bao nhiêu điều lạ, chưa hề
thấy hoặc nghe nói điều gì tương tự như thế. Nhà vua liền đồng ý để người Ấn Độ
làm thử như ông ta ,vừa nói để xem thực hư thế nào.
Người Ấn Độ cho ngay chân
vào bàn đạp nhẹ nhàng nhảy lên ngựa và khi đã đưa chân sang bàn đạp kia, ngồi vững
vàng trên yên ông ta liền hỏi nhà vua rằng NgườI muốn bảo ông ta đi đâu.
Cách Schiraj khoảng ba dặm
có một ngọn núi cao trông rõ cả quảng trường nơi nhà vua ra mắt dân chúng trước
hoàng cung. Vua chỉ ngọn núi đó nói với người Ấn Độ:
- Ngựơi thấy ngọn núi ấy chứ?
Ta muốn ngươi bay đến đó. Khoảng cách không xa nhưng ta chỉ cần biết ngườI đi
và về có nhanh chóng không. Do không nhìn theo ngươi mãi được, để chứng tỏ
ngươi đã đến đó, ngươi hãy đem về cho ta một lá cọ ở cây dưới chân núi.
Vua Ba Tư vừa nói xong, người
Ấn Độ chỉ vặn một cái chất trồi lến một chút ở cổ ngựa quay nắm tay về phía
yên. Ngạy lập tức con ngưa rời mặt đất nâng người cưỡi lên không như tia chốp,
cao đến nỗi những người mắt tinh tường nhất cũng không trông thấy; việc đó làm
nhà vua, cận thần và những người tập hợp quanh đó kêu lên thán phục.
Không đầy mười lăm phút sau
người ta thấy người Ấn Độ trên không trở về với lá cọ cầm tay: Ông ta bay trên
quảng trường tung tăng nhiều vòng theo tiếng hoan hô của dân chúng rồi hạ xuống
dừng lại trước ngai vàng đúng chỗ ông bay đi không một cử động của con ngựa làm
khó chịu người cưỡi. Ông ta nhảy xuống; lại gần ngai vàng quỳ xuống đặt chiếc
lá cọ dướì chân vua.
Vua Ba Tư chứng kiến cảnh ấy
vừa ngạc nhiên vừa thán phục muốn được có ngay con ngựa, nhà vua định sẽ trả bất
cứ món tiền nào mà người Ấn Độ đòi. Nhà vua nói:
- Ta đã chỉ nhìn diện mạo
con ngựa của ngươi nên đã đánh giá nó không đúng. Tạ cám ơn ngươi đã làm ta nhận
ra sai lầm và để chứng tỏ ta quý trọng nó ra sao, ta sẵn sàng mua nó nếu ngươi
bán.
- Thưa bệ hạ, thần chàng
nghi ngờ gì trong những vị vua trị vì trên quả đất hiện nay bệ hạ là người,
sáng suốt nhất trong mọi việc và đánh gIá đúng giá trị mọi thứ, sẽ là công bằng
đối với con ngựa của thần khi bệ hạ lưụ ý đến giá trị của nó. Thần cũng đã dự
kiến Người không chỉ khen ngợi mà còn muốn có nó như Người vừa nói. Về phần thần,
thưa bệ hạ, tuy thần biết như bất cứ ai về gỉá trị của nó và được có nó tức là
thần đã có được là tên tuổi mình bất tử trên đời. Nhưng thần có thể dứt bỏ sự
đam mê mạnh mẽ ấy để làm niềm say mê của đấng cao quý được thoả mãn. Trình bày
điều đó với bệ hạ, thần cũng xin đề nghị một điều khác dính líu đến điều kiện
mà không có được thần sẽ không thể chuyển con ngựa sang tay người khác và có lẽ
Người sẽ không hài lòng. Bệ hạ biết cho, thần không bán con ngựa này. Thần có
nó từ người chế tạo ra nó khi anh ta đề nghị thần gả đứa con gái độc nhất cho
anh ta và buộc thần không được bán mà chỉ chuyển cho ngườì khác bằng cách đổi
chác thần thấy thích hợp.
Người Ấn Độ muốn nói tiếp
nhưng nghe nói có sự đổi chác, Nhà vua ngắt lời ông ta.
- Ta sẵn sàng - Vua nói - chấp
nhận cuộc đổi chác nào ngươi yêu cầu. Ngươi biết vương quốc ta rộng rãi, nhiều
thành phố lớn giàu có và đông dân. Ta để ngươi chọn thành phố nào tuỳ thích, được
hưởng toàn bộ quyền lực và thống trị những năm cuối đời .
Việc trao đổi ấy thực sự
vương giả trong triều đình Ba Tư nhưng còn rất thấp so với đề nghị của người Ấn
Độ. Ông ta muốn cái gì đó cao hơn nhiều, nên ông ta trả lờI nhà vua:
- Thưa bệ hạ, thần rất đội
ơn về điều Người ban cho và hết lòng cảm kích về lòng đại lượng của Người. Tuy
vậy xin khẩn cầu Người đừng phật lòng nếu thần dám táo tợn nói rõ thần chỉ có
thể chuyển con ngựa lên Người khi được Người cho phép cưới công chúa con gái
Ngườl làm vợ. Thần đã quyết tâm chỉ chịu mất tài sản ấy với giá đó.
Cận thần vây quanh vua Ba Tư
không ngăn được cười phá lên trước đòi hỏi quá đáng của người Ấn Độ. Hoàng tử Firouj
Schah,con trưởng của vua và là người sẽ thừa kế ngai vàng, giận dữ khi nghe yêu
cầu đó. Vua thì nghĩ khác, ngài cho rằng có thể hy sinh công chúa để thoả mãn ý
thích của mình. Tuy vậy ngài đang cân nhắc xem có nên như thế không.
Hoàng tử Firouj Schah thấy
phụ hoàng ngập ngừng chưa trả lời, sợ ngài chấp nhận lời đòi hỏi mà chàng xem
như thoá mạ danh giá nhà vua, công chúa và bản thân mình, liền phát biểu để nhà
vua dè chừng:
- Thưa phụ hoàng, xin Người
thứ lỗi nếu con nói có thể nào Người còn đắn đo không từ chối yêu cầu hỗn láo của
một người không là gì, một tay làm trò ảo thuật hèn hạ, để hắn một lúc hí hửng
sẽ được thông gia với một trong những nhà vua hùng mạnh nhất trên địa cầu? Con
khẩn cầu Người xem lại không chỉ đối với riêng mình mà cả đối với dòng máu và sự
cao quý của tổ tiên.
- Con trai ta - Vua Ba Tư
nói - ta thông cảm với thái độ của con về nhiệt tình con chứng tỏ để bảo vệ ánh
hào quang về nguồn gốc sinh thành nhưng con chưa đánh giá đúng mức tính ưu việt
của con ngựa này của người Ấn Độ. Nếu ta từ chối lời đề nghị đó có thể ông ta sẽ
đến chỗ khác yêu cầu và người ta sẽ không bỏ qua của quý đầy danh giá đó. Ta sẽ
thất vọng nếu một ông vua khác có thể tự hào đã đại lượng hơn ta, và lấy mất của
ta con ngưa mà ta đánh giá là vật kỳ lạ và đáng khen nhất trên đời. Tuy vậy ta
cũng không muốn thuận theo yêu cầu của hắn ta. Có lẽ hắn cũng thấy đó là một
tham vọng quá đáng và ngoài công chúa con gái ta, có thể sẽ có một thoả thuận
gì đó mà hắn ta sẽ hài lòng. Nhưng trước khi bàn bạc để quyết định, ta muốn con
quan sát kỹ con ngựa, tự mình thử nghiệm đi và nói với ta về cảm nghĩ của con.
Chắc hắn ta sẵn lòng để con bay thử.
Người Ấn Độ thấy trong những
lời nói vừa được nghe nhà vua rất hào hứng và mong muốn có con ngựa, vua Ba Tư
không cương quyết từ chối chấp nhận thông gia với giá con ngựa và hoàng tử thay
vì phản đối như vừa thể hiện, có thể vui lòng thuận tình theo ý thích của nhà
vua. Để tỏ ra vui lòng cho hoàng tử thử nghiệm, ông ta lại gần con ngựa sẵn
sàng hướng dẫn hoàng tử cách điều khiển và giúp chàng lên ngựa.
Hoàng tử Firouj Schah, lanh
lẹn tuyệt vời, nhảy lên ngựa không cần người Ấn Độ giúp đỡ; vừa bỏ chân vào bàn
đạp không đợi ý kiến của ông ta, quay chất, chàng đã thấy ông ta làm khi lên ngựa.
Ngay khi vừa quay chết, ngựa nâng chàng lên nhanh như mũi tên bắn và phút chốc
vua, triều đình và cả tập hớp nhiều người ở đó không nhìn thấy chàng nữa.
Cả ngựa và hoàng tử không
còn ở trên không trung vua cố gắng nhìn theo mãi không thấy trong lúc người Ân
Độ hoảng sợ về việc xảy ra, quỳ trước ngài vàng làm vua phải nhìn xuống và nghe
ông ta nói:
- Thưa bệ hạ, người cũng thấy
hoàng tư quá vội không cho phép thần hướng dẫn cách điều khiển ngựa. Thấy thần
đã làm, chàng tỏ ra không cần thần chỉ cách bay đi nhưng không biết cách thần
hướng dẫn cho ngựa quay trở lại chỗ cũ. Như vậy, thưa bệ hạ, Người làm ơn đừng
bắt thần bảo đảm có thể sẽ xảy ra việc gì cho hoàng tử. Xin Người công minh xét
cho nếu có tai hoạ phát sinh.
Lời nói của người Ấn Độ làm
nhà vua rất buồn, hiểu ngay mối nguy hiểm hoàng tử không tránh khỏi, như ông ta
nói, điều bí mật làm cho ngựa quay trở lại, khác với lúc đi Ngài giận dữ hỏi tại
sao ông ta không nhắc khi thấy hoàng tử lên ngựa.
- Thưa bệ hạ - Người Ấn Độ
trả lời - Người cũng thấy hoàng tử và con ngựa bay lên nhanh đến mức nào. Lúc đầu
thần cũng ngạc nhiên không nói nên lời và lúc sắp hướng dẫn thì người ngựa đã
đi xa, không nghe được; nếu có nghe thì hoàng tử đã có thể điều khiển cho ngựa
quay trở về nhưng chàng đã không nắm đựợc bí mật vì chàng đã không chịu khó
nghe lời thần. Nhưng thưa bệ hạ, cũng có thể hy vọng, trong lúc lúng túng chàng
có thể thấy chất kia, quay chất ấy ngựa sẽ hạ xuống đất ở chỗ thích hợp bằng
cách điều khiển đây cương.
Dù theo cách lý giải của người
Ấn Độ, tình thế có vẻ còn có khả quan, nhà vua Ba Tư vẫn hoảng hốt về nguy cơ rất
rõ ràng của con trai mình, ngài nói:
- Cứ cho là hoàng tử trông
thấy cái chất kia và sử dụng như ngươi nói, tuy không chắc lắm, nhưng con ngựa
thay vì xuống đất có thể rơi xuống đá tảng hoặc chìm xuống biển sâu thì sao?
- Thưa bệ hạ, Người không phải
lo về chuyện ấy; ngựa qua biển không bao giờ rơi xuống và mang người đến chỗ
người định đến. Bệ hạ có thể chắc chắn nếu hoàng tử nhận thấy chất kia như thần
nói, ngựa chỉ mang chàng đến nơi chàng muốn và chắc chàng sẽ đến một nơi có thể
cứu mình và làm cho người ta biết mình.
Nghe nói thế, vua bảo:
- Dù sao ta cũng không tin
được vào sự bảo đảm an toàn như ngươi nói. Nếu trong ba tháng không thấy hoàng
tử lành mạnh trở về hoặc được tin chắc chắn con ta còn sống, ngươi sẽ trả giá
cho cuộc sông của con trai ta bằng đầu của mình.
Ngài ra lệnh bỏ người Ấn Độ
vào ngục tối giữ cho ông ta sống sót, sau đó nhà vua trở về cung, rất buồn về lễ
hội đầu năm trang trọng trong toàn nước Ba Tư, kết thúc buồn bã như vậy đối với
mình và triều đình.
Hoàng tử Firouj Schah bay
lên không rất nhanh, chưa đến một tiếng đồng hồ chàng thấy mình trên cao đến nỗi
không phân biệt được gì trên mặt đất, núi đồi, thung lũng lẫn với đồng bằng.
Lúc ấy chàng nghĩ đến trở về nơi mình đã đi. Muốn vậy chàng hình dung sẽ quay
chất trên đầu ngựa ngược chiều lại đồng thời quay đây cương. Chàng làm thế
nhưng vô cùng kinh ngạc thấy con ngựa vẫn nâng mình lên càng nhanh. Chàng quay
chất đi, lại nhiều lần nhưng vô ích. Lúc ấy chàng mới thấy mình sai lầm không
nghe lời người Ấn Độ hướng dẫn điều khiển ngựa trước khi nhảy lên đi. Chàng
cũng hiểu mối nguy hiểm rất lớn đang chờ mình nhưng không mất bình tĩnh, hết sức
tỉnh táo quan sát đầu và cổ con ngựa, chàng thấy một cái chất khác nhỏ hơn, kín
hơn cái trước bên cạnh tai phải của ngựa. Chàng quay chốt và thấy mình hạ xuống
đất theo một đường giống như lúc lên nhưng chậm hơn.
Trời tối đã nửa giờ ở chỗ
hoàng tử xuống thẳng mặt đất khi chàng quay chốt. Vì vậy thay vì chọn chỗ thích
hợp, chàng đành thả dây cương trên cổ ngựa, kiên nhẫn chờ ngựa hạ xuống không
khỏi lo lắng sẽ rơi vào một chỗ không có người ở, sa mạc hoặc sông, biển.
Ngựa dừng lại lúc đã quá nửa
đêm; hoàng tử Flrouj Schah nhảy xuống đất nhưng đuối sức vì từ sáng đến hết
ngày nay không ăn gì. Trước tiên chàng tìm hiểu chỗ mình hạ xuống. Chàng thấy
mình đang ở trên mái bằng một lâu đài thật đẹp, bao quanh là một hàng rào đá
hoa cương. Quan sát mái bằng chàng thấy có thang gác từ dưới lâu đài đi lên, cửa
vẫn để mở.
Một ai khác hoàng tử Firouj
Schah sẽ không dám bước xuống trong bóng tối vì sợ có thể gặp nhiều trở ngại mà
chưa blết sẽ gặp bạn hay thù. Chàng tự nhủ: Mình đến không nhằm làm hại gì ai
và những người mình gặp đầu tiên tay không vũ khí, sẽ nhân đạo nghe mình nói mà
không hãm hại mình . Chàng nhẹ nhàng mở rộng cửa, tiếp tục thận trọng đi xuống
không gây tiếng động có thể đánh thúc một ai đó đang ngủ. Trên một khúc quanh của
thang gác chàng thấy cửa mở của một gian phòng lớn có ánh sáng.
Hoàng tử Firouj Schah dừng lại
trước cửa lắng tai nghe, không có gì khác ngoài tiếng ngáy khác nhau của những
ngườI đang ngủ say. Chàng bước vào phòng, dưới ánh sáng của một ngọn đèn thấy
những người đang ngủ là các thái giám da đen, gươm tuốt trần để bên cạnh mình;
cảnh đó cho chàng biết đây là quân bảo vệ một hoàng hậu hay công chúa và chàng
nhận ra là của một công chúa.
Gian phòng công chúa ngủ tiếp
nối gian phòng đang cửa mở, che một tấm vải lụa nhẹ. Hoàng tử bước tới cánh cửa
chân giơ cao không làm các thái giám tỉnh giấc. Đẩy cửa vào phòng, chàng không
dừng lại ngắm gian phòng lộng lẫy đầy vương giả trong hoàn cảnh này mà chú ý đến
điều mình quan tâm. Chàng thấy nhiều chiếc gương, một đặt trên chiếc xô-pha và
những chiếc khác dưới thấp. Các thị nữ ngủ trên những giường thấp để phục vụ
công chúa đang nằm trên giường cao.
Phân biệt rõ thế, hoàng tử
không nhầm khi đến trước chính công chúa, chàng lại gần giường nàng nằm mà
không hề làm nàng hay một thị nữ nào thức dậy. Đứng ngay cạnh nàng chàng nhận
ra một sắc đẹp tuyệt vời làm chàng mê mẩn và si mê ngay khi vừa thấy “TrờI! –
Chàng tự nhủ, số phận dẫn mình đến tận đây để lấy mất tự do của mình ma lâu nay
vẫn gìn giữ? Mình có nhất thiết chờ cho đến khi nàng mở mắt và đôi mắt ấy như
mình tin tưởng sẽ tăng thêm ánh sáng và sự hoàn hảo của toàn bộ thân thể, duyên
dáng tuyệt vời này? Mình phải nắm lấy cơ hội này vì lùi bước sẽ là tự giết mình
và cần phải làm như thế .
Suy nghĩ như vậy, trong tình
hình ấy và trước sắc đẹp của công chúa, hoàng tử Firouj Schah quỳ xuống, cầm lấy
đầu cánh tay áo rủ xuống của công chúa bao lấy một cánh tay trắng như tuyết và
kéo rất khẽ.
Công chúa mở mắt, ngạc nhiên
thấy trước mặt mình một người đàn ông tuấn tú, ăn mặc sang trọng, nét mặt hiền
hậu, nàng sững người tuy không có dấu hiệu sợ hãi hoặc hoảng hốt.
Hoàng tử lợi dụng lúc ấy,
cúi đầu thấp xuống tận tấm thảm chân và ngẩng lên nói:
- Công chúa đáng kính, do một
cuộc phiêu lưu khác thường và tuyệt vời nhất người ta có thể tưởng tượng, nàng
thấy dưới chân nàng một hoàng tử, con vua Ba Tư đang cầu xin, sáng hôm qua còn ở
bên phụ hoàng giữa những cuộc vui chơi trọng thể của lễ hội đầu năm và trong giờ
này đang ở một nước xa lạ có nguy cơ bị hãm hại nếu tấm lòng phúc hậu và đạl lượng
của nàng không cứu giúp , và bảo vệ. Tôi khẩn cầu sự bảo vệ đó, thưa công chúa
đáng tôn sùng, với lòng tin nàng sẽ không từ chối. Tôi đám khẳng đlnh điều đó
vì không thể có sự vô tâm trong vẻ đẹp, duyên dáng và oai nghiêm đến thế của
nàng.
Công chúa mà hoàng tử Firouj
Schah sung sướng được trình bày như thế là công chúa xứ Bengale, con gái duy nhất
của quốc vương này, ngài đã cho xây dựng lâu đài nói trên hơi xa kinh thành để
nàng thường đến giải trí ở nông thôn. Sau khi nhân hậu nghe chàng nói, công
chúa trả lời tử tế.
- Thưa hoàng tử, chàng cứ
yên tâm, chàng không phải đang ở trong một đất nước hoang dã. Lòng mến khách,
tính nhân đạo và lễ nghi trong vương quốc Bengale cũng như ở vương quốc Ba Tư.
Không phải tôi sẵn sàng bảo vệ chàng vì chàng yêu cầu mà chàng có thể nhận đước
điều đó trong toàn vương quốc chứ không riêng gì ở lâu đài tôi.
Hoàng tử Ba Tư cúi đầu muốn
cám ơn công chúa Bengale về sự thẳng thắn và ân huệ đó, nhưng nàng không để
chàng có thì giờ nói.
- Dù rất muốn - Nàng nói
thêm - chàng cho biết bằng phép kỳ lạ nào chàng đi từ kinh thành Ba Tư đến đây
một cách nhanh chóng như vậy và làm sao chàng bí, mật vào được trước mặt tôi,
qua mắt được vệ binh. Nhưng chàng cần phải ăn uống, phải nghênh đón như một thượng
khách nên tôi nén sự tò mò lại sáng mai và lệnh cho thị nữ đưa chàng về một
phòng trong lâu đài, tiếp đãi, để chàng thư giãn, nghỉ ngơi cho đến khi hồi phục
có thể thoả mãn sự tò mò của tôi và tôí được thoải mái nghe chàng kể lại.
Những thị nữ, tỉnh dậy từ
lúc hoàng tử bắt đầu nói với công chúa nữ chủ của họ, kinh ngạc không hiểu vì
sao chàng đến tận đầu giường công chúa mà họ và các thái giám đều không biết; họ
cũng hiểu ra ý định của công chúa nên vội vàng mặc quần áo và sẵn sàng thực hiện
lệnh của công chúa ngay khi nàng vừa nói. Mỗi người lấy một cây nến đang cháy
sáng trong phòng công chúa và khi hoàng tử lễ phép chào công chúa để rút lui, họ
đi trước dẫn chàng vào một gian phòng rất đẹp, một số chuẩn bị giường màn trong
lúc số kia vào bếp chính và bếp phụ.
Tuy vào giờ bất thường,
nhưng những thị nữ ấy của công chúa Bengale không để hoàng tử Firouj Schah phải
chờ lâu. Họ mang vào nhiều loại thức ăn, đầy đủ cho chàng lựa chọn theo khẩu vị;
khi chàng ăn uống no nê xong họ dọn dẹp để chàng tự do đi nằm sau khi chỉ nhiều
chiếc tủ đựng nhiều đồ vật có thể cần thiết cho chàng.
Công chúa Bengale rất chú ý
đến những đức tính của hoàng tử Ba Tư trong cuộc nói chuyện ngắn ngủi vừa qua,
nàng chưa ngủ được khi các thị nữ trở vào phòng đi nằm. Nàng hỏi họ có chăm sóc
chàng cẩn thận không, chàng có hài lòng không, có để chàng thiếu gì không và họ
nghĩ về hoàng tử ấy như thế nào.
Các thị nữ trả lời mọi điều
và về điều cuối cùng họ nói:
- Thưa công chúa, chúng tôi
không biết Người nghĩ ra sao; đối với chúng tôi, chúng tôi đánh giá thật hạnh
phúc nếu vua cha tìm cho công chúa được người chồng như vị hoàng tử đáng yêu đến
thế. Không một người nào trong triều đình Bengale có thể so sánh với chàng và
chúng tôi cũng biết trong các quốc gia lân cận không có ai xứng đáng với công
chúa.
Lời ca tụng ấy không làm mất
lòng công chúa nhưng do không muốn nói lên tình cảm của mình, nàng bảo họ im lặng:
- Các chị nói nhảm mãi; đi nằm
đi và để cho ta ngủ lại.
Ngày hôm sau việc đầu tiên
công chúa làm sau lúc dậy là vào phòng trang điểm. Chưa bao giờ nàng bỏ nhiều
thời gian vào công chải tóc tai, mặc quần áo sửa đi sửa lại trước gương đến thế.
Chưa bao giờ các thị nữ phải klên trì làm đi làm lại nhiều lần cùng một việc
cho đến khi nàng bằng lòng đến vậy. Nàng tự nhủ: Không trang điểm mình cũng nhận
thấy không phải không vừa lòng hoàng tử Ba Tư; nhưng chàng sẽ thấy khác hẳn khl
mình trang sức đầy đủ Trên đầu nàng giắt những viên kim cương to nhất, lóng
lánh nhất cùng vòng cổ, vòng tay và chiếc thắt lưng đầy những viên đá quí gíông
nhau, tất cả đều vô giá,quẩn áo nàng mặc là loại vải sang trọng nhất trong toàn
Ấn Độ chỉ dệt cho vua chúa, hoàng tộc, màu sắc nổi trội hơn tất cả. Sau khi ngắm
trước gương nhiều lần và hỏi ý klến thị nữ người này đến người khác xem còn thiếu
sót gì không, nàng cho người đến xem chàng dậy chưa; trường hợp chàng đã dậy và
mặc quần áo; chắc sẽ đề nghị được đến gặp nàng thì bảo nàng sẽ tự đến gặp chàng
và có những lý do để làm thế.
Hoàng tử Ba Tư đã ngủ bù một
đêm thức trắng, hoàn toàn lại sức sau chuyến bay vất vả vừa mặc quẩn áo xong
thì một thị nữ vào mang đến lời chào của công chúa. Không để thị nữ truyền đạt
lời công chúa, chàng hỏi ngay nàng có thể để mình đến làm nhiệm vụ lễ nghi
khôgg. Khi nghe thị nữ nói lại ý định của công chúa, chàng bảo:
- Công chúa là chủ và tôi ở
đây chỉ để thực hiện lệnh của nàng.
Công chúa Bengale vừa được
báo hoàng tử đang chờ, nàng đến ngay để gặp mặt. Sau những lời chúc mừng lẫn
nhau, hoàng tử xin lỗi đã làm nàng tỉnh giấc giữa lúc đang ngủ say và công chúa
thì hỏi chàng đêm qua ra sao và tình hình sức khoẻ thế nào, công chúa ngồi xuống
ghế xô-pha, hoàng tử cũng ngồi, lễ độ cách nàng một ít.
Công chúa bèn lên tiếng:
- Thưa hoàng tử, đáng lẽ tôi
có thể tiếp chàng ở gian phòng lúc đêm chàng thấy tôi nằm ngủ nhưng ở đấy trưởng
thái giám được tự do ra vào còn ở đây chưa được phép thì không bao giờ được
vào; nóng lòng muốn nghe chuyến phiêu lưu kỳ lạ tạo cho tôi hạnh phúc được gặp
chàng, tôi muốn đến đây, trong một chỗ chúng ta không bị gián đoạn. Mong hoàng
tử cho thoả mãn yêu cầu của tôi.
Để làm công chúa Bengale hài
lòng, hoàng tử Firouj Schah bắt đầu kể về lễ hội long trọng ngày đầu năm trong
toàn vương quốc Ba Tư, những trò vui xứng đáng giải trí triều đình và hầu khắp
thành phố Schirag. Sau đó con ngựa thần kỳ với cảnh lạ lùng khi người Ấn Độ lên
ngựa trước cả một tập hợp người nổi tiếng, đã thuyết phục công chúa, nàng công
nhận không thể hình dung trên đời có một sự kiện lạ hơn.
- Thưa công chúa - Chàng nói
tiếp - nàng biết cho phụ hoàng tôi không tiếc chi phí để tăng vào tài sản mình
những vật hiếm, lạ nhất, rất nóng lòng muốn có thêm con ngưa oai ấy, không ngần
ngại hỏi người Ấn Độ về giá cả.
Ông ta trả lời rất quá đáng:
ông ta không mua mà có được do đổi người con gái độc nhất và chỉ có thể nhường
lại với điều kiện tương tự nghĩa là cưới công chúa em tôi nếu vua cha đồng ý.
Toàn thể cận thần vây quanh
phụ hoàng tôi phá lên cười nhạo trước lời đề nghị quái gở đó, riêng tôi không
nén được vô cùng giận dữ, hơn thế khi thấy phụ hoàng ngập ngừng trả lời từ chối.
Thực vậy tôi nghĩ sẽ đến lúc Người có thể sẽ chấp nhận nếu tôi không cương quyết
nói rõ đó là một quyết định sai lầm ảnh hưởng đến vinh quang của hoàng tộc.
Thái độ của tôi vẫn chưa thể làm Người loại bỏ hoàn toàn ý định hy sinh công
chúa cho con người đáng khinh đó. Người nghĩ tôi có thể thông cảm với Người nếu
hiểu được như Người hình dung rằng con ngựa ấy thật đáng giá với tính chất đặc
biệt của nó. Do vậy Người muốn tôi quan sát, lên ngựa và tự mình thử nghiệm
xem.
Để vua cha hài lòng, tôi nhảy
lên lưng ngựa, vì đã thấy người Ấn Độ quay một chiếc chất để ngựa bay lên, nên
không chờ nghe những lời chỉ dẫn khác, tôi cũng làm thế và ngay lúc đó tôi được
nâng lên không trung nhanh như một mũi tên bắn ra từ một cái cung khoẻ của một
người có kinh nghiệm nhất.
Trong giây lát tôi đã cách rất
xa mặt đất không phân biệt được vật gì, hình như lên gần đến vòm trời tôi sợ vỡ
đầu mất. Trong tình trạng bay nhanh như vậy tôi không còn nghĩ được gì, không
nghĩ đến những nguy hiểm đang chờ mình.
Tôi muốn quay ngược lại chiếc
chết để hạ xuống nhưng càng quay con ngựa càng đưa tôi lên cao, càng xa mặt đất.
Cuối cùng tôi nhận thấy một chiếc chất khác tôi quay chất và con ngựa bắt đầu hạ
xuống. Trong đêm tối tôi không thể điều khiển nó hướng đến một chỗ không nguy
hiểm, tôi giữ nguyên dây cương, trông chờ vào Chúa về việc gì có thể đến với số
phận mình.
Con ngựa dừng lại, tôi nhảy
xuống, quan sát thấy ở ngay tầng thượng lâu đài này. Cửa cầu thang để ngỏ, tôi
bước xuống không tiếng động, gặp một cánh cửa mở có ánh sáng. Nhìn vào tôi thấy
các thái giám đang ngủ, ánh sáng qua một màn che cửa gợi cho tôi tò mò. Tôi táo
bạo bước tới vén màn tuy hình dung được mối nguy nếu thái giám tỉnh dậy.
Phần còn lại thì nàng đã biết
tôi không cần nói thêm - Thưa công chúa - Xin cảm ơn lòng tốt, độ lượng của
nàng và xin cho biết tôi phải làm thế nào để làm nàng hài lòng. Theo luật lệ,
thân xác tôi đã là nô lệ của nàng, tôi chỉ còn có thể hiến đâng nàng con tim.
Thưa công chúa con tim ấy không còn của tôi nữa; say mê về sắc đẹp của nàng đến
nỗi thay vì đòi lại, tôi để lại nó cho nàng. Do đó tôi mong muốn xin được tuyên
thệ tôi công nhận nàng là nữ chủ của lòng tôi.
Những lời nói này của hoàng
tử với giọng điệu và thái độ làm công chúa không nghi ngờ gì về sức hấp dẫn của
mình. Nàng không bực mình về lời tuyên bố xem như quá vội vã của hoàng tử. Mặt
nàng ửng đỏ càng làm nàng đẹp và đáng yêu dưới con mắt hoàng tử.
Firouj Schah vừa nói xong,
công chúa Bengale đáp:
- Thưa hoàng tử, nghe kể lại
những việc kỳ lạ và tuyệt vời đến thế, một mặt tôi vô cùng xúc động, mặt khác
hình dung chàng bay cao tít trên không trung tôi rất lo sợ, và tuy thấy chàng
lành mạnh trước mặt, tôi vẫn không hết sợ lúc chàng nói con ngựa may mắn hạ xuống
tầng thượng của lâu đài của chúng tôi. Điều đó có thể xảy ra ở hàng nghìn chỗ
khác nhưng tôi hân hạnh được sự tinh cờ đã ưu đãi và cho tôi có dịp nói rõ với
chàng cũng vì sự tình cờ đó có thể ehàng sẽ bộc lộ lòng mình ở những chỗ khác
nhưng không phải ìà chỗ chàng được nhận thân ái và vui thích hơn ở đây.
- Như vậy thưa hoàng tử, tôi
sẽ thật không phải nếu muốn tin chàng tự cho mình là nô lệ của tôi là một ý
nghĩ nghiêm túc và không cho đó là một biểu hiện trung thực thay vì tình cảm
chân thực; việc tiếp đón hôm qua của tôi tỏ rõ chàng không kém tự do hơn ở giữa
triều đình Ba Tư.
- Còn về lòng chàng - Công
chúa nói thêm với giọng điệu không kém hơn một lời từ chối tôi rất chắc chắn
chàng không đợi đến bây giờ mới trao đổi trái tim mình và phải đã chọn một công
chúa xứng đáng rồi, tôi sẽ rất giận mình tạo điều kiện cho chàng thiếu chung
thuỷ.
Hoàng tử Flrouj Schah định
cãi lại công chúa Bengale rằng cho đến khi chàng đến từ Ba Tư thì chàng vẫn làm
chủ trái tim mình nhưng lúc sắp nói thì một thị nữ đã được lệnh, vào báo bũa ăn
đã chuẩn bị xong.
Việc đó đã giải thoát cho
hoàng tử và công chúa phải giải thích thêm những điều làm họ cùng bối rối mà họ
cũng thấy không cần thiết. Công chúa hoàn toàn bị chinh phục vì lòng thật thà của
hoàng tử Ba Tư còn hoàng tử tuy công chúa không nói rõ, qua lời lẽ và thái độ của
nàng, chàng có thể hài lòng về hạnh phúc của mình.
Thị nữ đang để màn vén lên,
công chúa đứng dậy nói với hoàng tử cũng đã đứng lên, rằng nàng không có thói
quen ăn sớm thế nhưng chắc bữa khuya thị nữ chuẩn bị không tất nên đã cho sửa
soạn bữa ăn này sớm hơn bình thường. Vừa nói nàng vừa dẫn chàng vào một gian
phòng rất đẹp, trên bàn đã sẵn sàng nhiều thức ăn thật ngon. Họ ngồi vào bàn, rất
nhiều các thị nữ nô lệ của công chúa mặc áo quần sang trọng bắt đầu hoà tấu nhạc
và hát suốt trong bữa ăn.
Nhạc tấu rất êm dịu và không
cản trở hoàng tử nói chuyện, hai người tiếp nhau phần lớn trong bữa ăn, công
chúa lấy thức ăn mời hoàng tử và hoàng tử tiếp công chúa những thức ăn ngon nhất
với thái độ và lờl nói càng làm công chúa thành tâm và khâm phục. Trong phong
cách xã giao qua lại và quan tâm đến nhau như vậy tình yêu tăng dần ở từng người
hơn lúc đối diện với nhau trước đó.
Ăn uống xong công chúa đưa
hoàng tử vào một gian phòng rộng, đẹp do thiết kế và vàng bạc trang trí hài
hoà, nội thất sang trọng. Họ ngồi trên ghế xô- pha nhìn ra khu vườn của lâu
đài; hoàng tử tấm tắc khen về rất nhiều loại hoa, cây lớn cây nhỏ khác hẳn cây
cối ở Ba Tư nhưng không kém vẻ đẹp. Tranh thủ chuyện trò trong dịp này, hoàng tử
Firouj Schah nói: Thưa công chúa, tôi tưởng trên thế giới chỉ ở Ba Tư mới có những
lâu đài tuyệt đẹp và những khu vườn đáng khâm phục xứng đáng với phong thái các
nhà vua nhưng giờ đây tôi thấy rõ ở đâu cũng có những vị vua lớn biết cho xây dựng
những dinh thự phù hợp với sự lớn lao và quyền lực của họ và nếu có khác nhau về
cách xây dựng và những gì kèm theo, các lâu đài đều giống nhau về qui mô và
hoành tráng.
- Thưa hoàng tử, tôi không
có một khái niệm nào về các lâu đài ở Ba Tư nên không có ý kiến gì về sự so
sánh của chàng. Nhưng tuy chàng có thể rất thực lòng, tôi khó cho là đúng được.
Tuy không muốn coi thường lâu đài của tôi trước mặt chàng do chàng có lòng tất
và thích thú nên không thể không nhận xét tất đẹp. Nhưng xin khẳng định với
chàng tôi thấy nó rất xấu nếu so sánh với lâu đài phụ hoàng tôi, chiếc lâu đài
vượt hẳn về qui mô, vẻ đẹp và giàu sang. Chàng cũng sẽ nói với tôi như thế khi
thấy hoàng cung. Tình cờ đã đưa chàng đến kinh thành này, tôi nghĩ chàng cũng
muơn trông thấy nó và chào phụ hoàng tôi để Người đưa lại vinh dự cần có cho một
hoàng tử của một hoàng tộc và xứng đáng như chàng.
Gợi lên ở hoàng tử Ba Tư
tính tò mò muốn biết hoàng cung Bengale và chào vua cha, công chúa mong phụ
hoàng thấy một hoàng tử tuấn tú, thông minh và có mọi đức tính như thế, có thể
đề nghị kết liên bằng cách gả con gái cho chàng. Qua đó, do chắc chắn hoàng tử
không thờ ơ với mình và sẽ không từ chối sự kết liên ấy, nàng hy vọng sẽ đạt được
nguyện vọng nhưng vẫn giữ được tư cách một công chúa có vẻ vâng theo ý muốn của
phụ hoàng. Nhưng hoàng tử không trả lời đúng theo điều nàng suy nghĩ Chàng nói:
- Thưa công chúa, việc nàng
vừa nói hoàng cung của vua Bengale hơn hẳn lâu đài của nàng đủ cho tôi tin là
đúng chẳng khó khăn gì. Còn lời đề nghị tôi đến chào vua cha không chỉ là niềm
vui thích mà là một vinh dự lớn cho tôi Nhưng thưa công chúa, nàng xét xem, khuyên
tôi có nên trình diện trước một vị vua lớn lao thế như một kẻ phiêu lưu, không
tuỳ tùng và trang bị phù hợp với dòng tộc mình chăng?
- Thưa hoàng tử, chàng khỏi
phải bận tâm về điều ấy; miễn chàng muốn, tiền bạc không thiếu để trang bị như
chàng vừa lòng, tôi sẽ cung cấp cho chàng. Ở đây có những nhà buôn của đất nước
chàng, có thể lựa chọn một nhà theo chàng thích để làm tăng vinh dự cho chàng.
Hoàng tử Flrouì Schah thấu
hiểu ý định của công chúa và tình cảm rõ rệt của nàng càng làm tăng thêm niềm
say mê của chàng đối với nàng nhưng dù sao cũng không làm chàng quên nhiệm vụ.
Chàng không ngập ngừng đáp lại:
- Thưa công chúa, tôi vui
lòng chấp nhận lòng tốt của nàng và rất biết ơn nếu nỗi lo lắng vì tôl của phụ
hoàng ở xa không cản trở tôi thực hiện điều đó. Tôi sẽ không xứng đáng với lòng
nhân hậu và trìu mến của Người đối với tôi nếu không trở về sớm để làm Người
yên tâm. Tôi biết rõ trong lúc tôi được hạnh phúc có một công chúa thật đáng
yêu bảo vệ, chắc chắn Người đang rất đau lòng và mất hy vọng gặp lại tôi. Tôi
mong nàng hiểu cho tôi không thể không vô ơn, thậm chí không mắc tội trọng nếu
không trở về bảo toàn cuộc sống cho Người vì về quá chậm có thể gây nên nguy hại
cho Người. Sau đó thưa công chúa, - hoàng tử Ba Tư tiếp tục, - nếu nàng cho
phép và xét thấy tôi xứng đáng hy vọng có hạnh phúc trở thành chồng nàng, nhù
phụ hoàng tôi luôn tỏ ra không ép buộc trong việc chọn vợ, đễ đàng được Người
cho phép tôi trở lại đây, không phải với tư cách một người xa lạ mà là một
hoàng tử, thay mặt Người đến đề nghị kết thân với vua Bengale bằng cuộc hôn
nhân của chúng ta. Tôi khẳng định Người sẽ đồng ý khi tôi tâu với Người về lòng
độ lượng nàng đã tiếp đón tôi trong lúc không may.
Qua cách giải thích của
hoàng tử, công chúa Bengale rất biết điều không thuyết phục chàng đi trình diện
vua cha mình nữa, không buộc chàng làm gì trái với nhiệm vụ và danh dự của
chàng. Nhưng nàng hoảng hốt thấy chàng có vẻ muốn mau chóng ra đi, sợ rằng chia
tay nhau sớm, thay vì giữ lời đã hứa chàng sẽ quên nàng khi không còn gặp nhau nữa.
Để làm chàng đổi ý, nàng nói:
- Thưa hoàng tử, khi đề nghị
góp phần để chàng đủ tư thế đi gặp phụ hoàng tôi, tôi không có ý định chống đối
lời khước từ chính đáng như chàng nói mà tôi không dự kiến được. Nếu có ý định
đó tôi sẽ là tòng phạm về lỗi của chàng. Nhưng tôi không đồng tình chàng sẽ đi
ngay như chàng nghĩ. Ít nhất mong chàng chấp nhận đề nghị của tôi vì hạnh phúc
của tôi bởi chàng đến vương quốc Bengale chứ không phải giữa một sa mạc (hoặc
trên một đỉnh núi dốc chàng không xuống được), hãy ở lại một thời gian ngắn đủ
để thông báo chi tiết những gì có ở đây cho trìều đình Ba Tư.
Lời công chúa nhằm mục đích
lưu hoàng tử Firouj Schah lại it lâu, chàng sẽ say mê sắc đẹp nàng hơn, hy vọng
lòng mong mỏi về Ba Tư chậm lại, chàng có thể ra mắt công chúng, đến gặp nhà
vua Bengale. Hoàng tử không thể lại từ chối điều nàng đề nghị sau sự đón tiếp
chân tình như vậy. Chàng vui lòng nhượng bộ và công chúa chỉ còn nghĩ đến tổ chức
những trò vui, giải trí thú vị trong lúc chàng lưu lại.
Trong nhiều ngày chỉ là lễ mừng,
vũ hội, hoà nhạc, tiệc tùng sang trọng, những cuộc dạo chơi trong vườn, săn bắn
trong công viên lâu đài ở đó đủ các loại muông thú, hươu nai, bê, hoẵng và những
con vật tương tự đặc biệt riêng ở xứ Bengale mà cuộc săn không nguy hiểm phù hợp
với công chúa.
Cuối những buổi săn bắn
hoàng tử và công chúa cùng nhau đến một chỗ đẹp trong công viên, người ta trải
một tấm thảm lớn và gối tựa để họ ngồi nghỉ thoải mái. Ở đó, tĩnh trí lại và
thư giãn sau cuộc săn bắn mệt nhọc, họ nói chuyện với nhau về các loại đề tài.
Trên tất cả, công chúa chú ý không để bỏ qua câu chuyện về sự lớn lao, sức mạnh,
của cải và sự cai tn ở đất nướe Ba Tư, từ đó nàng có thể đến lượt mình kể về
vương quốc Bengale và những lợi thế của đất nước mình để chinh phục tâm trí của
hoàng tử, làm chàng quyết định ở lại. Nhưng phải thú nhận rằng mọi việc ngược lại
điều nàng mong muốn.
Thực vậy, hoàng tử Ba Tư,
không khuếch trương gì, kể với nàng chi tiết về sự hùng cường của đất nước Ba
Tư, vẻ đẹp và sự sung túc tràn đầy, về sức mạnh quân đội, việc buôn bán đường bộ
và đường biển đến những nước xa nhất mà chàng không hề biết, về vô vàn những
thành phố lớn, hầu hết đông dân cư như kinh thành họ đã chọn, có những lâu đài
trang bị đầy đủ, sẵn sàng tiếp đón chàng bốn mùa nên có thể hưởng thụ một mùa
xuân vĩnh viễn. Nghe nói như vậy, trước khi hoàng tử kết thúc câu chuyện, công
chúa nhìn lại vương quốc Bengale như thua xa Ba Tư về nhiều mặt. Thậm chí lúc
hoàng tử dứt lời và giục nàng kể những mặt mạnh của vương quốc Bengale, nàng
đành nói sau nhiều lần hoàng tử khẩn khoản.
Công chúa kể chuyện cho
hoàng tử vừa lòng nhưng bớt đi những lợi thế rõ ràng vương quốc Bengale vượt trội
hơn vương quốc Ba Tư. Nàng tỏ cho hoàng tử biết rõ nàng sẵn sàng đi theo chàng
về đấy khi chàng thấy cần đề xuất với nàng. Nhưng chàng nghĩ đã đến lúc cho
nàng biết nàng đã sai lầm khi muốn giữ chàng lại lâu hơn, cản trở chàng mong muốn
về gặp vua cha.
Suốt hai tháng ròng, hoàng tử
Firouj Schah hoàn toàn thả mình theo ý muốn của công chúa Bengale, tham gia những
trò giảl trí nàng có thể hình dung và tổ chức vì chàng, như chàng chẳng có việc
gì khác ngoài vui sống với nàng theo cách ấy. Nhưng khi những việc đó trôi qua,
chàng nghiêm túc tuyên bố mình xao nhãng bổn phận đã quá lâu và yêu cầu nàng để
mình tự do thực hiện nhiệm vụ ấy, chàng lặp lại lời hứa sẽ mau chóng trở lại với
một hành trang xứng đáng với nàng và với chàng, xin nhà vua Bengale cho cưới hỏi
đúng thể thức.
- Thưa công chúa - Chàng nói
thêm - tôi có lẽ đă có những lời lẽ đáng ngờ và đề nghị của tôi đã làm nàng cho
tôi vào hàng ngũ những người đễ quên lãng khi xa nhau. Để chứng tỏ niềm say mê
không giả dối, không che giấu khẳng định cuộc đời tôi chỉ có hạnh phúc bên cạnh
một công chúa hiền dịu như nàng mà tôi không nghi ngờ đã yêu tôi, tôi dám xin
nàng gia ân đưa nàng về cùng với tôi nếu nàng không cho lời đề nghị của tôi là
một sự xúc phạm.
Thấy công chúa đỏ mặt khi
nghe nói vậy và không có dấu hiệu giận dữ, nàng ngần ngại chưa biết nên như thế
nào, hoàng tử tiếp tục:
- Tôi có thể bảo đảm phụ
vương tôi sẽ bằng lòng và tiếp nhận nàng trong sự kết liên. Còn vua cha
Bengale, với những thể hiện trìu mến từ trước tới nay và vẫn còn dành cho nàng,
Người sẽ không phải như nàng đã nói, nghĩa là thù hằn về sự thanh thản và hạnh
phúc của nàng nếu Người không tiếp nhận cởi mở sứ giả của phụ vương tôi cử đến
để xin chấp nhận hôn lễ của hai chúng ta.
Công chúa không trả lời gì với
hoàng tử nhưng sự im lặng và đôi mắt nhìn xuống của nàng cho hoàng tử biết rõ
hơn bất cứ lời tuyên bố nào nàng không ngần ngại gì và sẽ chấp nhận đi cùng
chàng sang Bá Tư. Điều khó khăn nhất là nàng tỏ vẻ không tin hoàng tử đủ kinh
nghiệm điều khiển con ngựa, sợ sẽ cùng chàng lúng túng như lúc chàng mới thử
nghiệm. Hoàng tử Firouj Schah giải thoát cho nàng nỗi sợ hãi đó, khẳng định
nàng có thể tin vào chàng và sau lúc những gì đã xảy ra, chàng có thẽ thách thức
chính người Ấn Độ điều khiển ngựa thành thạo như chàng. Do đó nàng chỉ còn cùng
chàng chuẩn bị ra đi bí mật đến nỗi không ai trong lâu đài nghi ngờ gì về vận mệnh
của họ.
Ngay sáng hôm sau, một lúc trước
khi trời sáng, cả lâu đài còn chìm đắm trong giấc ngủ, công chúa cùng hoàng tử
lên tầng thượng và chàng quay con ngựa về hướng Ba Tư, ở một chỗ nàng có thể dễ
dàng lên yên. Hoàng tử lên trước, sau khi công chúa ngồi thoải mái phía sau, ôm
lấy chàng cho an toàn, chàng quay chết mà chàng đã quay khi ở kinh thành Ba Tư
và con ngựa nâng họ lên không trung.
Ngựa phóng theo tốc độ bình
thường, hoàng tử điều khiển vững vàng và khoảng sau hai tiếng rưỡi đồng hồ, họ
đã thấy kinh thành Ba Tư. Chàng không hạ xuống quảng trường trước hoàng cung,
cũng không hạ trong lâu đài nhà vua mà xuống một lâu đài vui chơi giải trí
không xa thành phố lắm. Chàng đưa công chúa vào gian phòng đẹp nhất, nói sẽ tâu
lên vua cha họ đã về để tiếp nàng theo vinh dự cần có đối với nàng và ra lệnh
cho người hầu ở đấy lo lắng mọi việc để không thiếu điều gì cần cho nàng.
Sau khi để công chúa ở trong
phòng, hoàng tử sai người hầu thắng ngựa; chàng bảo người hầu trở lại phục vụ
thật nhanh việc ăn uống của công chúa và phi ngựa qua đường sá, phố phường.
Chàng được đân chúng vui mừng hoan nghênh thay vì nỗi thất vọng không được gặp
chàng từ khi mất tích. Nhà vua đang thiết triều, toàn thể triều đình mặc quần
áo tang từ khi hoàng tử bị mang đi. Nhà vua ôm lấy con, chảy nước mắt vì vui mừng
và trìu mến, vội vàng hỏi con ngựa ra sao rồi.
Câu hỏi ấy làm hoàng tử có dịp
tâu trình lại với vua cha khi ngựa bay lên không trung chàng lúng túng và có
nguy cơ hiểm nghèo như thế nào, chàng đã vượt qua lúc đó và đến tận lâu đài
công chúa Bengale ra sao, việc tiếp đón chu đáo của nàng và lý do phải ở lại một
thời gỉan cho đến lúc chàng hứa hôn và đưa nàng cùng về.
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử kết
thúc câu chuyện và nói thêm - sau khi hứa với nàng phụ hoàng sẽ đồng ý, con đã
đưa nàng về đây trên con ngựa của người Ấn Độ, nàng đang chờ ở lâu đài vui chơi
giải trí của bệ hạ và mong rằng con có thể đến báo tin cho nàng lời hứa của con
có hiệu quả.
Hoàng tử quỳ xuống để làm
vua cha chấp thuận nhưng ông ngăn lại, ôm hôn con lần thứ hai:
- Con trai, ta không chỉ đồng
ý việc thành hôn của con với công chúa Bengale, ta còn muốn đích thân đến gặp
nàng cám ơn về sự giúp đỡ của nàng, đưa nàng về hoàng cung và tổ chức hôn lễ
ngay hôm nay.
Nhà vua sau khi ra lệnh chuẩn
bị cho công chúa vào hoàng cung, cho quần thần cởi bỏ quần áo tang, tổ chức những
cuộc vui bắt đầu bằng hoà tấu kèn trống, não bạt với những nhạc cụ khác, cũng lệnh
cho thả người Ấn Độ và dẫn đến gặp Người.
Người Ấn Độ được đưa vào tiếp
kiến, vua nói:
- Ta để lại mạng sống cho
ngươi, ngươi không phải làm kẻ để ta trút giận và nỗi buồn, nhằm trả giá cho cuộc
sống của hoàng tử nữa. Ngươi đi lấy lại con ngựa và đừng xuất hiện trước mặt ta
nữa.
Khi ngườl Ấn Độ ra ngoài,
qua những người mở cửa trại giam hắn đã biết hoàng tử Flrouj Schah trở về cùng
công chúa Bengale trên con ngựa thần diệu.
Lâu dài giải trí là nơi công
chúa đang tạm dừng chân và hắn cũng biết vua chuẩn bị ra gặp nàng để dẫn nàng về
hoàng cung. Muốn đến trước vua và hoàng tử, hắn vội vã đi ngay tới lâu đài giải
trí. Hắn nói với quân hầu hắn được nhà vua phái đến đón công chúa lên ngựa đi gặp
nhà vua đang ở quảng trường hoàng cung để tiếp đón nàng với tư cách đại diện
cho triều đình và thành phố Bengale.
Quân hầu vốn biết nhà vua đã
bắt người Ấn Độ và đã trả lại tự do cho hắn, tin vào lời hắn không gây khó khăn
gì. Hắn đến trình diên công chúa; vừa nghe nói hoàng tử Ba Tư sai đến nàng đồng
ý thực hiện ý muốn của hoàng tử ngay.
Người Ấn Độ, phấn khởi thấy
dã tâm của mình đạt kết quả dễ dàng, lên ngựa ngay nhờ người hầu giúp công chúa
ngồi phía sau, quay chất và ngựa đưa hắn cùng công chúa bay ngay vào không
trung.
Cùng lúc đó vua Ba Tư với
triều đình hộ tống, ra khỏi hoàng cung để đến lâu đài giải trí còn hoàng tử đi
trước chuẩn bị cho công chúa tiếp đón vua cha thì người Ấn Độ cùng con mồi của
mình vừa bay qua thành phố, thách thức nhà vua và hoàng tử, trả thù sự đối xử bất
công như hắn nghĩ.
Khi vua Ba Tư nhận thấy tên
khiêu khích, ông dừng lại kinh ngạc vô cùng bực tức về sự xúc phạm đặc biệt như
thế. Ông nguyền rủa hắn trước mặt các cận thần và những người chứng kiến sự hỗn
láo bằng những lời độc địa không gì bằng. Người Ấn Độ không đếm xỉa đến những lời
thoá mạ vang lên đến tai mình, tiếp tục bay đi trong lúc vua Ba Tư trở về cung,
đau đớn về sự ngạo mạn sâu cay và tự thấy mình bất lực không trừng phạt được.
Nhưng khổ sở xiết bao cho,
hoàng tử, tận mắt thấy mà không thể ngăn chặn tên Ấn Độ bắt cóc công chúa
Bengale, người mà chàng yêu say đắm và không thể sống thiếu nàng? Và về việc
không ngờ đó trong lúc chàng đang đứng lặng người, nghĩ có nên chửi rủa tên Ấn
Độ hay than phiền số phận đáng thương của công chúa và xin lỗi vì thiếu biện
pháp bảo vệ người phó thác mình vào chàng chứng tỏ chàng được yêu thương đến mức
nào, thì con ngựa với tốc độ không tưởng tượng nổi đã đưa họ ra khỏi tầm nhìn của
chàng. Làm gì đây? Trở về hoàng cung đắm mình vào phiền muộn trong phòng không
một hành động đuổi theo tên khiêu khích để giải thoát công chúa và trừng phạt hắn
thật thích đáng chăng? Lòng đại lượng, tình yêu, sự can đảm không cho phép
chàng làm như thế. Chàng tiếp tục đi tới lâu đài vui chơi giải trí.
Thấy hoàng tử đi đến, người
hầu tự nhận thấy sự nhẹ dạ của mình, đã để bị lừa, vội khóc lóc đến quỳ dưới
chân chàng tự nhận tội và xin chịu chết. Hoàng tử bảo:
- Đứng dậy đi, ta không quy
tội cho anh về việc công chúa bị bắt cóc mà chỉ do ta đã quá đơn giản mọi chuyện.
Đừng để mất thì giờ, đi tìm cho ta một bộ quần áo tu sĩ và không nói chuẩn bị
cho ta.
Không xa lâu đài có một tu
viện mà người phụ trách là bạn của anh hầu. Anh đến tìm người ấy vờ tâm sự có một
võ quan trong triều mà anh chịu ơn nay muốn giúp anh ta tránh khỏi cơn giận của
nhà vua. Anh mượn toàn bộ quần áo tu sĩ về cho hoàng tử. Firouì Schah thay quần
áo của mình mặc vào. Cải trang như thế, mang theo chi phí cho hành trình dựa
vào hộp ngọc và kim cương mang đến định tặng công chúa Bengale, chàng ra khỏi
lâu đài trong đêm tối bước theo con đường vô định nhưng quyết tâm không trở lại
nếu không tìm được công chúa đưa về.
Trở lại người Ấn Độ. Hắn điều
khiển con ngựa thần diệu ngay trong ngày đó đến một khu rừng nhỏ, gần kinh
thành xứ Cachemire. Hắn thấy đói và xét thấy công chúa cũng cần ăn nên hạ xuống
khu rừng này, vào một chỗ gần suối nước trong mát để công chúa ngồi lại trên
bãi cỏ.
Trong lúc người Ấn Độ vắng mặt,
công chúa Bengale thấy mình lệ thuộc vào một tên khiêu khích vô lại, sợ bị hắn
hãm hại muốn tìm cách trốn vào một nơi nào đó. Nhưng buổi sáng lúc đến lâu đài
nàng ăn rất ít nên cảm thấy quá yếu không thực hiện được ý định. Không lẽ buông
xuôi, vì không còn nguồn lực nào khác ngoài long can đảm, cương quyết thà chết
chứ không muốn thiếu chung thuỷ với hoàng tử. Vì vậy nàng không để người Ấn Độ
mời hai lần. Nàng ăn uống lấy lại khá sức lực để dũng cảm chống đối những tán tỉnh
hỗn láo của hắn sau bữa ăn. Sau nhiều lần đe doạ hắn chuẩn bị dùng sức mạnh thì
công chúa đứng dậy chống cự và kêu cứu ầm lên. Những tiếng kêu làm một toán ky
sĩ kéo đến vây lấy nàng và người Ấn Độ.
Đấy là vua của vương quốc
Cachemire cùng đoàn tuỳ tùng đi săn về qua chỗ đó nghe tiếng kêu chạy đến. Ông
hỏi người Ấn Độ là ai, định làm gì người phụ nữ này. Hắn trâng tráo trả lời đấy
là vợ hắn và không muốn để cho ai biết về điều bất hoà của hắn đối với vợ mình.
Công chúa không cần rõ tính
chất và tư cách của người vừa đến kịp giải thoát cho mình nàng tố cáo:
- Thưa ngài, dù ngài là ai
mà trời đã cử đến kịp cứu tôi, xin ngài thương hại cho một công chúa và đừng
tin vào một kẻ lừa bịp. May mà Chúa không bắt tôi làm vợ một tên Ấn Độ xấu xa
và đáng khinh như thế! Đấy là một phù thuỷ ghê tởm hôm nay vừa bắt cóc tôi khỏi
hoàng tử Ba Tư mà tôi sẽ là vợ chàng; hắn đưa tôi đến đây trên con ngựa ma quái
mà ngài thấy kia.
Công chúa Bengale không cần
nói nhiều để khẳng định sự thật với vua Cachemire. Sắc đẹp của nàng, phong thái
công chúa và nước mắt đã nói thay nàng. Nàng định nói tiếp nhưng thay vì lắng
nghe, vua Cachemire giận dữ vì sự hỗn láo của người Ãn Độ cho vây bắt ngay hắn
và chặt đầu. Lệnh ấy được thực hiện rất dễ dàng vì hắn vừa ra khỏi nhà giam thì
bắt công chúa đi ngay, không có vũ khí nào để tự vệ.
Công chúa Bengale được giải
thoát khỏi sự hành hạ của người Ấn Độ, nhưng nàng lại rơi vào một tình huống
khác không kém đau khổ. Nhà vua sau khi bảo đắt cho nàng một con ngựa, đưa nàng
về cung bố trí ở trong một gian phòng đẹp nhất sau phòng của ông, liền cho một
số lớn thị nữ nô lệ phục vụ và những thái giám canh phòng. Ông đích thân đưa
nàng về gian phòng ấy, không để nàng có thì giờ cám ơn như nàng nghĩ, ông ta
nói với nàng: Công chúa, chắc nàng cần nghỉ ngơi, tôi để nàng tự do. Ngày mai
nàng sẽ bình tĩnh hơn để kể lại với tôi cuộc phiêu lưu lạ lùng của nàng . Nói
xong ông rút lui.
Công chúa vô cùng vui mừng
phút chốc được thoát khỏi sự hành hạ của một người nàng ghê tởm và tự nhủ nhà
vua Cachemlre sẽ đầy độ lượng để trả nàng về với hoàng tử Ba Tư khi nghe nàng
trình bày đã thuộc về hoàng tử như thế nào và khẩn cầu ông gia ân cho điều ấy.
Nhưng còn lâu mớl thấy hy vọng của nàng được thực hiện được
Thực vậy, vua Cachemire quyết
định ngày hôm sau sẽ cưới nàng và ngay từ bình minh ông đã thông báo cho vui
chơi với não bạt, trống kèn và các nhạc cụ khác vạng khắp hoàng cung và thành
phố. Công chúa tỉnh giấc vì tiếng hoà âm hỗn loạn, cho rằng vì lý do khác,
không phải như ý định của nhà vua? Khi vua cho người báo sẽ đến thăm nàng và
sau khi hỏi thăm sức khoẻ, ông cho biết tiếng chiêng trống đó là để làm hôn lễ
của họ thếm long trọng và để cho nàng vui lòng, nàng kinh ngạc đến nỗi ngã xuống
bất tỉnh.
Các thị nữ chạy tới cấp cứu,
nhà vua cũng làm mọi cách để nàng tỉnh lại nhưng nàng vẫn trong tình trạng ấy rất
lâu. Cuối cùng nàng cũng hồi phục, nhưng thay vì để mất lòng tin với hoàng tử
Ba Tư nếu bằng lòng thành hôn với vua Cachemire, người đã quyết định mà không hỏi
ý kiến nàng, nàng vờ mất trí trong lúc ngã bất tỉnh. Nàng bắt đầu nói những điều
quá đáng trước mặt vua, đứng dậy như muốn nhảy vào ông làm nhà vua rất ngạc
nhiên và bất bình trước thời điểm quan trọng này. Thấy nàng chưa tỉnh táo, ông
để nàng lại cho thị nữ, bảo không được rời mắt và chăm sóc nàng cẩn thận. Trong
ngày ông cho người đến nắm tình hình của nàng và lần nào người ta cũng tâu với
ông nàng vẫn ở trong tình trạng ấy hoặc tăng thêm chứ không giảm. Cơn đau có vẻ
nặng hơn về buổi tối nên vua Cachemire đêm ấy không hạnh phúc như mình nghĩ.
Công chúa Bengale hôm sau
không chỉ nói năng lung tung mà còn có nhiều dấu hiệu mất trí khác. Những ngày
tiếp theo vẫn vậy; vua buộc phải tập hợp các lương y trong triều kể bệnh tình
và bảo chạy chữa.
Các lương y sau khi hội chẩn,
đều trả lời có nhiều trạng thái bệnh, tuỳ theo tính chất có những triệu chứng
có thể khỏi, có những triệu chứng không chữa được và họ không phán đoán rõ bệnh
tình công chúa nếu không trực tiếp gặp nàng. Nhà vua ra lệnh cho thái giám lần
lượt đưa từng người vào phòng công chúa theo thứ bậc của họ.
Công chúa đã dự kiến việc sẽ
đến, sợ nếu để các lương y lại gần bắt mạch mình, người ít kinh nghiệm nhất
cũng biết nàng vẫn khoẻ và bệnh tật chỉ là một sự giả vờ nên tỏ ra rất ghê tởm,
sẵn sàng cấu xé nếu họ đến gần nên không thầy thuốc nào dám bước tới.
Một số tự cho thành thạo
hơn, nói có thể chẩn đoán bệnh qua nhìn bề ngoài, kê một số thuốc uống nhưng
công chúa quá biết rằng bệnh hay không là do mình, nên các loại thuốc chẳng có
tác dụng.
Nhà vua thấy các lương y
trong triều không chữa được bệnh, liền huy động các thầy thuốc khắp kinh thành
nhưng khoa học, kinh nghiệm cũng chẳng có kết quả gì hơn. Sau đó ông cho gọi những
thầy thuốc ở các thành phố khác đặc biệt những người nổi tiếng về hành nghề.
Công chúa không tiếp đón thuận lợi hơn và những đơn thuốc của họ cũng không tác
dụng gì. Ông bèn thông báo đến các tỉnh trong nước, các vương triều lân cận, mời
những lương y giỏi nhất đến chữa bệnh, hứa trả chi phí hành trình đến kinh
thành Cachemire và thưởng rất hậu.
Nhiều thầy thuốc thực hiện
cuộc hành trình đó nhưng không ai có thể nói gặp may hơn những đồng nghiệp địa
phương trong việc khôi phục lại tâm trí của người bệnh, điều không phụ thuộc
vào họ và nghệ thuật của họ mà tuỳ theo ý muốn của công chúa. Trong thời gian
đó, hoàng tử Firouj Schah cải trang thành tu sĩ qua nhiều tỉnh, thành phố, đau
khổ về tinh thần khiến chàng bất chấp mọi mệt nhọc khi đi đường. Chú ý đến tin
tức ở mỗi chỗ đi qua, nên khi đến một thành phố lớn ở Ấn Độ, chàng đã nghe thấy
người ta nói nhiều về một công chúa Bengale mất trí vào hôm vua Cachemire dự định
cưới nàng. Nghe nói đến công chúa Bengale, chàng cho rằng nàng công chúa đó
chính là người mình đi tìm kiếm vì không nghe nói ở triều đình Bengale có công
chúa nào khác hơn công chúa của chàng. Tin vào lời đồn, chàng lên đường đến
kinh thành Cachemire. Tới nơi chàng thuê một chỗ trọ, ngay trong ngày ấy biết
được tin câu chuyện về công chúa Bengale, kết cục của ngườl Ấn Độ đã đưa công
chúa đến trên con ngựa thần diệu và tốn phí vô ích của nhà vua trong việc chữa
chạy cho công chúa.
Nắm được những chi tiết đó,
hoàng tử kiếm một bộ quần áo thầy thuốc và với bộ râu để mọc dài suốt cuộc hành
trình, chàng đi trên đường tự xưng là lương y giỏi. Nóng lòng gặp lại công chúa,
chàng đi thẳng vào hoàng cung đề nghị cho gập một võ quan hầu cận. Người ta đưa
chàng đến viên đội trưởng có trách nhiệm đón tiếp lương y; chàng nói với ông ta
rằng chàng có thể bị coi là táo bạo khi đến xin chữa cho công chúa sau bao
nhiêu lương y khác không đưa lại kết quả nhưng hy vọng với một số bài thuốc
chàng biết và có kinh nghlệm, chàng có thể chữa được bệnh. Viên đội trưởng hoan
nghênh chàng, và bảo nhà vua vui lòng gặp chàng và nếu chữa cho công chúa đỡ bệnh,
chàng sẽ có một phần thưởng hào phóng của nhà vua. Ông chờ một lúc, người tiếp
đón nói thêm,tôi sẽ ra ngay .
Đã một thời gian không một
thầy thuốc nào đến xin chữa bệnh và vua Cachemire rất đau lòng nghĩ đã hết hy vọng
thấy lại công chúa khoẻ mạnh như ông đã gặp và yêu say mê muốn cưới nàng. Ông
ra lệnh cho viên đội trưởng tiếp đón đưa ngay lương y vào gặp mình.
Hoàng tử Ba Tư được vào
trình diện nhà vua dưới dạng cải trang lương y và nhà vua không nói nhiều, lưu
ý chàng,công chúa Bengale thấy thầy thuốc lại gần sẽ lồng lộn lên càng làm bệnh
thêm nặng nên đưa chàng lên một phòng để ngỏ có thể nhìn qua một lỗ cửa mà
không bị trông thấy.
Hoàng tử Firouj Schah bước
lên, nhận ra công chúa thương yêu của mình, đang thẫn thờ ngồi khóc, hát một
bài than số phận có lẽ không bao giờ gặp được người mình yêu tha thiết nữa.
Hoàng tử buồn rầu về hoàn cảnh
của công chúa, không cần có những dấu hiệu gì khác cũng hiểu rằng nàng giả vờ bệnh
và vì yêu chàng mà nàng buộc phải khổ long như vậy. Chàng xuống khỏi căn phòng,
bẩm với nhà vua đã phát hiện ra bản chất căn bệnh của công chúa, không phải
không chữa được. Chàng nói để khỏi bệnh, cần thiết chàng phải nói riêng với
nàng và thay vì nổi khùng khi thấy các thầy thuốc, chàng hy vọng công chúa sẽ dịu
lại và lắng nghe chàng.
Vua sai mở cửa phòng công
chúa và hoàng tử bước vào. Thấy chàng xuất hiện nàng cho là một thầy thuốc,
nàng đứng lên giận dữ đe doạ và chửi rủa. Chàng vẫn tiến lại, khi khá gần để có
thể nói chỉ một mình nàng nghe, chàng nói nhỏ giọng và thái độ cung kính:
- Công chúa, tôi không phải
lương y; mong nàng nhận ra hoàng tử Ba Tư đến để giải thoát cho nàng.
Nghe giọng nói và nhìn những
nét trên khuôn mặt, công chúa nhận ra chàng mặc dầu bộ râu để mọc dài. Nàng
bình tĩnh lại và thể hiện trên mặt niềm vui người ta không còn hy vọng nàng có
nữa và điều ít ngờ được là nàng có thể nói chuyện khi chàng bước vào. Sự ngạc
nhiên êm dịu làm nàng im lặng một lúc; hoàng tử có dịp kể lại nỗi thất vọng của
mình khi thấy tên Ấn Độ bắt cóc đem nàng đi mất, chàng quyết tâm bỏ tất cả để
đi tìm nàng bất cứ đến đâu và giải thoát nàng khỏi tay tên vô lại; hạnh phúc
làm sao qua một hành trình buồn tủi và vất vả chàng hài lòng lại được thấy nàng
trong hoàng cung này. Vắn tắt những điểm cần thiết xong chàng yêu cầu công chúa
nói cho chàng biết những việc xảy ra từ khi bị cướp đi cho đến lúc này, chàng
lưu ý nàng đó là điều rất quan trọng để có những cách làm đúng đắn đưa nàng ra
khỏi sự độc đoán của vua Cachemire.
Công chúa không dài dòng,
thuật lại những việc xảy ra và để giữ mình cho một hoàng tử nàng đã trao cả tấm
lòng và niềm tin, nàng đã chọn con đường vờ mất trí hoặc sẽ chết hơn là kết hôn
với một ông vua nàng không yêu và không thể yêu.
Hoàng tử Ba Tư thấy công
chúa không còn gì để nói, liền hỏi nàng về con ngựa thần diệu ở đâu sau cái chết
của tên Ân Độ.
- Thiếp không rõ - Nàng trả
lời - nhưng sau việc thiếp đã kể, chắc rằng nhà vua đã cho bảo vệ cẩn thận.
Hoàng tử cũng tin như vậy,
chàng bàn bạc với công chúa về ý định và cách làm để sử dụng ngựa thần đưa nàng
về Ba Tư và bảo nàng ăn mặc lịch sự để tiếp nhà vua khi chàng dẫn ông ta lại
tuy không bắt buộc phải nói chuyện với ông ta.
Vua Cachemire rất vui mừng
khi nghe hoàng tử Ba Tư báo tin đã có biến chuyển tốt ngay lần đầu khi gặp và bệnh
tình công chúa đã giảm. Ngày hôm sau ông xem hoàng tử như lương ỳ giỏi nhất thế
giới khi công chúa tiếp ông và nhận định tình hình thực sự rất khả quan như
hoàng tử đã nói.
Thấy nàng trong tình trạng
chửa khỏi hẳn, vua chỉ nói rất sung sướng vì công chúa đã bắt đầu hồi phục và
sau khi khuyến khích lương y tiếp tục việc chữa trị đã bắt đầu rất tốt, ông rút
lui không chờ công chúa nói câu nào.
Hoàng tử Ba Tư đi theo nhà
vua, khi ra khỏi phòng công chúa, chàng xin phép hỏi ông vì sao công chúa
Bengale ở một mình trong vương quốc Cachemlre, xa nước mình đến thế, làm như
chàng không biết nhằm làm nhà vua nói chuyện về con ngựa thần và để tự ông nói
ra đã làm gì nó rồi.
Vua Cachemire không hiểu được
mục đích hoàng tử hỏi, nên không giấu giếm gì. Ông kể lại gần như công chúa đã
nói với ông còn về con ngựa ông đã cho đưa vào kho như một vật rất hiếm tuy ông
không biết cách sử dụng nó như thế nào.
Lương y giả mạo nói:
- Thưa bệ hạ, điều Người vừa
cho tôi biết có thể giúp tôi chữa hẳn được bệnh của công chúa. Do được mang tới
trên lưng ngựa và là con ngựa thần diệu, nàng bị ảnh hưởng của điều gì đó bí hiểm
chỉ được giải thoát bằng một số hương liệu tôi biết. Nếu bệ hạ vui lòng và cho
triều thần và dân chúng kinh thành được xem một quang cảnh kỳ lạ nhất, ngày mai
Người cho mang con ngựa ra giữa quảng trường trước hoàng cung và phần còn lại
giao cho tôi làm, tôi hứa Người và toàn thể dân chúng sẽ tận mắt thấy chỉ trong
chốc lát công chúa Bengale sẽ tỉnh táo và mạnh khoẻ hơn bao giờ hết. Để việc
làm được rầm rộ, đã đến lúc công chúa phải mặc thật đẹp, trang sức những viên
đá quí nhất bệ hạ có.
Vua Cachemire đã làm những
việc khó hơn điều hoàng tử đề nghị để được thoả thích nguyện vọng mà ông thấy
đã tới gần.
Ngày hôm sau con ngựa thần
diệu được kéo từ kho báu ra để ở quảng trường từ sớm theo lệnh nhà vua và tiếng
đồn chuẩn bị cho một việc gì rất khác thường lan đi khắp thành phố làm từng
đoàn người ở các khu vực kéo đến xem. Quân bảo vệ được bố trí giữ trật tự và
dành một chỗ rộng cho con ngựa.
Vua Cachemire xuất hiện, khi
ông đã ngồi lên ghế cao ở khán đài, xung quanh là cận thần và các tướng lĩnh
trong triều, công chúa Bengale có một toán thị nữ được chỉ định tháp tùng và
giúp nàng lên ngựa. Khi nàng đã ngồi trên yên, chân Sỏ vào bàn đạp tay cầm dây
cương, lương y giả mạo cho đem đến quanh con ngựa nhiều lư hương lớn đầy lửa,
quay vòng quanh ném vào mỗi lư hương một loại hương liệu toả ra nhiều loại mùi
vị thật thơm. Sau đó tĩnh tâm lại, đôi mắt lim dim, tay chắp trước ngực, lương
y đi ba vòng quanh ngựa vờ đọc thần chú và trong lúc các lư hương toả làn khói
dày đồng thời với hương vị rất dịu ngọt bao quanh công chúa người ta không nhìn
rõ nàng và con ngựa, hoàng tử nhẹ nhàng nhảy lên ngồi sau công chúa, đưa tay
quay chết ra đi. Trong lúc ngựa đưa chàng và công chúa lên không trung, hoàng tử
lớn tiếng nói rõ ràng những lời mà nhà vua cũng nghe được:
- Nhà vua cachemire, khi ông
muốn cưới những công chúa xin ông bảo vệ, trước hết phải được họ bằng long đã.
Theo cách đó hoàng tử Ba Tư giành lại và giải thoát công chúa Bengale, ngay
trong ngày ấy đưa nàng về kinh thành Ba Tư, không dừng lại ở lâu đài vui chơi
mà hạ xuống hoàng cung. Vua Ba Tư chỉ hoãn đám cưới trong thời gian cần thiết để
chuẩn bị hôn lễ thật trang trọng, lộng lẫy hơn.
Sau những ngày vui chơi chúc
mừng, việc đầu tiên vua Ba Tư thấy cần làm là cử một phái đoàn nổi danh đến nhà
vua Bengale trình bày về những việc xảy ra và xin nhà vua chấp nhận làm thông
gia qua cuộc hôn nhân này. Vua Bengale biết rõ được mọi việc, cho là một vinh dự
và vui lòng chấp nhận.
Chương 40:
Hoàng tử Admed và nàng tiên Pari-Banou
Hoàng hậu Scheherazade kể tiếp câu chuyện
Hoàng tử Admed và nàng tiên Pari-Banou sau chuyện Cọn ngựa thần diệu. Bà nói:
- Thưa bệ hạ, một trong những vị tiền bối của
bệ hạ trị vì ngôi vua Ấn Độ yên bình trong nhiều năm, về già hài lòng thấy ba
hoàng tử con Người xứng đáng học tập đạo đức của Người và một công chúa cháu
gái, trang điểm cho triều đình thêm tươi vui. Hoàng tử con trưởng tên là
Houssain, người thứ hai Ali, người trẻ nhất Ahmed và cháu gái là Nourounnihar.
Công chúa Nourounnlhar là con gái hoàng thân
em vua được chia một phần lãnh thổ thu nhập lớn nhưng mất sau khi cưới vợ mấy
năm, để nàng lại từ tấm bé. Nhà vua thấy hoàng thân em mình có tình nghĩa anh
em hoàn hảo, rất gắn bó với mình, nên nhận việc giáo dục con gái em, đưa nàng về
cung để nuôi dạy cùng ba hoàng tử. Sắc đẹp đặc biệt cùng thân hình hoàn hảo,
công chúa cũng rất thông minh và đoan trang không chê trách được làm nàng nổi
lên so với các công chúa cùng thời.
Nhà vua, bác công chúa, đã định khi nàng đến
tuổi, sẽ kết thân với một hoàng tử ở những nước xóm giềng, gả cho làm vợ; Người
suy nghĩ về việc đó rất nghiêm túc vậy mà bỗng nhiên nhận ra ba hoàng tử con
mình đều yêu công chúa say đắm. Người rất đau lòng không chỉ niềm say mê ấy cản
trở sự kết thân được dự tính mà còn vì khó khăn làm hai người em sẽ không chấp
nhận nhường cho anh cả như ông tiên đoán. Người nói chuyện với riêng từng hoàng
tử, chỉ rõ một công chúa không thể là vợ của cả ba, sẽ gây rối loạn nếu họ vẫn
cương quyết say mê công chúa, Nhà vua cố gắng thuyết phục, tuyên bố công chúa
chỉ dành cho một trong ba người hoặc sẽ gả cho một hoàng tử nước khác, Người để
các con suy nghĩ lựa chọn. Nhưng thấy các hoàng tử vẫn khăng khăng theo ý họ,
Người cho gọi cả ba người đến trước mặt và bảo:
- Các con ta, vì lợi ích và sự thanh thản của
các con, ta không thuyết phục các con bỏ nguyện vọng cưới cháu ta và là em họ
các con, nhưng ta không muốn dùng quyền lực cho phép một trong ba con, ta nghĩ
đã tìm được một cách làm các con hài lòng và giữ được tình đoàn kết với nhau vậy
các con hãy lắng nghe và thực hiện theo điều ta nói. Các con hãy đi du lịch
riêng rẽ, đến những đất nước khác nhau để không thể gặp nhau. Các con biết ta
tò mò thích những vật hiếm và đặc biệt, ta hứa sẽ cưới công chúa cho người nào
trong các con mang về cho ta vật khác thường nhất và đặc biệt nhất. Như vậy do
tình cờ các con xét xem vật gì đặc biệt đứa về so sánh với nhau, ai hơn sẽ được
ưu tiên một cách xứng đáng. Về chi tiêu dọc đường và tìm mua vật hiếm, ta cho
các con một số tiền ngang nhau phù hợp với nguồn gốc sinh trưởng tuy nhiên các
con không được dùng tiền đó phung phí vào người hầu và hành trang vì như vậy
các con sẽ tự làm lộ ra mình là ai, làm mất tự do, các con cần phải làm như vậy,
không chỉ để hoàn thành mục đích chuyến đi mà còn để quan sát những điều đáng
chú ý, cuối cùng thu được lợi ích lớn nhất về chuyến đi .
Ba hoàng tử vẫn luôn luôn vâng lệnh phụ hoàng
và mỗi người đều nghĩ mình sẽ gặp may và có điều kiện chiếm lấy công chúa
Nourounnihar, họ tỏ ra sẵn sàng thực hiện theo ý vua cha. Không chần chừ, nhà
vua cho đếm số tiền Người đã hứa và ngay hôm ấy các hoàng tử cho lệnh chuẩn bị
hành trang, thậm chí chào từ biệt phụ hoàng để sáng hôm sau đi sớm. Họ đi ra
cùng một cổng thành, ngựa và hành trang chu đáo, ăn mặc giả thương nhân mỗi người
mang theo một võ quan hầu cận cải trang thành nô lệ, đến một địa điểm con đường
phân làm ba mỗi hoàng tử đi theo một đường riêng. Buổi tối lúc ăn họ quyết định
sẽ đi một năm, hẹn gặp nhau ở chỗ chia tay, người đến trước chờ người đến thứ
hai, hai người phải chờ người thứ ba để khi đi cùng chào phụ hoàng thì khi về
cũng đến trình diện Người một lúc. Ngày hôm sau vừa bình minh họ ôm nhau hôn,
chúc nhau may mắn trên đường đi rồi lên ngựa mỗi người theo một con đường để khỏi
trùng lặp trong việc lùa chọn.
Hoàng tử Houssain, người anh cả nghe nói về sự
lớn mạnh giàu có và vẻ đẹp của vương quốc Bisnagar, đi theo con đường ven bờ biển
Ấn Độ, sau khoảng ba tháng hành trình cùng những đoàn lữ hành khác nhau, khi
qua những hoang mạc đồi núi cằn cỗi, lúc đến những vùng đông dân, văn minh màu
mỡ nhất trên thế giới, chàng đến Bisnagar, thành phố mang tên vương quốc và là
kinh thành, chỗ ở của các nhà vua. Chàng thuê phòng trong nhà trọ dành cho các
thương gia nước ngoài và được biết có bốn khu chính ở đó thương gia mở hiệu đủ
các loại hàng hoá. Hoàng cung ở giữa thành phố, chiếm một vùng đất rất rộng có
ba lớp tường bao và hai vùng đất thông nhau về các mặt từ cổng này đến cổng
khác. Ngày hôm sau chàng đến một trong những khu chính đó.
Hoàng tử Houssain không thể không ngỡ ngàng;
khu vực thật rộng, nhiều con đường cắt ngang dọc tất cả có vòm che nhưng sáng sủa.
Các cửa hiệu lớn như nhau, bố trí cân đối, mỗi con đường lại kinh doanh một loại
hàng hoá hoặc một loại công nghệ phẩm khác nhau.
Rất, nhiều cửa hàng đầy vải vóc mịn nhất ,của
các vùng ở Ấn độ, vải màu rực rỡ có hình như thật về người, phong cảnh, cây,
hoa, lụa và gấm như ở Ba Tư, Trung Quốc và những nước khác, đồ sành sứ của Nhật
Bản và Trung Quốc thảm trải khổ rộng các cỡ... làm hoàng tử rất ngạc nhiên
không biết có nên tin vào mắt mình không. Nhưng đến cửa hàng thợ kim hoàn và vật
trang sức (hai nghề này cùng một loại thương gia kinh doanh), chàng loá mắt trước
số lượng thần kỳ về phẩm vật vàng, bạc, về màu sắc rực sáng của ngọc, kim
cương, hồng ngọc, ngọc bích, xa-phia xen lẫn nhau bày ra bán. Nếu ngạc nhiên về
bao nhiêu của cải tập trung vào một chỗ, chàng không kém sửng sốt về tài sản của
toàn vương quốc, kể cả những nơi xa xôi, không chỗ nào không có những người dân
Ấn Độ cả nam lẫn nữ không mang vòng cổ, vòng tay và những trang sức ở chân; ngọc
hoặc đá quý có vẻ càng ánh lên vì da họ đen, một màu đen càng làm nổi bật màu
sáng chói.
Một nét đặc biệt khác làm hoàng tử thán phục
là rất nhiều những người bán hoa hồng thành đám đông trên đường phố. Chàng hiểu
ra những người Ấn Độ phải rất thích loại hoa này vì ai cũng cầm một bó hoa hồng
trên tay hoặc hoa trong cửa hàng nên khu phố rộng đến mức nào thì hương hoa
cũng lan toả khắp nơi.
Hoàng tử Houssain đi qua nhiều đường phố, tâm
trí đầy của cải đã thấy, chàng cảm thấy cần phải nghỉ ngơi. Hoàng tử liền ngỏ lời
với một thương gia ông này lịch sự mời chàng vào ngồi trong quán, ngồi không
lâu chàng thấy một người vắt một tấm thảm khoảng sáu bộ vuông trên tay rao bán,
đấu giá với ba mươi đồng tiền vàng. Chàng gọi lại xem tấm thảm, thấy giá quá
đáng không chỉ vì tấm thảm nhỏ mà còn vì chất lượng. Quan sát kỹ tấm thảm,
chàng hỏi người bán không hiểu vì sao một tấm thảm nhỏ và không đẹp mà giá cao
đến thế.
Người rao bán nghĩ hoàng tử Houssain là một
thương gia nên giải đáp ngay:
- Ông chủ, nếu ông cho giá đó quá cao, ông sẽ
ngạc nhiên hơn nhiều khi ông biết tôi được lệnh đưa lên tới bốn mươi đồng tiền
bằng vàng và chỉ giao cho người trả đủ số.
- Nếu vậy - Hoàng tử lại nói - nó có điểm nào
quý giá mà tôi chưa biết?
- Đúng đấy thưa ông, và ông phải chấp nhận nếu
biết khi ông ngồi lên đấy, tám thảm sẽ đưa ông bay tới chỗ ông muốn và ngay lập
tức không gặp một trở ngại nào.
Hoàng tử nghe nói thế, thấy mục đích hành
trình của mình là mang về cho vua cha vật hiếm hoi đặc biệt nào đó, nghĩ rằng
không có gì làm vua hài lòng hơn vật này. Chàng nói với người bán:
- Nếu tấm thảm có tính chất quý như ông nói,
không những tôi không cho là đắt mà tôi sẽ thu xếp để mua của ông giá đó cộng
thêm một quà tặng hẳn ông bằng lòng.
- Thưa ông chủ, tôi nói thật đấy và ông dễ
dàng xác nhận khi mua với giá bốn mươi đồng tiền bằng vàng với điều kiện tôi
bay thử cho ông xem. Tôi sẽ theo ông đến chỗ trọ, chúng ta vào sân sau, tôi trải
tấm thảm, ông và tôi ngồi lên, ông đưa ra ý muốn lên phòng của ông trong quán
trọ, nếu chúng ta không được mang ngay tới đó thì ông không phải mua bán gì nữa
cả. Về quà tặng, tôi xin nhận và cảm ơn ông còn tiền công thì đã có người buôn
thảm trả.
Tin vào người rao hàng, hoàng tử chấp nhận
mua với điều kiện ấy, cùng nhau ra phía sau quán trọ sau khi xin phép chủ nhà.
Người rao trải tấm thảm, cả hai ngồi lên trên và ngay lúc hoàng tử nói ý muốn
vào phòng mình trong quán, chàng có mặt ngay trong đó với người rao. Chắc chắn
về tính chất quý của tấm thảm, chàng đếm cho ông ta bốn mươi đồng tiền vàng và
tặng thêm hai mươi đồng tiền cho người rao.
Hoàng tử Houssain có chiếc thảm, chàng vô
cùng vui mừng vừa đến Bisnagar đã kiếm được ngay một vật hiếm hoi, chắc chắn sẽ
chiếm được công chúa Nourounnihar. Thực vậy chàng tin rằng hai người em không
thể tìm được một vật gì sánh được tấm thảm chàng may mắn gặp được.
Không cần ở lại Bisnagar lâu hơn, chàng có thể
ngồi lên tấm thảm ngay hôm ấy đến chỗ hẹn với họ nhưng chàng buộc phải chờ. Muốn
biết thêm về nhà vua, triều đình xứ Bisnagar và tìm hiểu lực lượng, luật pháp,
phong tục, tôn giáo cùng tình hình toàn vương quốc, chàng ở lại mấy tháng để
thoả tính tò mò.
Thông lệ của vua Bisnagar là mỗi tuần một lần
cho các thương gia nước ngoài tiếp kiến. Với danh nghĩa đó Houssain đã gặp ông
nhiều lần. Hoàng tử này vốn tuấn tú, vô cùng thông minh và hiểu biết lễ nghi, nổi
hẳn lên giữa những thương gia đến tiếp kiến vua. Chính nhà vua thích trao đổi với
chàng hơn những thương gia khác để hỏi thăm sức khoẻ nhà vua Ấn Độ và ca tụng về
sự hùng cường, giàu có của triều đình vương quốc ông.
Những ngày khác hoàng tử đi tham quan những
nơi đáng chú ý trong kinh thành và các vùng xung quanh. Trong số cảnh vật đáng
khâm phục, chàng thấy một ngôi đền thờ thần, kiến trúc thật đặc biệt ở chỗ tất
cả bằng đồng đen: mặt bằng khoảng năm mét vuông, cao bảy mét rưới và đẹp nhất
là một tượng thần bằng vàng khối cao bằng một người, đôi mắt bằng hồng ngọc bố
trí nghệ thuật đến mức quay nhìn chiều nào cũng thấy. Chàng thấy một điều khác
không kém phần được thán phục: giữa một ngôi làng có một bãi đất bằng khoảng mười
mẫu trung tâm là khu vườn đầy hồng và các loài hoa nhìn rất đẹp, có cột bức tường
thấp bao quanh ngăn súc vật lại gần. Ở giũa vườn là một khu vực cao bằng đầu
người gắn kết bằng những viên đá nối với nhau tinh vi như chỉ là một tảng đá.
Ngôi đền mái vòm xây trên khu vực kết bằng đá đó, cao hai mươi lăm mét cách nhiều
dặm quanh đấy vẫn trông thấy. Chiều dài ngôi đền mười lăm, rộng mười mét, tất cả
bằng đá hoa cương màu đỏ phẳng lì. Vòm trần trang trí ba hàng phong cảnh, có chạm
nổi hình các nữ thần, từ trên cao xuống dưới không chỗ nào để trống.
Sáng và chiều người ta làm lễ, cúng bái trong
đền kèm theo những trò chơi, những hoà tấu nhạc cụ, nhảy múa, hát và yến tiệc.
Những người lo việc trong đền, nhân dân ở đó sống vào phẩm vật những người hành
hương đông đảo mang tới từ những nơi xa xôi nhất để cầu nguyện.
Hoàng tử Houssaln còn được tham dự buổi lễ
long trọng hàng năm ở triều đình Bisnagar đủ mặt các quan chức địa phương, các
tướng lĩnh những tổng trấn, những người Bà-la-môn, nổi tiếng nhất, có những nơi
xa xôi ít nhất phải bốn tháng đi đường. Cuộc tập hợp vô vàn người Ấn Độ trên một
bãi bằng rất rộng là một quang cảnh thật ngoạn mục. Giữa bãi bằng có một quảng
trường rất dài và rộng, một mặt ngăn bởi một toà nhà rất đẹp dưới dạng lâu đài
chín tầng dựa trên bốn mươi chiếc cột, dành cho vua, triều đình và những người
nước ngoài được vinh dự tiếp kiến vua mỗi tuần một lần, phía trong trang trí và
trang bị tuyệt vời, bên ngoài vẽ những cảnh vật đủ các loài vật, chim, côn
trùng cả những loại ruồi muỗi, tất cả theo tự nhiên. Ba mặt khác là những lâu
đài ít nhất bốn, năm tầng cũng tô vẽ như nhau. Những lâu đài này có nét đặc biệt
là người ta có thể xoay chuyển, thay đổi mặt và cảnh vẽ từng giờ.
Xung quanh quảng trường, cách đều nhau sắp xếp
hàng nghìn con voi trang phục lộng lẫy mỗi con mang trên lưng một lầu vuông bằng
gỗ tấm vàng và những nhạc công và các người làm trò trong mỗi lầu. Vòi vọi, tai
và phần thân sơn màu đỏ thẫm và các màu thể hiện những hình thù kỳ lạ.
Trong toàn cảnh đó, hoàng tử Houssain ca ngợi
hơn cả kỹ nghệ, sự khéo léo và thiên tài sáng tạo của những người Ấn Độ là được
thấy một con voi to khoẻ nhất đứng chụm bốn chân trên một chiếc cọc lớn cắm sâu
vào đất, cách mặt đất khoảng hai bộ, múa vòi trên không theo nhịp nhạc cụ.
Chàng cũng khâm phục không kém một con voi khác cũng to khoẻ thế đứng một đầu
thanh ngang bắc trên cọc cao mười bộ, đầu kia buộc một tảng đá cực kỳ lớn dùng
làm đối trọng, lúc lên cao lúc xuống thấp làm các động tác thân và vòi theo nhịp
điệu các nhạc cụ như con voi kia trước mặt vua và triều đình. Những người Ấn Độ
buộc chặt tảng đá đối trọng, dùng sức người kéo đầu kia xuống sát đất, nâng bổng
được con voi lên.
Hoàng tử Houssain có thể ở lại lâu hơn ở
vương quốc Bisnagar, vô vàn những điều kỳ lạ khác có thể hấp dẫn chàng cho đến
ngày cuối năm; nhưng đã đến ngày ước định các anh em gặp nhau; vả lại chàng cũng
đã thoả mãn về những điều trông thấy, chàng lại luôn luôn nghĩ đến đối tượng
mình yêu, từ khi mua được vật hiếm, sắc đẹp, sự duyên dáng của công chúa ngày
càng in đậm trong niềm say mê của chàng, chàng cảm thấy yên tâm, hạnh phúc hơn
khi sắp được về đến gần nàng. Sau khi chi phí thoải mái cho người giữ phòng
thuê trọ, hẹn giờ đến lấy chìa khoá để ở cửa mà không nói sẽ đi bằng cách nào,
chàng vào phòng đóng cửa lại để chìa khoá ở đấy. Chàng trải tấm thảm, ngồi lên
cùng viên võ quan hầu cận, vừa tĩnh tâm ước được mang đến chỗ hẹn với các em
thì đã thấy đến nơi rồi. Chàng dừng lại đấy, cho người ta biết mình là một
thương gia và chờ các em. Hoàng tử Ali, em kế tiếp Houssain, dự định đi Ba Tư
phù hợp với ý vua Ấn Độ, lên đường cùng một đoàn lữ hành vào ngày thứ ba đã
chia tay với anh em. Sau bốn tháng chàng đến thành phố Schiraz lúc đó là kinh
thành Ba Tư. Dọc đường kết bạn với một số thương gia nhân danh là người buôn
kim hoàn, chàng cùng thuê phòng ở trong một nhà trọ với họ.
Ngày hôm sau trong lúc các thường gia mở hàng
hoá, hoàng tử Ali đến đây theo ý thích và chỉ quan tâm đến những vật cần thiết,
sau khi thay đổi quần áo, chàng cho dẫn đến các khu phố bán đá quý, những vật
vàng, bạc, gấm, lụa, vải đẹp và những vật khác hiếm hoi và quý nhất. Nơi này lộng
lẫy và xây dựng chắc chắn, có mái vòm do những cột to đỡ, xung quanh là các cửa
hàng bố trí dọc theo tường cả trong lẫn ngoài, rất nổi tiếng ở Schiraz. Trước hết
hoàng tử đi dọc ngang khắp chỗ ấy, nhận thấy sự giàu có trong số lượng khổng lồ
những hàng hoá quý bày bán. Trong số những người rao hàng đi lại mang theo hàng
hoá, chàng ngạc nhiên thấy một người cầm trong tay một chiếc ống bằng ngà voi
dài khoảng một bộ, to hơn ngón tay cái một ít rao với giá ba mươl đồng tiền
vàng. Lúc đầu chàng tưởng người kia mất trí. Để rõ ràng hơn, chàng lại gần một
cửa hàng hỏi người bán: Thưa ông chủ, ông cho biết người rao hàng kia có mất
trí không mà đòi chiếc ống ngà vơi những ba mươi đồng tiền bằng vàng?
- Thưa ông - Người kia trả lời nếu ông ta
không bị mất trí vào hôm qua thì tôi có thể khẳng định với ông đấy là người
thông minh nhất trong số những người rao hàng và được người ta tin tưởng nhất
khi cho giao bán những đồ vật quý. Còn chiếc ống rao bán ba mươi đồng tiền bằng
vàng thì đáng giá đấy, thậm chí còn hơn. Ông ta sẽ đi trở lại qua đây chúng ta
gọi vào và tự ông hỏi xem. Mời ông ngồi nghỉ đã.
Hoàng tử Ali không từ chối lời mời tử tế của
ông chủ cửa hàng, ngồi một lúc thì người rao hàng trở lại. Nghe gọi tên, ông ta
vào, ông chủ cửa hàng chỉ vào Ali nói:
- Ông trả lời cho ông này xem có điên không
mà rao bán những ba mươi đồng tiền bằng vàng một chiếc ống có vẻ ít tác dụng
như vậy. Tôi cũng ngạc nhiên đấy nếu không biết ông vốn là người thông minh.
Người rao hàng nói với hoàng tử:
- Thưa ông chủ, không phải chỉ riểng ông cho
tôi là điên vì chiếc ống này. Tôi hy vọng ông sẽ không, nghĩ thế như những người
khác khi tôi nói rõ tính chất đặc biệt của nó. Trước hết ông chả ý ở mỗi đầu ống
có miếng kính, khi nhìn vào một trong hai đầu đó, bất cứ ông muốn trông thấy gì
ông sẽ trông thấy ngay.
- Tôi sẵn sàng xin lỗi vì đã đụng chạm tới
danh dự của ông nếu ông cho tôi thấy thực tế như ông nói – Hoàng tử nói.
Cầm chiếc ống trong tay quan sát hai miếng
kính, chàng bảo:
- Ông chỉ cho tôi phải nhìn vào đâu xem nào.
Người rao hàng chỉ. Hoàng tử nhìn vào, mong
nhìn được vua cha, chàng thấy nhà vua ngay, Người rất mạnh khoẻ, ngồi trên ngai
vàng giữa các triều thần. Sau vua cha không ai thân yêu trên đời bằng công chúa
Nourounnihar, chàng mong được thấy nàng, chàng liền nhìn thấy nàng đang ngồi
trang điểm có thị nữ vây quanh vui vẻ cười đùa.
Hoàng tử Ali không cẩn chứng minh gì khác để
khẳng định chiếc ống này là vật quý nhất chàng có được không riêng trong thành
phố Schiraz mà cả toàn cầu. Chàng nghĩ nếu không mua thì không bao giờ mua được
một vật hiếm như vậy đem về dù ở Shiraz hay chỗ nào khác đến mười năm. Chàng
nói với người rao hàng:
- Tôi xin rút lui ý kiến không đúng đã tưởng
ông mất trí. Tôi nghĩ ông sẽ rất hài lòng việc tôi bù đắp lại là mua chiếc ống
của ông. Tôi không muốn một người khác sở hữu nó, ông nói đúng giá để khỏi phải
rao hàng nữa và đi lại mệt nhọc. Ông đến chỗ tôi, tôi sẽ trả đủ tiền cho ông.
Người rao hàng khẳng định và thề thốt được lệnh
bán cho được bốn mươi đồng tiền bằng vàng. Hoàng tử dẫn ông ta về chỗ trọ đếm đủ
số tiền vàng và như vậy, sở hữu chiếc ống bằng ngà voi.
Được chiếc vật hiếm này, hoàng tử vô cùng vui
sướng chắc chắn các anh, em chàng không gặp được vật hiếm hoi đáng khâm phục
như vậy và công chúa Nourounnihar sẽ là phần thưởng cho cuộc hành trình vất vả
của chàng. Chàng chỉ còn nghĩ đến việc tham quan triều đình Ba Tư, xem những gì
lạ ở Schiraz và quanh vùng, rồi chờ đoàn lữ hành cùng đi trở về Ãn Độ. Thoả mãn
tính tò mò rồi thì đoàn lữ hành chuẩn bị lên đường, chàng gia nhập hành trình.
Không một trở ngại làm gián đoạn chuyến đi
ngoài việc phải đi nhiều ngày và mệt mỏi dọc đường, hoàng tử Ali may mắn đến chỗ
hẹn đã có hoàng tử Houssain. Họ ở lại cùng nhau chờ hoàng tử Ahmed.
Hoàng tử Ahmed theo con đường đi Samarcande,
ngày hôm sau khi đến nơi, cũng như hai hoàng tử anh, chàng ra vùng trung tâm đô
thị. Một người rao hạng đến trước mặt chàng, tay cầm một quả táo nhân tạo, rao
giá ba mươi lăm đồng tiền bằng vàng. Chàng ngăn người ấy dừng lại và nói:
- Ông cho tôi xem quả táo và cho biết rõ tính
năng đặc biệt nào của nó mà hô giá cao đến thế.
Đưa cho chàng để quan sát kỹ, người rao hàng
bảo:
- Thưa ông chủ, nhìn bề ngoài quả táo này
không đáng giá mấy, nhưng nếu người ta nhìn vào tính năng và việc sử dụng rất tốt
làm lợi cho người, thì có thể nói nó vô giá, chắc chắn người có nó là người sở
hữu cả một kho báu. Thực vậy bất cứ căn bệnh nào, dù bị bệnh chờ chết như sốt
kéo dài, sốt xuất huyết, viêm màng phổi, dịch hạch hoặc các loại bệnh như thế,
kể cả đang hấp hối, sử dụng nó đều chữa khỏi, phục hồi ngay được sức khoẻ như
chưa bao giờ đau yếu. Làm việc đó cũng dễ nhất trần đời vì chỉ đơn giản xoa nó
vào người.
- Nếu như lời ông nói thì quả táo có một đặc
tính tuyệt vời và có thể nói vô giá nhưng một người trung thực như tôi muốn
mua, làm sao xác nhận được không có gì giả dối và ông không ca tụng thái quá?
- Thưa ông, việc đó được toàn thành phố,
Samarcande biết rõ và xác nhận. Không cần đi xa, ông cứ hỏi tất cả những người
buôn bán ở đây trong đó một số người hôm nay sẽ không còn sống nữa nếu không
dùng phương thuốc chữa bệnh rất công hiệu này. Để ông hiểu rõ thêm xin nói đó
là kết quả nghiên cứu lâu dài của một học gia nổi tiếng ở thành phố này dành suốt
đời tìm hiểu đặc tính quý của cây cối và khoáng chất, đã tổng hợp tạo ra quả
táo này, dùng nó chữa bệnh thật kỳ lạ trong thành phố làm người ta không quên ông
được. Cái chết đột ngột làm ông không có thì giờ sử dụng phương thuốc đặc biệt
này, mới đây ông lìa trần và bà vợ goá nhà đông con còn nhỏ tuổi phải bán nó đi
để gia đình sống thong dong hơn.
Trong lúc người rao hàng kể lại với hoàng tử
Ali những đặc tính quý của quả táo kỳ diệu, nhiều người đứng lại vây quanh họ,
phần đông xác nhận đúng như lời người kia nói. Một trong số ấy bảo ông có một
người bạn đang bị bệnh nghiêm trọng chỉ chờ chết, là một dịp thử nghiệm hiệu quả
hoàng tử Ahmed nói với người rao hàng nếu chữa lành người bệnh ấy thì chàng sẽ
mua với giá bốn mươi đồng tiền bằng vàng.
Người rao hàng được lệnh bán với giá ấy nói với
chàng:
- Thưa ông, chúng ta đi thử nghiệm xem và quả
táo sẽ thuộc về ông. Tôi tin chắc như vậy vì lần nào chữa bệnh nó cũng đưa lại
cuộc sống cho những người chuẩn bị vào cửa tử thần.
Cuộc thử nghiệm thành công, hoàng tử đem đủ bốn
mươi đồng tiền bằng vàng, người rao hàng đưa cho chàng quả táo nhấn tạo và
chàng kiên trì chờ ngày ra đi của đoàn lữ hành thứ nhất để trở về Ấn Độ. Chàng
dùng thời gian ấy đi xem Samarcande và những vùng xung quanh, chủ yếu là lưu vực
sông Sogde mà những người A-rập xem là một trong bốn thiên đường của vũ trụ về
vẻ đẹp đồng ruộng và những khu vườn quanh các lâu đài dồi dào đủ loại hoa quả
và những thú vui ở đây vào mùa nắng đẹp.
Hoàng tử Ahmed không bỏ lỡ dịp đoàn lữ hành đầu
tiên lên đường đi Ấn Độ, chàng cùng đi và mặc dù những khó khăn không tránh được
trong một hành trình lâu dài, chàng vẫn khoẻ mạnh về đến chỗ hẹn nơi hoàng tử
Houssain và Ali đang chờ đợi.
Hoàng tử Ali đến trước Ahmed một thời gian, hỏi
hoàng tử Houssain, người tới nơi hẹn đầu tiên, đến được bao lâu rồi. Được biết
hoàng tử anh đến đã ba tháng, chàng nói:
- Như thế hẳn anh không đi xa được.
- Bây giờ anh không nói với em chỗ anh đã đến
- Hoàng tử Houssain lại nói - nhưng anh có thể khẳng định phải đi hơn ba tháng
mới tới nơi.
- Nếu vậy anh ở lại đấy rất ít.
Em lầm rồi; anh ở lại chỗ ấy từ bốn đến năm
tháng, ở lại lâu hơn là do anh thôi.
- Ít ra thì anh cũng không từ đó bay về. Em
không hiểu làm sao anh về đến đây đã ba tháng như anh nói.
- Anh sẽ nói rõ sự thật, sẽ giải thích điều
bí mật ấy khi Ahmed, hoàng tử em chúng ta, trở về, đồng thời sẽ tuyên bố vật
quý hiếm anh đưa về. Đối với em, anh không biết em đưa vật gì về, chắc chẳng được
bao nhiêu, anh thấy hành lý của em không tăng thêm.
- Còn anh - Hoàng tử Ali đáp lại - ngoài việc
dự trữ tấm thảm chẳng đẹp đẽ gì chắc anh phải mua mà ghế xô- pha của anh cũng
đã có, hình như em có thể nhạo lại anh đấy. Nhưng anh đang muốn giấu vật quý hiếm
mang về, anh cũng cho em giữ bí mật về vật em đã mua.
- Anh cho là vật anh mang về hơn hẳn mọi vật
khác dù đến thế nào chăng nữa, anh không khó gì để cho em xem làm em phải đồng
ý vật anh mang về như anh ước tính. Nhưng chúng ta chờ hoàng tử Ahmed đến đã rồi
có thể cho nhau biết, trân trọng và tuân theo thủ tục quy định về vận may của
nhau.
Hoàng tử Ali không muốn đi sâu tranh cãi với
hoàng tử anh cho rằng vật anh mang về quý hiếm hơn. Chàng thầm nghĩ nếu chàng
đưa ra chiếc ống ngà voi, hẳn nó không hơn được thì ít nhất cũng không thua kém
vật của anh và đồng ý sẽ đưa ra vật lạ của mình ra khi hoàng tử Ahmed trở về.
Khi Ahmed về gặp hai anh, sau khi đã ôm hôn
nhau trìu mến và chúc mừng hạnh phúc gặp lại nhau ở chỗ đã chia tay ra đi,
hoàng tử Houssain với danh nghĩa anh cả, lên tiếng nói:
- Các em, sau này chúng ta sẽ kể chuyện về những
nét đặc biệt của hành trình, hãy nói về điều quan trọng nhất cần biết đã. Anh
nghĩ các em đều nhớ đến mục đích chuyến đi của chúng ta, đừng giấu giếm nhau vật
lạ chúng ta mang về và trước khi đưa ra chúng ta phải thật công bằng xét xem phụ
hoàng sẽ cho ý kiến ai thắng cuộc.
- Để làm gương - Anh nói với các em - vật quý
hiếm anh mang về từ vương quốc Bisnagar là tấm thảm anh đang ngồi, nó bình thường,
bề ngoài không có gì hấp dẫn như các em thấy nhưng khi anh nói về tính chất của
nó, các em sẽ khâm phục như chưa bao giờ được nghe nói và sẽ phải xác nhận rất
quý. Thực vậy, nếu ngồi lên đấy như chúng ta đang ngồi và ước muốn được mang tới
một chỗ nào đấy dù xa mấy, người ta sẽ đến ngay chỗ ấy hầu như lập tức. Anh đã
thử nghiệm trước khi không tiếc đếm đủ số tiền bốn mươi đồng tiền bằng vàng và
khi đã hoàn toàn thoả mãn tính tò mò về triều đình Bisagar, muốn trở về anh
không dùng xe cộ nào khác ngoài tấm thảm kỳ diệu này. Nó đã đưa anh và người hầu
cùng bay, người hầu có thể cho các em biết anh mất bao nhiêu thời gian để đến đấy.
Anh sẽ thử nghiệm để các em xem khi thích hợp. Còn bây giờ anh chờ xem các em
cho biết đã đem vật gì về, có thể so sánh với tấm thảm của anh được không.
Hoàng tử Houssain kết thúc lời ca ngợi tấm thảm
ở đấy, hoàng tử Ali tiếp lời anh:
- Thưa anh, phải thú nhận tấm thảm của anh là
một trong những vật tuyệt vời nhất nếu nó có đặc tính như anh vừa nói không ai
nghi ngờ gì. Nhưng cũng phải công nhận có những vật khác em không nói hơn nhưng
ít nhất cũng tuyệt vời như thế ở dạng khác, Để anh đồng ý, em đưa anh xem chiếc
ống bằng ngà voi này, nhìn không đáng chú ý như tấm thảm của anh. Em cũng mua với
giá như anh mua nhưng cũng không kém bằng lòng về nó như anh thích tấm thảm.
Công minh như anh, hẳn phải công nhận em đã không nhầm khi có thể biết bất cứ vật
nào muốn thấy. Em không muốn anh chỉ tin vào lời nói, đây là chiếc ống, anh thử
xem sao.
Hoàng tử Houssain cầm chiếc ống, đưa lên mắt
nhìn vào một đầu theo cách em chỉ, ý muốn được thấy công chúa Nourounnihar và
biết sức khoẻ của nàng thế nào. Hoàng tử Ali và Ahmed nhìn vào anh, rất ngạc
nhiên thấy nét mặt anh thay đổi rất lạ, sau đó có vẻ buồn. Hoàng tử Houssain
không để các em hỏi, bảo ngay:
Các hoàng tử, hai em và anh đi xa vất vả để
mong được thưởng cho mình công chúa Nourounnihar thật vô ích. Chỉ một lúc nữa
thôi nàng không còn sống nữa. Anh vừa thấy nàng nằm trên giường xung quanh là
các thị nữ, thái giám khóc lóc, xem ra chỉ chờ giờ chết của nàng. Đây, các em tự
nhìn xem cảnh thương tâm ấy và cùng khóc với anh đi.
Hoàng tử Ali cầm chiếc ống ở tay hoàng tử
Houssain nhìn xem, rất buồn đưa lại cho hoàng tử Ahmed cùng thấy quang cảnh thật
bi thảm và làm họ quan tâm nhiều.
Khi hoàng tử Ahmed cầm chiếc ống từ tay hoàng
tử Ali, nhìn thấy công chúa Nourounnihar chẳng còn sống được bao lâu nữa, chàng
nói với hai anh:
- Các anh ạ, công chúa là người chúng ta đều
mong muốn đang ở trong tình trạng hấp hối rồi nhưng em thấy chúng ta còn cơ may
cứu được nàng nếu tranh thủ được thời gian.
Chàng rút trong túi ra quả táo kỳ diệu, đưa
cho hai anh xem và nói:
- Quả táo này đắt không kém tấm thảm và chiếc
ống bằng ngà các anh mua đưa về. Có dịp để các anh thấy đặc tính tuyệt vời của
nó làm em không tiếc đã mua với giá bốn mươi đồng tiền bằng vàng. Người bệnh ngửi
nó, dù đang hấp hối cũng phục hồi sức khoẻ ngay lập tức, em đã thử nghiệm rồi.
Chúng ta phải mau chóng đến cứu công chúa và các anh sẽ thấy ngay tác dụng.
Hoàng tử Houssaln nói:
- Nếu thế, chúng ta sẽ đến ngay phòng của
công chúa bằng cách ngồi lên tấm thảm của anh. Các em lại ngay đây, ngồi vào
như anh, khá rộng đủ chỗ cho cả ba người. Trước hết hãy ra lệnh cho người hầu
cùng lên đường ngay và đến tìm chúng ta ở hoàng cung.
Ra lệnh cho tuỳ tùng xong hoàng tử Ali và
Ahmed ngồi vào tấm thảm, cùng hoàng tử Houssain, cả ba cùng ước muốn được mang
đến phòng công chúa Nourounnihar. Họ tới nơi rất nhanh, hầu như chưa rời khỏi
chỗ vừa ra đi.
Ba hoàng tử có mặt thật bất ngờ làm các thị nữ,
thái giám sợ hãi, không hiểu phép lạ nào đưa ba người đàn ông tới đây. Lúc đấy
chưa nhận ra, các thái giám chuẩn bị tấn công họ như những người đã vào tới
phòng cấm nhưng rồi tự thấy sai lầm vì sau đó đã biết họ là ai.
Hoàng tử Ahmed vừa vào đến phòng công chúa.
Nourounnihar, thấy nàng hấp hối bèn ra khỏi tấm thảm lại gần gíường đưa quả táo
thần diệu lại sát mũi công chúa trong lúc hai hoàng tử kia cũng tới sát giường.
Một lúc sau công chúa mở mắt, ngoảnh đầu nhìn những người bao quanh nàng, ngồi
dậy đòi mặc quần áo ngoài thoải mái, tỉnh táo như vừa qua một giấc ngủ dài. Các
thị nữ vui mừng bảo với nàng nhờ ba hoàng tử anh họ nàng đặc biệt là nhờ hoàng
tử Ahmed đã cứu nàng nhanh chóng phục hồi sức khoẻ. Thể hiện niềm vui được gặp
lại họ, công chúa cám ơn cả ba chàng, nhất là hoàng tử Ahmed. Thấy nàng bảo thị
nữ lấy quần áo, các hoàng tử nói rất sung sướng được đến kịp để mỗi người góp một
phần cứu nàng khỏi cơn hiểm nguy, được gặp nàng và mong nàng sống lâu rồi họ
rút lui.
Trong lúc công chúa thay quần áo, ba hoàng tử
ra khỏi phòng nàng đến quỳ trước phụ hoàng chúc thọ. Họ nhận thấy vua cha đã được
trưởng thái giám bẩm báo họ đã về và công chúa mà các thầy thuốc chịu bó tay,
đã được họ chữa khỏi một cách thần diệu. Sau những lời chúc mừng trong những
trường hợp như vậy, mỗi hoàng tử trình với vua cha vật quý hiếm mình mang về:
hoàng tử Houssain, tấm thảm chàng đã lấy lại từ buồng công chúa, hoàng tử Ali
chiếc ống ngà voi và hoàng tử Ahmeđ quả táo kỳ diệu. Ca tụng đặc tính quý hiếm
rồi, họ nộp lại cho vua cha, khẩn cầu Người công bố vật nào hơn và như vậy theo
như lời hứa, Người cho ai lấy công chúa Nourounnihar làm vợ.
Nhà vua Ấn Độ đôn hậu lắng nghe những gì các
hoàng tử nói về lợi thế của vật mình mang về không ngắt lời họ và biết rõ việc
chữa khỏi bệnh cho công chúa, ngồi im lặng một lúc như suy nghĩ để trả lời. Sau
đó ông ngắt lời các con và khôn khéo nói:
Các con ta, ta vui lòng tuyên bố điều đó nếu
ta xét được thật đúng đắn nhưng các con xem ta có thể phán quyết như thế không.
Con, hoàng tử Ahmed, đúng là công chúa khỏi bệnh nhờ quả táo nhân tạo của con
nhưng ta hỏi con có điều kiện làm việc ấy không nếu trước đó không có chiếc ống
ngà voi của Ali cho biết mối nguy hiểm đang đe doạ công chúa và tấm thảm của
Houssain không nhanh chóng đưa con về kịp cứu chữa? Con hoàng tử Ali, chiếc ống
ngà voi cho con và anh em con biết sắp mất công chúa và như vậy phải công nhận
nàng, chịu ơn con. Nhưng con cũng phải công nhận biết như thế cũng vô ích nếu
không có quả táo và tấm thảm. Cuối cùng, hoàng tử Houssain, công chúa sẽ vô ơn
nếu không coi trọng tác dụng của tấm thảm. Nhưng con xem tấm thảm sẽ không đóng
góp được gì nếu không nhờ ống - ngà voi của Ali để nắm được tình hình và Ahmed
không dùng quả táo nhân tạo chữa cho công chúa. Như vậy cả ba vật quý hiếm
không cái nào hơn cái nào mà ngược lại các con hoàn toàn bằng nhau mà ta chỉ có
thể cho một người cưới công chúa, các con cũng tự thấy vật các con mang về chỉ
vinh dự góp phần như nhau cứu sống được công chúa Nourounnihar.
Vì vậy ta phải dựa vào một con đường khác để
xác định được chắc chắn việc chọn lựa giữa các con. Bây giờ còn có thì giờ cho
đến tối. Các con hãy đi lấy mỗi người một chiếc cung tên, ra khỏi thành phố đến
sân lớn đua ngựa, ta cũng sẽ ra đấy và tuyên bố cho người nào bắn xa hơn sẽ được
cưới công chúa.
Ta cũng không quên cám ơn các con nói chung
và riêng từng người về món quà quý mang về. Trong kho cũng đã có nhiều vật hiếm
nhưng không có gì sánh với tính chất đặc biệt của tấm thảm, chiếc ống ngà voi
và quả táo kỳ diệu sẽ làm phong phú thêm cho kho tàng. Đấy làb ba vật đứng đầu,
ta sẽ giữ gìn không chỉ vì vật lạ mà để có dịp sử dụng có lợi sau này.
Ba hoàng tử không có gì phản bác lại quyết định
của phụ hoàng vừa nêu ra. Khi ra ngoài, người ta đem lại cho họ mỗi người một
cung một tên, họ giao lại đồ dùng cho lính hầu vừa về tập hợp và họ cùng ra bãi
đua ngựa với vô số dân chúng đi theo.
Nhà vua không để phải chờ đợi. Khi ngài đến,
hoàng tử Houssain là anh cả, cầm cung tên bắn trước, hoàng tử Ali bắn sau đó và
mũi tên rơi xuống xa hơn, hoàng tử Ahmed bắn sau cùng nhưng mũi tên vút đi,
không thấy rơi xuống. Người ta vội vã chạy theo tìm, hoàng tử Ahmed cũng tìm
nhưng xa hay gần đều không thấy. Tuy có thể tin là chàng bắn xa hơn cả và đáng
được cho cưới công chúa Nourounnihar nhưng phải có mũi tên để xác thực, dù
chàng chứng minh ra sao, nhà vua vẫn xét để Ali thắng cuộc. Ngài ra lệnh chuẩn
bị lễ cưới thật trang trọng và mấy ngày sau đó hôn lễ được tố chức thật rầm rộ.
Hoàng tử Houssaln không tham dự tôn vinh buổi
lễ. Quá say mê công chúa chàng không đủ sức chịu đựng nỗi đau khổ thấy nàng thuộc
về Ali mà chàng bảo không xứng đáng và cũng không yêu công chúa hơn chàng.
Chàng bất mãn rõ rệt đến nỗi rời bỏ triều đình, từ chối quyền kế vị để đi tu,
khép mình vào kỷ luật một tu sĩ nổi tiếng về một cuộc sống gương mẫu cùng một số
đông môn đồ xây dựng một nơi ở ẩn rất tĩnh lặng.
Hoàng tử Ahmed với lý do như Houssain, cũng
không tham dự lễ cưới hoàng tử Ali và công chúa Nourounnihar nhưng không từ bỏ
thế tục. Vì không hiểu được tại sao mũi tên của chàng mất tích, chàng giấu mọi
người, quyết tâm tìm cho được mũi tên để khỏi phải ân hận điều gì, chàng đến chỗ
người ta lượm tên của hai hoàng tử anh, đi thẳng tới trước mặt, nhìn trái nhìn
phải đã quá xa mà không thấy, chàng không cho rằng mình đã phí công vô ích. Rồi
như bị cuốn hút, chàng cứ đi tiếp không mệt mỏi cho đến những núi đá cao buộc
phải đi vòng khi muốn vượt qua và những tảng đá ở đó rất hiểm trở, ở trong một
vùng khô cằn cách nơi chàng ra đi bốn dặm.
Lại gần những tảng đá, hoàng tử Ahmed thấy một
mũi tên, nhặt lên nhìn kỹ thì chính là mũi tên chàng đã bắn. Chàng nghĩ: Đúng
mũi tên này nhưng mình cũng như mọi người sống trên đời không đủ sức bắn một
mũi tên xa đến thế? Thấy nó nằm trên mặt đất không cắm sâu xuống, chàng cho là
mũi tên bắn vành tảng đá cứng quá bị bật lại. Chàng lại tự nhủ:
- Có điều gì bí mật trong việc lạ lùng này và
điều bí mật này chỉ có lợi cho mình. Số phận làm mình buồn nản khi tước đi quyền
được có về người mình yêu mong đưa lại hạnh phúc trong đời có lẽ dành cho mình
một cái khác để an ủi mình chăng:
Với ý nghĩ đó, thấy núi đá nhô ra lõm vào,
hoàng tử đi vào một trong những chỗ lõm ấy, đôi mắt nhìn vào từng góc, chàng thấy
một cánh cửa sắt có vẻ không khoá. Đẩy mạnh cánh cửa mở vào trong, có lối dốc
không bậc thang, chàng bước xuống tay cầm mũi tên. Tưởng sẽ vào chỗ tối tăm
nhưng một luồng ánh sáng mới tiếp theo đó, chàng bước vào một quảng trường lộng
lẫy cách khoảng năm mươi, sáu mươi bộ thấy có một lâu đài thật đẹp. Nhưng chưa
kịp có thì giờ ngắm nghía vẻ đẹp của toà lâu đài thì ngay lúc đó bỗng xuất hiện
vị nữ hoàng phong thái oai nghiêm, với sắc đẹp mà quần áo sang trọng và đá quý
nàng trang điểm cũng không thể làm tăng thêm được vẻ đẹp tuyệt vời của nàng hơn
nữa. Nàng tiến ra tiền sảnh có toán thị nữ đi theo cũng tuyệt đẹp đến nỗi phải
khó khăn lắm mới nhận ra ai là nữ chủ.
Hoàng tử thấy nàng, bước vội đến cung kính
chào và nữ hoàng cao giọng nói:
- Hoàng tử Ahmeđ lại gần đây, chàng sẽ được
tiếp đón nồng nhiệt.
Hoàng tử rất ngạc nhiên thấy có người gọi tên
mình trong một vùng chưa bao giờ chàng nghe nói tuy rất gần kinh thành vua cha
và không hiểu vì sao một nữ hoàng chàng không quen lại đã biết nàng. Hoàng tử
quỳ xuống dưới chân nàng lồi vừa đứng dậy chàng vừa nói:
- Thưa nữ hoàng, tôi vừa đến một nơi mà do tò
mò tôi đã liều lĩnh bước vào, rất cám ơn nữ hoàng đã sẵn sàng tiếp đón. Nhưng
thưa nữ hoàng , xin lỗi cho phép tôi được hỏi do đâu nàng biết tôi, tuy nàng ở
rất gần chúng tôi mà hôm nay tôi mới biết?
- Hoàng tử - Nữ hoàng nói - chúng ta vào
phòng khách thiếp sẽ trả lời như thế tiện hơn cho thiếp và cho chàng.
Nói xong nữ hoàng dẫn Ahmed vào một ngôi nhà
có kiến trúc tuyệt vời có màu vàng và màu xanh da trời trang trí vòm nhà, và
bài trí bằng những vật giàu có vô giá. Ngôi nhà quả là có vẻ vô cùng mới lạ làm
chàng tấm tắc khen, nói chưa từng thấy tương tự. Nàng lại nói: Tuy thế thiếp bảo
đảm với chàng đây là gian phòng kém nhất trong lâu đài của thiếp. Chàng sẽ đồng
ý với nhận định ấy khi thiếp đưa chàng đi xem hết các phòng”. Nàng lên ngồi
trên ghế xô pha và khi hoàng tử đã ngồi gần mình, nàng giải đáp câu hỏi của
chàng: Hoàng tử, chàng ngạc nhiên vì thiếp biết chàng mà chàng không biết thiếp.
Khì biết thiếp là ai chàng sẽ hết ngạc nhiên ngay. Chắc chàng cũng biết tôn
giáo chàng đã dạy, trên đời có các vị thần ở cũng như người. Thiếp là con gái một
trong các vị thần đó, những vị thần quyền lực và nổi bật nhất, tên thiếp là
PariBanou. Thiếp biết chàng, vua cha, các hoàng tử anh chàng và công chúa
Nourounnihar. Thiếp cũng được tin cả tình yêu và cuộc hành trình của các hoàng
tử, có thể kể lại mọi trường hợp vì chính thiếp đã bán quả táo nhân tạo ở
Samarean mà chàng đã mua, tấm thảm ở Bisnagar hoàng tử Houssaln tìm được và chiếc
ống nhòm bằng ngà voi hoàng tử Ali mang về. Như thế đủ để chàng hiểu thiếp biết
hết những gì liên quan đến chàng. Thiếp nói thêm một điều là chàng xứng đáng có
một vận mệnh sung sướng hơn việc có công chúa Nourounnlhar. Và để dẫn chàng tới
đây, thiếp đã có mặt trong cuộc bắn thi, thiếp thấy cách bắn cung của chàng thậm
chí không đưa nổi mũi tên vượt quá mũi tên của hoàng tử Houssain, thiếp liền bắt
lấy nó trên không, phóng vào tảng đá dội lại như chàng vừa tìm thấy. Bây giờ tuỳ
thuộc ở chàng có nên tranh thủ cơ hội để trở nên hạnh phúc hơn .
Nàng tiên Pari-Banou nói những lời cuối với
giọng khác biệt, thậm chí nhìn hoàng tử Ali một cách âu yếm, đôi mắt khiêm tốn
nhìn xuống nét mặt ửng hồng, hoàng tử không khó khăn gì để hiểu nàng muốn nói về
hạnh phúc nào. Xét kỹ thấy công chúa Nourounnihar không thể thuộc về chàng nữa
và nàng tiên Pari- Banou hơn hẳn nàng về sắc đẹp, sự hấp dẫn và nàng đang rất
vui sướng nếu được chàng chấp thuận, nàng lại thông minh, giàu có qua lâu đài
tráng lệ chàng được chứng kiến, hoàng tử Ali hàm ơn ý nghĩ đi tìm mũi tên của
mình và thuận theo xu hướng nghiêng về đối tượng đang đốt cháy lòng chàng. Thưa
nữ hoàng - chàng nói - nếu suốt đời được là kẻ nô lệ của nàng và là người thán
phục bao nhiêu sự duyên dáng làm ta say mê, ta cho là mình sung sướng nhất
trong những người trần. Hãy thứ lỗi cho ta táo tợn xin nàng ân huệ ấy và mong
nàng không từ chối nhận vào triều một hoàng tử nguyện hy sinh tất cả vì nàng.
- Thưa hoàng tử, đã từ lâu thiếp làm chủ ý muốn
của mình và đối với sự thoả thuận của bố mẹ, thiếp không muốn nhận chàng vào
triều như một nô lệ mà là chủ nhân của bản thân thiếp và của những gì đã và có
thể thuộc về thiếp bằng cách phối hợp với thiếp, cho thiếp lòng tin và cưới thiếp
làm vợ. Thiếp hy vọng chàng không có ý nghĩ không hay đối với thiếp khi thấy
thiếp đề nghị như thế. Thiếp đã nói thiếp làm chủ ý muốn của mình, các nàng
tiên không như phụ nữ ngoài đời đối với đàn ông, không có thói quen đi trước
như vậy mà họ cho là mất danh giá của mình. Đối với thiếp, thiếp làm thế và cho
rằng người ta phải biết ơn thiếp.
Hoàng tử Ahmed không trả lời gì về lời nói của
nàng tiên, nhưng lòng đầy biết ơn, chàng nghĩ không thể hiện gì hơn bằng tiến lại
gần hôn vào tà áo của nàng. Nàng tiên không để chàng làm thế, đưa bàn tay ra
cho chàng hôn và giữ lại, nắm chặt tay chàng:
- Hoàng tử Ahmed - Nàng nói - chàng có cho
thiếp lòng tin như thiếp đã tin tưởng chàng không?
- Chà! - Hoàng tử vô cùng sung sướng đáp- ta
có thể làm gì hơn và có niềm vui nào hơn? Vâng, thưa nữ hoàng của ta, ta tặng
nàng lòng tin với cả tấm lòng không dè dặt.
- Nếu vậy - Nàng tiên lại nói – chàng là chồng
thiếp và thiếp, vợ chàng. Trong bọn thiếp, việc thành hôn không do các lễ tiết:
vững chắc và lâu bền hơn những lễ cưới hỏi của người trần tuy họ nhiều thủ tục
hơn. Bây giờ, trong lúc chờ đợi chuẩn bị tiệc cưới cho chúng ta tối nay và hình
như hôm nay chàng chưa ăn gì, người ta sẽ đưa tới cho chàng một bữa ăn nhẹ sau
đó thiếp dẫn chàng đi xem các phòng trong lâu đài để chàng thấy có đúng gian
phòng này là gian phòng kém nhất như thiếp nói không.
Một số thị nữ vào trong phòng khách với nàng
tiên hiểu được ý định của nữ chủ, liền ra ngoài và một lúc sau đem vào một số
thức ăn và rượu ngon tuyệt.
Khi hoàng tử Ahmed đã ăn uống thoải mái, nàng
tiên Pari-Banou dẫn chàng đi từ phòng này sang phòng khác, thấy kim cương, hồng
ngọc, ngọc bích và đủ loại đá quý, chưa nói đến đồ đạc giàu sang vô giá tất cả
phối hợp hài hoà kỳ lạ làm hoàng tử phải thốt lên không thể thấy như thế ngoài
đời. Nàng tiên bảo chàng:
- Thưa hoàng tử, nếu chàng khen ngợi lâu đài
của thiếp đến thế, thực ra cũng rất đẹp rồi nhưng chàng sẽ nói ra sao về lâu
đài của những trưởng các vị thần chúng thiếp, đẹp, tráng lệ, lộng lẫy khác hẳn?
Thiếp có thể đưa chàng đi xem vẻ đẹp khu vườn của thiếp nữa nhưng để lần khác.
Trời gần tối rồi, chúng ta chuẩn bị đi ăn thôi.
Gian phòng nàng tiên dẫn hoàng tử Ahmed vào
đã có bàn ăn dọn sẵn là phòng cuối cùng chàng thấy trong lâu đài, không kém một
phòng nào đã được xem. Bước vào chàng choáng ngợp với vô số ngọn nến có mùi
thơm, rất nhiều nhưng không hề lẫn lộn mà bố trí cân đối ưa nhìn. Chàng cũng ngợi
khen một chiếc tủ buýp-phê lớn đầy bát đĩa vàng, nghệ thuật tạo dáng quý hơn chất
liệu và nhiều toán phụ nữ, tất cả đẹp mê hồn và ăn mặc sang trọng, bắt đầu hoà
tấu với giọng hát và đủ loại nhạc cụ hay nhất chưa bao giờ được nghe. Họ ngồi
vào bàn, Pari-Banou chú trọng tiếp hoàng tử những thức ăn ngon nhất vừa kể tên
vừa mời chàng dùng tnử mà hoàng tử chưa từng được nghe nói đến nên hết lời ca tụng,
cho bàn ăn vượt mọi bàn tiệc của người đời. Chàng cũng kêu lên như thế về chất
lượng tuyệt vời của rượu, hai người bắt đầu say sưa uống và đến bữa tráng miệng
bằng những quả cây, bánh ngọt và những loại khác càng ngon hơn.
Sau tráng miệng, nàng tiên Pari-Banou và
hoàng tử Ahmed rời khỏi bàn tiệc đã được dọn dẹp ngay. Họ cùng ngồi thoải mái
trên ghế xô-pha, tựa lưng vào gối vải lụa thêu các loại hoa rất khéo. Bỗng một
số đông các vị thần và các nàng tiên bước vào phòng, bắt đầu một điệu vũ kỳ lạ
nhất, tiếp tục mãi cho đến khi nàng tiên và hoàng tử đứng dậy. Các thần và tiên
nữ vừa nhảy múa vừa ra khỏi phòng đi trước đôi tân hôn đùa họ đến gian phòng đã
chuẩn bị giường cưới. Đến trước cửa, họ xếp thành hàng để hai người đi vào sau
đó rút lui để vợ chồng tự do đi nằm.
Những tiệc tùng mừng hôn lễ tiếp tục vào ngày
hôm sau, đúng hơn là những ngày nối tiếp mà nàng tiên Pari- Banou dễ dàng cho
thay đổi những món ăn mới, những buổi hoà tấu khiêu vũ mới, những cuộc biểu diễn
giải trí mới, tất cả đều khác thường làm hoàng tử Ahmed không thể hình dung
trong đời thường dù có sống đến một nghìn năm.
Ý định của nàng tiên không chỉ thể hiện với
hoàng tử những điều cần thiết về tình yêu trung thực và niềm say mê của nàng,
nàng cũng muốn qua sự tiếp đón, làm cho chàng thấy không thể tìm được ở triều
đình vua cha hoặc một chỗ nào khác ở trên đời một hạnh phúc được hưởng thụ như
bên cạnh nàng, chưa nói đến sắc đẹp của nàng kèm theo, để chàng hoàn toàn gắn
bó với nàng không bao giờ rời bỏ. Nàng đã rất thành công theo lòng mong muốn của
mình: hoàng tử Ahmed không chủ động được nữa trong tình yêu của mình, tình yêu
của chàng tăng lên đến mức không thể đừng yêu nàng được khi mà nàng vẫn có thể
quyết định được không yêu chàng nữa.
Qua sáu tháng, hoàng tử Ahmed vẫn luôn yêu
thương và tôn vinh vua cha, cảm thấy mong muốn biết tin tức của Người, chàng muốn
rời khỏi lâu đài về gặp mặt vua cha. Trong một buổi nói chuyện với Pari-Banou
chàng đã nói ra ước muốn đó và mong nàng cho phép. Nàng tiên hoảng hốt, sợ đây
là một cớ để chàng bỏ rơi nàng, nàng nói với chàng:
- Thiếp đã có gì làm chàng không bằng lòng
khiến chàng phải xin phép điều đó? Phải chăng chàng có thể quên đã cho thiếp
lòng tin và không yêu thiếp nữa trong lúc thiếp vẫn yêu chàng tha thiết? Chàng
phải thấy rõ điều đó qua những thể hiện không ngừng của thiếp đối với chàng.
- Nữ hoàng của ta - Hoàng tử nói - ta biết rất
rõ tình yêu của nàng và sẽ không xứng đáng nếu không đáp lại nàng với một tình
yêu như thế. Nếu nàng bị xúc phạm về đề nghị của ta thì hãy tha lỗi cho ta, ta
sẵn sàng sửa chữa vì nàng. Ta nói ra việc đó không phải để làm nàng mất lòng mà
chỉ vì lòng kính trọng vua cha, muốn Người khỏi buồn rầu vì ta vắng mặt lâu
ngày, nỗi buồn của Người sẽ càng lớn cho rằng ta không còn sống nữa. Nhưng vì
nàng không muốn ta đi làm nhiệm vụ an ủi ấy thì thôi vậy, không có gì ta không
làm để làm nàng vừa lòng.
Hoàng tử Ahmed không giấu giếm nỗi nhớ vua
cha nhưng chàng cũng yêu nàng hoàn toàn như lời đã nói, nên không nài xin về đề
nghị ấy nữa, nàng tiến tỏ ra thoả mãn về việc chàng chiều theo ý mình. Tuy thế
hoàng tử không bỏ hẳn ý định của mình, thỉnh thoảng chàng nói chuyện về những đức
tính của vua cha, nhất là sự trìu mến đối với riêng chàng, với hy vọng cuối
cùng nàng xiêu lòng.
Như hoàng tử Ahmed dự đoán, gĩưa niềm vui về
hôn lễ của hoàng tử Ali và công chúa Nourounnihar, nhà vua Ấn Độ vẫn buồn rầu
vô cùng về sự ra đi của hai con trai khác. Không bao lâu ngài được tin hoàng tử
Houssain đã dứt bỏ đời thường và nơi chàng chọn để ở ẩn. Là một người bố tốt
ngài xác định một phần hạnh phúc của mình ở chỗ thấy những đứa con của lòng
mình nhất là khi chúng xứng đáng với tình thương của mình, sống gắn bó bên cạnh
mình, tuy không thể chối bỏ sự lựa chọn cách sống của các hoàng tử, ngài đành
nóng lòng chờ đợi trong lúc chúng vắng mặt. Nhà vua cử các đoàn nhanh chóng đi
tìm tin tức của hoàng tử Ahmed, ban chiếu đi tất cả các tỉnh trong vương quốc,
ra lệnh cho các quan tổng đốc bắt giữ và buộc chàng về triều nhưng các biện
pháp đều không hiệu quả và nỗi phiền muộn đáng lẽ giảm bớt thì càng tăng thêm.
Thường ngài hay trao đổi việc ấy với quan tể tướng của ngài.
- Quan tể tướng - Ngài nói - khanh biết Ahmed
là người trong các hoàng tử ta luôn yêu thương nhất và ta đã làm mọi cách tìm
kiếm mà không có kết quả. Ta đau lòng đến mức suy sụp nếu khanh không thông cảm
với ta. Để bảo vệ ta, ta cần khanh giúp đỡ và cho ta những lời khuyên.
Vlên tể tướng gắn bó với nhà vua cũng như
tích cực giải quyết những công việc trong nước, suy nghĩ để làm sao an ủi được
Người, nhớ đến một bà phù thuỷ có nhiều phép lạ. Ông đề nghị cho triệu bà ta
vào hỏi ý kiến. Nhà vua đồng ý, ông cho người đi tìm và đích thân dẫn vào triều.
Vua nói với bà phù thuỷ:
- Từ khi hoàng tử Ali, con ta thành hôn cùng
công chúa Nourounnihar, hoàng tử trưởng và hoàng tử Ahmed bỏ đi, ta buồn không
nguôi và mọi người đều biết. Với pháp thuật và sự khéo léo vốn có, bà có thể
nói với ta hoàng tử ra sao rồi không? Chàng còn sống không? Đang ở đâu? Làm gì?
Ta có hy vọng gặp lại chàng không?
Mụ phù thuỷ trả lời để vua hài lòng:
- Thưa bệ hạ, dù khéo léo trong nghề đến mấy
thần cũng không thể giải đáp ngay những câu hỏi của bệ hạ được. Nếu Người cho
thần thời gian đế ngày mai, thần sẽ xin trả lời.
Vua đồng ý thời hạn trên, để mụ trở về, hứa sẽ
khen thưởng xứng đáng nếu giải đáp được lòng mong muốn của ngài.
Mụ phù thuỷ hôm sau trở lại, vị tể tướng lại
giới thiệu lần thứ hai với vua. Mụ trình bày:
- Thưa bệ hạ, thần đã nhanh chóng sử dụng mọi
thủ thuật trong nghề để vâng theo lệnh Người, thần chỉ biết được một điều là
hoàng tử Ahmed chưa chết. Đó là điều chắc chắn, bệ hạ có thể tin như thế. Còn về
những điều khác thần vẫn chưa thể phát hiện thêm gì được.
Vua Ãn Độ đành bằng lòng với câu trả lời đó,
nhưng ngài vẫn lo lắng chẳng kém trước về số phận hoàng tử con trai mình.
Trở lại với hoàng tử Ahmed, chàng tuy vẫn
luôn nói chuyện về vua cha với nàng tiên Pari-Banou nhưng không nêu lên nguyện
vọng được gặp lại Người nữa, nỗi nhớ nhưng đó làm nàng hiểu ý muốn của chàng.
Vì vậy nàng cảm thấy càng giữ chàng lại càng sợ chàng mếch lòng vì bị từ chối
và nhận ra tình yêu của chàng đối với nàng thể hiện rất trung thực. Sau đó xét
thấy thật bất công đối với một người con yêu mến cha khi muốn buộc chàng từ bỏ
thiên hướng tự nhiên, nàng quyết định thuận tình theo nguyện vọng của chàng. Một
hôm nàng bảo:
- Hoàng tử, điều chàng xin phép về thăm vua
cha làm thiếp lo ngại đấy chỉ là vì thiếp sợ đó chính là lý do thể hiện chàng
không chung thuỷ và muốn bỏ rơi thiếp, thiếp từ chối chỉ vì thế. Hôm nay hoàn
toàn tin tưởng vì những việc làm và lời nói của chàng, thiếp có thể yên tâm về
tình yêu chung thuỷ và vững chắc của chàng nên thiếp đã đổi ý, đồng ý để chàng
về thăm vua cha với một điều kiện, chàng phải thề trước với thiếp sẽ không ở lại
lâu và trở lại sớm. Điều kiện đó chắc không làm chàng phiền lòng và cho là thiếp
không tin chàng. Thiếp nêu lên điều này vì rất tin tưởng vào sự trung thực
trong tình yêu của chàng.
Hoàng tử Ahmed muốn quỳ xuống dưới chân nàng
để tỏ lòng cảm kích nhưng nàng tiên ngăn lại. Chàng nói:
- Nữ hoàng của ta, ta biết rõ giá trị của ân
huệ nàng ban cho ta nhưng lời nói không thể hiện đủ lòng cám ơn như ta mong muốn.
Nàng hãy tin chắc ta nhớ mãi điều đó. Nàng đã đúng khi tin rằng buộc ta thề thất
không làm ta phiền lòng. Ta sẵn sàng hứa từ nay ta không thể sống nếu thiếu
nàng. Ta sẽ ra đi nhưng mau chóng trở lại, không phải lo sợ vì bội ước mà do
lương tâm mách bảo là đã mong ước được sống không xa rời nàng suốt đời và nếu
đôi khi được nàng vui vẻ cho xa nàng, ta sẽ tránh phải buồn phiền vì xa cách
nhau lâu ngày.
Chương 41:
Hoàng tử Admed và nàng tiên Pari-Banou (tiếp theo)
Pari-Banou càng phấn khởi vì
những tình cảm của hoàng tử, không còn nghi ngờ việc chàng vội vã về thăm cha
là một lý do đặc biệt để chối bỏ lòng tin chàng đã hứa. Nàng nói:
- Hoàng tử, chàng cứ đi khi
nào chàng muốn nhưng trước hết, đừng phiền lòng vì vài lời thiếp dặn chàng về
chuyến đi. Đầu tiên thiếp nghĩ chưa đến lúc nói với vua cha về cuộc hôn nhân của
chúng ta, về sự khác thường của thiếp và chỗ chàng ở từ khi xa Người. Mong
chàng chỉ nói được sung sướng, không mong muốn gì hơn và lý do duy nhất trở về
là để Người khỏi lo lắng về số phận của chàng.
Để cùng đi, nàng cho hai
mươi kỵ sĩ trang bị tất hộ tống chàng. Khi mọi việc đã sẵn sàng, hoàng tử Ahmed
ôm hôn từ biệt nàng tiên, nhắc lại lời hứa sẽ mau chóng trở lại. Người ta dắt
con ngựa nàng đã cho chuẩn bị sẵn cho chàng; ngoài việc trang bị yên cương sang
trọng, con ngựa cũng đẹp và đắt giá nhất so với bất cứ con ngựa nào trong chuồng
của nhà vua. Chàng duyên dáng lên ngự a trước sự rất vui về của nàng tiên và ra
đi sau khi chào từ biệt lần cuối.
Đường về hoàng cung không
xa, hoàng tử không phải đi lâu. Vào đến kinh thành, dân chúng vui mừng gặp lại
chàng, hoan nghênh nhiệt liệt, phần lớn bỏ công việc tụ tập thành đám đông hộ tống
chàng về đến cung vua. Nhà vua rất vui mừng ôm hôn chàng, tuy hơi than phiền về
nỗi buồn vắng mặt chàng lâu ngày. Ngài nói thêm:
- Sự vắng mặt càng làm ta
đau lòng sau sự thiệt thòi của con về lợi thế của hoàng tử Ali, anh con, ta sợ
con có một hành động tuyệt vọng nào đấy.
- Thưa phụ hoàng, Người cho
rằng sau khi mất Nourounnlhar đối tượng mong mỏi độc nhất của con, con có thể
chứng kiến hạnh phúc của Ali anh con sao? Nếu con có thể lì lợm như thế, ở triều
đình, trong thành phố và cả bệ hạ nữa sẽ nghĩ về mối tình của con như thế nào?
Tình yêu là một sự say mê người ta không rời bỏ được dù muốn; nó chế ngự, làm
chủ và không để người tình có lý trí. Bệ hạ biết khi bắn mũi tên, một điều kỳ lạ
đã xảy ra với con tuy bãi đua ngựa rộng rãi và bằng phẳng đến thế mà không tìm
được mũi tên làm con mất đi lý do về sự công bằng đối với con và các anh. Thất
bại trong số phận nhưng con không mất thì giờ phàn nàn vô ích. Để thoả mãn nỗi
băn khoăn về mũi tên phiêu lưu đó, con lén mọi người một mình trở lại chỗ cũ
tìm nó. Kiếm mãi quanh quẩn chỗ nhặt được tên của các anh không được con đi mãi
gần như theo đường thẳng, hình dung ra nơi mũi tên có thể rơi. Đã đi hơn một dặm,
mắt vẫn nhìn các bên, thỉnh thoảng con lại quay lại tìm một vật gì đó như mũi
tên, rồi lại suy nghĩ nó không thể bắn ra xa như vậy. Con dừng lại tự nhủ có mất
trí không khi cho rằng mình đủ sức bắn một mũi tên đi xa đến thế khi mà không một
anh hùng thời cổ nào và những người nổi tiếng về sức mạnh đương thời cũng chưa
bao giờ vươn tới. Con ngẫm nghĩ như thế và suýt bỏ việc mình đang làm nhưng rồi
con cảm thấy bị lôi kéo đi dù không muốn. Con đi đến bốn dặm tới cuối bãi bằng
có những tảng núi đá thì thấy mũi tên con bắn nhưng cả chỗ rơi lẫn thời gian đều
không hợp lý. Như vậy thay vì nghĩ bệ hạ bất công đối với con khi tuyên bố công
chúa thuộc về hoàng tử Ali, con cho rằng việc xảy ra đối với con là một điều bí
mật có lợi cho con, con cần phải làm sáng tỏ và con đã biết rõ bí mật đó không
quá xa chỗ ấy. Nhưng đây lại là một bí mật khác mà con khẩn cầu bệ hạ đừng cho
con là xấu vì con không nói ra, chỉ xin Người bằng lòng được biết con sung sướng
và thoả mãn với hạnh phúc của mình. Sống giữa niềm hạnh phúc đó chỉ một điều
làm con băn khoăn là lo bệ hạ không yên tâm về số phận của con từ khi con mất
tích, xa triều đình. Con thấy con có nhiệm vụ phải về để bây giờ yên lòng. Đây
là mục đích đưa con về. Ân huệ độc nhất con xin Người ban cho là thỉnh thoảng
cho con trở về tôn kính Người và biết tình hình sức khoẻ của Người.
- Con trai ta - Nhà vua nói
- ta không thể từ chối lời cầu xin của con, ta những muốn con quyết định ở lại
bên ta thì hơn. Ít nhất con cho ta biết hỏi tin tức về con ở chỗ nào những lúc
con không đến được hoặc khi cần phải có mặt con.
- Thưa phụ hoàng - Hoàng tử
Ahmed lại nói - điều Người hỏi là một phần trong điều bi1 mật con đã nói. Con
khẩn cầu Người cũng cho con im lặng về điểm ấy, con sẽ trở về luôn, thà bất chợt
còn hơn để Người trách con lơ là khi con cần có mặt.
Vua Ấn Độ không ép hoàng tử
về việc ấy nữa. Ông nói:
- Con trai, ta không muốn đi
sâu hơn về điều bí mật của con, để con hoàn toàn làm chủ mình. Con về đây đã
đưa lại cho ta một niềm vui lớn đã tê lâu không cảm nhận được. Con sẽ được hoan
nghênh tất cả những lần con có thể đến mà không tổn hại đến công việc hoặc những
vui thú của con.
Hoàng tử Ahmed chỉ ở lại triều
đình nhà vua ba ngày, ngày thứ tư chàng ra đi sớm và nàng tiên Pari- Banou gặp
lại chàng thật vui mừng. Nàng không nghĩ chàng trở lại sớm thế và sự nhanh
chóng đó làm nàng tự dằn vặt đã nghi ngờ chàng thiếu chung thuỷ. Nàng không giấu
giếm hoàng tử, thú nhận sự yếu đuối của mình và xin lỗi chàng. Hai người càng gắn
bó với nhau thắm thiết hơn, người này muốn gì, người kia cũng muốn thế.
Hoàng tử trở lại đã một
tháng, nàng tiên Pari-Banou nhận thấy sau khi kể lại chuyến đi, câu chuyện với
vua cha và xin phép thỉnh thoảng về thăm, chàng không nói gì về nhà vua nữa.
Đoán chắc vì dè chừng đối với nàng nên một hôm nàng bảo chàng:
- Hoàng tử, chàng lãng quên
vua cha rồi chăng? Không nhớ lời hứa thỉnh thoảng đến thăm Người ư? Thiếp vẫn
nhớ điều chàng kể lại hôm trở lại đây nên nhắc chàng đừng để quá lâu chưa thực
hiện lời hứa lần trước.
- Nàng ơi - Hoàng tử Ahmed
nói với giọng vui vẻ như nàng tiên - ta không quên lời hứa đâu, thà chịu lời
trách của nàng vừa rồi còn hơn bị từ chối vì vội vã làm nàng phiền lòng phải chấp
nhận.
- Hoàng tử, thiếp không muốn
chàng giữ kẽ như thế đối với thiếp hơn nữa. Để việc tương tự không lặp lại, đã
một tháng nay chàng không gặp vua chà, thiếp nghĩ chàng không nên để đợt thăm
viếng cách nhau trên một tháng. Ngày mai chàng đi thăm vua cha đi và hàng tháng
chàng cứ tiếp tục đi thăm như vậy, không cần phải nói với thiếp hoặc chờ thiếp
nói, thiếp sẵn sàng chấp nhận điều ấy.
Hôm sau hoàng tử ra đi cùng
đoàn tuỳ tùng lần trước nhưng nhanh gọn hơn, bản thân chàng cũng trang bị đẹp
hơn, được vua cha tiếp đón vui vẻ, hài lòng như lần trước. Trong nhiều tháng
chàng về thăm vua cha như vậy, bao giờ cũng với đoàn người ngựa sang trọng, rực
rỡ hơn.
Cuối cùng một số cận thần của
nhà vua xét theo quyền lực của hoàng tử Ahmed qua những trang bị bề ngoài, lợi
dụng nhà vua để cho tự do nói, đã làm nảy sinh những ngờ vực về chàng trong
lòng ngài. Họ nói ngài cần khôn khéo, phải biết rõ chỗ ở của hoàng tử, chàng dựa
vào đâu để chi phí lớn thế trong lúc không có đất phong và lợi tức ổn định,
hình như chàng về triều chỉ để thách thức vua cha, tỏ ra không cần ngài chu cấp
cho một cuộc sống xứng với hoàng tử và cuối cùng đáng sợ là có thể chàng sẽ xúi
giục dân chúng nổi dậy cướp ngôi vua.
Vua Ấn Độ không hề nghĩ
hoàng tử Alimed có thể có một âm mưu nguy hại như các cận thần muốn làm ngài
tin. Ngài nói với họ:
- Các khanh đùa đấy chứ, con
trai ta, thương yêu ta, ta tin chắc vào sự trìu mến và trung thành của chàng
nên ta không nhớ đã có điều gì đó làm chàng bất bình về ta không.
Nghe vua nói vậy, một cận thần
thừa dịp tâu lên:
- Thưa bệ hạ tuy Người đã
suy xét một cách hợp lý nhất để các hoàng tử cùng thoả thuận về đám cưới của
công chúa Nourounnihar nào ai biết hoàng tử Ahmed có chấp nhận số phận như
hoàng tử Houssain không? Chàng có thể hình dung chỉ mình xứng đáng được hưởng
những bệ hạ đáng lẽ ưu tiên cho chàng lại để vấn đề cho số phận quyết định nên
chàng chịu bất công.
Ông cận thần ranh mãnh nói
thêm:
- Bệ hạ có thể cho rằng
hoàng tử Ahmed không thể hiện một sự bất bình nào, nỗl lo sợ của chúng thần là
vô ích, chúng thần đã dễ hốt hoảng và gợi ra ở bệ hạ những nghi ngờ về hoàng tử
con trai Người là sai và có lẽ không có cơ sở Nhưng thưa bệ hạ, cũng có thể những
nghi ngờ ấy có chỗ dựa chắc chắn đấy. Bệ hạ cũng rõ trong một vấn đề tế nhị và
quan trọng như vậy phải dựa vào điều chắc chắn nhất. Việc hoàng tử giấu giếm có
thể đánh lừa Người và mối nguy cơ còn đáng sợ hơn vì hình như hoàng tử Ahmed ở
không xa kinh thành. Thực thế, nếu Người để ý như chúng thần, Người thấy sẽ
ngay những lần chàng đến,chàng và tuỳ tùng đều tươi tắn, quần áo của họ, vải phủ
ngựa cùng những đồ trang sức ánh lên như vừa trong xưởng làm mới ra. Ngựa cũng
không có vẻ vất vả hơn một cuộc đi dạo. Những dấu hiệu hoàng tử Ahmed ngay bên
cạnh thật rõ ràng, chúng thần nghĩ nếu không trình với bệ hạ thì chúng thần đã
thiếu sót về trách nhiệm bảo vệ Người và quyền lực quốc gia, xin bệ hạ xét xem
nếu thấy phù hợp.
Khi viên đại thần kết thúc lời
nói dài dòng của mình, nhà vua nói để cắt đứt cuộc trao đổi:
- Dù thế nào ta cũng không
nghĩ con trai Ahmed của ta độc địa như các khanh thuyết phục ta. Ta cám ơn những
lời khuyên của các khanh, chắc chắn với ý định tốt.
Nhà vua nói như vậy với các
cận thần, không để họ biết lời nói của họ có tác động đến tâm trí ngài. Nhà vua
cũng không hoảng hốt và quyết định theo dõi hoàng tử Ahmed mà không nói vội tể
tướng. Ngài cho gọi mụ phù thuỷ, mụ được đưa vào phòng ngài theo một cánh cửa
bí mật. Nhà vua nói:
- Ngươi đã nói đúng khi khẳng
định con trai Ahmed của ta không chết và ta chịu ơn ngươi, bây giờ ngươi hãy tạo
cho ta một niềm vui khác. Từ khi gặp lại, hoàng tử hàng tháng vẫn đến thăm ta
nhưng không nói hiện ở đâu mà ta cũng không muốn buộc chàng phải nói điều bí mật
ấy. Ta biết ngươi khá khôn ngoan để thoả mãn sự tò mò của ta mà chàng hay bất cứ
một ai trong triều đình cũng không hay biết. Ngươi biết chàng đang ở đây, thường
ra về không chào từ biệt ta hoặc một người nào trong triều, ngươi đừng để mất
thì giờ ngay hôm nay đón đường hoàng tử xem chàng về đâu và cho ta biết kết quả.
Ra khỏi hoàng cung, mụ phù
thuỷ đến ngay chỗ hoàng tử đã tìm thấy mũi tên, giấu mình trong những tảng đá để
không ai thấy mình.
Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed
ra đi từ bình minh, theo thói quen không chào từ biệt vua cha hoặc đại thần
nào. Mụ phù thuỷ thấy chàng đi tới, nhìn theo mãi cho đến khi chàng và tuỳ tùng
đi khuất.
Thấy những tảng đá hình
thành một hàng rào chắn những người trần, người hay ngựa đều không vào được vì dốc
đứng, mụ phù thuỷ phán đoán chắc hoàng tử vào trong hang hoặc một căn hầm ngẩm
mà các thần tiên xây dựng thành chỗ ở. Nghĩ thế khi thấy hoàng tử và tuỳ tùng mất
hút, mụ rời khỏi chỗ nấp đi thẳng lại đoạn hõm họ đi vào, bước đến tận chỗ chia
la thành ngõ ngách, nhìn tứ phía, đi đi lại lại nhiều lần. Mặc dù nhanh nhẹn, mụ
không thấy có lối nào vào hang, cả cánh cửa sắt hoàng tử thấy trước đây cũng
không có. Chính vì cánh cửa ấy chỉ những người đàn ông mới thấy, đặc biệt là những
người đàn ông có thể được nàng tiên Pali-Banou có cảm tình còn đàn bà thì không
trông thấy được.
Mụ phù thuỷ nghĩ tìm tòi
thêm cũng vô ích, đành trở về trình bày với vua về sự phát hiện của mình. Mụ kể
lại việc làm của mình và nói thêm:
- Thưa bệ hạ, Người cũng rõ
qua những điều đã thấy, thần không khó khán lắm trong việc tìm hiểu hành vi của
hoàng tử Ahmed. Bây giờ thì thần chưa nói được gì. Thần muốn để bệ hạ biết rõ
mà không nghi ngờ gì được. Thần xin Người cho thời gian và lòng kiên trì và cho
phép thần làm mọi việc mà không hỏi gì về cách thức thần dự định tiến hành.
Nhà vua chấp nhận theo yêu cầu
của mụ phù thuỷ. Ngài bảo:
- Ngươi được chủ động, cứ đi
và làm theo cách ngươi thấy thích hợp. Ta kiên trì chờ đợi những lời hứa hẹn của
ngươi.
Để khuyến khích, nhà vua tặng
mụ một viên kim cương đắt giá, và nói rằng đó chỉ là món quà trong lúc chờ đợi
khen thưởng đầy đủ khi công việc hoàn thành.
Biết hoàng tử Ahmed mỗi
tháng về thăm triều đình vua cha một lần, mụ phù thuỷ chờ cho tháng này qua đi.
Một vài ngày trước cuối tháng, mụ tới chân tảng đá chỗ mất hút hoàng tử và tuỳ
tùng, chờ ở đấy với một kế hoạch dự định tiến hành.
Ngày hôm sau, như thường lệ
hoàng tử Ahmed ra khỏi cánh cửa sắt với đoàn tuỳ tùng quen thuộc, đi qua gần mụ
phù thuỷ chàng vốn không quen. Thấy mụ nằm đấy đầu tựa vào tảng đá, rên rỉ như
người bị đau nặng, chàng thương hại quay lại chỗ mụ ta hỏi đau như thế nào và cần
giúp đỡ gì.
Mụ phù thuỷ, không ngẩng đầu
lên, nhìn hoàng tử một cách đáng thương tâm, giọng ngắt quãng trả lời như khó
thở nói rằng mụ đi từ nhà ra thành phố, giữa đường bị cơn sốt rất nặng, không
còn sức phải dừng lại trong tình trạng rất xa dân cư không hy vọng được cứu chữa.
- Này bà - Hoàng tử Ahmed
nói - bà không xa nơi cứu chữa như bà tưởng đâu. Để tôi cho bà thấy, rất gần
đây cô một chỗ người ta sẽ chữa cho bà, thậm chí rất mau khỏi đấy. Bà dậy ngồi
lên phía sau ngựa của một người chúng tôi Nghe hoàng tử Ahmed nói thế, mụ phù
thuỷ muốn biết chỗ chàng ở, chàng làm gì và số phận ra sao, nên vờ đau quá cố gắng
ngồi dậy nhận ngay việc làm ơn ấy. Cùng lúc đó hai kỵ sĩ nhảy xuống giúp mụ đứng
lên đưa lên sau lưng ngựa một người khác. Trong lúc họ lên ngựa, hoàng tử quay
lại đi đầu, đến trước cánh cửa sắt có một kỵ sĩ ra bước tới trước. Chàng đi
vào, không xuống ngựa bảo một kỵ sĩ vào báo chàng muốn gặp nữ chủ.
Nàng tiên Pari-Banou chạy vội
ra, không hiểu vì sao, hoàng tử trở lại sớm thế. Không để nàng hỏi, chàng nói
ngay:
- Nữ hoàng của ta, hoàng tử
nói vừa chỉ vào mụ phù thuỷ đã được hai người đỡ xuống ngựa, ta mong nàng cũng
thương hại bà này như ta. Ta vừa gặp bà ta trong tình trạng đau đớn, và đã hứa
sẽ chăm sóc bà ấy lúc đang cần. Ta nhờ nàng, đừng bỏ rơi bà ta.
Nàng tiên nhìn vào người đàn
bà nói là đau ốm trong lúc hoàng tử nói, ra lệnh cho hai thị nữ đưa bà ta vào một
phòng trong lâu đài và chăm sóc như đối với chính nàng.
Hai thị nữ làm theo lệnh vừa
nhận được. Pari-Banou lại gần hoàng tử nhỏ giọng nói:
- Hoàng tử, thiếp hoan
nghênh lòng thương người xứng đáng với chàng và nguồn gốc của chàng và thiếp
vui lòng đáp ứng với ý định tốt ấy nhưng cho phép thiếp nói với chàng thiếp rất
sợ ý định tốt ấy không được đền đáp xứng
đáng. Thiếp thấy người đàn
bà này có vẻ không đau ốm như bà ta tỏ ra thế và thiếp rất lầm nếu bà không làm
quá đi để làm hại chàng. Nhưng chàng đừng ngại, dù người ta có mưu mô như thế
nào để phản lại chàng, cứ tin chắc thiếp sẽ giải thoát cho chàng khỏi mọi cạm bẫy.
Chàng cứ đi, tiếp tục hành trình của mình.
Lời nói đó không làm hoàng tử
hốt hoảng, chàng lại nói:
- Nữ hoàng của ta, ta không
nhớ đã làm hại ai và cũng không có ý định ấy nên nghĩ chẳng có ai muốn làm hại
mình, dù sao ta vẫn không thôi làm điều tốt khi có dịp.
Nói xong chàng từ biệt nàng
tiên trở lại con đường bị gián đoạn vì mụ phù thuỷ và một lúc sau cùng tuỳ tùng
đến hoàng cung. Nhà vua tiếp đón chàng gần như bình thường cố gắng không lộ ra
những nghi ngờ các cận thần gây ra cho ngài.
Hai thị nữ theo lệnh nàng
tiên đưa mụ phù thuỷ vào một gian phòng đẹp, trang trí sang trọng. Lúc đầu họ để
mụ ngồi lên một chiếc xô pha tựa vào gối gấm vàng. Sau đó họ giúp mụ nằm lên
giường (vì mụ phù thuỷ vẫn giả vờ đang sất cao mệt mỏi), một người ra ngoài một
lúc đưa vào một cốc nước cho mụ trong lúc người kia đỡ mụ ngồi lên.
- Bà uống cốc nước này đi -
Thị nữ nói - đây là nước giếng Sư Tử, sốt nào cũng chữa khỏi. Không đầy một giờ
bà sẽ thấy tác dụng ngay.
Mụ phù thuỷ muốn giả vờ như
thật, phải để đề nghị nhiều lần giả như ghê sợ phải uống thuốc. Cuối cùng mụ cầm
chiếc cốc, uống hết nước, vừa lắc đầu mạnh như cố gắng lắm. Khi mụ đã nằm lại,
hai thị nữ đắp chăn kỹ cho mụ và người đưa nước uống nói:
- Bà cứ ngủ đi, nếu muốn ngủ.
Chúng tôi để bà yên tĩnh, hy vọng khoảng một giờ nữa chúng tôi trở lại thấy bà
đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Mụ phù thuỷ không phải đến để
ốm lâu mà chỉ để thăm dò chỗ ở của hoàng tử và nguyên nhân buộc chàng phải giấu
vua cha, thấy mình đã biết khá rõ, muốn nói ngay liều thuốc đã có tác dụng, muốn
ra về để báo cáo kết quả với nhà vua. Vì người ta không nói nước có tác dụng
ngay nên mụ đành chờ hai thị nữ trở vào.
Hai người thị nữ đến theo giờ
đã nói, thấy mụ phù thuỷ đã ngồi dậy trên ghế, mặc quần áo tử tế và đứng lên
khi thấy họ bước vào. Mụ kêu lên:
- Chà, nước- thuốc thật hay,
có hiệu quả sớm hơn nhiều so với lời các cổ nói, tôi phải nóng lòng chờ, đã đến
lúc nhờ các cô dẫn, tôi vào gặp nữ chủ để cám ơn đã được chữa khỏi bệnh như có
phép lạ, tôi phải tiếp tục đi.
Hai thị nữ, cũng là các nàng
tiên như chủ của họ, sau khi thể hiện vui mừng vì mụ chóng khỏi bệnh, đi trước
dẫn đường qua nhiều gian phòng, tất cả đều lộng lẫy, họ vào phòng khách đẹp nhất
và trang bị sang trọng nhất –trong lâu đài.
Pari-Banou ở trong phòng
khách, ngồi trên một ngai vàng, trang điểm thêm những kim cương, hồng ngọc, ngọc
trai kích thước khác thường, bên phải, trái có một số lớn nàng tiên, tất cả đều
đẹp tuyệt vời và quần áo lộng lẫy. Thấy bao nhiêu màu sáng chói và oai vệ, mụ
phù thuỷ không chỉ loá mắt mà sững sờ cả người, quỳ xuống trước ngai vàng không
mở được miệng để cám ơn như đã dự định. Pari-Banou miễn cho mụ khỏi phiền hà,
lên tiếng:
- Này bà, ta vui lòng gặp dịp
bà phải đến đây và thấy bà đã hồi phục để tiếp tục lên đường. Ta không giữ bà lại
nhưng có lẽ bà không phiền lòng được thấy lâu đài của ta. Bà đi với cáo thị nữ
của ta; họ sẽ đưa bà đi xem.
Mụ phù thuỷ vẫn sững sờ: quỳ
lạy lần thứ hai, trán cúi sát tấm thảm phủ chân ngai vàng chào tạm biệt, không
đủ sức và can đảm nói một lời, để hai nàng tiên dẫn đi. Mụ kinh ngạc và luôn miệng
tấm tắc khen từng gian phòng, cũng đầy những của cải và vẻ đẹp mà hoàng tử
Ahmed đã thấy khi nàng tiên Pari- Banou dẫn chàng đi tham quan lâu đài lần đầu.
Điều làm mụ thán phục hơn là sau khi được xem toàn bộ lâu đài, mụ nghe hai nàng
tiên nói những gì thấy ở đây chỉ là hình mẫu về sự sống lớn và quyền lực của nữ
chủ họ, trong quốc gia mênh mông. Nàng có những lâu đài khác nhiều không kể xiết,
tất cả đều kiến trúc kiểu dáng khác nhau không kém phần đẹp lộng lẫy.Vừa nói một
số chi tiết họ vừa đưa mụ ra cánh cửa sắt mà hoàng tử đã dẫn mụ vào, mở cửa
chúc mụ lên đường mạnh khoẻ và họ chia tay nhau.
Đi mấy bước, mụ phù thuỷ ngoảnh
lại quan sát để nhận rõ cánh cửa nhưng vô ích, cửa đã trở thành không trông thấy
được đối với mụ cũng như mọi người phụ nữ khác. Mụ đành trở về gặp nhà vua theo
đường tắt, khá hài lòng đã đạt yêu cầu. Mụ được đưa vào cửa bí mật của lâu đài.
Nghe tin mụ đến, nhà vua đến gặp, thấy nét mặt buồn ngài đoán không có kết quả
và nói với mụ:
- Nhìn thấy bà, ta cho rằng
chuyến đi của bà không được việc, không làm rõ được điều ta chờ đợi.
- Thưa bệ hạ - mụ phù thuỷ
đáp - Người cho phép thần không nói về tâm trạng của thần khi thực hiện việc thần
được giao làm vinh dự cho thần mà xin trình bày thật thà những gì thần làm,
không bỏ quên đíều gì để xứng đáng với sự uỷ thác của Người và mọi việc đã xảy
ra như thế nào. Việc Người thấy nét mặt thần buồn do một nguyên nhân khác chứ
không vì công việc không kết quả, mong Người sẽ hài lòng. Thần không nói về
nguyên nhân; câu chuyện thần kể sẽ làm Người biết rõ nếu Người bình tĩnh nghe
cho.
Mụ phù thuỷ bèn kể với vua Ấn
Độ mình đã vờ bị đau ốm ra sao, được hoàng tử Ahmed thương hại, cho dẫn vào một
chỗ ở dưới mặt đất, giới thiệu và uỷ thác cho một nàng tiên sắc đẹp không gì
trên trần đời sánh nổi chăm sóc mụ. Nàng tiên lệnh cho hai tiên nữ cùng đi phụ
trách việc chạy chữa mụ cho đến khi bình phục, thái độ tỏ ra chỉ có từ một người
vợ đối với người chồng.
Mụ hơi cường điệu sự ngạc
nhiên của mình khi thấy mặt ngoài lâu đài của nàng tiên, cho rằng không lâu đài
nào trên đời sánh bằng trong lúc hai tiên nữ xốc tay hai bên người mụ như một bệnh
nhân không bước được nếu không có họ hỗ trợ. Mụ kể chi tiết sự sốt sắng của họ
giúp đỡ mụ khi ở phòng mụ được đưa vào, cốc nước thuốc họ cho uống và tác dụng
chữa khỏi nhanh chóng cũng giả vờ như căn bệnh tuy mụ tin chắc vào hiệu nghiệm
của nước thuốc, vào sự uy nghi của nàng tiên ngồi trên ngai vàng trang trí đá
quý giá trị hơn hẳn mọi tài sản của vương quốc Ấn Độ. Cuối cùng mụ nói về những
của cải vô biên không ước tính được chung cũng như riêng trong lâu đài bao la.
Mụ phù thuỷ kết thúc kết quả
về nhiệm vụ của mình và nói tiếp: Thưa bệ hạ, Người nghĩ thế nào về tài sản vô
giá của nàng tiên? Có lẽ Người sẽ cho là đáng khâm phục và vui vì vận may của
hoàng tử Ahmed con trai người được hưởng thụ chung với nàng tiên. Riêng thần,
xin khẩn cầu bệ hạ tha tội cho dám tỏ ra nghĩ khác hẳn, thậm chí sợ có thể
hoàng tử sẽ gặp tai hoạ. Và chính vì vậy thần không giấu được nỗi lọ lắng mà
Người đã nhận thấy. Thần nghĩ rằng hoàng tử với bản chất tốt tự nhiên, không thể
tiến hành việc gì chống lại bệ hạ nhưng ai biết được với sự hấp dẫn, trìu mến
và quyền lực đã chiếm được tâm trí chồng, nàng tiên ấy không gợi lên ý định
nguy hiểm thay chỗ của bệ hạ, chiếm lấy vương quốc Ấn Độ. Xin Người hết sức lưu
ý về một việc quan trọng như thế.
Dù tin chắc vào bản chất tốt
đẹp của hoàng tử Ahmed, vua Ấn Độ không khỏi bị lời mụ phù thuỷ tác động. Ngài
cho mụ lui xuống vừa nói: “Ta cám ơn ngươi về công khó nhọc và về lời khuyên.
Ta biết tầm quan trọng của điều ấy nên không thể giải quyết mà không bàn bạc”.
Khi người ta báo tin mụ phù
thuỷ đến, ngài đã trao đổi với những cận thần đã nêu lên những nghi ngờ về
hoàng tử con trai ngài. Sau khi mụ phù thuỷ trình bày sự việc, ngài cho gọi họ
tới cho họ biết tình hình và cũng nói cả chuyện sợ nàng tiên làm tâm trí hoàng
tử thay đổi và nêu chuyện đề phòng việc không hay bằng cách nào.
Một trong những cận thần
thay mặt tất cả trả lời:
- Để đề phòng việc không
hay, thưa bệ hạ, vì Người biết ai có thể trở thành thủ phạm, vốn đang ở trong
triều và Người có quyền làm, Người không nên ngần ngại ít nhất cũng cho bắt
giam lại trong ngục tối suốt quãng đời còn lại, thần không muốn nói là giết đi
sợ có tiếng vang quá lớn.
Những cận thần khác đồng
thanh hoan nghênh ý kiến đó.
Mụ phù thuỷ thấy biện pháp ấy
quá tàn bạo, xin phép nói:
- Thưa bệ hạ, thần chắc chắn
vì sốt sắng cho lợi ích của bệ hạ mà các đại thần đề nghị Người cho bắt giam
hoàng tử Ahmed. Nhưng các vị ấy không thấy khi bắt hoàng tử là đồng thời phải bắt
cả những người đi theo chàng mà họ lại là các vị thần. Các vị nghĩ dễ dàng bắt
được họ chăng? Với tính chất vốn có họ sẽ biến mất và đi báo với nàng tiên nữ
chủ về việc nhục mạ chồng nàng. Nàng tiên sẽ để yên không báo thù ư? Nếu có
cách nào đó, ít gây ầm hơn, bệ hạ có thể vạch rõ những ý đồ xấu của hoàng tử Ahmed
mà không ai ngờ được ý định của bệ hạ có lẽ phù hợp hơn. Nếu bệ hạ tin lời thần
khuyên do những thần tiên có những điều người đời không làm nổi, Người khích
hoàng tử nhờ nàng tiên làm điều gì thật cao xa với lý do vì lợi ích chung mà
hoàng tử có nhiệm vụ. Ví dụ mỗi lần bệ hạ muốn ra trận, Người buộc phải chi phí
rất lớn về cờ, tăng bạt cho cả đoàn quân cả lạc đà, lừa ngựa để hành quân. Phải
chăng nên bảo hoàng tử, với của cải chàng có được chỗ nàng tiên, chàng hãy kiếm
một lá cờ cầm tay mà phủ được hết đoàn quân. Nếu hoàng tử đem lá cờ đến, ta lại
còn bao nhiêu yêu cầu loại ấy có thể đòi hỏi nữa, cho đến lúc chàng lâm vào những
khó khăn không thực hiện được, dù nàng tiên đã cướp chàng đi giàu có và sáng tạo
đến mức nào. Như vậy chàng sẽ xấu hổ, đành suốt đời ở bên cạnh nàng tiên không
dám xuất hiện ngoài đời nữa, bệ hạ không còn lo gì hoạt động của chàng và người
ta không thể chê trách Người làm đổ máu một đứa con trai hoặc cấm cố con suốt đời.
Mụ phù thuỷ nói xong, nhà
vua hỏi các cận thần có cách gì đề nghị hơn không và thấy họ im lặng, ngài quyết
định theo lời khuyên của mụ phù thuỷ, có vẻ hợp lý hơn vả lại điều đó cũng phù
hợp với sự nhẹ nhàng ngài vẫn dùng trị nước.
Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed
đến trình vua cha đang họp bàn với các cận thần, chàng lại ngồi gần nhà vua và
sự có mặt của chàng không cản trở hội đồng trao đổi nhiều vấn đề trong một lúc
nữa. Sau đó nhà vua lên tiếng nói với hoàng tử:
- Con trai ta, khi con về cất
cho ta nỗi buồn sâu sắc vì vắng con lâu ngày, con giữ bí mật nơi con ở, ta hài
lòng được gặp lại con và biết con thoả mãn về số phận mình, ta không muốn đi
sâu vào điều con muốn giữ kín. Ta không hiểu vì lý do gì con có thể như vậy với
một người cha luôn quan tâm đến hạnh phúc của con. Bây giờ ta biết hạnh phúc ấy,
ta vui mừng cho con và chấp nhận việc con thành hôn với một nàng tiên xứng đáng
được yêu, giàu có và quyền lực đến thế như ta được Người ta báo lại. Ta có quyền
lực thật nhưng không thể tạo cho con một cuộc hôn nhân như vậy. Với dòng dõi của
con, có ai khác ngoài một người cha như ta mơ ước điều ấy, ta mong con không những
sống với ta hiếu thảo như cho đến nay con vẫn làm mà còn dùng tiền nong con có
được bên cạnh nàng tiên vợ con để hỗ trợ ta những lúc cần thiết và hôm nay ta
muốn con đưa vốn liếng ra thử thách. Con cũng biết chi phí rất lớn, không nói đến
sự lúng túng mà tướng tá của ta và cả bản thân ta phải gánh chịu những lần đưa
quân ra chiến trường để cung cấp cờ, tàng bạt, lạc đà và những vật chở khí cụ
khác. Nếu con quan tâm đến việc làm vui lòng ta, ta chắc con không khó khăn gì
nói với nàng tiên cho con một lá cờ nắm trong tay mà che phủ được toàn đoàn
quân của ta nhất là khi con cho nàng biết lá cờ đó đành cho ta. Khó khăn của việc
đó chắc sẽ không làm con từ chối. Mọi người đều biết thần tiên có quyền lực làm
nên những điều kỳ lạ nhất.
Hoàng tử Ahmed không ngờ vua
cha đòi hỏi chàng một điều như thế, chàng thấy điều đó có vẻ rất khó khăn nếu
không nói không thể được. Thực vậy, tuy chàng biết quyền lực của thần tiên rất
lớn nhưng nghi ngờ nàng có thể làm ra một lá cờ như vua đề nghị. Vả lại cho đến
lúc đó chàng chưa hề yêu cầu Pari- Banou điều gì. Chàng chỉ hài lòng về những cử
chỉ luôn luôn yêu chàng say mê, không quên xác định đền đáp lại nàng hết lòng,
không nghĩ đến lợi ích gì khác ngoài việc giữ gìn trân trọng lòng quý mến ấy.
Vì vậy chàng rất lúng túng khi trả lời:
- Thưa bệ hạ, con giữ km việc
đã xảy ra với con và xung quanh, trường hợp con đã tìm được mũi tên vì con thấy
không cần thiết trình bày rõ với Người. Con không rõ do đâu mà bí mật ấy được
báo cáo với bệ hạ con không giấu giếm điều người ta nói là sự thực. Con là chồng
của một nàng tiên, con yêu nàng và chắc chắn nàng cũng yêu con. Nhưng về tiền
nong con có được từ nàng như bệ hạ nghĩ thì con không thể nói gì được. Vì không
chỉ con không sử dụng mà con cũng không hề có ý nghĩ đó và con mong Người miễn
cho con đụng chạm tới, để cho con hưởng niềm hạnh phúc yêu và được yêu, không
quan tâm đến việc gì khác. .Nhưng điều mà một người cha yêu cầu là mệnh lệnh đối
với một đứa con trai như con, con cho là có nhiệm vụ phải vâng lời về mọi việc.
Mặc dù con rất chán ngán việc đó, con sẽ đề nghị với vợ con làm theo yêu cầu của
bệ hạ nhưng con không dám hứa là sẽ có. Và nếu con không được vinh dự đến thăm
Người thì đó là dấu hiệu con không đạt hiệu quả mong muốn, xin bệ hạ gia ân tha
thứ cho con trước và xem như Người đã đưa con đến tình trạng cuối cùng ấy.
Nhà vua lại nói với hoàng tử:
- Con trai, ta rất phiền
lòng vì yêu cầu của ta gây cho con không vui và có thể ta sẽ không được gặp lại
con. Ta thấy rõ con không biết đến quyền một người chồng đối với vợ, vợ con tỏ
ra chỉ yêu con rất ít nếu nàng từ chối một việc không là gì đối với quyền lực của
nàng mà con yêu cầu vì yêu mến ta. Con bỏ lối dè dặt đi, chỉ do con nghĩ không
được yêu như con yêu thôi. Con cứ đề nghị và sẽ thấy nàng tiên yêu con hơn con
nghĩ và nên nhớ do không yêu cầu, người ta sẽ thiệt thòi nhiều lợi thế lớn. Con
cứ suy ra, nếu nàng đòi hỏi gì con sẽ không từ chối vì con yêu nàng thì nàng
cũng không từ chối điều gì con yêu cầu vì nàng yêu con.
Lời nói của nhà vua không
thuyết phục được hoàng tử Ahmed. Chàng muốn người ta đòi hỏi chàng điều gì khác
hơn là làm mất lòng Pari-Banou thân yêu của chàng. Cảm thấy buồn, chàng rời
hoàng cung sớm hơn thường lệ hai ngày. Gặp chồng, nàng tiên cho đến nay bao giờ
cũng thấy chàng về với mình nét mặt hoan hỉ, hỏi về nguyên nhân sự thay đổi đó.
Thay vì trả lời, chàng hỏi thăm sức khoẻ của nàng với thái độ cho thấy chàng
không muốn cho biết. Nàng nói:
- Thiếp sẽ trả lời câu hỏi của
chàng khi nào chàng trả lời câu hỏi của thiếp.
Hoàng tử chống chế khá lâu
nói rằng không có việc gì nhưng chàng càng giấu giếm nàng càng hối thúc.
- Thiếp không thể nhìn chàng
trong tình trạng này - Nàng nói - Chàng hãy nói điều gì làm mình phiền lòng để
thiếp xoá bỏ nguyên nhân dù đến thế nào: chắc điều phải thật khác thường nếu
không phải là cái chết của phụ hoàng. Nếu thế thiếp sẽ cố giúp phần và thời
gian sẽ an ủi chàng.
Hoàng tử Ahmed không thể chống
chế lâu hơn trước sự gặng hỏi nhiệt tình của vợ. Chàng nói:
- Nàng ạ, Chúa kéo dài cuộc
sống của vua cha và ban phúc cho Người đến suốt đời? Ta từ biệt Người khi Người
đầy sức sống và hoàn toàn khoẻ mạnh, không phải vì điều đó mà ta buồn. Chính bản
thân phụ hoàng là nguyên nhân làm ta rất chán ngán vì Người buộc ta phải quấy rầy
nàng. Trước hết, nàng biết là ta cẩn thận giấu Ngựời về hạnh phúc ta được gặp
nàng, yêu nàng và nhận ân huệ, tình yêu của nàng, chúng ta cùng đưa lại niềm
tin cho nhau nhưng không biết do đâu mà Người biết được mọi chuyện.
Nàng tiên Pari-Banou ngắt lời
chàng:
- Còn thiếp, thiếp biết điều
đó. Chàng có nhớ điều thiếp đã nói về người đàn bà làm chàng tin bị đau ốm và
thương hại: chính bà ta báo với vua cha những gì chàng đã giấu Người. Thiếp đã
nói bà ta không đau ốm gì như chàng và thiếp, thật đúng như vậy. Thực thế sau
khi uống nước chữa bệnh thị nữ đưa cho mà thực ra không cần dùng, bà ta giả vờ
nhờ nước ấy mà khỏi bệnh và vội đến chào từ biệt để ra về nếu thiếp không lệnh
cho hai thị nữ đưa bà ta đi xem khắp lâu đài. Nhưng chàng nên tiếp tục đi, xem
vua cha buộc chàng quấy rầy thiếp như thế nào, điều mà thiếp cam đoan với chàng
thiếp sẽ không hề bị khó khăn gì.
- Nàng có thể nhận thấy cho
đến nay, ta rất hài lòng được nàng yêu, ta không xin nàng một ân huệ nào khác.
Có một người vợ đáng yêu như vậy ta còn mong gì hơn nữa? Ta cũng biết nàng có
quyền lực nhưng nghĩ mình có nhiệm vụ không đưa ra thử thách. Nàng hãy biết
cho, ta đoán chắc với nàng, không phải ta mà là vua cha đã thiếu tế nhị yêu cầu
nàng cho Người một lá cờ cầm tay mà che kín gió mưa toàn bộ triều đình và đoàn
quân của Người khi ra trận. Một lần nữa ta muốn nói, không phải ta mà chính vua
cha đề nghị nàng ân huệ đó.
- Hoàng tử thiếp phiền lòng
vì một điều nhỏ nhặt như thế đã làm chàng bối rối, tâm trí bị xáo trộn như thiếp
thấy. Thiếp thấy rõ hai điều: một là nguyên tắc chàng đặt ra cho mình chỉ yêu
thiếp và được yêu, không yêu cầu điều gì phải dùng đến quyền lực của thiếp, hai
là theo thiếp nghĩ tuy chàng không nói ra, chàng hình dung yêu cầu của vua cha
vượt quá khả năng của thiếp. Về điều thứ nhất thiếp hoan nghênh chàng, càng yêu
chàng hơn nếu có thể. Điều thứ hại, thiếp chẳng phiền phức gì để chàng biết đấy
chỉ là một việc vặt, có dịp thiếp còn có thể làm việc khác khó hơn. Chàng hãy
bình tâm nghỉ ngơi, hãy tin rằng thay vì bị quấy rầy, thiếp luôn rất vui lòng thoả
mãn những điều gì chàng mong muốn vì tình yêu của thiếp đối với chàng.
Nói xong nàng tiên cho gọi
người trông nom kho. Người coi kho đến, nàng tiên bảo: “Nourgihan (tên người
coi kho), đem đến cho ta lá cờ lớn nhất trong kho . Một lúc sau Nourgihan trở lại,
đưa lá cờ tới không chỉ cầm trong tay mà có thể nắm kín trong tay, nữ chủ cầm lấy
đặt vào trong tay hoàng tử.
Ahmed nghe Pari- Banou bảo lấy
trong kho lá cờ lớn nhất, chàng nghĩ nàng muốn chế nhạo mình, nét mặt và thái độ
tỏ vẻ ngạc nhiên. Nàng tiên thấy vậy phá lên cười:
- Sao? Hoàng tử tưởng thiếp
chế nhạo chàng ư? Chàng sẽ thấy thiếp không đùa đâu! Nourgihan – nàng vừa nói vừa
lấy lại lá cờ trong tay hoàng tử đưa cho người coi kho - hãy giương lá cờ lên để
hoàng tử xem vua cha của chàng có cho là bé hơn yêu cầu không.
Người coi kho ra khỏi lâu
đài, đi khá xa để khi đường lá cờ đầu cờ đến một phía bên lâu đài. Hoàng tử nhận
thấy ngay lá cờ không phải bé hơn mà lớn đến mức che kín được cả hai đoàn quân
của vua cha. Chàng bèn nói:
- Nữ hoàng, ta xin lỗi vì đã
hoài nghi. Theo như ta thấy, ta nghĩ không có điều gì nàng muốn làm mà không được.
- Chàng xem - Nàng tiên bảo
- lá cờ lớn hơn sự cần thiết. Nhưng chàng chú ý nó có đặc tính căng rộng thêm
hoặc thu nhỏ lại phù hợp với kích cỡ cần che mà người ta không phải bỏ tay vào.
Người coi kho bỏ lá cờ xuống,
thu nhỏ như ban đầu và đặt vào tay hoàng tử. Ahmed cầm lấy và ngày hôm sau,
không chần chừ lâu, lên ngựa có tháp tùng như thường lệ, đưa đến cho phụ hoàng.
Nhà vua chắc chắn một lá cờ như
ngài đòi hỏi vượt ra ngoài mọi khả năng, ngài rất ngạc nhiên thấy con trai mau
chóng trở lại. Ngài nhận lá cờ, khen nó nhỏ gọn, sửng sốt khó định thần khi cho
căng rộng biết rằng hai đoàn quân lớn như của ngài có thể được che kín thừa
thãi. Thấy ngài cho như thế khó sử dụng, hoàng tử Ahmed báo với ngài độ che phủ
bao giờ cũng cân đối phù hợp với đoàn quân.
Bề ngoài nhà vua tỏ ra cảm động
vì hoàng tử đã cho ngài một món quà quý giá, nhờ chàng cảm ơn nàng tiên và sai
người đưa vào giữ cẩn thận trong kho. Nhưng trong thâm tâm ngài ghen tức dữ dội
hơn những cận thần nịnh bợ và mụ phù thuỷ đã gợi lên nghĩ rằng con trai ngài nhờ
nàng tiên có thể làm những việc cao hơn nhiều so với dòng dõi mình tuy đã lớn mạnh
và giàu có. Vì thế ngài càng tích cực hơn trong việc tìm cách tiêu diệt hoàng tử.
Ngài hỏi ý kiến mụ phù thuỷ, mụ khuyên nên đòi hỏi hoàng tử đưa nước giếng Sư Tử
về.
Buổi chiều trong lúc họp triều
thần như thường lệ, có hoàng tử Ahmed tham dự, ngài bảo hoàng tử:
- Con trai, ta đã chịu ơn
con về lá cờ con tặng, xem như vật quý nhất trong kho hoàng cung, vì thương mến
ta con hãy làm cho ta một việc khác ta không kém phần thích thú. Ta được biết
nàng tiên vợ con dùng loại nước ở giếng Sư Tử chữa khỏi mọi căn bệnh nguy hiểm
nhất. Sức khoẻ của ta đối với con là trọng, ta chắc con sẵn lòng xin cho ta một
thùng, đem về cho ta làm thuốc quý khi cần. Con hãy giúp ta việc quan trọng
này, để tâm huyết vào đó như của một đứa con hiếu thảo đối với cha.
Hoàng tử Ahmed nghĩ vua cha
đã hài lòng vì có lá cờ đặc biệt và rất có ích, sẽ không giao một nhiệm vụ khác
có thể phiền hà đến Pari-Banou, chàng sững sờ vì yêu cầu này tuy nàng đã đảm bảo
làm mọi việc cho chàng theo quyền lực của mình. Sau một lúc im lặng, chàng nói:
- Thưa bệ hạ, con khẩn cầu
Người tin rằng con sẵn sàng làm mọi việc để góp phần kéo dài tuổi thọ của Người
nhưng con mong không có sự can thiệp của vợ con, vì vậy con không dám hứa sẽ
mang về loại nước ấy. Tất cả những gì con có thể làm là con sẽ đề nghị với nàng
nhưng con cũng thật khổ tâm như con đã nêu ra chuyện lá cờ.
Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed
trở về bên cạnh nàng tiên Pari- Banou, thành thật kể lại việc mình làm ở triều
đình khi trình diễn lá cờ, nhận được lòng biết ơn vô cùng đối với nàng và cũng
nói về yêu cầu mới của vua cha. Kết thúc câu chuyện, chàng nói thêm:
- Nữ hoàng của ta, ta nêu ra
điều đó như kể chuyện lại với nàng về việc xảy ra giữa phụ hoàng và ta, phần
còn lại thuộc về nàng, thoả mãn lời đề nghị của Người hay bỏ đi tuỳ theo ý
nàng, ta chỉ muốn như lòng nàng muốn.
- Không, không - Pari-Banou
nói - thiếp rất vui khi biết vua cha thấy chàng không thờ ơ với thiếp. Thiếp muốn
làm Người hài lòng và vì mụ phù thuỷ khuyên Người những gì (thiếp thấy rõ Người
nghe lời mụ), Người sẽ không trách cứ được chàng và thiếp. Có sự độc ác trong lời
yêu cầu đó.Giếng Sư Tử ở giữa sân một lâu đài có bốn con sư tử mạnh nhất canh cửa
lần lượt hai con ngủ hai con thức. Nhưng chàng đừng sợ hãi, thiếp sẽ chỉ cho
chàng cách đi giữa chúng không gặp nguy hiểm gì.
Nàng tiên lúc đó đang may
vá, bên cạnh có những cuộn chỉ nàng cầm lấy một cuộn đưa cho hoàng tử:
- Trước hết - Nàng nói -
chàng cầm lấy cuộn chỉ này, thiếp sẽ bảo chàng cách sử dụng. Thứ hai chàng cho
chuẩn bị hai con ngựa, một chàng cưỡi lên và một dắt tay mang một con cừu giết
thịt từ hôm nay chia làm bốn phần. Thứ ba chàng cầm một chiếc thùng thiếp sẽ
đưa để lấy nước. Ngày mai vào sáng sớm chàng lên ngựa vừa dắt con ngựa kia, khi
ra khỏi cánh cửa sắt chàng vứt cuộn chỉ ra trước mặt; cuốn chỉ sẽ lăn đi đến tận
cổng lâu đài. Chàng đi theo đến đấy, hai con thức canh phòng sẽ đánh thức hai
con đang ngủ ngáy râm ran. Chàng đừng sợ, ném cho mỗị con một phần cừu, nhưng
phải nhớ không xuống ngừa. Làm xong chàng thúc ngựa, nhanh nhẹn lại bên giếng
múc nước đầy thùng, cũng không xuống ngựa, phi trở ra nhanh. Những con sư tử mải
ăn sẽ để chàng tự do đi qua.
Hôm sau hoàng tử ra đi theo
lời nàng tiên dặn, thực hiện từng điểm một theo lời nàng. Đến cổng lâu đài
chàng ném bốn chân cừu cho bốn con Sư tử, rồi dũng cảm phóng qua chúng, ,vào
sát giếng múc nước và trở lại, bình yên ra khỏi lâu đài. Khi đã hơi xa, ngoảnh
lại nhìn chàng thấy hai con sư tử chạy theo mình; chàng rút gươm sẵn sàng tự vệ.
Nhưng thấy một con quay lại lắc đầu và đuôi tỏ ra không phải đến làm hại chàng
mà để đi trước chàng còn con kia ở lại phía sau đi theo. Chàng tra gươm vào vỏ
tiếp tục đến kinh thành, có hai con sư tử tháp tùng cho đến cổng hoàng cung rồi
trở lại con đường cũ làm một phần dân chúng sợ hãi chạy trốn đề khỏi gặp chúng
tuy chúng bước đều không có biểu hiện nào hung dữ.
Nhiều quân lính chạy tới
giúp hoàng tử xuống ngựa, đi theo chàng đến hoàng cung nơi nhà vua đang hội họp
với cận thần. Chàng tiến lại gần ngai vàng, đặt thùng nước trước chân vua cha,
hôn tấm thảm phủ bậc lên xuống rồi đứng dậy nói:
- Thưa phụ hoàng, đây là nước
chữa bệnh Người muốn đưa vào làm những vật quý hiếm làm dồi dào kho tàng hoàng
cung. Con kính chúc phụ hoàng luôn luôn dồi dào sức khoẻ để không bao giờ phải
dùng đến nó.
Hoàng tử nói xong, vua bảo
ngồi vào bên phải mình và nói:
- Con trai, ta chịu ơn con về
quà tặng của con càng nhiều khi con phải đối mặt với nguy hiểm vì tình thương
yêu ta. (Ngài đã được mụ phù thuỷ bẩm báo về giếng Sư Tử và mối nguy hiểm khi
đi lấy nước). Con cho ta biết con đã khôn khéo như thế nào, đúng hơn là do sức
mạnh không ngờ được nào mà con vẫn an toàn.
- Thưa phụ hoàng - Hoàng tử
trả lời - con không có được một phần nào về lời khen của Người mà hoàn toàn do
nàng tiên vợ con, con chỉ nghe theo lời khuyên của nàng.
Chàng kể lại việc bố trí của
vợ và chàng đã làm như thế nào. Nghe hoàng tử nói xong, nhà vua đã tỏ rõ sự vui
mừng nhưng trong lòng sự ghen tị ấy vẫn càng tăng thêm, ngài đứng dậy vào bên
trong lâu đài gặp mụ phù thuỷ được ngài cho gọi đến.
Mụ phù thuỷ qua tiếng đồn biết
kết quả hoàng tử đưa về liền nghĩ ra một mưu mô khác chắc chắn thành công như mụ
nghĩ. Mụ trao đổi cách đó với nhà vua và ngày hôm sau trong cuộc họp hội đồng
triều thần có mặt hoàng tử Ahmed, nhà vua nói vói hoàng tử:
Con trai, ta chỉ còn một điều
xín con, sau đó ta không buộc con vâng lời nữa, cũng không đòi hỏi đến tiền
nong của nàng tiên vợ con. Đấy là dẫn đến cho ta một người đàn ông biết nói cao
không đến một bộ rưỡi, bộ râu dài ba mươi bộ, mang trên vai một thanh sắt nặng
năm trăm li-vrơ mà ông ta dùng như một chiếc gậy hai đầu .
Hoàng tử Ahmed không tin
trên đời có một người như thế, muốn từ chối nhưng nhà vua nằng nặc yêu cầu, nói
rằng nàng tiên có thể làm những điều không tưởng tượng được.
Ngày tiếp theo hoàng tử trở
về vương quốc trong lòng đất của Pari-Banou, nói về yêu cầu mới của vua cha mà
chàng xem còn không thể có được như hai lần trước.Chàng nói:
- Ta không thể hình dung
trên đời có thể có loại người như thế. Chắc Người. muốn thử xem ta có chịu đi
tìm không hoặc nếu có thì ý đồ của Người là muốn tiêu diệt ta. Thực thế, làm
sao Người có thể cho rằng ta bắt được một người bé nhỏ như vậy và trang bị vũ
khí theo cách đó? Ta phải dùng những biện pháp nào để có thể chinh phục một người
như thế vâng theo ý muốn của ta được? Nếu có thề, mong nàng gợi ý cho ta cách
thoát khỏi mưu kế thâm hiểm này một cách vinh dự.
- Hoàng tử của thiếp đừng hoảng
hốt. Đi lấy nước ở giếng Sư Tử còn phải trải qua nguy hiểm nhưng tìm người này
không phải lo ngại gì. Người ấy là anh thiếp, Schalbar, không giống thiếp tí
nào tuy cùng là con một cha, bản chất rất dữ tợn, không có gì ngăn cản được anh
ấy hành động đổ máu nếu người ta làm anh phật lòng hoặc xúc phạm anh. Ngoài ra
anh là người tốt nhất trên đời và bao giờ cũng sẵn sàng giúp mọi điều người ta
mong muốn. Anh ấy đúng như Vua cha đã tả, vũ khí chỉ là thanh sắt nặng, không
có nó không bao giờ anh bước đi và anh ấy dùng nó để mọi người kính trọng. Thiếp
sẽ mời anh ấy đến nhưng trước hết, chàng phải chuẩn bị tinh thần để khi gặp
không sợ hãi về khuôn mặt khác thường của anh ấy.
- Nữ hoàng của ta - Hoàng tử
Ahmed lại nói - Schaibar là anh của nàng? Dù xấu xí và hình dạng như thế nào,
thay vì sợ hãi khi gặp anh, ta sẽ làm cho anh ấy thương yêu ta và là người thân
cận nhất của ta.
Nàng tiên cho đưa vào tiền sảnh
lâu đài một lò lửa và một chiếc hộp. Nàng lấy từ hộp ra một loại hương vị thơm
vứt vào bếp lò, một làn khói dày bốc lên.
Một lúc sau nàng nói với
hoàng tử:
- Hoàng tử, anh thiếp đến đấy,
chàng có thấy không?
Hoàng tử nhìn kỹ, nhận ra
Schaibar, cao một bộ rưỡi, nghiêm trang bước tới với thanh sắt nặng năm trăm
li-vrơ trên vai, bộ râu dài ba mươi bộ vươn ra phía trước, ria mép cân đối vòng
lên đến tai che hầu hết khuôn mặt, đôi mắt lợn hõm sâu trong chiếc đầu đồ sộ đội
một chiếc mũ nhọn.
Thêm vào đó, ông ta gù người
cả trước và sau.
Nếu hoàng tử Ahmed không được
biết trước Schaibar là anh của Pari-Banou, chàng không thể không sợ hãi khi gặp.
Yên tâm vì mối quan hệ đó, chàng vững vàng chờ ông ta đến và tiếp đón ông không
một biểu hiện yếu đuối nào.
Schalbar vừa tiến đến vừa
nhìn hoàng tử với con mắt làm chàng lạnh toát người, chào Pạri-Banou và hỏi người
này là ai nàng trả lời:
- Thưa anh đây là chồng em,
tên là Ahmed, con trai nhà vua Ấn Độ. Lý do em không mời anh đến dự hôn lễ là
không muốn làm anh lỡ việc đang tiến hành mà em rất vui biết anh trở về thắng lợi.
Vì vậy em đã tự tiện gọi anh đến.
Nghe nói thế Schaibar nhìn
hoàng tử với con mắt duyên dáng hơn tuy không giảm kiêu ngạo và thái độ dữ tợn.
Ông ta bảo:
- Em gái, ta có thể giúp
chàng việc gì? Chàng cứ nói. Chỉ cần là chồng em, ta có trách nhiệm làm chàng
vui lòng về những gì mong muốn.
- Vua cha của chàng -
Pari-Banou lại nói - tò mò muốn gặp anh, em đề nghị anh để chàng đưa đi.
- Chàng cứ đi trước, ta sẵn
sàng theo chàng.
- Thưa anh, hôm nay đi thì
đã muộn, xin anh lùi lại sáng mai. Vả lại anh cũng cần biết giữa nhà vua và
hoàng tử đã xảy ra những gì từ khi chúng em thành hôn với nhau, tối nay em sẽ
nói rõ hơn.
Hôm sau, Schaibar đã biết
tình hình, ra đi sớm có hoàng tử Ahmed đi cùng để giới thiệu ông ta với nhà
vua. Họ vừa xuất hiện ở cổng thành những người trông thấy sợ hãi vì một người xấu
xí đến thế, trốn vào cửa hàng hoặc trong nhà khép cửa lại, những người khác bỏ
chạy gây lo sợ cho những người khác cũng bỏ chạy theo không dám nhìn lại phía
sau. Vì thế trong lúc Schaibar và hoàng tử thong thả bước tới, họ thấy vắng lặng
trên mọi đường phố, quảng trường cho đến tận hoàng cung. Những người gác cổng
thay vì ngăn cản Schaibar vào, đã bỏ chạy hết để cổng hoàng cung bỏ ngỏ. Hoàng
tử và Schalbar tiến vào đến phòng họp không gặp trở ngại gì, thấy nhà vua đang
ngồi trên ngai vàng, quân bảo vệ đã bỏ chạy không có ai cản trở họ.
Schaibar ngẩng cao đầu, lại
gần ngai vàng và không chờ hoàng tử giới thiệu, hỏi nhà vua:
- Người đã muốn gặp thì có
tôi ở đây, Người muốn gì ở tôi?
Nhà vua đáng lẽ trả lời thì
đưa tay bịt mắt quay đầu về phía khác để không thấy một vật đáng sợ như vậy.
Schaibar tức giận vì cách tiếp đón bất lịch sự ấy và bực bội vì đã cất công đến
đây, giơ chiếc gậy sắt quát:
- Nói đi chứ? - Vừa nói ông
ta vừa giáng gậy sắt vào đầu nhà vua làm ngài chết ngay. Ông ta đánh ngay làm hoàng
tử Ahmed không kịp chặn lại. Chàng chỉ có thể ngăn cản ông ta đánh luôn vị tể
tướng ngồi bên phải vua, chàng phải nói đấy là người đã cho vua những lời
khuyên tốt Schaỉbar hỏi:
- Thế những người này khuyên
vua làm những điều xấu à?
Vừa nói ông ta vừa đánh chết
những đại thần khác ngồi bên phải, bên trái, tất cả đều nịnh bợ xúi giục nhà
vua và là kẻ thù của hoàng tử Ahmed. Bao nhiêu cú đánh là bấy nhiêu người chết,
chỉ thoát được những người chưa đến nỗi sợ hãi quá không đứng yên mà vùng chạy
trốn khỏi cung vua.
Việc hành quyết khủng khiếp
kết thúc, Schaibar ra khỏi gian phòng họp, thanh sắt trên vai, nhìn vị tể tướng
đi theo hoàng tử vừa cứu mạng mình.
- Ta biết - Người kỳ dị nói
- ở đây có một mụ phù thuỷ còn độc ác hơn những cận thần không xứng đáng ta vừa
giết chết, cho người đưa mụ phù thuỷ đến ngay.
Tể tướng vội bảo người đi
tìm, người ta dẫn mụ đến và Schaibar vừa dùng gậy đánh vừa nói:
- Này, cứ đưa ra những lời
khuyên nguy hại và giả làm người bệnh đi.
Mụ phù thuỷ chết ngay tại chỗ.
Schaìbar nói thêm:
- Chưa đủ đâu, ta sẽ đánh chết
dân cả thành phố nếu không tôn xưng ngay hoàng tử Ahmed em rể ta, làm vua của
nước Ấn Độ.
Những người có mặt lúc đó
nghe thấy thế hô vang:
- Vua Ahmed muôn năm!
Và một lúc sau cả thành phố
cùng ho vang như thế và đồng thời là lời tuyên bố hoàng tử Ahmed nối ngôi.
Schaibar mặc quần áo vua Ấn Độ cho hoàng tử, đưa chàng ngồi lên ngai vàng và
sau khi để triều thần tôn vinh, thề trung thành với nhà vua mới, con người kỳ dị
đi dẫn em gái Pari-Banou đến trong không khí rầm rộ, giới thiệu là hoàng hậu Ấn
Độ.
Hoàng tử Ali và công chúa
Nourounnihar, do không tham gia vào âm mưu chống hoàng tử Ahmed, thậm chí cũng
không biết có âm mưu đó, nhà vua mới liền ban lãnh địa là một tỉnh rất lớn có cả
thủ đô để họ đến đấy sống trong những ngày còn lại. Nhà vua cũng cho một lính hầu
đến gặp hoàng tử Houssain thông báo sự thay đổi vừa xảy ra và cho chàng lựa chọn
một tỉnh theo ưa thích làm nơi cai trị của mình. Nhưng hoàng tử cảm thấy hạnh
phúc trong cô đơn, nhờ tên lính cám ơn nhà vua em chàng về lòng tốt dành cho
chàng, hoàng tử Houssain khẳng định sự thần phục và chỉ xin gia ân cho phép
chàng tiếp tục sống ẩn dật ở nơi chàng đã chọn.
Chương 42: Hai người chị ghen tỵ
và cô em út
Hoàng hậu Scheherasade kể những câu chuyện nối tiếp nhau làm
nhà vua Ấn Độ tạm ngưng ý đồ của mình, ngài không biết sẽ giết hay để nàng sống.
Hoàng hậu tiếp tục một chuyện mới như sau:
- Thưa bệ hạ, có một hoàng tử Ba Tư tên là Khosrouschah, mới
tham gia cai trị vương quốc rất thích những cuộc phiêu lưu về đêm. Chàng thường
cải trang cùng một trong những tên lính hầu tin cậy làm tuỳ tùng cũng cải trang
như chàng đi khắp các khu trong thành phố. Nhiều lúc họ gặp những trường hợp rất
đặc biệt. Thiếp hy vọng bệ hạ vui lòng nghe câu chuyện chàng gặp hôm đầu sau
khi được vua cha chết vì già yếu truyền ngôi trị vì vương quốc Ba Tư.
Sau những lễ nghi theo thủ tục nhân sự kiện nối ngôi vua và
sau khi chôn cất vua cha, nhà vua mới Khosrouschah muốn tìm hiểu những gì xảy
ra trong đời vì tính chàng thích thế hơn là vì nhiệm vụ, ra khỏi hoàng cung vào
một đêm lúc hai giờ sáng, có quan tể tướng đi theo cũng cải trang như chàng. Đến
một khu dân thường, trên đường ông nghe tiếng nói khá to, chàng lại gần một
ngôi nhà sáng đèn nhìn qua khe cửa thấy ba chị em nhà nọ ăn khuya xong đang ngồi
trên ghế sô-pha nói chuyện. Theo câu nói của người chị lớn tuổi, nhà vua trẻ biết
ngay họ đang trao đổi về ước mong của mình. Người ấy nói:
- Chị mong lấy được chồng là người thợ làm bánh của nhà vua;
chị sẽ ăn no nê loại bánh ngon mà người ta gọi là bánh ngon nhất cửa vua. Nào ý
thích của các em ra sao?
- Riêng em - Người chị thứ hai nói - em ước muốn là vợ bếp
trưởng của nhà vua; em được ăn những thức ăn tuyệt vời và chắc chắn bánh nhà
vua rất nhiều trong hoàng cung, em sẽ không sợ thiếu. Chị thấy không - cô nói
thêm với chị cả ý thích của em giá trị hơn của chị chứ?
Cô em út rất đẹp và tinh tế, thông minh hơn các chị, đến lượt
mình nói:
- Các chị ạ, em không hạn hẹp trong những điều ít ỏi đó, em sẽ
bay cao hơn và đã là ước mong, em muốn sẽ là vợ nhà vua. Em sẽ sinh cho Người một
hoàng tử có mái tóc một bên vàng, một bên bạc; khi hoàng tử khóc nước mắt rơi
xuống là những viên ngọc và mỗi lần cười đôi môi xinh đẹp như một nụ hoa hồng
chớm nở.
Những mong ước của ba chị em, đặc biệt của cô em út có vẻ rất
đặc biệt đối với vua Khosrouschah nên chàng quyết định làm họ vừa lòng và chàng
nói rõ ý định ấy với tể tướng, chàng bảo phải nhớ lấy ngôi nhà để hôm sau đến
đưa họ vào cung cả ba người.
Viên tể tướng thực hiện lệnh nhà vua, hôm sau đến bảo ba chị
em ăn mặc nhanh chóng để đi yết kiến nhà vua, ông chỉ nói Người muốn gặp họ. Đến
hoàng cung họ được đưa vào trình diện, nhà vua hỏi:
- Đêm qua trong lúc vui vẻ các cô ước muốn những gì, ta muốn
biết rõ, đừng giấu giếm ta.
Nghe vua hỏi, ba chị em bị bất ngờ, thẹn đỏ mặt. Họ cúi xuống
và màu má ửng hồng trang điểm thêm cho cô em út chiếm được lòng nhà vua trẻ. Ngại
ngùng và lo sợ câu chuyện của họ làm nhà vua không hài lòng họ im lặng: nhà vua
thấy thế nói cho họ yên tâm:
- Các cô đừng sợ, ta không cho gọi các cô đến để gây khó dễ;
ta thấy câu hỏi của ta làm các cô sợ ngoài ý định của ta và do biết điều ước muốn
của từng người, ta muốn làm cho các cô được toại nguyện. Cô - chàng nói thêm –
cô ước được lấy ta làm chồng, hôm nay cô sẽ được thoả mãn; còn hai cô - chàng
tiếp tục nói hướng về cô chị cả và chị hai ta cũng cho làm lễ thành hôn với người
làm bánh và trưởng đầu bếp phục vụ ta.
Vua tuyên bố xong, cô em út làm gương cho các chị, quỳ xuống
chân nhà vua để tỏ lòng biết ơn.
- Thưa bệ hạ - Nàng nói - ước muốn của thần thiếp đã được bệ
hạ biết, chỉ là một cách chuyện trò và giải trí; thiếp không xứng đáng với vinh
dự bệ hạ ban cho và xin Người tha lỗi cho sự táo tợn của thiếp.
Hai người chị cũng muốn xin lỗi như thế nhưng vua ngắt lời họ
và nói:
- Không, không, không sao khác được, ước mong của mỗi người
các cô sẽ được thực hiện.
Lễ cưới được tiến hành ngày hôm đó như nhà vua đã quyết định
những tổ chức rất khác nhau. Hôn lễ của cô em út rất trang trọng kèm theo những
cuộc hoan hỉ phù hợp với việc thành hôn của một vị vua và hoàng hậu Ba Tư còn
hôn lễ hai người chị chỉ tưng bừng theo địa vị của những người chồng nghĩa là
người làm bánh và trưởng bếp hoàng cung.
Hai người chị cảm thấy rõ rệt sự cách biệt vô biên giữa đám
cưới của họ và của cô em út. Thay vì hài lòng về hạnh phúc đến với họ theo ước
mong, sự vượt xa hy vọng của họ, do quyết định ấy của nhà vua làm họ ghen tức
quá đáng nó không chỉ vẩn đục niềm vui của họ mà gây ra những bất hạnh lớn, nhục
nhã và làm phiền muộn nặng nể cho hoàng hậu, cô em út của họ. Lúc đầu họ chưa
có thì gỉờ trao đổi về sự lựa chọn của vua như họ nghĩ là mang lại tổn hại cho
họ vì phải chuẩn bị cho lễ thành hôn. Nhưng sau đó mấy ngày họ có thể gặp nhau
trong một buổi tắm công cộng như đã hẹn. Người chị cả nói với chị hai:
- Thế nào em gái, em nói sao về về cô em út của chúng ta? Phải
chăng trở thành hoàng hậu mới là một chuyện thật thú vị?
- Em thú nhận chẳng hiểu ra sao nữa - người chị kia nói -
Không rõ nhà vua thấy ở cô ấy có những nét gì hấp dẫn làm quáng cả mắt mà làm
như vậy. Cô ta chỉ là một đứa trẻ con, trong tình trạng chúng ta đã thấy. Có phải
vì cô ta trẻ hơn chúng ta một ít mà nhà vua không để mắt đến chị? Chị xứng đáng
sánh vai với nhà vua hơn và Người phải công bằng thích chị hơn cô ta mới phải.
- Em gái ạ - Người chị cả nói - đừng nói về chị. Nếu nhà vua
chọn em thì chị chẳng bàn cãi gì nhưng lại chọn một con bé bẩn thỉu làm chị buồn
lòng; chị sẽ trả thù khi có thể và chắc em cũng quan tâm đến việc ấy như chị.
Nên mong em cùng với chị làm vì việc này mà chúng ta quan tâm như nhau, chứng
ta sẽ bàn với nhau những cách mà mình nghĩ ra để hạ nhục nó.
Sau khi âm mưu với nhau như thế, hai chị em thường gặp nhau,
mỗi lần gặp đều bàn về những thủ đoạn có thể vượt qua thậm chí phá hoại hạnh
phúc của cô em út họ. Họ vẽ ra nhiều cách nhưng bàn thực hiện, họ lại thấy nhiều
khó khăn lớn không dám làm liều. Tuy vậy thỉnh thoảng họ vẫn cùng nhau đến thăm
em, giấu giếm ý đồ đáng kết tội của mình, hết sức tỏ ra thân mật để làm cô em
tin chắc họ rất phấn khởi có một cô em ở địa vị cao sang như thế. Về phần mình
hoàng hậu luôn tiếp đón họ trân trọng, không cao điệu và vẫn không bớt thương
yêu các chị như trước đây.
Mấy tháng sau khi cưới hoàng hậu nhận thấy mình mang thai;
nhà vua rất vui mừng và niềm vui ấy không chỉ trong hoàng cung mà lan rộng ra
khắp các khu phố ở kinh thành Ba Tư. Hai người chị đến chúc mừng và bàn tính về
bà đỡ giúp việc sinh nở, họ ngỏ ý với hoàng hậu đừng chọn ai khác ngoài họ.
Hoàng hậu cám ơn họ, và nói:
- Các chị, em không mong gì hơn như các chị nghĩ, nếu việc lựa
chọn thuộc về em hoàn toàn, em sẽ vô cùng cám ơn lòng tốt của các chị nhưng em
không thể không tuân theo lệnh của nhà vua. Tuy vậy mỗi chị nên làm thế nào để
chồng các chị nhờ bạn bè xin nhà vua gia ân cho như vậy và nếu nhà vua nói với
em điều đó, các chị cứ tin rằng em sẽ tỏ ra vui sướng và còn cám ơn Người về sự
lựa chọn các chị làm việc đó.
Hai người chồng mỗi người nhờ những cận thần đỏ đầu của mình,
khẩn cầu họ xin nhà vua cho vợ họ được vinh dự họ mong muốn; các cận thần ra sức
nỉ non với nhà vua kết quả là nhà vua đã hứa sẽ nghĩ đến điều ấy vua giữ lời hứa
và trong một buổi trao đổi với hoàng hậu, nhà vua bảo theo chàng hai bà chị có
vẻ thích hợp trong việc giúp đỡ hoàng hậu lúc sinh hơn mọi bà đỡ nào khác nhưng
chưa muốn chỉ định khi chưa được hoàng hậu đồng tình. Hoàng hậu nhạy cảm về sự
tôn trọng của vua, tỏ rõ lòng biết ơn và nói:
- Thưa bệ hạ. Thiếp chỉ làm theo lệnh của bệ hạ. Người đã có
lòng tốt để mắt đến hai chị của thiếp, thiếp rất cám ơn sự chiếu cố đó vì tình
thương yêu thiếp và thiếp không giấu giém rằng thiếp vui lòng nhờ họ hơn những
người lạ.
Vậy là vua Khosrouschah cử hai người chị hoàng hậu làm bà đỡ,
từ đó cả hai vào cung, rất vui mừng có dịp mong muốn để thực hiện mưu mô độc ác
đối với cô em út.
Ngày sinh đã tới, hoàng hậu may mắn có một hoàng tử xinh như
mộng. Sắc đẹp và sự non nớt của đứa bé cũng không thể khiến lòng hai người đàn
bà vô lương tâm cảm động hoặc thương hại. Họ bọc đứa trẻ sơ sinh khá cẩu thả, bỏ
vào một chiếc giỏ thả trên dòng nước một con suối chảy qua nhà hoàng hậu, đem một
con chó nhỏ đã chết thay thế nói rằng do hoàng hậu sinh ra. Tin xấu ấy được báo
lên vua; nhà vua tức giận suýt giết chết hoàng hậu nếu vị tể tướng không can
ngăn nhà vua không nên bất công bắt hoàng hậu chịu trách nhiệm về những kỳ quặc
của tự nhiên.
Chiếc giỏ trong đó có hoàng tử nhỏ nằm được dòng nước suối
đưa ra khỏi bức tường bao quanh nhà hoàng hậu theo lỗ hổng bên dưới, tiếp tục
trôi qua khu vườn thượng uyển. Tình cờ người quản lý khu vườn, một trong những
võ quan cấp cao và được coi trọng nhất vương quốc, đi dạo trong vườn dọc con suối.
Ông thấy chiếc giỏ bập bềnh trên nước, liền gọi một người làm vườn gần đó chỉ
cho và nói:
Anh nhanh tay vớt cho ta chiếc giỏ xem có gì trong đó.
Người làm vườn lại bên bờ suối khéo léo dùng một cây sào kéo
chiếc giỏ vào, nâng lên và đưa tới.
Người quản lý khu vườn rất ngạc nhiên thấy một đứa bé trong
giỏ tuy vừa mới sinh nhưng có những nét đẹp ưa nhìn. Ông đã lấy vợ từ lâu, rất
mong có người nối dõi nhưng trời chưa cho. Ông bỏ cuộc đi dạo, bảo người làm vườn
mang giỏ và đứa bé đi theo về nhà mình ngay bên cạnh cổng vườn, vào phòng của
bà vợ nói:
- Bà ơi, chúng ta chưa có con và Chúa trời đưa đến cho ta
đây. Tôi uỷ thác cho bà, tìm ngay một vú nuôi và chăm nom cẩn thận như con trai
chúng ta: bây giờ tôi nhận ra nó là ai rồi.
Bà vợ vui mừng bế đứa bé, rất hài lòng được chăm sóc nó. Người
quản lý khu vườn không muốn đi sâu tìm hiểu đứa bé ở đâu ra. Ông tự nhủ:
- Ta thấy rõ nó từ phía nhà hoàng hậu trôi đến nhưng ta không
có nhiệm vụ điều tra xem việc gì xảy ra ở đó cũng như không được gây xáo trộn
trong một nơi rất cần thiết phải yên ổn.
Năm sau hoàng hậu sinh một hoàng tử khác. Những người chị mất
tính người cũng không thương hại đứa bé hơn anh nó. Họ cũng bỏ vào giỏ thả trôi
trên dòng suối và nói rằng hoàng hậu sinh ra một con mèo. May mắn cho đứa bé,
người quản lý khu vườn ở gần suối, cho vớt lên đưa về cho vợ, dặn chăm nom cẩn
thận như đứa đầu. Bà vợ chăm sóc ,chu đáo không kém do ý thích của minh và chiều
theo lòng tốt của chồng.
Vua Ba Tư lần này càng giận hoàng hậu hơn lần trước và định
phản ứng mãnh liệt nếu vị tể tướng lại không làm cho ngài nguôi đi. Cuối cùng
hoàng hậu sinh lần thứ ba, không phải hoàng tử mà một công chúa; cô bé vô tội
cũng chịu số phận như hai anh. Hai người chị đáng ghét quyết tầm không dừng tay
khi cô em út chưa bị truất ngôi hoặc ít ra là bị đuổi đi và phải bị làm nhục lại
thả trôi ở dòng suối. Công chúa được cứu khỏi cái chết chắc chắn cũng do tình
thương và lòng nhân hậu của người quản lý khu vườn, và cũng được nuôi dưỡng như
hai anh.
Vẫn bản tính vô nhân đạo của hai người chị lần này sự dối trá
lừa bịp của họ còn tăng thêm. Họ đưa ra một mẩu gỗ nói là do hoàng hậu sinh ra.
Vua Khosrouschah không nuốt giận được nữa khi được tin lần
sinh mới kỳ lạ này. Ngài nói:
- Sao! Người đàn bà không xứng đáng này định sẽ làm đầy quái
vật trong cung của ta nếu ta để cho cô ta sống ư? Không, không bao giờ được thế
nữa, bản thân cô ta đã là một quái vật, ta phải tẩy rửa khỏi cuộc đời.
Nhà vua tuyên bố lệnh tử hình hoàng hậu và giao cho tể tướng
thực hiện.
Quan tể tướng và các cận thần có mặt lúc đó vội quỳ xuống
chân nhà vua khẩn cầu rút bỏ lệnh ấy. Quan tể tướng nói:
- Thưa bệ hạ, xin Người cho phép thần được trình bày, lệnh tử
hình chỉ dùng trong những tội trạng giết người. Ba lần sinh của hoàng hậu, lạ
lùng đến thế, không phải tội giết người. Căn cứ vào đâu có thể quy cho bà góp
phần làm việc ấy? Một số lớn phụ nữ thường ngày vẫn sinh nở như vậy; họ đáng
thương nhưng không đáng xử phạt. Bệ hạ có thể không ban ân huệ đến bà nữa nhưng
nên để bà sống. Sự buồn tủi vì mất ân huệ củn bệ hạ trong những ngày còn lại đã
là một hình phạt nặng đối với bà.
Vua Ba Tư bình tĩnh lại thấy kết tội hoàng hậu vì sinh ra những
quái thai là bất công thật. Nhà vua phán:
- Thôi được, để cho bà ấy sống nhưng với một điều kiện hàng
ngày bà ấy chỉ muốn được chết. Làm cho bà ấy một căn nhà nhỏ ở cổng nhà thờ
chính, một cửa sổ mở thường xuyên; nhốt bà vào đấy bắt bà ấy mặc quần áo thô, mỗi
người dân đạo Hồi đi qua đấy vào nhà thờ cầu nguyện phải nhổ vào mặt bà ta nếu
không cũng bị phạt như thế. Để lệnh được thực hiện nghiêm, ta giao cho ông,
quan tể tướng bố trí canh gác.
Giọng nói của vua nêu lên hình phạt này làm vị tể tướng không
dám nói nữa. Ông cho tiến hành hình phạt trong sự thoả lòng của hai người chị
ghen tức. Căn nhà nhỏ xây dựng xong và hoàng hậu thực sự đáng thương sau lúc
sinh bị nhốt vào đó theo cách nhà vua ra lệnh, nhục nhã làm trò cười và chịu sự
khinh bỉ của dân chúng. Hình phạt ấy bà không đáng bị xử, nhưng bà kiên trì chịu
đựng nên đã đưa lại lời khen và lòng thương cảm của tất cả những người phán xét
sáng suốt, công bằng hơn người thường.
Hai hoàng tử và công chúa được người quản lý khu vườn và bà vợ
nuôi dạy với tình âu yếm của những người cha mẹ; tình âu yếm đó càng tăng khi
công chúa và các hoàng tử càng lớn lên nhất là vì những vẻ đẹp của công chúa.
Tính ba anh em ngoan ngoãn, xu hướng tốt đẹp hơn hẳn trẻ con bình thường và có
một phong thái nào đó chỉ có thể thuộc về các hoàng tử và công chúa. Để phân biệt
anh em, họ gọi tên đứa trẻ đầu là Bahman, đứa thứ hai Pervij, tên những nhà vua
Ba Tư cổ. Họ gọi công chúa là Parijađe, tên của nhiều hoàng hậu, công chúa
trong vương quốc .
Khi hai hoàng tử đến tuổi, người quản lý khu vườn tìm thầy dạy
đọc và viết; công chúa có mặt ở những buổi học tỏ ra rất muốn đọc, viết tuy còn
ít tuổi hơn các anh. Người bố nuôi phấn khởi trước tình hình ấy cũng để ông thầy
đó dạy cho công chúa luôn. Được khuyến khích, cộng với sự nhanh nhẹn và thông
minh một thời gian sau công chúa cũng thành thạo như các anh.
Từ lúc đó ba anh em cùng học chung một thầy về mỹ thuật, địa
lý, thơ, lịch sử và các môn khoa học. Cả trong những môn khoa học bí ẩn, họ
cũng không thấy có gì khó khăn, mỗi lúc một thêm tiến bộ xuất sắc làm các thầy
dạy ngạc nhiên và rồi thú nhận thẳng thắn chẳng bao lâu học trò sẽ đi xa hơn thầy.
Trong những tiết nghỉ học công chúa chơi âm nhạc, tập hát và sử dụng nhiều loại
nhạc cụ; khi các hoàng tử học đi ngựa, công chúa không muốn thua kém các anh
cũng luyện tập với họ nên biết lên ngựa, dẫn dắt ngựa, bắn cung, ném lao cũng
giỏi như họ thậm chí thường vượt họ trong các cuộc đua.
Người quản lý vườn thượng uyển vô cùng vui sướng thấy những đứa
con nuôi hoàn hảo như thế về thể chất và tinh thần, xứng đáng với chi phí bỏ ra
trong việc nuôi dạy vượt xa kinh phí dự trù, thậm chí ông còn chi thêm một khoản
nữa rất lớn. Cho đến lúc đó, hài lòng với ngôi nhà đang ở ven khu vườn, ông
chưa có nhà nghỉ ở vùng thôn dã. Giờ đây ông mua một trang trại cách thành phố
không xa, có nhiều đất trồng trọt, đồng cỏ, rừng cây và thấy ngôi nhà không được
đẹp và đủ tiện nghi, ông không tiếc công cho xây dựng lại cho đẹp nhất trong
vùng. Hàng ngày ông tới đó đôn đốc một số đông thợ làm việc và khi xong một căn
phòng đủ ở, ông ở luôn đấy nhiều ngày những lúc công việc ở triều đình cho
phép. Ngôi nhà hoàn thành trong đó người ta trang trí nội thất với những đồ đạc
sang trọng nhất phù hợp với vẻ đẹp của ngôi nhà, ông cho bố trí khu vườn theo ý
mình như những ông chủ lớn ở Ba Tư thường làm. Ông xây dựng thêm một vườn cây rất
rộng bao tường cao thả vào đấy các loại thú rừng để các hoàng tử và công chúa
khi thích thì đi săn giải trí.
Khi trang trại đã hoàn chỉnh và ở được, người quản lý vườn
thượng uyển đến quỳ dưới chân nhà vua, trình bày đã phục vụ lâu năm, bây giờ
già yếu xin vua cho từ chức và lui về nhà. Vua rất hài lòng về quá trình phục vụ
của ông từ thời vua cha cho đến đời ngài trị vì vui lòng gia ân, và hỏi có thể
khen thưởng ông như thế nào. Người quản lý vườn thượng uyển trả lời:
- Thưa bệ hạ, thần đã nhận được đầy đủ ân đức của bệ hạ và của
vua cha đã khuất đến mức chỉ còn muốn chết trong vinh dự của những ân đức ấy.
Ông chào từ biệt vua Khosrouschah rồi về sống ở trang trại vừa
xây dựng cùng hai hoàng tử và công chúa; vợ ông đã mất cách đó vài năm. Nhưng rồi
người quản lý vườn thượng uyển cũng chỉ sống với họ thêm năm, sáu tháng nữa rồi
đột ngột qua đời, không có thì giờ nói một lời về nguồn gốc thật của họ, một việc
mà ông đã định làm, nó rất cần thiết để buộc họ sống như từ trước đến nay theo
tinh thần và điều kiện của họ, phù hợp với việc giáo dục và xu hướng ông đưa lại
cho họ.
Hoàng tử Bahman và Pervij, công chúa PariJade không biết người
cha nào khác ngoài người quản lý vườn thượng uyển, thương tiếc ông hết mức và
làm mọi nhiệm vụ an táng, phụng thờ ông với tình yêu và lòng biết ơn của những
người con đối với cha. Với tài sản lớn ông để lại, họ tiếp tục sống hoà hợp với
nhau như trước đây; các hoàng tử cũng không có tham vọng về triều tìm kiếm chức
tước và danh giá mà hai chàng dễ dàng đạt được.
Một hôm hai hoàng tử đi săn, công chúa Parijade ở nhà, một bà
Hồi giáo sùng đạo, rất già đến trước cổng xin vào nhà cầu kinh vì đã đến giờ.
Người hầu vào xin phép công chúa; nàng ra lệnh đưa bà vào, chỉ cho bà nhà nguyện
mà người quản lý vườn thượng uyển đã cẩn thận xây dựng bên cạnh nhà vì trong
vùng không có nhà thờ. Nàng cũng bảo khi bà già cầu nguyện xong nên đưa bà đi
xem cả ngôi nhà, vườn cây rồi dẫn đến gặp nàng.
Bà tín đồ Hồi giáo đi vào, đọc kinh ở nhà nguyện; khi xong,
hai người hầu gái đang chờ mời bà đi xem ngôi nhà và khu vườn. Thấy bà tỏ ra sẵn
sàng theo họ, hai người đưa bà hết qua phòng này lại đến phòng khác. Trong mỗi
phòng bà nhìn mọi thứ đồ đạc và lối bố trí phù hợp với từng nơi lòng đầy khâm
phục; họ lại đưa bà ra vườn. Bà thấy cảnh vật thật mới và hoà hợp, liền khen ngợi
rằng người bố trí khu vườn phải là bậc thầy về nghệ thuật. Cuối cùng bà được dẫn
đến gặp công chúa đang chờ ở phòng khách lớn, hơn hẳn các phòng khác về vẻ đẹp,
sạch sẽ và sang trọng.
Thấy bà già vào, công chúa nói:
- Mẹ phúc hậu, bà lại gần đây và ngồi bên cạnh tôi; tôi rất hạnh
phúc có dịp tranh thủ một lúc học tập tấm gương tốt và con đường thờ phụng Chúa
của một người như bà mà mọi người khôn ngoan đều phải noi theo.
Bà già thay vì lên ngồi trên ghế xô-pha, muốn ngồi ở dưới thềm
nhưng công chúa không chịu, đứng dậy đến nắm tay bà buộc đến ngồi cạnh nàng ở vị
trí danh dự. Bà già cảm động về phong cách lễ độ ấy.
- Thưa quý cô - Bà nói - Tôi không đáng được đối xử trân trọng
như thế, tôi vâng lời chỉ vì cô ra lệnh và cô là chủ trong gia đình.
Khi đã ngồi, trước khi trò chuyện: một trong những người hầu
nữ của công chúa đưa lại trước mặt bà và công chúa một chiếc bàn nhỏ, thấp bằng
gỗ mun khảm ngọc, bên trên là một chiếc đĩa sứ đầy bánh ngọt và nhiều bình hoa
quả trong mùa, mứt khô và nước uống.
Công chúa cầm một chiếc bánh đưa cho bà già, nói:
- Mẹ phúc hậu, bà ăn đi và chọn những quả cây bà thích. Bà cần
ăn uống sau khi đi đường đến tận đây.
- Thưa quý cô - Bà già nói - Tôi không quen ăn những thứ ngon
lành này nhưng tôi ăn để không từ chối những gì Chúa đưa đến cho tôi do bàn tay
hào hiệp của cô.
Trong lúc bà già ăn, công chúa cũng ăn một ít để khuyến khích
bà cùng ăn. Nàng hỏi bà về những biện pháp hành đạo của bà và cách sinh sống;
bà già trả lời rất khiêm tốn. Tữ chuyện này sang chuyện khác, nàng hỏi bà cảm
nghĩ về ngôi nhà và thấy có vừa ý không.
- Thưa quý cô - Bà già trả lời - Phải thật kém thẩm mỹ mới thấy
có gì đó phải thay đổi. Ngôi nhà rất đẹp, vui tươi trang trí nội thất hài hoà,
việc bố trí không thể làm gì hơn được. Về địa điểm, ngôi nhà ở trên khu đất
thoáng đãng và không thể hình dung có một cảnh vườn nhìn ngắm thích hơn khu vườn
trong đó. Tuy vậy nếu cô cho phép, tôi không giấu giếm được nói với cô, ngôi
nhà sẽ không so sánh được nếu được bổ sung vào ba điều đang thiếu.
- Thưa bà - Công chúa Parijade hỏi - Đó là ba điều gì? Nhờ bà
chỉ dẫn cho; nhân danh Chúa tôi đoán chắc với bà sẽ không tiếc nuối gì để tìm
cho được nếu có thể.
- Thưa quý cô, điều thứ nhất là con chim biết nói: đây là một
con chim đặc biệt tên là Bulbulhejar, còn có đặc tính lôi kéo những con chim
trong vùng đến cùng hót theo. Điều thứ hai là cây hay hát, lá cây là miệng tấu
lên một hợp âm với những giọng khác nhau không bao giờ ngừng. Cuối cùng thứ ba
là loại nước màu vàng nhỏ một giọt vào chiếc bể làm thêm vào một chỗ trong khu
vườn, lúc đầu nó làm đầy bể sau đó ở giữa bắn lên thành tia không ngớt vươn cao
và rơi lại xuống bể mà không tràn.
- Chà? Mẹ phúc hậu - Công chúa kêu lên- Tôi rất cám ơn bà đã
cho biết những điều ấy. Thật kỳ lạ, tôi chưa được nghe nói có vật gì trên đời lạ
lùng và đáng ca ngợi hơn. Tôi chắc bà biết chỗ có những vật đó, mong bà làm ơn
chỉ cho.
Để làm công chúa thoả mãn, bà già nói:
- Thưa quý cô, tôi sẽ không xứng đáng với lòng mến khách, tốt
như thế đối với tôi, nếu từ chối không thoả mãn yêu cầu của cô. Vậy tôi vinh dự
được nói, ba vật tôi vừa nói đó ở cùng một chỗ ở biên giới vương quốc về phía Ấn
độ. Con đường đến đấy đi qua trước nhà cô; người được cô cử đi chỉ việc theo
con đường đấy đi hai mươi ngày và ngày thứ hai mươi hỏi người gặp đầu tiên, con
chim biết nói, cây hát và nước vàng ở đâu, người ấy sẽ chỉ cho.
Nói xong bà già đứng dậy xin từ biệt và tiếp tục đi theo đường
mình.
Công chúa Parijade tâm trí bận về những lời chỉ dẫn của bà
già về ba vật kỳ lạ, chỉ nhận ra bà đã ra đi khi muốn hỏi rõ thêm. Nàng suy
nghĩ nếu chỉ nghe nói như vậy mà tiến hành một chuyến đi thì vô ích. Nàng không
muốn cho người chạy theo mời bà trở lại mà cố gắng nhớ lại những gì bà đã cho
biết. Khi thấy đã không quên điều gì, công chúa rất vui nếu có được những vật
tuyệt vời như vậy nhưng nàng đoán sẽ có rất nhiều những khó khăn, sợ không thể
có được chúng, nàng đắm mình trong lo âu.
ông chúa Parijade đang triền miên suy nghĩ thì các hoàng tử
anh đi săn trở về. Họ vào phòng khách thay vì thấy nàng vui vẻ, cởi mở như thường
lệ, họ ngạc nhiên trông thấy nàng đăm chiêu có vẻ buồn, không ngẩng đầu để ít
nhất cũng nhận ra có mặt họ.
Hoàng tử Bahman lên tiếng hỏi:
- Em gái, sự vui vẻ và tính hiếu động của em vốn có nay ở đâu
rồi? Em có bị ốm không? Có việc gì xảy ra chăng? Vì sao em buồn thế, nói cho
các anh biết đi. Các anh phải san sẻ hoặc chữa trị cho em, hoặc sẽ trả thù nếu
có kẻ nào xúc phạm đến một người đáng kính như em.
Công chúa ngồi một lúc không trả lời, đưa mắt nhìn các anh rồi
cúi xuống ngay sau khi nói không có gì.
- Em gái - Hoàng tử Bahnlan lại nói - Em giấu các anh sự thật.
Phải có điều gì đó thậm chí nghiêm trọng. Không thể trong một thời gian ngắn
các anh đi ra ngoài, có một sự thay đê lớn, bất ngờ như các anh đang nhận thấy ở
em mà lại không có chuyện gì. Các anh không thoả mãn về một câu trả lời như vậy.
Em đừng giấu các anh đó là việc gì nếu không muốn để các anh nghĩ rằng em chối
bỏ tình cảm thắm thiết và sự gắn bó vững chắc, không thay đổi giữa chúng ta từ
hồi còn bé bỏng cho đến ngày nay.
Công chúa còn lâu mới cắt đứt với các anh, không muốn để các
anh phải nghĩ như vậy, bèn nói:
- Khi em nói điều làm cho em phiền lòng không có gì là em nói
dối với các anh chứ không phải đối với em vì thấy có tầm quan trọng nào đó. Vì
các anh ép buộc em nhân danh tình thân và sự gắn bó giữa chúng ta vốn rất quý
báu đối với em, em sẽ nói với các anh đó là điều gì. Các anh chắc đã nghĩ, và
em cũng nghĩ như các anh, ngôi nhà người cha quá cố xây dựng cho chúng ta mọi mặt
đều hoàn hảo, không còn thiếu gì. Tuy thế hôm nay em được biết thiếu ba điều
làm cho mọi trang trại trên đời không so sánh nổi với nó. Đó là con chim biết
nói cây hay hát và giọt nước vàng - Sau khi giải thích tính ưu việt của ba vật
đó, nàng nói thêm: - Do một bà tín đồ Hồi giáo nhận xét với em điều đó, chỉ dẫn
chỗ có ba vật ấy và đường đi đến đấy. Có lẽ các anh thấy có thể bỏ qua chuyện ấy
đấy là những vật ít hiệu quả không cần thiết bổ sung vào mà ngôi nhà chúng ta vẫn
lả một nhà rất đẹp rồi . Các anh nghĩ thế nào tuỳ thích nhưng riêng em, em thấy
cần thiết và chỉ hài lòng khi có ba vật ấy ở chỗ chúng ta. Như vậy các anh có
quan tâm hay không cũng được nhưng mong hãy giúp em, xem em có nên cử người đi
tìm về không.
- Em gái - Hoàng tử Bahman lại nói - Không có gì em quan tâm
mà các anh không quan tâm. Chỉ cần em sốt sắng tìm cho được những vật em nói là
đã buộc các anh tham gia rồi. Các anh cũng cảm thấy cần hành động và được thoả
mãn, anh tin rằng em trai thứ hai cũng vậy và chúng ta cùng bắt tay chinh phục
lấy các thứ ấy như em nói. Tầm quan trọng và nét đặc biệt của việc này đáng được
gọi thế. Anh đảm nhiệm việc thực hiện, em chỉ cần nói cho anh con đường đi tới
đó và địa điểm, anh không lùi cuộc hành trình lại lâu quá ngày mai.
- Thưa anh - Hoàng tử Pervij nói - Anh là chủ gia đình và là
chỗ dựa, không nên vắng nhà lâu ngày. Chắc em gái sẽ đồng tình với em mong anh
từ bỏ ý định đó để em đi thì tất hơn. Em sẽ hoàn thành việc đó không kém anh và
mọi công việc sẽ đúng nề nếp hơn.
- Em trai - Hoàng tử Bahman nói - Anh tin chắc vào lòng tự
nguyện của em và em hoàn thành việe đó không kém anh nhưng vấn đề đã được quyết
định, anh muốn làm lấy và sẽ làm. Em ở nhà với em gái chúng ta, không cần bàn lại
nữa.
Chàng để thì giờ còn lại trong ngày chuẩn bị cho cuộc hành
trình và hỏi kỹ công chúa về những lời chỉ dẫn của bà tín đồ để khỏi lạc đường.
Hôm sau từ sáng sớm hoàng tử Bahman lên ngựa; hoàng tử Pervij
và công chúa Parijade ra tiễn, ôm hôn anh cả chúc đi đường gặp may mắn. Giữa
lúc chia tay, công chúa chợt nhớ ra một điều trước đó chưa nghĩ tới. Nàng nói:
- Thưa anh, em đã không nghĩ đến những rủi ro dọc đường, biết
đâu không được gặp lại anh bao giờ nữa? Anh xuống ngựa, đừng đi nữa. Thà em
không thấy và sở hữu con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng còn hơn anh gặp
nguy hiểm và mất anh.
- Em gái - Hoàng tử Bahman mỉm cười về mối lo sợ của công
chúa - Anh đã quyết định rồi và chưa lấy được những cái đó thì anh chưa thôi.
Những tai nạn em nói chỉ đến với những người bất hạnh. Đúng là anh có thể trong
số đó nhưng cũng có thể là một trong những người may mắn vốn rất nhiều so với
những người bất hạnh. Do những tình huống đều không chắc chắn và anh cũng có thể
ngã xuống trong việc làm, tất cả những gì anh có thể làm là để lại cho các em một
con dao, nó đây.
Hoàng tử rút ra một còn dao đưa cho công chúa và nói:
- Em giữ lấy, thỉnh thoảng rút ra khỏi vỏ xem, nếu thấy lưỡi
dao trong sáng như thường là dấu hiệu anh còn sống; nếu thấy có vết máu thì biết
là anh đã chết và cầu nguyện cho anh.
Công chúa Parijade không làm gì hơn được. Hoàng tử Bahman
trang bị đầy đủ từ biệt nàng và Pervij lần cuối và ra đi. Chàng không rẽ trái rẽ
phải, theo đúng con đường tiếp tục đi qua đất nước Ba Tư và ngày thứ hai mươi
chàng nhận thấy bên đường một ông già xấu xí ngồi dưới gốc cây tơ gần đấy là
căn nhà tranh ông vẫn để ẩn mình trong mưa nắng.
Đôi lông mày trắng như tuyết cũng như mái tóc, ria mép và bộ
râu, rủ dài xuống đến đầu mũi; ria mép phủ kín miệng, bộ râu và mái tóc rủ xuống
gần tận bàn chân. Móng tay móng chân dài quá thể, trên đầu là một chiếc mũ bằng
rất rộng theo hình lọng; quần áo chỉ là một chiếc chiếu bọc quanh người.
Ông già là một ẩn sĩ xa lánh cuộc đời, từ nhiều năm không
chăm sóc thân thể chỉ gắn bó với Chúa nên cuối cùng thành người như vậy.
Hoàng tử Bahman suốt buổi sáng đã chú ý quan sát để hỏi về chỗ
định đến, tới gần ông già thì dừng lại xem như người đầu tiên mình gặp, xuống
ngựa hỏi thăm như bà tín đồ đã dặn công chúa Parijade. Tay dắt ngựa tiến lại chỗ
ông già, chàng chào và hỏi:
- Bố phúc hậu, mong Chúa để bố kéo dài tuổi thọ và hoàn thành
mọi mong ước của mình!.
Ẩn sĩ trả lời chàng nhưng rất khó nghe nên chàng không hiểu một
chữ. Hoàng tử thấy cản trở đó do bố ria phủ kín miệng ông già, không muốn bỏ
qua lời chỉ dẫn cần thiết, cầm chiếc kéo đem theo và sau khi buộc ngựa vào một
cành cây, lại nói với ẩn sĩ:
- Thưa ẩn sĩ, tôi muốn nói chuyện với cụ nhưng bộ ria mép của
cụ làm tôi không nghe được lời. Xin cụ vui lòng để tôi làm, sửa sang râu tóc lại
cùng với bộ lông mày che hết mặt mũi làm cụ giống một con gấu hơn là người.
Ân sĩ không phản đối ý định của hoàng tử, để chàng cắt tỉa và
khi xong, chàng thấy khuôn mặt ông già sáng sủa trẻ hơn rất nhiều so vội tuổi
bèn nói:
- Ân sĩ phúc hậu, nếu tôi có chiếc gương tôi sẽ đưa để cụ xem
đã trẻ lại bao nhiêu; bây giờ cụ là một con người mà trước đây người ta không
nhận ra được.
Lời vuốt ve của hoàng tử Bahman làm ông già mỉm cườì khen:
- Tên ông, dù ông là ai, tôi biết ơn ông về việc tốt ông vừa
làm cho tôi; tôi sẵn sàng tỏ lòng biết ơn đối với ông về mọi việc theo sức
mình. Ông từ xa đến chắc có việc cần thiết, hãy cho tôi biết đó là việc gì, nếu
có thể tôi cố gắng làm ông hài lòng.
- Thưa ẩn sĩ phúc hậu - Hoàng tử Bahman nói – Tôi từ xa đến,
đi tìm con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng. Tôi biết ba vật ấy ở trong
vùng này nhưng không biết chỗ cụ thể. Nếu cụ biết xin cụ chỉ đường cho tôi để
tôi không lấy nhầm và mất công làm một cuộc hành trình từ xa.
Trong lúc ,nói thế, hoàng tử nhận thấy nét mặt ẩn sĩ thay đổi,
cúi mặt xuống, vẻ nghiêm trang và đứng yên không trả lời. Điều đó buộc hoàng tử
nói tiếp:
Bố phúc hậu, hình như cụ đã nghe rồi: nhờ cụ nói cho có biết
điều tôi đề nghị hay không để khỏi mất thì giờ và tôi đi hỏi chỗ khác.
Cuối cùng ẩn sĩ không nín lặng nữa:
- Tôn ông, tôi biết con đường ông hỏi nhưng tình cảm từ khi gặp
ông, càng tăng thêm khi ông giúp tôi sửa sang râu tóc làm tôi ngập ngừng không
biết có nên thoả mãn yêu cầu của ông không.
- Lý do gì ngăn cản cụ và những khó khăn gì tôi sẽ gặp phải vậy?
- Tôi nói đây. Mối nguy hiểm ông đương đầu lớn hơn ông nghĩ
nhiều. Rất nhiều tôn ông không kém dũng cảm và táo bạo đã đi qua đây và cũng hỏi
tôi điều ấy. Sau khi dùng mọi cách để họ quay lại nhưng họ không tin, tôi phải
chỉ đường cho họ vì họ nài nỉ, tôi đảm bảo với ông họ đều thất bại và không thấy
một ai trở về. Nếu ông còn yêu cuộc sống một ít và nghe lời tôi khuyên thì ông
nên quay lại nhà đi.
Hoàng tử cố giữ ý định của mình, nói với ẩn sĩ:
- Tôi tin vào lời khuyên rất thành thật của cụ và xin cám ơn
về tình cảm của cụ đối với tôi. Nhưng dù nguy hiểm đến mức nào cũng không làm
tôi thay đổi ý định. Nếu có ai đó tấn công tôi, tôi có vũ khí tốt và kẻ đó sẽ
không hăng hái, dũng cảm hơn tôi đâu.
- Nếu những kẻ tấn công ông - Ẩn sĩ chỉ rõ- không xuất hiện
(vì họ rất nhiều), ông làm sao chống cự lại những kẻ vô hình?
- Bất kể cụ nói thế nào, cụ không làm tôi từ bỏ nhiệm vụ của
tôi được. Cụ đã biết đường, một lần nữa xin cụ chỉ dẫn cho, đừng từ chối gia ân
cho tôi việc ấy.
Ẩn sĩ thấy không thể thuyết phục tinh thần của hoàng tử
Bahman và chàng vẫn kiên quyết hoàn thành cuộc hành trình mặc dù đã được nghe
những lời khuyên cứu mạng, ông đưa tay vào chiếc túi bên cạnh mình lấy ra một
viên tròn đưa cho chàng:
- Ông đã không nghe và tranh thủ những lời khuyên của tôi, vậy
ông hãy cầm lấy viên này, khi lên ngựa thì quăng ra phía trước và theo nó đến
chân một quả núi. Khi nó dừng lại đó, ông xuống ngựa để nguyên dây cương trên cổ
ngựa, nó sẽ đứng yên chờ ông trở lại. Lên núi ông thấy bên phải, trái rất nhiều
tảng đá màu đen và nghe lẫn lộn nhiều giọng chửi rủa để ông ngã lòng, làm sao để
ông không lên cao được. Nhưng ông đừng sợ và nhất là không được ngoảnh nhìn lại
phía sau, ông sẽ bị biến ngay thành một tảng đá đen giống như những tảng đá ông
thấy, những tảng đá đó vốn là những tôn ông đã thất bại như tôi nói. Nếu ông
tránh được mối nguy hiểm lớn tôi tả đó và lên đến đỉnh núi, ông sẽ thấy một cái
lồng trong đó là con chim ông tìm. Vì nó biết nói, ông hỏi nó cây hay nói và nước
vàng ở đâu, nó sẽ chỉ cho. Tôi không dặn gì hơn nữa, đấy là điều ông phải làm
và phải né tránh. Nhưng nếu ông tin tôi, theo lời tôi đã khuyên thì không nên dấn
thân vào nguy hiểm. Một lần nữa trong lúc còn thì giờ suy nghĩ, ông hãy xem sự
mất mát không sửa chữa được ấy gắn liền với điều kiện người ta có thể vi phạm
dù không chấp nhận được như ông hiểu.
- Về lời khuyên của cụ vừa nhắc lại mà tôi rất biết ơn -
Hoàng tử Bahman nói sau khi nhận viên tròn cụ đưa - Tôi không nghe theo được
nhưng tôi cố gắng làm đúng lời dặn của cụ, không ngoảnh lại nhìn phía sau khi
bước lên núi và hy vọng cụ sẽ thấy tôi trở lại mang theo những vật mình tìm kiếm
và cám ơn cụ rất nhiều.
Nói xong và sau lời chúc của ẩn sĩ, chàng nhảy lên ngựa cúi
chào từ biệt và ném viền tròn ra phía trước.
Viên tròn lăn đi, tiếp tục lăn với tốc độ gần như lúc chàng
ném, buộc ngựa phải phi nhanh theo để khỏi mất hút. Chàng theo mãi, đến khi nó
dừng lại ở chân núi, chàng xuống ngựa bỏ dây cương lên cổ ngựa đang đứng nguyên
tại chỗ. Khi nhận ra ngọn núi và thấy những tảng đá đen, chàng bắt đầu leo lên,
chưa đầy bốn bước thì những giọng nói vang lên mà không thấy người. Có những tiếng
nói: Tên điên khùng kia đi đâu? Nó lên làm gì? Nó muốn gì? Không cho nó đi qua!
. Những tiếng khác: Bắt nó lại, túm lấy nó, giết nó đi! . Có những giọng khác
vang lên như sấm: Có kẻ trộm! Kẻ ám sát? Giết người? . Ngược lại có những giọng
chế giễu: Không, đừng làm hại nó, để cho cậu bé xinh xắn đi qua; thực ra người
ta giữ chiếc lồng và con chim cho nó! .
Dù nghe những tiếng nói quấy rầy, hoàng tử Bahman vẫn cố đi
lên được một đoạn, quyết tâm và vững vàng tự kiềm chế mình nhưng những giọng
nói tăng lên gấp bội, tiếng ồn ào lớn và ngay bên cạnh chàng cả trước cả sau
làm chàng bỗng sợ hãi. Chân tay bắt đầu run, chàng lảo đảo, cảm thấy đuối sức
và quên hẳn lời dặn của ẩn sĩ; chàng quay lại để đi xuống và ngay lúc ấy biến
thành một tảng đá đen, đó chính là sự biến dạng của bao nhiêu người trước chàng
muốn đi tìm những vật như chàng; con ngựa cũng cùng chung số phận.
Từ lúc hoàng tử Bahman ra đi, công chúa Parijade vẫn giắt con
dao ở thắt lưng để biết anh mình sống hay chết, mỗi ngày rút ra xem nhiều lần.
Như vậy nàng yên tâm được biết anh đang mạnh khoẻ và thường trao đổi tình hình
với hoàng tử Pervij.
Lần cuối cùng trong cái ngày thê thảm mà hoàng tử Bahman vừa
biến thành đá, hoàng tử Pervlj và công chúa theo thường lệ vẫn nói về chàng vào
buổi tối:
- Em gái này - Hoàng tử Pervlj bảo - Em rút lưỡi dao ra xem
tin tức của anh cả ra sao.
Công chúa rút dao, nhìn vào họ thấy có máu chảy ở đầu lưỡi Hoảng
hốt, công chúa ném dao đi kêu lên:
- Ôi? Anh thân mến, thế là em mất anh rồi, do lỗi của em mà
không bao giờ chúng em thấy lại anh nữa! Ta thật khốn khổ? Tại sao em lại nói với
anh về con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng? Đúng ra thì mặc bà già tín
đồ thấy ngôi nhà đẹp hay xấu, hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh? Ích kỷ, lừa đảo,
bà trả ơn sự tiếp đón của ta như thế đấy! Vì sao bà nói với ta về ba vật kỳ lạ ấy,
tất cả chỉ là ảo tưởng qua cái chết khốn khổ của người anh thân yêu làm tinh thần
ta không ngớt rối loạn!
Hoàng tử Pervij cũng không kém đau buồn về cái chết của người
anh như công chúa Parijade nhưng không mất thì giờ thương tiếc vô ích, biết rằng
em gái vẫn say mê con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng, chàng can thiệp:
- Em gái, chúng ta thương tiếc anh Bahman của chúng ta cũng
vô ích: những than phiền, đau đớn của chúng ta không trả lại cuộc sống cho anh ấy
được. Đấy là ý muốn của Chúa, chúng ta đành phục tùng ý Chúa mà không đi sâu.
vào làm gì. Tại sao bây giờ em lại nghi ngờ lời của bà tín đồ sau khi đã chắc
chắn cho là có thật? Phải chăng em nghĩ bà ấy bịa ra để lừa bịp em khi mà em
không nêu lên vấn đề và tiếp đón bà trung thực và tốt như vậy? Chúng ta hãy
nghĩ anh cả chết do lỗi của anh ấy hoặc vì tai nạn gì chúng ta không hình dung
được. Vì thế cái chết của anh cả không cản trở chúng ta tiếp tục theo đuổi cuộc
tìm kiếm: anh sẽ tự đi thay thế anh ấy; anh cũng bố trí đúng thế và theo gương
anh cả, ý anh không thay đổi và ngày mai anh sẽ lên đường.
Công chúa làm mọi cách để thuyết phục anh đừng đi, bảo rằng.
không nên liều mình vào nơi nguy hiểm vì có thể sẽ mất cả hai người anh, nhưng
chàng vẫn không lay chuyển. Trước khi ra đi, để em gái biết kết quả về cuộc
hành trình như nàng đã theo dõi chuyến đi của anh cả qua con dao để lại, chàng
đưa cho em chuỗi hạt ngọc một trăm viên và dặn:
- Em dựa vào chuỗi ngọc để biết tình hình lúc anh đi vắng, nếu
những viên ngọc như dính với nhau nghĩa là em không xoay chúng được hoặc không
chảy nối tiếp nhau thì đó là dấu hiệu anh đã cùng số phận với anh cả. Nhưng
chúng ta hy vọng sẽ không xảy ra điều đó và anh may mắn được gặp lại em, thoả
mãn về điều chúng ta mong đợi.
Hoàng tử Pervij ra đi, ngày thứ hai mươi gặp cùng ẩn sĩ ấy ở
chỗ hoàng tử Bahman đã gặp. Chàng lại gần chào hỏi và đề nghị chỉ dẫn nơi có
con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng. Ân sĩ cũng nêu lên những khó khăn
và khuyên răn như đã làm với hoàng tử Bahman, nói cả việc mới đây thôi có một kỵ
sĩ trẻ có nhiều nét giống chàng cũng hỏi con đường với mục đích ấy. Do chàng
kia nài ép, ông đã chỉ đường, cho phương tiện dẫn đường, dặn những gì cần chú ý
để thành công nhưng rồi không thấy trở lại, chắc đã chung số phận với những người
đi trước.
- Thưa ẩn sĩ - Hoàng tử Pervij nói - Tôi biết người cụ nói
đó: đấy là anh cả tôi và tôi được tin chính xác anh ấy đã chết nhưng không biết
chết vì gì.
- Tôi có thể nói với ông - Ân sĩ đáp: - Ông ấy biến thành tảng
đá đen như những người tôi vừa nói; ông cũng đề phòng về sự biến dạng ấy nếu
không giữ thật đúng những lời tôi dặn. Ông nên từ bỏ ý muốn ấy đi, tôi khuyên
ông một lần nữa.
- Thưa ẩn sĩ, tôi không đủ lời nói lên lòng biết ơn đối với cụ
đã có chú ý bảo vệ cuộc sống cho tôi tuy tôi là người không quen biết và chưa
làm gì xứng đáng với thái độ quý hoá đó. Nhưng xin nói trước khi quyết định tôi
đã suy nghĩ kỹ và không thể từ bỏ được. Tôi xin cụ chỉ dẫn cho như đã chỉ dẫn
anh tôi, có lẽ tôi sẽ vâng theo tốt hơn.
Vì không thuyết phục được ông, tôi tuổi đã cao không đứng vững
được, tôi cho ông viên này làm người dẫn đường cho ông.
Không để ẩn sĩ nói thêm, hoàng tử Pervij xuống ngựa lại gần ông
già; ông già vừa rút một viên trong túi còn rất nhiều viên, đưa cho chàng bảo
cách sử dụng và sau khi dặn kỹ đừng sợ những tiếng nói không thấy người dù đe
doạ đến mấy và lên đến chỗ có chiếc lồng và con chim.
Hoàng tử Pervij cám ơn ẩn sĩ, nhảy lên ngựa ném viên tròn lên
phía trước và thúc ngựa đuổi theo. Đến chân núi thấy viên ấy dừng lại, chàng xuống
ngựa. Trước khi bước lên, chàng đứng tại chỗ nhớ lại những lời dặn của ẩn sĩ lấy
can đảm trèo lên núi, quyết tâm lên đến đỉnh. Vừa lên năm, sáu bước chàng nghe
phía sau có tiếng quát rất gần gọi lại và chửi:
- Chờ đã, thằng táo tợn, ta sẽ trừng phạt mày, to gan.
Bị lăng nhục, hoàng tử Pervij quên hết lời dặn của ẩn sĩ, đưa
tay rút gươm quay người lại trả thù nhưng vừa kịp thấy chẳng có ai theo mình
chàng đã bị hoá đá, cả người và ngựa.
Chương 43:
Hai người chị ghen tỵ và cô em út (tiếp theo)
Từ khi hoàng tử Pervij lên
đường, công chúa Parijade hàng ngày cầm chuỗi ngọc lẩm nhẩm lần từng viên ngọc
những lúc không có việc. Suốt thời gian ấy ban đêm nàng vòng chuỗi ngọc quanh cổ,
sáng thức dậy tay lần xem những viên ngọc có lăn nối tiếp nhau không. Một hôm,
vào lúc hoàng tử Pervij cùng chung số phận như hoàng tử Bahman, bị biến thành
đá, nàng đang cầm chuỗi ngọc và lẩm nhẩm nói bỗng cảm thấy những viên ngọc
không lăn theo ngón tay mình, nàng chắc chắn đấy là dấu hiệu anh đã chết. Đã
quyết định phải làm gì nếu tai hoạ xảy ra, nàng không để thì giờ thở than khóc
lóc. Cố trấn tĩnh và ngay sáng hôm sau, cải trang thành đàn ông, trang bị vũ
khí đầy đủ, dặn người nhà đi ít ngày sẽ trở về, nàng lên ngựa ra đi theo con đường
của hai người anh.
Công chúa Parijade vốn quen
cưỡi ngựa đi săn giải trí, chịu đựng mệt nhọc đường trường hơn những phụ nữ
khác. Cũng đi nhiều ngày như hai anh, đến ngày thứ hai mươi nàng cũng gặp ông
già ẩn sĩ như họ. Lại gần, nàng xuống ngựa, dây cương cầm tay, nàng đến ngồi gần
ông chào và nói:
- Ẩn sĩ phúc hậu, cho phép
tôi ngồi nghỉ một lúc gần cụ và làm ơn cho biết cụ có nghe nói đâu đó trong
vùng này có một nơi tìm được con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng không ạ?
Ẩn sĩ trả lời:
- Quý cô, nghe giọng nói tôi
biết là,của phụ nữ tuy cô đã cải trang thành đàn ông; tôi cám ơn cô về lời chào
mừng và rất vui lòng có vinh dự được gặp cô. Tôi biết chỗ có những vật cô nói
nhưng cô hỏi với ý định gì?
Thưa ẩn sĩ, người ta kể cho
tôi một chuyện rất hay khiến tôi nóng lòng muốn sở hữu những vật ấy.
- Thưa cô, người ta nói đúng
đấy, những vật ấy còn kỳ lạ đặc biệt hơn những gì người ta giới thiệu nhưng giấu
cô những khó khăn phải vượt qua để có nó. Cô sẽ không dấn thân vào một việc vất
vả và nguy hiểm như vậy nếu người ta nói rõ hết với cô. Cô hãy tin tôi, đừng tiến
lên nữa, cô trở về đi để tôi khỏi phải góp phần vào sự thiệt hại của cô.
- Bố phúc hậu - Công chúa
đáp - Tôi đến từ xa và sẽ bực bội vì không thực hiện được ý định của mình. Cụ
nói những khó khăn và nguy cơ mất mạng nhưng không nói đó là những khó khăn gì
và nguy cơ ra sao; tôi muốn biết để cân nhắc, có thể tin tưởng vào quyết định,
lòng can đảm và sức lực của mình không, nên giữ hay nên bỏ.
Ãn sĩ bèn nhắc lại với công
chúa những lời đã nói với hai hoàng tử, nói quá lên những khó khăn leo lên núi
chỗ có lồng chim? phải làm chủ được con chim, nó sẽ cho biết chỗ có cây hay hát
và nước vàng; tiếng ồn và âm vang những giọng nói đe doạ và đáng sợ nghe khắp
quanh mình mà không thấy người; cuối cùng là số lượng những tảng đá đen gây khiếp
sợ cho cô và bất cứ ai khi biết rằng đấy là những ky sĩ dũng cảm bị biến dạng
do không giữ vững điều kiện chủ yếu là không được ngoảnh lại phía sau trước khi
nắm chiếc lồng chim.
Khi ẩn sĩ nói xong, công
chúa kết luận:
- Theo tôi hiểu khó khăn lớn
nhất để thành công trong việc này là thứ nhất: leo núi lên đến chỗ có lồng chim
mà không hoảng hốt về âm vang những giọng nói nghe không thấy người và thứ hai,
không được ngoảnh lại nhìn phía sau mình. Về điều kiện sau này, tôi hy vọng khá
tự chủ để giữ đúng. Còn điều thứ nhất, tôi thú nhận những giọng nói như cụ kể,
có thể làm kinh hoàng những người vững vàng nhất. Nhưng như trong mọi việc làm
có hậu quả lớn và nguy hiểm, người ta không cấm dùng thủ thuật, xin hỏi cụ tôi
có thể dùng trong việc làm này vốn rất quan trọng đối với tôi không?
- Cô định dùng thủ thuật gì
- Ấn sĩ hỏi.
- Tôi thấy nếu dùng bông nút
chặt tai lại thì dù giọng nói to và đáng sợ đến mấy, tôi cũng cảm nhận bớt đi rất
nhiều, sẽ kém tác động và trí óc tôi vẫn giữ được bình tĩnh, không đến nỗi bối
rối mất cả lý trí.
- Thưa cô, cho đến nay tất cả
những người hỏi đường như cô, tôi không biết đã có ai dùng thủ thuật ấy chưa.
Điều tôi thấy là, không một ai đề nghị dùng cách đó và tất cả đều bị chết. Nếu
cô quyết tâm theo ý định của mình, cô cứ thử xem: may ra cô thành công; tuy thế
tôi không khuyên cô nên dấn thân vào.
- Bố phúc hậu, tôi quyết tâm
vô cùng. Lòng tôi nói với tôi thủ thuật ấy sẽ thành công và tôi quyết định dùng
nó. Như vậy chỉ còn hỏi cụ tôi phải đi con đường nào, xin cụ làm ơn đừng từ chối.
Ẩn sĩ một lần khuyến khích
nàng suy nghĩ kỹ lại, thấy không lay chuyển được lòng quyết tâm, rút một viên
tròn ra đưa cho nàng:
- Cô cầm lấy viên này - ông
nói - lên ngựa ném ra phía trước, đi theo nó vòng vòng qua mọi nẻo đường cho đến
chân núi cô tìm và dừng lại khi nó dừng; cô xuống ngựa và leo lên núi. Cô đi
đi, đừng quên những lời tôi dặn.
Công chúa Parijade cảm ơn ẩn
sĩ, chào từ biệt rồi lên ngựa, ném viên tròn ra phía trước mặt lăn đi, thúc ngựa
chạy theo cho đến khi nó dừng lại ở chân núi:
Nàng xuống ngựa, lấy bông
nút chặt lỗ tai, nhìn kỹ đường rồi bắt đầu dũng cảm bước lên núi. Nàng nghe những
tiếng la hét, nhận thấy bông là một cứu cánh rất tác dụng. Càng đi lên những giọng
nói càng tăng, càng mạnh nhưng không làm nàng có cảm giác rối trí. Nghe nhiều
loại chửi rủa, chế diễu giới tính nhưng nàng khinh thường, chỉ cười. Nàng tự nhủ:
Ta chẳng bị xúc phạm vì những lời chửi rủa, hay chế giễu; các người cứ nói tệ hại
nữa ta cũng không cần và không ngăn cản được ta tiếp tục đi lên . Cuối cùng lên
trên cao, nàng nhận thấy lồng và con chim, cùng hoà theo những giọng nói, cố
làm nàng bối rối bằng giọng oang oang tuy người bé: Rút lui đi, không được lại
gần đây :
Công chúa phấn khích trước vật
đó, bước nhanh hơn khi thấy gần tới mục đích; nàng lên tới đỉnh núi, đất bằng,
chạy thẳng đến chiếc lồng nắm lấy nói với con chim:
- Chim ơi, không muốn ta
cũng bắt; mày không thoát khỏi đâu.
Trong lúc Parijade lấy bông ở
tai ra, con chim nói:
- Cô gái dũng cảm, đừng giận
tôi vì phụ hoạ với những giọng nói cố bảo vệ tự do cho tôi. Tuy bị nhốt trong lồng,
tôi vẫn luôn bằng lòng về số phận mình; nhưng do phải làm nô lệ tôi mong có
nàng là chủ, người đã nắm được tôi một cách can đảm, xứng đáng hơn tất cả mọi
người khác trên đời. Từ nay tôi thề trung thành tuyệt đối với nàng, hoàn toàn
vâng theo lệnh nàng. Tôi biết nàng là ai, tôi sẽ nói cho nàng biết nàng là ai
mà chính nàng cũng không biết xuất thân của mình; một ngày nào đó tôi sẽ giúp
nàng một việc hy vọng nàng sẽ rất biết ơn. Để bắt đầu chứng tỏ sự thành thật của
tôi xin nàng cho biết nàng mong mụốn điều gì, tôi sẵn sàng vâng lệnh.
Công chúa vui sướng không tả
hết về việc chinh phục trả giá bằng mạng sống của hai anh và bản thân phải mệt
nhọc, vượt qua mối nguy lớn, nói với chim:
- Chim ơi, ta định nói với
chim ta muốn nhiều điều rất quan trọng, rất phấn khởi thấy chim tỏ ra sẵn sàng.
Việc đầu tiên nghe nói ở đây có loại nước vàng đặc tính tuyệt vời, ta muốn chim
chỉ cho ta trước đã.
Con chim chỉ chỗ cũng gần đấy
nàng đến múc đầy một chiếc bình bạc mang theo. Trở lại nàng hỏi chim:
- Chim ơi, không chỉ thế, ta
tìm cây hay hát, cây ấy ở đâu?
- Nàng quay lạỉ, thấy một
khu rừng phía sau có cây ấy.
Khu rừng không xa, công chúa
đến đấy và giữa nhiều cây cối nàng nghe có hoà âm du dương làm nàng nhận ra cây
mình tìm nhưng rất to, cao. Nàng trở lại hỏi chim:
- Chim ơi, ta đã tìm thấy
cây hay hát nhưng không thể nhổ bật gốc hay mang đi được.
- Không cần nhổ bật gốc -
Chim lại nói- Nàng chỉ cần lấy một nhánh nhỏ đưa về trồng trong vườn; nó sẽ bén
rễ vào đất và ít lâu sau nàng sẽ thấy nó trở thành một cây lớn như vừa thấy.
Khi đã có trong tay ba vật
quí mà bà tín đồ Hồi giáo làm nàng khát khao, nàng nói với chim:
- Chim ơi, những gì chim vừa
giúp ta không đủ. Chim là nguyên nhân cái chết của hai anh ta đã biến thành đá
đen trong số ta thấy khi lên đây. Ta muốn đưa họ cùng về.
Có vẻ chim muốn công chúa miễn
cho điều này vì thực ra làm được việc đó cũng khá khó khăn. Công chúa nài nỉ:
- Chim à, chim nhớ đã nói là
nô lệ của ta, chim đã làm đúng thế và cuộc sống thuộc về ta rồi.
- Tôi không phủ nhận điều đó
- Chim nói- Việc nàng đòi hỏi khó khăn hơn nhiều so với những việc khác, nhưng
tôi cố gắng làm nàng vui lòng. Nàng nhìn quanh đây xem có một chiếc binh nào
không.
- Ta thấy có đấy - Công chúa
trả lời.
- Nàng cầm lấy và khi xuống
núi rỏ một ít nước trong bình lên mỗi tảng đá đen; đó là cách tìm lại những người
anh của nàng.
Công chúa Parljade cầm lấy
bình và mang theo lồng chim, lọ nước, cành cây, vừa đi xuống vừa rỏ nước trong
bình lên mỗi tảng đá đen trên đường và những tảng đá ấy ngay sau đó biến thành
người. Nàng không bỏ sót tảng đá nào, tất cả những con ngựa của các hoàng tử
anh cũng như của những người khác đều xuất hiện trở lại. Như vậy nàng nhận ra
các hoàng tử Bahman và Pervij; họ cũng nhận ra nàng, chạy lại ôm hôn em gái. Vừa
ôm hôn họ nàng vừa tỏ ra ngạc nhiên:
- Các anh thân yêu, các anh
làm gì ở đây vậy?
Nghe họ trả lời vừa ngủ một
giấc, nàng lại nói:
- Vâng, nhưng không có em,
giấc ngủ của các anh còn kéo dài và có lẽ đến mãi ngày tận thế. Các anh không
nhớ đã đến đây tìm con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng, đã thấy những tảng
đá đen rải rác chỗ này ư? Các anh nghĩ xem có còn lại tảng nào không? Các người
xung quanh ta và các anh đã là những tảng đá ấy, cả những con ngựa đang chờ các
anh nữa. Các anh muốn phép lạ ấy xảy ra như thế nào thì đây vừa tiếp tục nói
nàng vừa chỉ chiếc bình nàng đã đặt xuống ở chân núi - nhờ nước trong bình này
em đã rỏ xuống từng tảng đá. Sau khi đã làm chủ con chim biết nói trong lồng
này, nhờ nó bảo em đã tìm được cây hay hát lấy một cành và nước vàng em lấy vào
chiếc lọ, em không muốn trở về mà không có các anh đi cùng, em buộc nó phải làm
cách nào, nó chỉ cho lấy chiếc bình nước và làm ra sao.
Các hoàng tử Bahman và Pervij
nghe rõ, biết mình vừa chịu ơn công chúa em gái; những người vây quanh họ cũng
tỏ lòng biết ơn, thay vì ganh tị việc chinh phục họ đã muốn làm, chỉ có thể đội
ơn cứu sống mình, tự nguyện là những nô lệ của nàng, sẵn sàng làm những việc
nàng ra lệnh cho họ.
- Thưa các ông - Công chúa
nói - Nếu đã nghe tôi nói các ông hẳn nhận thấy tôi không có ý gì khác là làm
như thế để tìm lại các anh mình; nếu là một việc tốt cho các ông thì cũng không
phải cảm ơn tôi. Tổi xem mỗi người các ông là những người tự do như trước khi gặp
không may và tôi chung vui với các ông về hạnh phúc trở lại làm người nhân dịp
này. Chúng ta cũng chẳng nên ở lại một nơi không còn gì giữ chúng ta lâu hơn nữa:
hãy lên ngựa và mỗi chúng ta trở về nơi ta đã đi.
Công chúa Parijade đi trước
lại chỗ nàng để con ngựa đứng chờ. Trước khi nàng lên ngựa, hoàng tử Bahman muốn
đỡ cho em, đề nghị nàng đưa lồng chim để chàng cầm cho. Công chúa nói:
- Thưa anh, con chim là nô lệ
của em, em muốn tự minh giữ nó; nếu muốn anh giũ cho cành cây và anh Pervij anh
phụ trách cho lọ nước vàng.
Khi hoàng tử Bahman, Peryij
và tất cả những người khác đã lên ngựa, công chúa chờ để một người trong bọn họ
đi trước dẫn đầu. Hai Hoàng tử lịch sự muốn nhường cho những người kia và những
người kia muốn nhường vinh dự cho công chúa.
- Thưa các ông, tôi không xứng
đáng được vinh dự ấy nhưng tôi chấp nhận vì các ông muốn thế - Nàng phi ngựa
lên trước rồi hai hoàng tử và tất cả mọi người cùng đi theo.
Đoàn người muốn gặp ẩn sĩ
lúc đi qua để cám ơn sự tiếp đón và những chỉ dẫn thành tâm nhưng ông đã chết,
người ta không rõ vì ông đã già yếu hay vì không cần thiết phải chỉ đường lên
chinh phục ba vật quí hiếm nữa.
Vậy là đoàn tiếp tục đi
nhưng mỗi ngày một ít dần. Những quí ông đến từ những nước khác nhau, lần lượt
nhắc lại lời cảm ơn được trở lại cuộc sống, từ biệt công chúa và các anh nàng
khi gặp con đường về địa phương mình. Công chúa và hai hoàng tử theo đường mình
về đến tận nhà.
Trước hết công chúa để lồng
chim trong vườn, bên cạnh phòng khách; khi con chim hót lên những hoạ mi, mai
tước, chiền chiện, chim chích, hồng tước và vô vàn các loại chim khác trong nước
kéo đến cùng hót theo. Về cành cây nàng cho trồng ở một chỗ không xa ngôi nhà lắm;
cành đâm rễ và chẳng bao lâu trở thành một cây to, cành lá reo vui một hợp âm
như ở cây nàng lấy cành. Lọ nước vàng, nàng cho xây giữa vườn một bể lớn đá hoa
cương, khi xong nàng đổ cả lọ vào đấy. Nước phồng lên tăng nhanh khối lượng và
khi lên đến gần mép bể, nó phun ở giữa thành dòng lên cao hai mươi bộ, rơi xuống
lại, cứ thế tiếp tục mà nước không tràn.
Tin về những kỳ quan ấy lan
khắp vùng, cổng ngôi nhà cũng như cổng vườn không đóng lại với ai chẳng bao lâu
nhân dân những vùng quanh đấy đổ xô đến ngắm xem rất đông.
Sau mấy ngày lại sức, hai
hoàng tử Baliman và Pervij trở lại cuộc sống bình thường; đi săn là thú vui
quen thuộc. Lần đầu từ khi về họ lên ngựa cùng đi, không phải trong rừng nhà
mình mà cách đó hai, ba dặm. Trong lúc họ săn, vua Ba Tư bất chợt cũng đến săn
cùng chỗ. Khi họ thấy nhà vua sẽ đến qua số đông kỵ sĩ xuất hiện nhiều nơi, họ
ngừng săn bắn, rút lui để khỏi gặp nhau nhưng không ngờ lại đúng theo con đường
nhà vua đến, trong một chỗ chật hẹp không quay đi hoặc lùi lại mà không bị bắt
gặp. Kinh ngạc họ chỉ còn biết xuống ngựa, quỳ xuống trước mặt nhà vua, trán đập
xuống đất không ngẩng đầu lên nhìn. Vua thấy họ ăn mặc, nai nịt gọn gàng sạch sẽ
như đã ở trong triều, tò mò muốn xem mặt bèn dừng lại, lệnh cho họ đứng dậy.
Hai hoàng tử đứng dậy trước
mặt vua thái độ thoải mái tuy có vẻ khiêm tốn, lễ phép. Vua im lặng nhìn họ một
lúc từ đầu đến chân sau khi ngắm phong thái và khuôn mặt dễ mến của họ, ngài hỏi
họ là ai và ở đâu.
Hoàng tử Bahman trả lời:
- Thưa bệ hạ, chúng thần là
con trai viên quản lý khu vườn thượng uyển đã mất, ở trong một trang trại ông
cho xây dựng trước khi chết để chúng thần ở trong lúc chờ đợi đến tuổi phục vụ
bệ hạ và đến xin Người công việc khi gặp điều kiện.
- Theo ta thấy, các anh thích
đi săn?
- Thưa bệ hạ, đấy là việc tập
dượt bình thường của chúng thần mà bất cứ ai chuẩn bị nhập vào quân ngũ của bệ
hạ cũng không lơ là theo truyền thống cũ của vương quốc .
Vua rất thích thú vì câu trả
lời khôn ngoan, nói với họ:
- Nếu thế ta rất vui lòng thấy
các ngươi đi săn. Các ngươi cùng đi với ta, chọn săn bắn gì tuỳ thích.
Các hoàng tử lại lên ngựa đi
theo nhà vua; chưa đi xa thì thấy xuất hiện nhiều loại thú. Hoàng tử Bahman chọn
một con sư tử, hoàng tử Pervij chọn con gấu, đuổi theo thật dũng cảm làm vua ngạc
nhiên. Hầu như cùng một lúc tới gần con mồi, họ phóng lao khôn khéo xuyên hẳn
con sư tử và con gấu một lúc con nào cũng ngã xuống. Không dừng lại hoàng tử
Bahman đuổi theo một con gấu khác, hoàng tử Pervij một con sư tử, chẳng mấy chốc
họ đâm chết hai con vật. Họ muốn tiếp tục nhưng vua không cho phép cho gọi họ lại
và bảo:
- Nếu ta để các anh tiếp tục,
các anh sẽ tiêu diệt hết những con thú của ta. Không phải ta cần phải dành lại
cho cuộc săn bắn của ta đến thế mà muốn bảo vệ cuộc sống của các anh từ nay trở
thành thân thiết với ta qua lòng can đảm của các anh trông ra có ích nhiều cho
ta.
Vua Khosrouschah cuối cùng cảm
thấy rất mến hai hoàng tử đến mức bảo đến thăm ngài ngay.
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử
Bahman nói- Người ban cho chúng thần một vinh dự mà chúng thần không xứng đáng
xin khẩn cầu Người miễn cho.
Vua không rõ vì lý gì các
hoàng tử không nhận sự chiếu cố của mình, bảo hai chàng giải thích xem.
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử
Bahman nói- Chúng thần có em gái út cùng sống; chúng thần gắn bó với nhau đến mức
chưa làm điều gì khi chưa hỏi ý kiến nàng cũng như nàng chưa làm gì khi chưa hỏi
chúng thần.
- Ta rất khen tình anh em
đoàn kết của các ngươi. Vậy cứ về hỏi em gái và ngày mai đi săn với ta các
ngươi sẽ trả lời.
Hai hoàng tử về nhà nhưng không
ai nhớ việc gặp nhà vua, có vinh dự săn bắn với ông, cũng quên nói chuyện với
công chúa nhà vua muốn đưa họ về cung. Ngày hôm sau gặp vua trong đợt đi săn,
vua hỏi:
- Thế nào? Các ngươi nói
chuyện với em gái chưa? Nàng có bằng lòng để ta gặp các ngươi thường xuyên hơn
không?
Các hoàng tử đỏ mặt nhìn
nhau:
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử
Bahman trả lời: Xin Người tha lỗi cho chúng thần, cả em thần và thần đều không
nhớ ra.
- Vậy hôm nay các ngươi phải
nhớ và ngày mai trả lời ta.
Hai hoàng tử lại quên một lần
nữa; nhà vua không những không mắng mà rút ra ba viên vàng bỏ vào lòng hoàng tử
Bahman. Ông mỉm cười nói:
- Những viên này nhắc các
anh không quên lần thứ ba điều ta muốn vì tình cảm đối với ta: tối nay tiếng
chúng rơi ra từ thắt lưng sẽ nhắc các anh nếu quên.
Sự việc xảy ra như vua dự kiến.
Không có ba viên vàng các hoàng tử đã quên nói chuyện với em gáì. Khi hoàng tử
cởi thắt lưng chuẩn bị đi ngủ thì những viên ấy rơi ra. Chàng bèn lại tìm hoàng
tử Pervij cùng nhau sang phòng công chúa lúc chưa đi nằm, trình bày lại mọi trường
hợp đã gặp nhà vua.
Công chúa Parijade nghe tin
hoảng hốt nói:
- Việc các anh gặp vua thật
sung sướng và vinh dự, sau này sẽ còn tăng thêm nhưng không ổn và rất buồn đối
với em. Em thấy rõ vì em mà các anh chống lại ý muốn của vua; tình cảm hoàn
toàn dành cho em, em rất cám ơn. Có thể nói các anh thà chịu vô lễ với vua, thẳng
thắn từ chối vì nghĩ sẽ tổn hại đến tình anh em; các anh thấy đến với nhà vua
thì phải bỏ rơi em để dành tất cả cho Người. Nhưng các anh tưởng dễ dàng từ chối
ý định của nhà vua có vẻ rất sốt sắng như thế nào? Những ý muốn của vua thật
nguy hiểm khi chống lại. Vì vậy theo em, các anh hãy làm vui lòng nhà vua, em
chỉ biết để các anh đi và có nguy cơ khổ sở vì các anh. Các anh thấy em nghĩ thế
đấy, tuy nhiên trước khi kết luận chúng ta thử hỏi con chim xem nó khuyên chúng
ta như thế nào; nó rất khôn, tinh tường và đã hứa cứu giúp chúng ta khi gặp khó
khăn.
Công chúa Parijade cho mang
lồng chim vào, nói rõ tình trạng lúng túng với chim trước mặt các hoàng tử và hỏi
cách giải quyết.
Con chim trả lời:
- Các hoàng tử anh nàng phải
nghe theo ý muốn của nhà vua và đến lượt mình họ mời vua về thăm nhà.
- Nhưng chim ơi - Công chúa
nói - Anh em chúng ta thương yêu nhau; tình cảm không gì sánh bằng ấy có bị tổn
hại gì không?
- Không hề; ngược lại càng mạnh
mẽ hơn.
- Nếu thế vua sẽ thấy ta.
Chim nói cần thiết vua phải
gặp, mọi việc càng tốt hơn thôi.
Ngày hôm sau hai hoàng tử trở
lại chỗ đi săn; nhà vua ngay từ xa đã hỏi họ có nhớ nói chuyện với em gái
không. Hoàng tử Bahman lại gần trình bày:
- Thưa bệ hạ, xin Người cứ sử
dụng chúng thần; không những em gái chúng thần đồng ý mà còn cho chúng thần sai
khi vì nàng mà không sẵn sàng làm bổn phận đối với bệ hạ. Nàng tỏ ra xứng đáng
thế còn chúng thần đã sai lầm, hy vọng bệ hạ tha thứ cho chúng thần.
- Các ngươi không lo ngại về
điều đó. Thay vì cho việc các ngươi làm là sai lầm, ta rất đồng tình, hy vọng
các ngươi cũng tôn trọng và gắn bó với ta như thế tuy có phần nhỏ hơn trong
tình cảm của các ngươi đối với nhau.
Các hoàng tử ngượng ngùng
trước lòng tất quá lớn của nhà vua chỉ trả lời bằng cách cúi thấp mình thể hiện
rất tôn kính thái độ của nhà vua.
Trái với thường ngày hôm ấy
vua không săn bắn lâu. Xét thấy các hoàng tử không kém thông minh hơn lòng dũng
cảm, ngài nóng lòng nói chuyện thoải mái với họ nên chóng trở về cung. Nhà vua
muốn họ đi bên cạnh ngài, vinh dự mà chẳng những cận thần tháp tùng, cả quan tể
tướng cũng ghen tị thấy họ đi trước mình.
Khi vua vào đến kinh thành,
dân chúng đầy đường nhìn vào hai hoàng tử Bahman và Pervij, tìm hiểu xem họ là
ai, người lạ hay trong vương quốc. Phần đông nói:
- Dù sao mong nhà vua có hai
hoàng tử mạnh khoẻ, thần tú như thế? Có thể đã cùng lứa tuổi ấy nếu hoàng hậu
đang chịu hình phạt từ lâu, trước đây sinh nở may mắn.
Việc đầu tiên về đến hoàng
cung là nhà vua dẫn các hoàng tử đi xem những cung điện chính mà họ khâm phục về
vẻ đẹp, sự giàu có, đồ đạc và trang trí thật cân đối. Người ta phục vụ một bữa
ăn phong phú và vua bảo hai chàng cùng ngồi ăn. Họ muốn xin lỗi nhưng phải vâng
lời khi vua nói ngài muốn thế. Nhà vua vốn vô cùng thông minh, có những hiểu biết
uyên thâm vượt bậc về khoa học đặc biệt về lịch sử, thấy trước các hoàng tử
không dám tự do nói chuyện vì khiêm tốn và tôn kính. Để họ có. dịp nôi, ngài bắt
đầu nói và trao đổi nhiều vấn đề suốt trong bữa ăn nhưng dù đề cập đến đề tài
nào, hai chàng nói với nhiều hiểu biết, thông minh, phân tích bình luận tất làm
vua luôn khen ngợi. Nhà vua tự nhủ: “Nếu là con mình, với trí óc như thế, ta dù
dạy dỗ chúng cũng không biết được gì hơn, cũng không thành thạo hoặc có học vấn
hơn thế . Nhà vua rất vui khi trò chuyện với họ ; ngồi ăn lâu hơn thường lệ và
sau khi ở đấy ra nhà vua còn nói chuyện lâu với họ. Cuối cùng nhà vua nói:
- Chưa bao giờ ta nghĩ ở
ngoài kinh thành có những thần dân của ta được giáo dục đặc biệt và có khả năng
đến thế, trong đời ta chưa có cuộc trò chuyện nào làm ta hài lòng như với các
ngươi. Nhưng thế là đủ, đã đến lúc các ngươi thư giãn trí óc với vài trò vui
cung đình; không có gì xua tan được mây mù bằng âm nhạc, các ngươi sẽ nghe một
hợp tấu nhạc cụ và và công múa hát không tồi.
Vua vừa dứt lời, các nhạc
công được lệnh vào đáp ứng khá tất sự chờ đợi về tài năng của họ. Những vai hề
rất giỏi tiếp nối ban hoà tấu rồi các nam nữ vũ công kết thúc cuộc vui.
Hai hoàng tử thấy gần hết
ngày quỳ xuống trước mặt vua xin phép rút lui sau khi cám ơn về lòng tốt và
vinh dự được ban cho. Vua để họ ra về, nói:
- Ta để các anh về, nên nhớ
đích thân ta dẫn các ngươi về cung là để chỉ đường; sau này các ngươi tự đến;
bao giờ cũng được hoan nghênh và càng đến nhiều hơn, các ngươi càng làm ta vui
lòng.
Trươc khi ra đi, hoàng tử
Bahman tâu với vua:
- Thưa bệ hạ, chúng thần dám
xin Người gia ân cho anh em thần và em gái thần, lần đi săn tới đưa Người đến
trong vùng mời Người ghé qua nhà chúng thần một lúc; ngôi nhà không xứng đáng
được Người đến thăm nhưng đôi khi các vị vua không chê vảo một nhà tranh.
Vua nói:
- Một ngôi nhà của những chủ
nhân như các ngươi chỉ có thể đẹp và xứng với các ngươi ta vui lòng đến và càng
vui hơn với những chủ nhà như các ngươi và em gái ngươi mà nghe kể về đức tính
ta đã thấy thân mến. Ta không lùi lại quá ngày kia để thoả mãn điều đó. Ta sẽ
có ở chỗ gặp các ngươi lần đầu từ sáng sớm; các ngươi cũng đến đo để hướng dẫn
ta.
Cùng ngày hôm đó hai hoàng tử
về nhà, sau khi kể lại với em gái vinh dự được vua tiếp đón, họ báo đã mời vua
đến nhà họ khi đi săn trong vùng và vua đã định ngày kia sẽ ghé thăm.
Công chúa nói:
- Nếu vậy ngay từ bây giờ phải
nghĩ đến việc chuẩn bị một bữa ăn xứng đáng với nhà vua. Chúng ta hỏi ý kiến
con chim thì hay nhất: có lẽ nó chỉ cho ta một sớ món ăn hợp, khẩu vị nhà vua
hơn.
Các hoàng tử thống nhất theo
ý kiến em gái; khi họ lui về phòng nàng hỏi riêng con chim. Nàng nói:
- Chim ơi, vua sẽ cho chúng
ta vinh dự ghé thăm nhà và chúng ta phải chiêu đãi Người. Chim bảo chúng ta phải
làm cách nào để Người hài lòng?
- Nữ chủ phúc hậu, nhà có
khá nhiều đầu bếp giỏi, bảo họ cố gắng hết sức mình và trên hết họ phải làm một
đĩa dưa chuột, nhồi nhân ngọc mà nàng cho phục vụ trước mặt vua hơn tất cả những
thức ăn khác ngay từ đợt đầu.
- Dưa chuột nhồi nhân ngọc?
- Công chúa ngạc nhiên kêu lên - Chim ơi, đó là một món ăn kỳ lạ. Nhà vua có thể
khen là một vật đẹp nhưng Người ngồi vào bàn để ăn chứ không phải để ngắm ngọc.
Hơn nữa nếu ta dùng tất cả những ngọc ta có thể có cũng không đủ làm nhân.
- Nữ chủ, nàng cứ làm như
tôi đã nói, đừng lo sẽ ra sao; chỉ xảy đến việc tốt thôi. Còn về ngọc sáng sớm
mai nàng ra cây to đầu tiên trong vườn về bên tay phải, cho đào dưới gốc.
Người làm vườn đào đến một
chiều sâu nào đó thấy cứng, phát hiện ra một chiếc hộp vàng khoảng một bộ vuông
chỉ cho công chúa. Nàng nói:
- Chính vì vật đó mà tôi dẫn
ông đến đây. Cứ tiếp tục đi.
Người làm vườn lôi chiếc hộp
ra đưa vào tay công chúa. Chiếc hộp chỉ khép bằng những móc sạch, công chúa mở
ra thấy đầy những viên ngọc rất nhỏ nhưng đều nhau và tiện dùng theo yêu cầu dự
định. Rất hài lòng phát hiện được kho của này, nàng đóng hộp lại mang về nhà
trong lúc người làm vườn vun trả lại đất vào gốc cây như trước.
Hoàng tử Bahman và Pervij ở
trong phòng thấy em gái ra vườn sớm hơn thường lệ, đi ra gặp nàng giữa vườn tay
mang chiếc hộp vàng, ngạc nhiên hỏi:
- Em gái - Hoàng tử Bahman
nói - Khi các anh thấy em ra vườn có người làm vườn đi theo thì không mang gì,
bây giờ trở vồ tay mang chiếc hộp vàng; phải chăng người làm vườn tìm được kho
của chỉ cho em?
- Thưa các anh - Công chúa
trả lời - Ngược lại đấy.
- Chính em lẫn người làm vườn
đến chỗ có chiếc hộp bảo đào lên. Các anh sẽ ngạc nhiên hơn khi thấy hộp đựng
gì.
Công chúa mở hộp và các
hoàng tử sửng sốt thấy đầy ngọc rất có giá trị về chất lượng và số lượng, hỏi từ
đâu mà em gái biết có kho của này.
- Thưa các anh - Nàng trả lời
- Có một việc gấp gáp hơn đang chờ, các anh vào nhà em sẽ bảo.
Hoàng tử Pervij bảo:
- Việc nào gấp gáp hơn điều
các anh muốn biết rõ này? Chúng ta cùng vào với nhau vậy.
Trên đường vào nhà, công
chúa Pariìađe kể lại việc hỏi ý kíến con chim và nó bảo nên làm thế nào, đặc biệt
cần có món đưa chuột nhồi nhân ngọc và nó chỉ chỗ cho đi lấy chiếc hộp này. Ba
anh em phân tích nhiều, không hiểu vì sao chim bảo làm món ăn ấy nhưng đành phải
theo đúng lời khuyên từng điểm một.
Công chúa cho gọi trưởng đầu
bếp, ra lệnh chuẩn bị bữa ăn chiêu đãi nhà vua theo cách nàng hướng dẫn:
- Ngoài những thứ đó - Nàng
nói thêm - Ông làm một món ăn thích hợp với khẩu vị nhà vua: một đĩa dưa chuột
nhồi nhân. Nhân là những viên ngọc này đây.
Đồng thời nàng mở hộp chỉ
cho bếp trưởng. Chưa bao giờ nghe nói nhồi nhân như vậy, bếp trưởng ngạc nhiên
lùi lại hai bước. Công chúa đoán được ý nghĩ của ông, nói:
- Tôi biết ông cho tôi là một
người điên bảo làm một món ăn chưa bao giờ có như thế. Nhưng không đâu, tôi rất
tỉnh táo bảo chuẩn bị món ăn đó. Ông phát huy sáng kiến mang chiếc hộp này đi
làm đi và đem trả lại tôi số ngọc còn lại không dùng hết.
Bếp trưởng chẳng còn gì để
nói nữa, cầm chiếc hộp mang đi. Cùng ngày ấy công chúa cho dọn dẹp thật sạch sẽ,
ngăn nắp cả trong nhà và ngoài vườn để tiếp đón vua xứng đáng hơn.
Ngày hôm sau, hai hoàng tử
đã ở chỗ đi săn thì vua Ba Tư đến. Ngài bắt đầu săn bắn cho đến khi mặt trời
lên cao, nắng gắt phải nghỉ. Hoàng tử Bahman ở bên cạnh vua để hướng dẫn còn
hoàng tử Pelvij đi trước chỉ đường, khi đã trông thấy nhà mình, chàng thúc ngựa
về báo tin nhưng người hầu của công chúa được bố trí trên đường đã đi báo, công
chúa đang chờ sẵn đón tiếp.
Vua vào đến sân, xuống ngựa
trước tiền sảnh; công chúa Parijade chạy đến quỳ dưới chân ngài chào; các hoàng
tử giới thiệu em gái, xin phép cho được đón tiếp vua.
Nhà vua cúi xuống nâng công
chúa lên, nhìn nàng một lúc, ngỡ ngàng về sắc đẹp, duyên dáng, phong thái không
có vẻ gì thôn dã giống nơi nàng ở. Nhà vua nói:
- Hai anh xứng đáng với em
gái và em gái xứng đáng với các anh trai; nhìn bề ngoài xét bên trong ta không
lạ nữa việc các anh trai không muốn 1àm gì mà không được em gái tán thành. Ta
hy vọng biết rõ nàng hơn về điểm này nhưng để xem ngôi nhà đã.
Công chúa thưa:
- Thưa bệ hạ, đây chỉ là một
ngôi nhà ở thôn dã phù hợp với những người như chúng thần sống xa người đời. Nó
không so sánh được với những ngôi nhà thành phố lớn, càng làm thế nào bằng được
những biệt thự ở hoàng cung.
- Ta không hoàn toàn đồng ý
như nàng nghĩ nhà vua nói - Những gì ta thấy trước hết làm ta nghi ngờ nàng. Ta
sẽ nêu những nhận xét của ta sau khi xem xong; nàng đi trước dẫn đường!
Công chúa để riêng phòng
khách lại, dẫn vua đi phòng này đến phòng khác; sau khi xem xét từng phòng;
khen sự đa dạng của những gian phòng, nhà vua nói với công chúa Parijade:
- Người đẹp, nàng gọi như thế
là một ngôi nhà thôn dã à? Những thành phố lớn, đẹp nhất cung sẽ vắng vẻ nếu tất
cả những nhà ở thôn dã giống ngôi nhà của nàng. Ta không ngạc nhiên thấy các
ngươi rất thích ở đây và khinh thường thành phố. Đưa ta đi xem khu vườn, xem có
phù hợp với ngôi nhà không.
Công chúa mở cửa ra vườn và
điều đập vào mắt nhà vua trước tiên là vòi nước phun màu vàng. Lạ lùng về một cảnh
quan mới, sau khi ngắm một lúc vua hỏi:
- Ngọn nước tuyệt vời, xem rất
thích, ở đâu ra vậy? Nguồn suối ở đâu, nghệ thuật lấm nước phun có vẻ trên đời
không có như vậy. Ta muốn đến xem sao.
Ông vừa nói vừa tiến lại.
Công chúa tiếp tục dẫn đường, đưa vua đến chỗ trồng cây hay hát.
Lại gần, vua nghe có một hoà
âm khác hẳn những bản hợp tấu ông đã nghe nhiều, dừng lại đưa mắt tìm các nhạc
công, không thấy nhưng vẫn nghe rõ ràng tiếng nhạc. Ông hỏi:
- Người đẹp, những nhạc công
đang hợp tấu ở đâu vậy? Họ ở dưới đất hay biến dạng trên không? Với những giai
điệu hay như thế họ ngại gì mà không ra mắt cho người ta vui thích?
Thưa bệ hạ - Công chúa mỉm
cười trả lời- Không phải nhạc công hợp tấu mà do cây bệ hạ thấy trước mặt phát
ra; xin Người bước lại mấy bước nữa sẽ nghe rõ ràng Vua lại gần say sưa vì âm
điệu bản hợp tấu, nghe mãi không thôi. Cuối cùng vua lên tiếng hỏi:
- Người đẹp này cây này tình
cờ mọc trong vườn nhà nàng hay là một món quà tặng từ đất nước xa xôi nào? Nàng
gọi cây tên là gì?
- Thưa bệ hạ, đây là cây hay
hát, không mọc trong vùng này. Đây là một câu chuyện dài liên quan đến nước
vàng trong bể và con chim biết nói mà bệ hạ sẽ thấy sau khi xem nước vàng. Nếu
Người thấy đượe thần sẽ kể lại khi Người đã nghỉ ngơi giải trí sau cuộc săn mệt
nhọc.
- Người đẹp, ta không mệt nhọc
gì như nàng nói vì đã được những vật ta ngắm nhìn bù lại. Chúng ta đến xem bể nước
vàng đi, ta muốn ngắm con chim biết nói lắm rồi.
Đến bể nước vàng vua nhìn rất
lâu vào tia nước không ngớt phun lên cao rồi rơi xuống và nói với công chúa:
- Theo nàng nước này không
có nguồn, không có vòi dẫn đến từ một chỗ nào gần đây; ta rất lạ về điều đó
cũng như về cây hay hát.
- Thưa bệ hạ, điều ấy đúng
như Người vừa nói, bể nước liền một tấm, nước không do từ các bên hay phía dưới
đưa vào. Thần đã bỏ vào bể một lọ nước, với đặc tính riêng biệt, nước tự phun
lên như bệ hạ thấy.
Vua rời bể nước, nói:
- Lần thứ nhất thế đủ rồi vì
ta hứa sẽ thường đến đây hơn. Nàng dẫn ta đi để ta xem con chim biết nói.
Vào gần phòng khách, vua thấy
trên những cây quanh đấy có một số lượng chim khổng lồ đang hót râm ran vang
lên trong không khí. Nhà vua hỏi vì sao chim tập hợp tại đây mà những cây khác
trong vườn không có. Công chúa trả lời:
- Thưa bệ hạ tất cả chúng đến
từ những vùng xung quanh để phối hợp với tiếng hót của con chim biết nói. Bệ hạ
thấy nó đang trong chiếc lồng để ở một cửa sổ phòng khách Người sẽ vào. Nếu để
ý Người sẽ nhận ra tiếng hót của nó rất hay, kể cả chim hoạ mi cũng còn xa mới
bằng nó.
Vua vào phòng khách; thấy
chim vẫn hót, công chúa cao giọng bảo:
- Nô lệ của ta, đây là nhà
vua, chim chào mừng đi.
Con chim ngừng hót ngay và
những chim khác cũng ngừng theo. Nó nói: Kính chào nhà vua, mong Người luôn thịnh
vượng và sống lâu, . Bữa ăn chuẩn bị gần cửa sổ treo lồng chim, vua vừa ngồi
vào bàn vừa nói:
- Ta cảm ơn lời chim chúc mừng;
ta rất hài lòng ,thấy chim là vua của các loài chim.
Thấy đa đưa chuột trước mặt,
vua nghĩ nhồi nhân như bình thường đưa tay gắp nhưng rất ngạc nhiên thấy nhồi hạt
ngọc. Nhà vua nói:
- Món ăn gì mới lạ đây? Nhồi
hạt ngọc với ý định gì? Ngọc có ăn được đâu! - Nhà vua nhìn hai anh em hoàng tử
và công chúa bảo giải thích nhưng con chim can thiệp ngay:
Thưa bệ hạ, Người có thể nào
ngạc nhiên đến vậy khi thấy một món ăn nhồi hạt ngọc trong lúc Người dễ dàng
tin rằng hoàng hậu vợ Người đã sinh ra một con chó, một con mèo và một khúc gỗ
ư?
- Ta đã tin thế vì các bà đỡ
khẳng định với ta.
- Những bà đỡ ấy, thưa bệ hạ
- Chim lại nói - Là hai người chị của hoàng hậu, nhưng những người chị này lại
ghen ty với hạnh phúc Người đã vinh dự đem lại cho hoàng hậu. Để thoả lòng tức
giận họ đã lợi dụng sự dễ dãi của bệ hạ; nếu Người cho tra hỏi, họ sẽ thú nhận
tội. Hai anh em trai và em gái Người thấy đây là con của Người bị thả trôi theo
dòng suối nhưng được người quản lý khu vườn thượng uyển vớt lên đưa về nuôi dạy
chu đáo.
Lời nói của chim làm rõ ngay
lòng phân vân của nhà vua. Ngài kêu lên:
- Chim ơi, ta không phân vân
gì mà tin vào sự thật chim phát hiện ra và báo với ta. Xu hướng và sự trìu mến
ta cảm thấy đối với chúng nói rõ với ta chúng là dòng máu của ta. Đến đây, các
con trai, con gái của ta, để ta ôm hôn các con, thể hiện tình cảm đầu tiên của
một người bố.
Nhà vua đứng dậy lần lượt ôm
lấy hai hoàng tử và công chúa, chan hoà dòng lệ với họ. Nhà vua nói:
- Chưa đủ đâu các con, các
con phải ôm hôn nhau không phải với tư cách con của người quản lý vườn ta vĩnh
viễn chịu ơn vì bảo vệ cuộc sống của các con mà nhân danh con ta, từ dòng máu
các vua Ba Tư ta chắc chắn các con giữ được vinh quang.
Sau khi hai hoàng tử và công
chúa ôm hôn nhau với một niềm thoả mãn mới mẻ như nhà vua mong muốn, vua lại ngồi
vào bàn cùng họ và ăn vội. Ăn xong, nhà vua nói:
- Các con ta, các con đã biết
ta là phụ hoàng rồi, ngày mai ta sẽ dẫn hoàng hậu mẹ các con đến. Các con chuẩn
bị sẵn sàng đón tiếp bà.
Nhà vua lên ngựa nhanh chóng
trở về kinh thành. Việc đầu tiên khi vào hoàng cung là ra lệnh cho tể tướng xét
xử ngay hai người chị hoàng hậu. Hai người bị bắt đưa tới, thẩm vấn riêng rẽ, đối
chiếu xác nhận, bị kết tội phanh thây, tất cả không tới một tiếng đồng hồ.
Trong lúc đó vua
Khosrouschah, với tất cả triều thần có mặt tháp tùng, đi bộ đến trước cửa nhà
thờ lớn đưa hoàng hậu bị giam giữ khổ sở từ bao nhiêu năm nay ra ngoài. Vua đầy
nước mắt ôm hôn bà trong tình trạng đáng thương ấy và nói:
- Hoàng hậu, ta đến xin lỗi
bà đã xử sự bất công đối với bà và xin sửa chữa mọi việc. Ta đã bắt đầu làm việc
đó bằng cách trừng phạt những người đàn bà đã tồi tệ lừa bịp ta và hy vọng bà
cho là đã khôi phục được hoàn toàn khi ta đưa lại cho bà hai hoàng tử hoàn hảo
và một công chúa đáng yêu xinh đẹp, những đứa con của ta và của bà. Bà về cung
đi, lấy lại chức phận của bà với đầy đủ vinh dự.
Việc sửa chữa ấy làm trước một
số đông dân chúng nghe tin chạy đến từ các nơi và chỉ một lát sau lan khắp thành
phố.
Hôm sau từ sáng sớm vua và
hoàng hậu đã thay bộ quần áo buồn rầu nhục nhã, trang bị phù hợp với chức tước,
cả triều đình tháp tùng, cùng đến nhà hai hoàng tử và công chúa:
- Hoàng hậu, đây là hai
hoàng tử con trai và công chúa con gái bà; bà ôm hôn chúng cũng trìu mển như ta
đã ôm hôn chúng; chúng xứng đáng với ta và với bà.
Nước mắt tràn đầy qua những
ôm hôn cảm động ấy, đặc biệt về phần hoàng hậu vì niềm an ủi và lòng vui mừng
được ôm hôn hai con trai, một con gái đã gây cho bà bao phiền muộn lâu dài. Khi
hoàng tử và công chúa đã cho chuẩn bị một bữa ăn ngon chiêu đãi vua, hoàng hậu
và các triều thần: mọi người ngồi vào bàn và sau bữa ăn, vua đưa hoàng hậu ra
xem khu vườn, chỉ cho bà xem cây hát hay và cảnh nước vàng phun lên cao. Về con
chim bà đã thấy trong lồng treo ở cửa sổ và vua đã ca ngợi nhiều trong lúc ăn.
Khi xong việc, vua lên ngựa
về cung; hoàng tử Bahmán đi bên phải, hoàng tử Perviì bên trái ông; hoàng hậu
và công chúa bên trái bà, đi sau vua. Với trật tự ấy, trước và sau có những võ quan
của triều đình theo chức vụ từng người, cả đoàn lên đường về kinh. Khi gần tới
kinh thành, dân chúng kéo đến rất đông, ra cổng thành đón họ. Họ nhìn vào hoàng
hậu, vui mừng cho bà sau nỗi đau khổ kéo dài và hai hoàng tử, công chúa mà đi
theo hoan hô nhiệt liệt. Họ cũng bị con chim trong chiếc lồng công chúa mang
theo hấp dẫn vì tiếng hót kéo theo tất cả những con chim khác vừa hót vừa đậu
trên cây đọc đường và trên mái nhà trên đường phố.
Hai hoàng tử Bahman và
Pervij, được hộ tống rầm rộ về cung và tối đến là những cảnh chiếu sáng và trò
vui ở hoàng cung và cả kinh thành kéo dài trong nhiều ngày.
Chương kết: Nghìn một đêm lẻ trôi
qua
Vua Ấn Độ không ngăn được mình ca ngợi trí nhớ
tuyệt vời của hoàng hậu vợ ngài mỗi đêm đều giải trí mới cho ngài bằng bao
nhiêu câu chuyện khác nhau không hề cạn.
Nghìn một đêm lẻ trôi qua với những thú vui nhẹ nhàng ấy; thậm chí giúp vua bớt đi nhiều định kiến xấu về sự chung thuỷ của phụ nữ; trí óc dịu đi, ngài công nhận đức tính và sự khôn khéo của Scheherasade, nhớ đến lòng can đảm tự nguyện muốn trở thành vợ ngài, không e ngại cái chết bà biết sẽ chờ mình vào sáng hôm sau như những người trước bà.
Nhìn nhận điều đó và biết những đức tính khác của bà cuối cùng đưa ngài đến quyết định gia ân cho bà. Ngài nói:
Nghìn một đêm lẻ trôi qua với những thú vui nhẹ nhàng ấy; thậm chí giúp vua bớt đi nhiều định kiến xấu về sự chung thuỷ của phụ nữ; trí óc dịu đi, ngài công nhận đức tính và sự khôn khéo của Scheherasade, nhớ đến lòng can đảm tự nguyện muốn trở thành vợ ngài, không e ngại cái chết bà biết sẽ chờ mình vào sáng hôm sau như những người trước bà.
Nhìn nhận điều đó và biết những đức tính khác của bà cuối cùng đưa ngài đến quyết định gia ân cho bà. Ngài nói:
- Scheherasade thân mến, ta thấy rõ nguồn
chuyện kể của nàng không hề cạn: nàng giải trí cho ta đã khá lâu, đã làm ta
nguôi giận? vì nàng ta sẵn lòng từ bỏ luật lệ độc ác ta đặt ra. Ta hoàn toàn
tha thứ và muốn nàng được xem là người giải phóng cho tất cả những cô gái phải
hy sinh vì lòng thù hận chính đáng của ta.
Hoàng hậu quỳ xuống chân vua, trìu mến hôn
chân ngài tỏ rõ lòng biết ơn sốt sắng và hoàn hảo nhất.
Quan tể tướng là người đầu tiên được vua truyền
đạt tin tốt lành ấy. Nguồn tin lan rộng ngay trong thành phố, ra các tỉnh làm mọi
dân tộc của vương quốc Ấn độ hô lên hàng nghìn lời ngợi ca và chúc phúc vua và
Scheherasade đáng yêu, vợ vua.
Nghìn lẻ một đêm 3 end
- Truyện
Dân gian nổi tiếng của Ả Rập
Dân gian nổi tiếng của Ả Rập
Antoine Galland
Phan Quang dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét