Thứ Ba, 12 tháng 4, 2016

Nhạc Việt qua các thời đại

 Nhạc Việt qua các thời đại
1.  Trong kho tàng văn hóa của một dân tộc, một quốc gia, âm nhạc đóng một vai trò chủ yếu. Âm nhạc là một phương tiện diễn tả cảm xúc và tư tưởng vô cùng hữu hiệu và mạnh mẽ. Khi tiếng nhạc của một bài nhạc hay trổi lên, nó gợi sự chú ý của ta ngay  Nhạc có thể làm ta vui, buồn hay thanh thản, thoải mái, đó là tác dụng của âm nhạc trên tình cảm cuả ta. Sau đó, lời bài nhạc làm ta suy nghĩ, gợi những kỷ niệm, chia sẻ một triết lý sống vân.. vân.. Nói chung không có một nền văn minh nào lại thiếu nhạc hay.
Âm nhạc của nước  Việt ta đã bắt đầu có từ rất lâu. Trong thời tiền Lê, vua Lê Thánh Tôn đã quy luật âm nhạc bằng cách đặt ra bộ Đồng Văn để hòa nhạc và bộ Nhã Nhạc để xướng hát.
Đàn nhạc, ca hát, qua các thời đại lịch sử nước ta, đã gắn liền với phong tục, đời sớng của dân ta và đã luôn luôn là một thú tiêu khiển thanh tao của mọi giới, từ người thường dân đến các hàng quý tộc.
Về lý thuyết, nhạc cổ truyền của ta dựa trên căn bản Bát âm và Ngũ Cung. Bát âm là những âm thanh phát ra từ:  Kim là kim loại, Thạch là tiếng đá (tiếng khánh), Thổ là tiếng đát sét nung,  Tì là tiếng phát ra từ dây tơ,  Trúc tức là tre, nguồn gốc của tiếng sáo, Bào là tiếng trái bầu, trái bí, dùng làm tiếng kèn, Cách là tiếng da thuộc căng thẳng, tức là tiếng trống, và sau cùng là Mộc, tức là tiếng mõ, tiếng phách.
Âm nhạc cổ truyền của ta dựa theo ngũ cung là Hồ, Sì, Sang, Xế, Líu, giống như ngũ cung của người Trung Hoa.
2. Về nhạc cụ, cả thẩy các loại đàn, sáo, kèn, chiêng trống của ta có trên dưới 40 loại. Một số nhạc cụ có nhiều ảnh hưởng của Trung Hoa, Nhật Bản và Đại Hàn. Tuy nhiên có ít nhất là 4 loại nhạc cụ là hoàn toàn của Việt Nam: đó là đàn bầu (hay độc huyền cầm), đàn Nhị (đàn Cò), đàn Cầm Nam ( là một loại đàn kết hợp các đặc tính của các đàn Cầm, đàn Sắt và đàn Tỳ Bà), và Trống Cơm. Hiện giờ trong tất cả các nhạc cụ cổ truyền Việt Nam, các nhạc cụ thông dụng nhất là đàn Tranh, đàn Nguyệt, đàn Bầu, đàn Cò, Sáo, Kèn và các loại Trống, Chiêng.
Trong khi tìm hiểu âm nhạc cổ truyền của nước ta, những tài liệu làm tôi thích thú nhất là các chương viết về các loại ca, loại hò của người thường dân nước ta. Mỗi miền có các loại hát hò riêng. Thí dụ như miền Bắc thì có hát Ví, hát Quan Họï, hát Trống Quân, hát Cò Lả. Ở miền Trung thì có Hò Huế, hát Huế (Cổ Bản, Lưu Thủy, Kim Tiền, Hành Vân, Nam Ai, Nam Thương vân.. vân..), miền Nam thì có Hò Cấy, Hò Chèo Thuyền, hát Bội, hát Cải Lương, Vọng Cổ vân.. vân…
Sở dĩ tôi để ý đến những loại nhạc này, là vì thứ nhất, đó là những loại nhạc đơn sơ mà lại trung thực nhất. Người hát hò chỉ lấy giọng và tình cảm riêng của mình mà diễn đạt tâm sự, không có sự hỗ trợ của các nhạc khí. Nói tới đây tôi chợt nhớ tới thập niên 60 là thời kỳ âm nhạc Mỹ rất phong phú và đa dạng. Những ca sĩ rất được  ái mộ và được coi như thật tài hoa là những danh ca Joan Baez, Bob Dylan, John Denver vân.. vân.. Trong lúc họ ca, họ chỉ dùng một cái đàn guitar tự đệm theo. Đó là những trường hợp hiếm. Ngoài ra it có ai có đủ bản lãnh để hát mà không cần nhạc đệm.
3. ...Điểm đăc biệt khác của âm nhạc bình dân VN, là nội dung các bài hát, hò, những hát bội, hát tuồng vân...vân .. đã đi liền với nếp sống của người thường dân, và phản ảnh những gì xẩy ra trong cuộc sống của họ.
Các giọng hát trong khi làm việc như Hát Đò Đưa, Hò Kéo Gỗ, Hò Tát Nước, Hát Chăn Trâu cho ta một ý niệm về những công việc và những phương cách sinh sống của dân ta. Những loại Hát Ví, Hát Trống Quân của các thanh niên thiếu nữ tỏ tình với nhau thật là hồn nhiên, dễ thương và nghệ thuật (và có lẽ thật hơn là tỏ tình qua điện thoại hay Internet!!).. Mặt khác, Hát Giám Thời Sự là một loại hát phản ảnh những biến động thời sự, và Hát Vè là loại hát dùng để khuyên răn người đồng thời hãy theo những tập quán lành mạnh trong xã hội.
Trong nhiều thời đại lịch sử, phần lớn các loại âm nhạc của nước ta đều được truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Sự lưu trữ và phổ biến các bài nhạc không được hệ thống hóa, nên chắc chắn đã có nhiều mất mát trong tủ nhạc cổ truyền của chúng ta. Đây là một điều đáng tiếc, vì tôi tin rằng kho tàng âm nhạc của ta đã phong phú và đa dạng hơn những gì chúng ta biết tới rất nhiều.
Tới thời đại nhà Nguyễn, sự giao dịch với người ngoại quốc, đặc biệt là nguòi Pháp, đã đưa tới hai hiện tượng quan trọng, đó là sự chuyển ngữ từ tiếng Nôm qua tiếng Quốc Ngữ, và sự xuất hiện của Tân Nhạc. Âm Nhạc cổ truyền có nhiều ảnh hưởng của âm nhạc Trung Hoa và Nhật Bản. Tân Nhạc có nhiều ảnh hưởng của Pháp và Mỹ, nhất là Mỹ.
4. Cũng như nhạc cổ truyền, tân nhạc đi liền với  đời sống và diễn tiến lịch sử của nước ta trong các thời đại cận kim. Nhạc tiền chiến, nhạc Phạm Duy, nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc Ngô Thụy Miên vân...vân... là biểu hiện của những sắc thái và cá tính của nếp sống cận đạï của người Việt Nam.
Tới đây, tôi xin kết thúc bằng một vài câu hỏi để chúng ta suy tư, và .... còn chút gì để nhớ:
a) Tân nhạc và cổ nhạc có thể hòa đồng và giao duyên không? Hay Cổ Nhạc là hoài cổ, và Tân Nhạc là lai căng?
b) Sinh hoạt âm nhạc nghệ thuật có thể chú trọng nhiều hơn trên bình diện văn hóa, hay chỉ tiếp tục đặt nặng tính cách giải trí và thương mại?
c) Âm nhạc nghệ thuật là một phương tiện để chia sẻ cảm xúc, và diễn đạt tư tưởng, hay là một sự trình diễn và tìm danh lợï?
d) Làm sao để phát triển  âm nhạc nghệ thuật của người Việt chúng ta theo chiều hướng lành mạnh, xây dựng để đóng góp những gì độc đáo, xuất sắc của văn hóa nước ta vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại?.
     BS VŨ THẾ HƯNG
Theo http://www.vietbang.com/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà th...