Thứ Ba, 1 tháng 3, 2016

Quy Nhơn du ký

Quy Nhơn du ký
Mùa hạ năm 2010, dự định đưa các con về thăm Ninh Hòa nhưng lần lữa mãi rồi không thực hiện được!
Dịp hè, công ty tổ chức đi du lịch ở vài nước khu vực Đông Nam Á, tôi chẳng thấy hứng thú với địa danh nào, dù những xứ sở ấy tôi chưa một lần đặt chân đến. Ai đi mặc ai!
Sáng chủ nhật, ngồi vẩn vơ cả buổi với Trần Đức Cảnh ở quán cafe Dinh Độc lập. Nghe Cảnh nói về lễ ký kết hợp đồng với 3 Tập đoàn Quản lý Khách sạn hàng đầu thế giới ở dự án Vĩnh Hội - Quy Nhơn và mời tham dự, tôi thích thú, quan tâm đến sự kiện, nhưng vẫn thờ ơ về một chuyến đi xa!....
Nhớ năm 2008, nhận trách nhiệm thiêng liêng xây dựng ngôi nhà cha mẹ ở xóm Rượu, trong hơn bốn tháng, tôi về Ninh Hòa mười lăm lần; Cứ mỗi tuần hoặc hai tuần một lần, vào tối thứ sáu, vác ba lô ra bến xe Miền Đông, lên xe đò về thẳng Ninh hoà, thăm gia đình, giải quyết nhiều thứ việc…Sáng sớm thứ hai có mặt ở Sài Gòn, chào vợ con, rồi tiếp tục cỡi gắn máy chạy thêm 10 cây số, tới cơ quan làm việc như không có chuyện gì xảy ra. Khi ấy giấc ngủ tối những ngày cuối tuần có cách hiểu khác - là sự di chuyển. Một tâm thế rất tích cực!
Mới chừng hơn một năm mà “tâm” đã cạn và “thế” chẳng còn. Bây giờ tôi cảm thấy ngại đi xa. Yếu tố nào khiến mình lẩn quẩn cả hồn lẫn xác như vậy? “Bận bịu thê nhi” là chuyện triền miên đã đành. Con cái vào mùa thi cử, phải lo chạy trường chạy lớp?!. Công ăn việc làm gặp lúc bất an ? hay bị đống “ngà voi” đeo đẳng ngày càng ngất ngưỡng? Không chừng sức khỏe có vấn đề.v.v. Tất cả ! Có lẽ nhiều thứ ngổn ngang hiện tại của bản thân và xã hội đã làm mình giảm năng động?! Một ý thơ tôi viết đã 5 năm vẫn còn mới nguyên, như là lời cảnh báo: “Ta thấm mệt giữa nhịp đời hối hả/ Nửa đời qua bao ước nguyện chưa thành/ Chiếc thân thể gần đến kỳ rệu rã/ Đường còn xa ngại lắm dốc đèo cao”...Tôi không nghĩ “chiếc thân thể” mình xuống cấp trầm trọng như vậy, kiểm tra kỹ thấy vẫn còn dồi dào phong độ! có lẽ do “thiếu lửa” đấy thôi. Phải tìm cách kích hoạt và phục hồi!?
Một “đêm dài” không “lắm mộng” nhưng tôi bất chợt chuyển biến. Điện thoại lại Cảnh để hỏi rõ chương trình đi Quy Nhơn. Nghe Cảnh nói có mời vài khách Ninh Hòa ở Nha Trang ra tham dự, tôi bỗng dậy lên niềm hứng khởi và gợi mở một kế hoạch đi chơi xa vì các vị khách Ninh Hòa cũng đều là bạn thân cả. Tôi điện ra Nha Trang để xác định và tìm hiểu thêm kế hoạch đi đứng của các chàng. Tất cả đều vui vẻ sẵn sàng, sẽ đi Quy Nhơn bằng đường bộ. Có lẽ tình bằng hữu và hồi ức thanh xuân sẽ khơi dậy sự năng động của mình?. Tôi lại suy tưởng về một vùng đất sắp đến…
Quy Nhơn là thủ phủ của tỉnh Bình Định, một địa phương trầm lặng nằm bên duyên hải Miền Trung. Có nhiều “từ khóa” về văn hóa, lịch sử để tìm đến vùng đất này như : Mộ Hàn Mặc Tử, Bàn Thành Tứ Hữu, Nón Gò Găng, Tây Sơn, Đồ Bàn, Đầm Thị Nại.v.v. Trước 1975 mỗi tối tôi nghe địa danh Ghềnh Ráng qua đài truyền hình Quy Nhơn, vì ở Ninh Hòa chỉ xem được kênh này; tin chiến sự mùa hè 1972 ở Tam Quan, Hoài Ân, Hoài Nhơn luôn nóng hổi; khi còn bé tôi rất mê võ Bình Định, đã nghe những tuyệt chiêu “Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh” với các danh sư Hồ Ngạnh, Hương Kiểm Mỹ, Tàu Sáu...; chú tôi học Sư phạm vào giữa thập niên 60, sau Trịnh Công Sơn một khoá, lúc nhỏ đã ấn tượng về địa danh Quy Nhơn qua lời kể của chú; vào năm 1976, khi ông nội mất, có người chị đang học sư phạm Quy Nhơn, gia đình bảo tôi đi gọi chị về, nhưng sau đó liên lạc được, thế là tôi hụt chuyến đi; tôi đã thuộc làu “Anh về Bình Định thăm cha/ Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em” hoặc  “Ai về Bình Định mà xem/ Con gái Bình Định...” không biết từ lúc nào?... Biết thì nhiều và nói cho lắm nhưng thú thật - đó là nơi tôi chưa từng đi đến. Tuy nhiên, như vậy là đã có nhiều duyên cớ và lý lẽ thôi thúc cho một chuyến đi. Chuyện tham dự lễ ký kết của Cảnh là thêm một lý do chính đáng. Vui chơi là chính!
OK, Phải đi Quy Nhơn! Tôi báo cho Cảnh biết và nhờ đăng ký vé máy bay. Sáng 24/8 lễ ký kết diễn ra nên phải có mặt ở Quy Nhơn trước đó một ngày - vào thứ hai 23/8. Từ Sài Gòn đi Quy Nhơn bằng đường bộ khá xa, mất nhiều thời gian nên tôi không chọn phương tiện này. Đường hàng không chỉ có chuyến bay sáng và chiều. Sáng thì đi quá sớm, chiều lại quá tối. Đến chốn này kiểu gì cũng bất tiện! Một chút phân vân. “Đã trót thì phải trét”, tôi chọn chuyến bay sáng để có dư một ngày ung dung đây đó, nhìn ngắm phố thị Quy Nhơn.
Trước ngày đi một tuần, anh Đường Bình ở Mỹ về hẹn gặp tôi ở quán Thềm Đá - Thủ Đức. Anh muốn kêu thêm vài bạn Ninh Hòa. Võ Phê bận việc nhà không dự được, Công Bình luôn sẵn sàng, Cảnh OK ngay vì có chút kỷ niệm với gia đình anh Bình ở những ngày đầu đến Mỹ, đến nay chưa có dịp gặp lại. Lần này thấy anh Bình gầy hơn. Đồng hương già hội ngộ vẫn nhiều đề tài sôi nổi. Tôi chuyển lời khen ngợi của bạn đọc www.ninhhoatoday.net tới anh về những câu chuyện lịch sử Ninh Hòa - những bài viết rất chân chất nhưng hóm hỉnh và thiết tha với Ninh Hòa của anh. Anh lắng nghe và tham gia hào hứng. Cảnh đến trễ, mang theo 2 thiệp mời, trao cho tôi và mời anh Bình. Thực ra Cảnh đã chuyển thiệp này qua E-mail và tôi đã xem nội dung chi tiết. Hôm nay là một động tác tận tình. Cái để xem chưa đủ, cần có cái để cầm làm vật chứng, còn khoe với vợ con. Anh Bình vui vẻ, thể hiện sự vinh hạnh khi được mời nhưng không thể tham gia, vì còn cả “bầu đoàn thê tử”. Anh tuy lớn tuổi nhưng thích lãng du và mê săn ảnh, đã đi nhiều nước trong thời gian qua. Anh về VN như đi chợ và lặn lội khắp nơi. Có anh đi Quy Nhơn chắc sẽ vui và được nhiều ảnh đẹp, rất tiếc!.
Dương Tấn Long, anh Đường Du Bình, 
Trần Đức Cảnh ở quán Thềm Đá - Thủ Đức
Ngày đi nghe tin có bão xa ở biển Đông, sáng sớm Sài Gòn mưa nhẹ. Cũng liều nhắm mắt đưa chân. Ba giờ sáng đã thức giấc, bốn giờ rời khỏi nhà bằng taxi, mất 20 phút để đến phi trường. Sớm như vậy nhưng cũng đã trễ gần 30 phút so với quy định, vì khởi hành lúc 6 giờ. Thời gian bay chừng hơn một giờ nhưng khoảng chuẩn bị lại quá phung phí (2 giờ để làm thủ tục check in). Nhà ga Tân Sơn Nhất mở cửa, hành khách đi sớm ở các tuyến nội địa khác khá đông, đang hoạt động nhộn nhịp. Vào cửa số 7 đi Quy Nhơn thấy vắng lặng. Tôi sợ đi nhầm cửa nên hỏi cô gái duy nhất đang ngồi ở những dãy ghế của khu vực. Nghe giọng “nẫu” đặc sệt nên chưa cần nghe nội dung trả lời tôi đã biết mình đến đúng chỗ. Cô gái tuổi chừng 40, son phấn, vàng vòng hơi thừa trên người lại tỏ ra lịch sự, dọn các hành lý đang để trên ghế kề bên xuống đất với ý mời ngồi. Tôi cám ơn chứ không lý lẽ và chẳng đủ can đảm để ngồi vì còn vài chục ghế trống chung quanh. Ngáp dài, nhìn trời âm u, chợt lẩn thẩn nhớ câu nói của các cụ xưa “ra ngõ gặp gái mọi cái không may”, tôi lo ra!
Chuyến bay khởi hành trễ 10 phút. Đợi chờ dài cùng với thiếu ngủ làm tôi vật vờ. Thời lượng ngắn ngủi ngồi máy bay tôi thấy chẳng thiết làm việc gì. Đọc sách báo hoăc nghe nhạc chỉ mất công bày biện, nên buông mọi thứ, càng không thể ngủ. Ngồi bên cửa sổ, nhìn mây trời xám xịt chẳng thấy gì bên dưới, cánh máy bay ướt đẫm và rung từng chập. Một thoáng bất an, tôi chợt nhớ lời bài hát của Trần Thiện Thanh “…Ngả nghiêng cánh chim, con tàu xé trời rời xa thành phố rồi. Mây giăng thật thấp, mây đan lụa trắng,…” hồn lãng đãng trong thi vị đã xua bớt nỗi lo…Được hơn nửa giờ bay, bầu trời dần trong sáng và ít mây hơn, thỉnh thoảng xuất hiện vài khoảng xanh thẫm của núi đồi hoặc biển xa. Đã gần 7 giờ sáng, mặt trời đang lên. Tôi đoán ở không phận Khánh Hòa, bất chợt cảm giác xao xuyến khi đang bay trên bầu trời quê nhà? Có lẽ trời Ninh Hòa đang chào đón tôi? Mông lung về con phố nhỏ bên dưới: Chợ Dinh đang nhộn nhịp khởi động phiên chợ ban mai? Những người bạn đón ngày mới, trải lòng bên tách cà phê ở Cỏ Mây, Nguyệt Cầm hoặc vỉa hè quanh phố? Con đường Trần Quý Cáp xôn xao áo trắng học trò đến trường vào sáng đầu tuần? Nhà tôi ở đó, có mảnh vườn bên bờ sông Dinh lá ngập đầy, vắng tiếng chổi sớm khi mẹ già nằm bệnh mấy năm qua…Nhiều miên man trong dạt dào ký ức.
Máy bay chợt hạ độ cao, gặp những “ổ voi” gây sốc mạnh, nghe lùng bùng thót cả tim, đoán chừng đã vào không phận Bình Định. Trời lại mưa! Phi trường Phù Cát dần xuất hiện với phi đạo chạy dài, bao bọc quanh ba phía là núi đồi mênh mông. Phi trường Phù Cát cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 25 km. Trước 1975, đây là phi trường quân sự lớn nhất nhì Miền Trung, có khả năng tiếp nhận hầu hết các loại phi cơ của không lực Hoa Kỳ, như các phản lực cơ siêu âm tiêm kích F-100, F-105… Từ năm 1972, đây là căn cứ 60 Chiến Thuật KQ, là một cứ điểm quan trọng của tỉnh Bình Định và vùng cao nguyên lân cận. Vì vậy, phi trường Phù Cát thường ăn đạn pháo và xảy ra những trận đánh ác liệt. Sau 1975, một số tỉnh phía nam có thuận lợi trong việc mở đường hàng không nhờ ăn theo phi trường quân sự sẵn có. Đặc điểm của phương tiện hàng không là đường bay thì “trời xanh, xanh bao la” không mất tiền đầu tư, nhưng “bến đỗ” lại chiếm quá nhiều đất đai và ngốn không ít tiền bạc cho xây dựng cơ sở vật chất. Thừa hưởng “di sản” lớn nhưng điều kiện bảo quản, tu sửa, phát triển yếu kém nên khi chuyển thành phi trường dân sự, một số địa phương chỉ đủ sức chỉnh trang hoặc xây dựng nhà ga để lo việc đưa đón hành khách. Còn khu vực mênh mông phi đạo cứ chấp vá, mặc hoang phế! Phù Cát cũng vậy, dọc phi đạo cây cỏ hoang mọc đầy, đất cát nhấp nhô, thoáng hiện mấy gian kho xưởng xập xệ, những hangar rêu xám cũ kỹ, đây đó rải rác dấu tích quân dụng, chiến tranh. Là du khách lần đầu đến Bình Định, được chứng kiến, tiếp cận ngõ vào hoang phế, trong buổi sáng mưa buồn, cho tôi một ấn tượng ảm đạm! Phải chăng đó là một trong những biểu hiện của vùng đất còn ngái ngủ, không có gì nổi trội trong suốt thời kỳ phát triển của đất nước. Tôi lo ngại cho dự án to tát của bạn mình!
Cảnh và các nhân viên ra Bình Định trước hai ngày để chuẩn bị cho chương trình lễ ký kết. Tôi đến Bình Định thì mọi thứ đã sẵn sàng, chỉ còn việc ăn chơi! Như đã hẹn, tôi liên lạc tới Cảnh và được biết xe đến đón đã nằm chờ ở bãi đậu trước lối ra nhà ga phi trường. Có nhiều xe nhưng theo mô tả, chiếc Toyota Camry màu đen với biển số Sài Gòn nhanh chóng được nhận dạng. Trời vẫn mưa nhẹ. Không thấy ai bên chiếc xe nên tôi chần chừ, đứng khoảng 5 phút ở tiền sảnh nhìn ra. Tôi điện lần nữa và Cảnh cho biết tài xế đang tìm đón một người đi cùng chuyến bay với tôi - đó là ông Nguyên Ngọc. Bất ngờ với tin này, vì tôi đã thoáng thấy một người giống như Nguyên Ngọc từ phi trường Tân Sơn Nhất nhưng không thật chú tâm. Nghe Cảnh nói tôi chợt hiểu ra. Cảnh đã mời một số thân hữu và đối tác làm ăn tham dự lễ ký kết này, trong đó Nguyên Ngọc được mời có cả hai yếu tố trên vì Cảnh là thành viên sáng lập và Nguyên Ngọc là Chủ tịch Hội đồng Quản trị trường đại học Phan Châu Trinh ở Quảng Nam.
Dù chưa trực tiếp gặp mặt nhà văn Nguyên Ngọc nhưng tôi không hề xa lạ. Ông nổi tiếng với các tác phẩm “Đất nước đứng lên”, “Rừng Xà nu” (bút danh Nguyễn Trung Thành) .v.v. được đưa vào sách giáo khoa ở bậc trung học. Ông đã từng là Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn VN. Trong thời kỳ đổi mới giữa thập niên 80, ông có những tư tưởng đổi mới “quá mức” thể hiện trên báo Văn Nghệ nên đã không được "tín nhiệm". Sau thời kỳ làm báo, ông hoạt động tích cực trong lĩnh vực gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và chấn hưng giáo dục Việt Nam. Vài năm gần đây ông được biết nhiều qua những phản ứng mạnh mẽ việc khai thác Bauxite ở Tây Nguyên. Và mới nhất đầu tháng 8/2010 là vụ trường ĐH Phan Chu Trinh ở Quảng Nam…
Nghe Cảnh nói, tôi trở vào sảnh để tìm. Vì hành khách chuyến bay không nhiều nên khi quay lại, tôi đã nhận ra ngay Nguyên Ngọc đang đứng nói chuyện với một thanh niên. Đoán chắc đó là tài xế của Cảnh nên tôi tiến đến chào hỏi rồi tất cả cùng ra xe. Thế là tôi đồng hành với Nguyên Ngọc trên cùng chuyến xe về trung tâm thành phố Quy Nhơn. Một cuộc gặp bất ngờ lý thú!
Nếu hơn một giờ vật vờ “trên mây” cho tôi cảm giác vô vị, đôi lúc bất an, thì khi ở mặt đất, vào chung xe với Nguyên Ngọc, tôi cảm nhận được sự lý thú trong đoạn đường hơn hai chục cây số về thành phố Quy Nhơn, khi cơn mưa phùn vẫn đang lướt thướt. Hai “khách quý” của Trần Đức Cảnh từ hai bối cảnh khác nhau, một già một trẻ, một đồng hương một đối tác làm ăn, có tìm được sự đồng cảm nào khi sánh đôi về cùng khách sạn ? Bình thường có lẽ nhà văn Nguyên Ngọc không quan tâm và cũng chẳng cần cởi mở với một khách trẻ đồng hành xa lạ bất đắc dĩ trong chặng đường không xa này. Riêng tôi, mọi thứ ngược lại. Tôi biết ông, có sẵn sự mến mộ, là dịp được tiếp xúc với một văn nhân có “tư thế”, muốn chủ động gợi mở để có thể nghe được điều hay lẽ phải. Thật ra tôi đã có vài cơ hội diện kiến trong đôi lần Đức Cảnh đón tiếp ông ở Sài Gòn, nhưng gặp lúc bận nên tôi đã lỡ qua. Cuộc gặp hôm nay là lần đầu nhưng không quá bất ngờ. Trong tình cảnh như vậy tôi đã nhanh chóng nhập cuộc bằng những lời thăm hỏi chân tình, tự giới thiệu về bản thân, về sự hiện diện, những vấn đề thời sự, về văn nghệ .v.v. Với liều lượng giao tiếp vừa đủ xóa những ngăn cách và tạo được thân thiện, tôi thấy ông đã cởi mở. Lệch nhau hơn hai mươi tuổi, nhưng tôi xin phép được xưng anh em, ông đồng tình vui vẻ. Những nội dung chuyện trò qua lại chỉ ngắn gọn, khái quát vì cảm thấy quá ít thời gian chung nhau. Không phải chỉ có tôi, đây là lần đầu ông đến Bình Định, vẫn tâm trạng đi để hiểu biết về vùng đất. Tuy nhiên, những năm tháng chiến tranh ông thường có mặt hoạt động ở các vùng núi phía tây Bình Định, ở mật khu nổi tiếng An Lão.v.v. Trên xe, ông thỉnh thoảng có những cuộc điện thoại trao đổi, giải quyết công việc rất linh hoạt... Qua sự kiện còn đang nóng hổi giữa trường ĐH Phan Chu Trinh và Bộ Giáo dục, gợn lại trong tôi đôi điều… Tuổi của ông lẽ ra đã nghỉ ngơi, lo thú điền viên, vui cùng con cháu, bàn chuyện thế nhân. Ở tuổi 78 mà còn sống động như vậy rất hiếm người. Có lẽ ông muốn theo gương cụ Nguyễn Công Trứ “Nhà nước yên mà sĩ được thung dung, Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch.”?. Kinh tế đất nước đang phát triển theo hướng thị trường, người người sục sôi chuyện làm giàu thì yênsao được. Chỉ cực thân ông già!
Đường về Quy Nhơn chạy ngang qua các huyện An Nhơn, Tuy Phước, qua những thị trấn, ruộng vườn, nhà cửa, loáng thoáng núi đồi như kiểu làng quê Ninh Hòa, chẳng có gì đặc biệt. Điều này làm tôi liên tưởng tới đoạn đường từ phi trường Cam Ranh về Nha Trang - May mắn cho quê mình được thiên nhiên ưu đãi. Du khách đến với Khánh Hoà bằng đường hàng không, khi về Nha Trang qua chặng đường ven biển được chứng kiến một vùng núi non và trời biển tuyệt đẹp. Qua tra cứu trước chuyến đi xa, tôi thấy lộ trình từ phi trường về Quy Nhơn chạy qua khu vực thành Đồ Bàn – kinh đô xưa của Chiêm Thành nên mong được nhìn thấy vài chứng tích. Có lẽ trời mưa và chút bận tâm với Nguyên Ngọc, tôi đã bỏ qua nhiều dịp quan sát dọc đường.
Đức Cảnh chu đáo dặn tài xế khi xe về gần trung tâm Quy Nhơn, ghé vào quán điểm tâm đã được Cảnh chỉ định. Nghe tài xế bảo “nơi này cũng được”, tôi cảm nhận “chắc là…cũng được”. Thực ra khi ấy tôi thấy thèm một ly cà phê sữa nóng, sẽ được ấm lòng và tỉnh táo. Xe dừng trước một quán ăn bên đường. Vô cùng bất ngờ vì đối diện quán, xa bên kia đường, trong một khuông viên nhiều cây lá, nổi lên một cặp tháp Chăm. Tôi nghĩ ngay đó là Tháp Đôi mà nhiều tài liệu du lịch đã giới thiệu. Khẳng định hơn vì tài liệu cũng nói Tháp Đôi nằm ở đồng bằng, còn các tháp khác ở trên đồi, giữa hoang vu rừng núi. Tôi định chụp hình nhưng trời mù mưa nên chỉ đứng lặng nhìn. Tháp xây bằng gạch đất nung, không nhiều phù điêu và họa tiết, hình khối đơn giản, đã được trùng tu tươm tất. Vì ở đồng bằng và gần đường lộ nên mức độ huyền bí của đôi tháp này khó biểu hiện. Hình ảnh lúc này rơi đúng vào bốn chữ “mưa bay tháp cổ” như tựa bài hát của Trần Tiến. Nhưng lời “...Hoang sơ vũ điệu xưa. Cong cong năm ngón ngũ hành. Trăm năm bước mộng du. Nam mô nam mô nam mô nam mô Butda. Một vòng thôi miên thôi miên Apsara...” vẻ quằn quại, đồng bóng trong cách diễn xuất của ca sĩ Tùng Dương qua những câu hát về tháp cổ rất lạ lẫm. Chẳng biết tháp của Trần Tiến ở xứ nào mà phật Butda chung mâm với thần nữ Apsara, thật kỳ lạ! Đó là chuyện của Trần Tiến.
Tháp Chăm ở Bình Định có một giá trị và tầm ảnh hưởng lớn, không những ở lịch sử mà còn ở văn học nghệ thuật. Cần phải nhắc lại vài sự kiện: Từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14, Bình Định là kinh đô của vương quốc Chămpa với một nền văn hóa phát triển rực rỡ. Vì vậy vùng đất này còn tồn tại một số lượng lớn di tích Chăm đa dạng. Trong đó, tiêu biểu nhất là những ngôi tháp, gồm 8 cụm với 13 tháp lớn nhỏ. Những ngôi tháp Chăm Bình Định đã ngự trị, gieo cảm hứng sáng tác cho nhiều văn nghệ sĩ như: Nhạc sĩ Xuân Tiên với Hận Đồ Bàn  - “Người xưa đâu, mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu. Lầu cát đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu”. Nhạc sĩ Văn Cao trong một lần đến Bình Định, đối mặt các tháp Chăm đã ngẫu hứng mấy câu thơ bất hủ: “Từ  trời xanh/ Rơi/ Vài giọt tháp Chăm/ Quanh Quy Nhơn/ Tôi/ Như đứa trẻ yêu huyền thoại”. Hàn Mặc Tử cũng từng viết: "Mà vì đâu những tháp Hời kiêu ngạo/ Hằng muôn năm sống mãi dưới sương đêm". Hơn ai hết, Chế Lan Viên đã làm kinh ngạc giới văn chương khi chỉ 17 tuổi đã cho ra tập thơ Điêu Tàn với những ý thơ lạ lùng - Dù không phải là quê quán nhưng những năm sống và làm học trò của trường collège de Quy Nhơn, hồn vía những ngôi tháp Chăm, những chứng tích đổ nát của kinh thành xa xưađã ám ảnh tận sâu thẳm chàng học trò Phan Ngọc Hoan, để sau đó ông hóa thân thành con dân Chàm, thương tiếc khóc than cho một đế chế suy vong. Chế Lan Viên đã nhập vai với những lời thống thiết “Tạo hóa hỡi ! Hãy trả tôi về Chiêm quốc!/ Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian/ Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chướng mắt!”,… luôn thương tiếc cơ đồ của tiền nhân “Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi/ Những đền xưa đổ nát dưới thời gian/ Những sông vắng lê mình trong bóng tối/ Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than”, rồi nhớ về một thời huy hoàng, hoan lạc“Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng/ Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh/ Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng/ Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành” và  “Đây, trong ánh ngọc lưu ly mờ ảo/ Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà/ Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo/ Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa”...Có lẽ những yếu tố trên cùng với nhiều huyền hoặc khác đã làm cho Bình Định luôn chìm đắm và nhuốm màu u uẩn...
Một phần cổng vào Anh Nhật Gia Viên
Nguyên Ngọc bước nhanh vào quán để tránh mưa, tài xế đậu xe rồi tiếp theo, tôi thẩn thờ với tháp, vào sau. Cổng tam quan dạng xưa, mái ngói, sắc màu trầm lặng. Nhìn thật chăm chú mới đọc được tên quán - “Anh Nhật Gia Viên”. Chữ nghĩa nghe hơi kêu làm tôi tỉnh hồn. Lối vào “gia viên” lát gạch tàu, được chào đón bởi hai hàng cau và hoa dăm bụt. Vào bên trong có khoảng sân rộng, lác đác những khóm cây dân dã như : mía, chuối nước, ngô, trúc, bông trang.v.v., bên cạnh là gian nhà hàng có kiểu thức Việt Nam, dáng vẻ trang trọng. Tôi ngẫm nghĩ khôi hài – “gia và viên” là thế, không biết “ẩm và thực” ra sao? Nhớ lại lời gợi ý của tài xế - “cũng được”, tôi yên tâm, vấn đề còn lại là “giá và cả”…Kiểu mô hình làm ăn thế này ở Sài Gòn đã có nhiều, tôi không quá ngạc nhiên. Ở Bình Định cơ ngơi với đẳng cấp này thuộc loại khó kiếm! Đức Cảnh đã khéo chọn!
Sáng sớm nhưng Anh Nhật Gia Viên đã có nhiều thực khách. Tìm một góc thoáng để ngồi. Nguyên Ngọc còn đang miệt mài đứng bên bậc thềm nhà hàng với cuộc điện thoại. Các bồi bàn nam nữ mặc đồng phục bà ba với chút cách điệu, trông lạ mắt. Thực đơn gồm những món đặc trưng của Bình Định và dân gian : bánh xèo, bánh canh, bánh bèo, bánh ướt, bánh đúc, bánh nậm, bánh căn, các món bún, cháo.v.v. Khá khen cho gia chủ Anh Nhật đã cố gắng thể hiện sự thuần Việt của gia viên. Tôi thấy món nào “cũng được”, nhưng cuối cùng chọn bánh bèo và thức uống như ý định ban đầu - cà phê sữa nóng. Gần 10 phút sau, Nguyên Ngọc vào bàn. Cầm thực đơn, ông do dự hồi lâu rồi chọn bánh bèo và … cà phê sữa nóng. Tôi bất ngờ và nói vui với ông về sự trùng hợp. Ông phân tích sự việc cũng giống suy nghĩ của mình, không ngờ đã "tâm đầu ý hợp" đến vậy.
Trong khi chờ nhà hàng dọn thức ăn, tôi lấy máy hình ra “hành sự”. Trước là chụp cảnh nội thất nhà hàng. Đây là một dạng nhà rường cổ của VN, thường có các chi tiết cấu tạo mái, kèo, cột, các diềm bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo và có hình dáng hoa mỹ. Đặc biệt kết cấu của nhà được ghép nối toàn bằng chốt, mộng gỗ để tháo lắp dễ dàng. Có thể gọi kiến trúc này là mô hình thu nhỏ của cung điện nhà Nguyễn, khác với nhà ở dân gian. Thời trước, chủ nhân những ngôi nhà loại này là quan lại hoặc người giàu có quyền lực, phần nhiều có xuất xứ từ Huế. Gặp thời khó khăn, không đủ khả năng để bảo quản ngôi nhà, nhiều gia đình đành phải bán đi để tránh cảnh suy sụp của ngôi nhà và duy trì cuộc sống. Khi kinh tế hồi sinh thì loại nhà này là đối tượng săn tìm của nhà giàu thích chơi đồ cổ hoặc phục vụ kinh doanh du lịch.v.v. Nhà rường hiện tại được tôn vinh và giá cả cũng theo đó mà lên trời, một ngôi nhà nhỏ không dưới bạc tỉ. Cơ ngơi của Anh Nhật Gia Viên thuộc loại lớn và khá hoàn hảo, có lẽ chủ nhân đã chỉnh sửa, tân trang khi phục dựng làm nhà hàng du lịch.
Không quên chụp hình lưu niệm với Nguyên Ngọc. Tưởng ngại, nhưng ông vui vẻ hưởng ứng. Chụp tấm thứ nhất chưa vừa ý, tôi đề nghị chụp tấm thứ hai, ông bất chợt nghiêng người vào vai tôi rất tình và được một bức ảnh hết ý. Có lẽ cái nghiêng của ông còn đắt giá hơn cái nghiêng của một cô gái đẹp, tôi rất hài lòng! Chụp hình xong, thức ăn cũng vừa dọn ra. Vật dụng đầu tiên gây bất ngờ chúng tôi là chiếc dầm bằng tre dùng để ăn bánh bèo chén. Bao nhiêu năm qua, ăn rất nhiều bánh bèo từ Sài Gòn, Nha Trang, Ninh Hòa nhưng quên mất chiếc dầm này. Nó đơn sơ nhưng có sức gợi nhớ. Nguyên Ngọc cũng bồi hồi. Nhà hàng đã khéo khai thác những chi tiết tinh tế, không những món ăn mà còn ở cách ăn.
Một khẩu phần bánh bèo 5 chén giá 15.000đ. Chén tuy lớn, nhưng để tạm "gọi là", sức tôi phải dùng 3 phần như vậy. Nhớ mỗi lần về Ninh Hòa, ăn bánh bèo đầu xóm đến căng bụng nhưng giá chừng một nửa. Tôi và Nguyên Ngọc mỗi người kêu một phần để ăn lấy vị, chừng đó chỉ đủ tráng sơ qua cái bao tử. Nếu nạp thẳng bụng như ở Ninh Hòa thì chắc Trần Đức Cảnh chạy mặt. “Gia và viên” như vậy thì “giá” phải “cả” là chuyện không tránh khỏi! Có lẽ ly cà phê sữa nóng mới thực sự quyết định cho sự tươi tỉnh sáng nay. Tôi chỉ cần như vậy.
Một lần nữa nhìn thấy Tháp Đôi. Trời âm u nên tháp thắm lại và có hồn hơn. Câu hát “mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ” của Trịnh Công Sơn được cất lên lúc này sẽ gần gũi và hợp tình hơn… Xe tiếp tục lăn bánh và mưa lại theo về Quy Nhơn.
Xe đưa chúng tôi về khách sạn Sài Gòn – Quy Nhơn, một khách sạn bề thế, nằm ở vị trí khá tốt trên đường Nguyễn Huệ dọc bờ biển. Được biết đây là khách sạn 4 sao, thuộc loại hạng nhất ở Quy Nhơn. Nhìn biểu tượng hoa mai vàng 5 cánh bên cạnh thương hiệu, tôi nhận ra ngay Saigontourist - một đơn vị kinh doanh du lịch nổi tiếng của Sài Gòn. Buổi lễ ký kết của Cảnh sẽ được tổ chức nơi đây. Đức Cảnh chờ đón chúng tôi ở sảnh khách sạn. Bất ngờ với sự hiện diện của Cảnh phu nhân. Có lẽ đây là sự kiện trọng đại nên Cảnh phải “điều động” bà nhà từ Mỹ qua cùng lo!
Nhận phòng gần 9h sáng. Buông hành trang tôi nằm dài, không thể chợp mắt dù nệm ấm chăn êm và mắt cay sè. Bật TV trong vô thức, bấm liên tục các kênh nhưng không hiểu mình đang muốn tìm chương trình gì. Chút cảm nhận sự bất ổn và mông lung... Mức hào nhoáng và tiện nghi của căn phòng bốn sao không hẳn là liệu pháp tốt để trấn an giúp tôi yên nghỉ. Phone tới các vị khách Ninh Hoà để khoả lấp khoảng trống vô vị. Các bạn trên đường đi Quy Nhơn, trời Khánh Hoà đang nắng đẹp... Lại cầm remote nhưng màn hình TV cứ trơ ra. Chợt lưu ý chiếc TV đời cũ, cái remote không còn nhạy. Lẽ ra với tiêu chuẩn khách sạn 4 sao phải là một chiếc TV LCD đời mới?! Nhiều người cho rằng chuẩn khách sạn của Việt Nam nên hạ bớt khoảng nửa hoặc một sao mới phù hợp. Nghĩ ngợi vậy chứ có “bốn sao” hay “ba sao rưỡi” với tôi lúc này cũng “chẳng sao”!
Biển và đường phố Quy Nhơn trước khách sạn 
với cơn mưa buổi sáng...
(chụp lúc 11h30, ngày 23/8)
Thời tiết này đành phải cửa đóng then cài?! Thế là mất đứt buổi sáng. Nằm mãi không yên, xem TV hoài cũng chán, tôi bật dậy đến cửa sổ để nhìn trời đất. Kéo bức màn, ngạc nhiên vì đó là ban công (gọi đúng là logia). Từ ban công lầu 5, được hướng nhìn tốt, thấy một góc phố Quy Nhơn và biển Thị Nại. Trời vẫn âm u mưa nhẹ. Mờ xa là chiếc cầu dài bắt ngang qua biển. Tôi nhận ra công trình nổi tiếng - cầu Nhơn Hội, khánh thành năm 2006, dài 2.5 km, là cây cầu dài nhất Việt Nam hiện nay. Thời tiết không tốt nhưng biển vẫn lặng sóng, do đây là địa thế đầm vịnh, chung quanh có những dãy đồi thấp bao bọc kín gió nên là chỗ trú ngụ tốt cho tàu thuyền, được chọn một phần làm cảng Quy Nhơn. Cũng chính vì kiểu địa thế này mà nơi đây là bãi chiến trường khốc liệt của nhiều giai đoạn lịch sử Việt Nam.
Một góc phố Quy Nhơn, phía xa là chiếc cầu bắt 
qua đầm Thị Nại và khu CN Nhơn Hội 
(chụp ngày hôm sau, 24/8)
Lược lại các biến cố lớn mới thấy hết tầm và ý nghĩa của vị trí:
-   Năm 1089 vua Lý Thánh Tông thân chinh cùng Lý Thường Kiệt dùng thuỷ quân tấn công vào Thị Nại, đây là cửa ngõ vào kinh thành Đồ Bàn của Chế Củ, Quân Đại Việt đã đánh bại quân Chiêm…
- Năm 1284, Thoát Hoan cùng Toa Đô mưu đánh Chiêm Thành qua cửa Thị Nại nhưng thất bại, phải tháo chạy bị quân Đại Việt truy đánh tan tác.
- Năm 1377 Trần Duệ Tông cho quân tiến vào cửa Thị Nại và đánh thành Đồ Bàn. Bị Chế Bồng Nga lập mưu tiêu diệt gần hết tướng sĩ. Duệ Tông tử trận.
- Năm 1403, quân Hồ Hán Thương (con của Hồ Quý Ly) vào Thị Nại để đánh Đồ Bàn, nhưng thất bại.
- Năm 1470, vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm 20 vạn tinh binh vào đánh Thị Nại. Vua Chiêm là Trà Toàn bỏ Thị Nại, rút về giữ Đồ Bàn. Quân của Lê Thánh Tông hạ thành Đồ Bàn, giết 40.000 người, bắt Trà Toàn và hơn 30.000 tù nhân, kết thúc triều đại thứ 14 của Chiêm Thành.
- Năm 1792, 1793, 1799 Nguyễn Ánh 3 lần kéo quân vào Thị Nại đánh với Tây Sơn nhưng đều thất bại. Đến trận thuỷ chiến dữ dội tại đầm Thị Nại năm Tân Dậu 1801 làm cáo chung triều đại Tây Sơn tại nơi này.
- Năm 1885 quân Pháp đổ bộ lên Thị Nại, quân của Triều Nguyễn không chống cự nổi phải đầu hàng.
Những tháp Chăm dù hoang phế vẫn là tồn tại hữu hình, được chứng kiến sẽ dễ suy tưởng. Đầm Thị Nại dù khói lửa ngút trời, máu trào ngọn sóng, nhưng khi trời yên bể lặng, non nước hữu tình, đứng trước biển tâm hồn dễ thăng hoa, nghĩ điều tốt đẹp. Tô Đông Pha một lần qua sông Xích Bích “sực nhớ kẻ quày ngang ngọn giáo” trong trận thuỷ chiến lẫy lừng của lịch sử Trung Hoa, đã viết nên những vần thơ để đời. Với một Thị Nại như thế, tôi nghĩ cũng đáng được các văn thi nhân Việt Nam chấp bút. Rất tiếc Chế Lan Viên đã dốc hết tâm sức khóc than cho dân Chàm nên không còn tư thế để ngợi ca dân nước mình. Phải chi những nhà thơ Bình Định quan tâm đến hàng vạn sinh linh dân Việt qua những cuộc chiến ở Thị Nại sẽ có những tác phẩm giá trị. Quách Tấn viết địa chí Bình Định với bút danh Trường Xuyên có nhắc : “Thị Nại xưa kia vũng chiến trường/  Nổi chìm thế sự mấy triều Vương/ Non mây nghi ngút nơi binh dữ/ Biển Ráng chưa tan bọt máu hường/…” cũng chỉ là chút thi vị cho địa danh chứ chưa nói lên được điều gì xứng tầm với vùng non nước gắn liền với gần một ngàn năm binh lửa.
Kéo chiếc ghế ngồi ngắm phố và biển trong mưa, hy vọng tìm được những cảm hứng, chỉ có những ý nhạc thoáng hiện rồi lướt qua, một chút “mùa thu trong mưa” “Cơn mưa phùn” rồi “Biển nhớ”... rời rạc lộn xộn. Nhìn trên cao thấy hình dạng bờ biển Quy Nhơn gần giống bờ biển Nha Trang - một đường cung và hai đầu là hai mỏm núi chạy đâm ra biển. Sinh hoạt của phố xá Quy Nhơn và đường Nguyễn Huệ nhiều đoạn bị ngăn cách với biển, vài làng chài xen lẫn, tàu thuyền của ngư dân đậu ngổn ngang... Nếu sự hình thành của phố biển Nha Trang là phù hợp thì Quy Nhơn đã trục trặc lớn. Hiện trạng này rất khó chỉnh sửa để phát triển thành một phố biển sinh động.
Bờ biển và phố Quy Nhơn (nhìn từ khách sạn về phía Ghềnh Ráng)
10h30. Quay lại giường với TV đang lải nhải quảng cáo, bấm remote dừng ở đài Bình Định. Một chút tĩnh tại tôi muốn xem sinh hoạt địa phương như thế nào, có đặc điểm gì?. Nhận xét về Quy Nhơn – Bình Định tôi hay dùng Khánh Hoà quê mình để so sánh. Có lẽ do hai vùng đất duyên hải có nhiều nét tương đồng. Cứ mãi chủ quan ca ngợi Khánh Hoà được nhiều ưu ái của thiên nhiên, có thế mạnh về “cảnh” mà quên mất Bình Định có một nền văn hoá lâu đời, mạnh về “người”, vùng đất được mệnh danh “đất võ, trời văn”. Tôi giật mình khi điểm lại, bỏ qua những chính kiến, thấy rằng Bình Định có nhiều nhân vật tạm gọi là “danh nhân văn hoá” hơn hẳn Khánh Hoà : Ngoài nhóm thơ Bình Định với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu nổi tiếng trong giới văn chương VN thế kỷ 20; trước đó có nho sĩ Đào Tấn giỏi thơ văn được xem là ông tổ của nghệ thuật hát bội; nhà văn Phan Tứ với “Mẫn và tôi, Bên kia biên giới”; trước 1975 có nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ với “Bông hồng cái áo, Những ngày xưa thân ái”, nhạc sĩ La Hữu Vang với “Không ai ngăn nổi lời ca, Tổ quốc ơi ta đã nghe.”; hiện tại có Trần Long Ẩn với “Một đời người một rừng cây, Đi qua vùng cỏ non”; nhà văn Đào Hiếu với “Nổi loạn, Lạc đường”; Nguyễn Mộng Giác với “Sông Côn mùa lũ, Tiếng chim vườn cũ ”.v.v. Và các trường Quốc Học Quy Nhơn, Sư Phạm Quy Nhơn đã đào tạo nhiều thế hệ nhân sĩ, nhà giáo cho các tỉnh, từ Quảng Nam cho tới Bình Thuận...với những Lê Văn Thiêm, Phạm Hổ, Nguyễn Xuân Sanh, Giang Nam, Trịnh Công Sơn .v.v. đã sống và học tập ở xứ sở này... Một con đường dọc bờ biển dài gần 5 km, ở vị trí cực tốt đặt tên Xuân Diệu - nhà thơ tình số một Việt Nam, cũng nói lên được phần nào văn hoá của người Bình Định. Tôi suy nghĩ - Có phải vùng đất và người với nhiều tố chất văn hoá thâm trầm như vậy sẽ khó phát triển mạnh mẽ chăng? Nhưng chúng ta cũng thấy một nhà giàu hàng top Việt Nam hiện nay là Đoàn Nguyên Đức (Bầu Đức) - chủ tập đoàn và đội bóng đá Hoàng Anh Gia Lai, là người VN đầu tiên dám tậu máy bay riêng...Người Bình Định có cái để tự hào và đáng được nể trọng!
11h - Đức Cảnh điện báo 12h gặp nhau ở sảnh khách sạn đi ăn cơm trưa. Không đợi đúng giờ ngọ, tôi thay đổi "xiêm y" rồi “hạ san” ngay để thoát khỏi không gian chăn chiếu, xa lạ đơn độc này?!. Dù sao ở sảnh cũng thoáng đãng hơn, được ngắm sinh hoạt khách sạn, quan sát người xe đường phố... Nhìn thấy một bảng quảng cáo ở tiền sảnh - “…nơi tắm biển sạch đẹp, an toàn, có lưới chắn cá mập”, chợt nhớ trước đây vài tháng, dư luận xôn xao tin cá mập cắn người tắm biển ở Quy Nhơn. Tôi cười thầm - quảng cáo như thế chẳng khác nào “lạy ông tôi ở bụi này”, ai dám vui đùa với hàm cá mập!. Ngồi ở sảnh chừng 15 phút, vợ chồng Cảnh rồi Nguyên ngọc lần lượt xuất hiện, cùng ngồi vào salon trò chuyện. Có lẽ đến giờ hẹn nên Cảnh gọi và nhận nhiều cuộc điện về chuyện ăn trưa với những ai đó, tôi nghĩ sẽ là một tiệc có nhiều người tham dự?
12h - Nơi đến là một nhà hàng loại đại chúng, nằm ngay phố, đang nhộn nhịp. Như suy đoán, vào khu vực riêng đã thấy hơn một tiểu đội thực khách đang chờ. Bất ngờ với sự hiện diện của TS Hồ Ngọc Minh - một nhân sĩ Ninh Hoà có nhiều thân tình, gắn bó với tôi từ Hội Thân Hữu Sài Gòn đến Quỹ Khuyến Học, hiện là Phó trưởng Ban Quản lý ĐT và XD Khu Đô thị Tây Bắc Sài Gòn. Lực lượng chiếm đa số bữa tiệc là lính của anh Ngọc Minh. Ngoài quan hệ đồng hương, Đức Cảnh đang có chút “dan díu” công việc với cơ quan anh Ngọc Minh nên có cuộc đón tiếp nồng hậu này… Các vị khách Ninh Hoà đã chạy qua khỏi Phú Yên, hẹn sẽ cấp tốc đến nơi cùng ăn trưa. Tôi vừa ăn vừa đợi, nhưng tiệc gần tàn, 3 ông bạn đồng hương là Liên Quang Hiệp, Trương Kỉnh, Nguyễn Xuân Long mới thấy xuất hiện! Tôi buộc phải ngồi thêm một mâm nữa rồi cùng về khách sạn với những người bạn đến sau. “Tha phương ngộ… đồng bọn” thấy hào hứng và ấm áp.
Dương Tấn Long, Trương Kỉnh và 
Nguyễn Xuân Long trước khách sạn
Quan niệm kiểu Tây - hai người đồng giới ở chung phòng là “có vấn đề”. Ngại điều đó nên Cảnh định cho mỗi thằng ở riêng một phòng. Chúng tôi đề nghị ghép hai thành một cho đỡ tốn kém - “ăn thì nhiều chứ ở bao nhiêu”, bạn già xa xứ được dịp ở chung cho vui chứ có vấn đề gì với hai gã đàn ông không chỗ nào…lệch lạc!?. Hai quan tỉnh ở một phòng, tôi và Hiệp một cặp. Nhờ sự gán ghép ấy tôi được những giây phút tâm sự quý giá và một giấc ngủ trưa tuy ngắn nhưng êm ả.
Buổi chiều, các bạn muốn tìm chút không khí quán xá. Tôi liên lạc tới “thổ địa” là TQC - một kiến trúc sư bạn học quê Quy Nhơn, trước là để chào thăm, sau là hỏi chốn ăn chơi và rũ đi cùng. Bạn vui vẻ sẵn sàng và dẫn đến một địa chỉ đích đáng. Choáng ngợp với quán cà phê sân vườn Hương Việt có nhiều cây kiểng, đá phong thuỷ, đá cảnh và một ngôi nhà rường đồ sộ, hơn hẳn “Anh Nhật Gia Viên” về chất lẫn lượng. Những chậu kiểng và đá cảnh ở đây không những có kích cỡ “hơn người’ mà còn nhiều tính nghệ thuật, được chế tác công phu. Tôi không nghĩ quán đầu tư quy mô thế này để làm kinh tế. Chủ nhân phải là tay chơi hoặc một nhà giàu, lập quán để thoả mãn thú vui hoặc thể hiện mình. Bạn TQC giới thiệu thêm vài địa chỉ ở ngoại thành có quy mô cây kiểng còn hơn nơi này!... Từ lâu giới chơi cây cảnh trong cả nước đã tôn vinh cây cảnh Bình Định là số một - nơi có nhiều nghệ nhân và vườn kiểng độc đáo!... Vào quán nước nhưng các bạn cứ mải mê đi nhìn ngắm. Quang Hiệp đang hoạt động kinh doanh về phong thuỷ nên tỏ vẻ hiểu biết, quan tâm, cho nhiều nhận xét đáng ghi nhận. Xuân Long cũng thích thú “đồng thanh tương ứng” nên đề tài cứ xoay quanh cây và đá.
Nguyễn Xuân Long, Liên Quang Hiệp  &  
một cây lộc vừng ở cà phê Hương Việt
Loay hoay đã xong buổi chiều và một tối cơm nước không có gì đặc biệt cho ngày đầu đến xứ lạ...
24-8. Lễ diễn ra vào buổi sáng nhưng 10h mới bắt đầu. Khai mạc muộn như vậy nên chúng tôi không để thời gian bị động, 6h30 đã xuống nhà hàng ở tầng trệt để “kiếm ăn”. Một buffet sáng thịnh soạn đã chờ sẵn, chúng tôi là những thực khách đầu tiên. Thức ăn buffet của nhà hàng 4 sao phong phú và hấp dẫn nhưng rất tiếc cái bao tử không tăng thêm một sao nào! Một bữa điểm tâm thoải mái thú vị... Vẫn là chuyện cây và đá nhưng vì hôm qua “mục sở thị” chưa thỏa mãn nên sau khi “đánh chén no say”, một lần nữa cả bọn kéo nhau đến cà phê sân vườn Hương Việt. Tôi không quên điện thoại mời bạn TQC cùng tham dự. Bất ngờ khi TQC đến cùng vợ và mang tặng tôi một bình rượu Bầu Đá 2 lít. Loại rượu này được chưng cất ở vùng An Nhơn, một đặc sản nổi tiếng của Bình Định, như rượu Làng Vân ở miền Bắc, rượu Gò Đen ở miền Nam...Đặc biệt đây là bình rượu do cơ sở gia đình bạn TQC sản xuất, có dán tem nhãn đầy đủ. Tôi không là người ưa rượu nhưng thấy món quà này rất ý nghĩa, dự định sẽ đem chưng vào ngày tết thay rượu Tây, nhằm hù doạ mấy ông bạn nhậu. Các đồng hương đang mải mê với cây - đá, tôi được dịp ngồi trò chuyện nhiều với đồng môn, ôn lại những ngày ở đại học thời bao cấp khó khăn cách đây hơn 30 năm, sinh viên tỉnh lẻ dễ đồng cảm và gần gũi nhau nên có nhiều kỷ niệm.
9h30 - Gần đến giờ khai mạc, chúng tôi vội về khách sạn. Lên đồ đạc chàng nào trông cũng đạo mạo, trịnh trọng. Chợt mơ hồ - Chẳng biết sự hiện diện của chúng tôi có làm được gì cho “sự nghiệp” của Trần Đức Cảnh? Hay chỉ toàn vui chơi? Nhưng tốn kém là sự thực và không nhỏ!. Có lẽ Đức Cảnh cần một hỗ trợ tinh thần hoặc một thứ background nào đó. Điểm lại những gương mặt Ninh Hoà hiện diện ở Quy Nhơn, nếu kể cả anh Hồ Ngọc Minh thì đã có 3 vị là quan lớn cấp tỉnh, trong đó 2 vị có bằng tiến sĩ, một thạc sĩ. Tôi và Quang Hiệp chẳng kém nhưng chỉ là hạng tài tử đóng vai phụ!. Khá khen Đức Cảnh đã tập hợp được một background cây nhà lá vườn không tệ.
Dương Tấn Long
Theo http://www.ninhhoatoday.net/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đội Mũ Lệch Thả vỏ quýt ăn mắm ngấu Hai năm nay, Cả Lĩnh làm ăn phát đạt. Chẳng thế mà hắn ta lại dựng ngay ở phố chính một tòa nhà ...