Nói về thơ gần như sống
trong thơ một lần nữa. Đó cũng là cảm nhận dây chuyền, khi tình cờ gần
gũi với dòng thơ. Thơ, vốn nội tâm, là niềm vui, nỗi buồn từ cuộc sống. Thơ vào đời và đời cũng nhập thơ. Như dòng nước với nụ cười; như hơi thở
của sóng vơi.
Trong thơ, biển cả đã đổi
màu, huyền biến vu vơ, trong tầm mắt và chiều sâu của hồn người thi sĩ. Tình yêu cũng vậy, qua lời lẽ ẩn vùi nhiệt độ, đã hoá chất thơ thành thứ ánh
sáng tuyệt mỹ, sau và trước cả mọi bình minh, như tia nắng cuối cùng giữa lòng
đêm và ngọn lửa rừng vừa chợt tắt, khi vạn vật còn hoang mê, chìm đắm, và chữ
nghĩa còn lang bạt, lạnh nguồn.
Thơ đôi khi cũng yêu sách,
đòi hỏi. Đòi hỏi mình và yêu sách cả cuộc đời. Đòi dòng sông nhập thành
biển cả. Hỏi sao nguồn cảm hứng ngược dòng khơi. Yêu hạt sương tích
tụ thành mây. Và sách cả niềm tin từ giọt nước mắt loài người. Từ nỗi
đau triền miên quanh thế giới. Từ giọng hát vào đời, bỗng chia đôi.
Còn yêu sách, đòi hỏi gắt gao hơn thế nữa, chẳng qua vì đáy lương tâm còn
nguyên vẹn, hay đam mê chưa tắt hẳn mà thôi.
Thơ huyền biến, lúc hiền
hoà, lúc độc ác. Như vị cay, vị ngọt cuối làn môi. Có lúc say đắm
vô hạn. Có lúc hạn hẹp, chua xót, cạn vơi. Hư hư, thực thực. Ngập tràn trong dấu tích, xa cách trong buộc ghép ngàn nơi. Nhà thơ phải
lòng chữ nghĩa. Phải lòng cuộc đời trọn vẹn, dang dở – ngay trong bạt
xiêu, tuyệt vời.
Thơ là cơ thể và sức sống. Là đứa trẻ nghịch đùa với dòng sông như môi yêu với tình tứ. Là giọt máu buốt đau và mảnh da quằn quại. Thơ đấu tranh, đòi quyền sống trong nhu yếu vô thường, và bất lực trong đổi chác căn cơ. Bất lực, dù vĩnh cửu từ vắng vợi đời người.
Thơ là cơ thể và sức sống. Là đứa trẻ nghịch đùa với dòng sông như môi yêu với tình tứ. Là giọt máu buốt đau và mảnh da quằn quại. Thơ đấu tranh, đòi quyền sống trong nhu yếu vô thường, và bất lực trong đổi chác căn cơ. Bất lực, dù vĩnh cửu từ vắng vợi đời người.
Thơ vô hình, vô dạng. Thơ ở ngoài sách vở, ngoài hiện thực, vu vơ, miệt mài, lạc lõng. Thơ thất
lạc ngay trong lòng thơ. Thất lạc ngay trong tâm hồn người thi sĩ – ngoài
tầm giao cảm với đối nhân. Thơ đã trở thành đứa con tư sinh vô thừa nhận. Xiêu vẹo, nghiêng ngửa ngay tại dòng chữ nghiệt ngã, keo kiệt. Bị chèn ép
trong nhịp bước trần gian, thơ cô đơn trong cảnh vọng trần tục, trong toang vỡ
trần truồng. Vì thế, thơ không ai dám nhận, dám tin, dám hỏi. Và
cũng ít ai đủ khả năng nuôi dưỡng, gả gấm, hoặc đủ bản lĩnh gạ gẫm nàng thơ.
Nhưng cũng có lúc thơ là tặng
dữ cuối cùng trong cuộc đời, là niềm vui còn sót lại đêm qua. Những lúc tận
cùng vời vợi đó, làm thơ tức là nhặt chữ nối nguồn, là đãi cát tìm vàng, là đào
khởi lòng than âm u, tì tích, để tìm hạt kim cương tinh khiết, xuất
chúng. Thơ sẽ gạt bỏ bạc bẽo để sưởi ấm lòng đau. Sẽ quét sạch đường
đời và khởi sắc vạn nơi: thơ chiết xuất thơm tho từ ô uế, tiếp nhựa sống vào
thân cây, và đặt niềm tin trong lòng người.
Vì thế, thơ là con đường văn
chương hoá dạng: nửa nọ, nửa kia; nửa sáng nửa tối; nửa vui, nửa buồn; nửa người,
nửa vật. Một thế giới bâng quơ, lơ lửng, ngược xuôi, xuôi ngược. Liên tục trong trí nhớ, lại có lúc cách quãng trong u uẩn, trước sau muôn mặt,
thiên hình, vạn trạng. Có cũng như không, không rồi lại có. Tất cả
là khát vọng, hay thất vọng, trong bao dung, toàn bích. Là hào hứng trong
phân mảnh, tuyệt vời.
Thơ trong sạch hay bụi bậm
là do lòng người tìm kiếm chất thơ. Thơ không mùi không vị, không tình không
nghĩa, mà chỉ mượn mùi thơm ngọt từ cỏ cây, vị say từ hơi thở nồng nàn, và tình
nghĩa từ ánh mắt cô liêu, đắm đuối. Người thi sĩ nhìn và nhớ vạn vật
chung quanh câm nín, hoang sơ. Thơ nguyên vẹn, mong manh trong dấu vết xa
gần. Thơ bừng khởi trong tiềm thức sơ sinh, bao bọc. Ta đã khoác
lên vai, lên tóc và vết tích nó những bụi bậm, tanh hôi của thân phận làm người. Thơ lạc lõng vì hồn người lạc lõng. Thơ chảy máu vì tế bào người u uẩn, cắt,
vùi. Thơ tì ố, tàn tạ như chiếc áo kẻ tù đày. Thơ cũng trong sáng
như ánh mắt thơ ngây, trong bình minh vĩnh cửu của vạn vật luân lưu, muôn thuở
tái thế.
Thơ nổi chìm, sâu sắc. Thuyên chuyển từ tế bào này sang tế bào nọ. Như giọt tình, giọt nước mắt
ngấm lòng người, ngấm lòng vạn vật. Thơ cũng là những câu hỏi không để trực
tiếp trả lời, hay trả lời để hỏi lại. Trong vô hạn, mong manh, như những
công án thiền định:
nếu mọi dòng sông đều ngọt
ngào
biển cả lấy muối mặn từ đâu?
biển cả lấy muối mặn từ đâu?
if all rivers are sweet
where does the sea get its salt? [1]
where does the sea get its salt? [1]
Ý thơ và bóng chữ đã đôi lúc
chung tình, giao hợp để cùng nhau thoả ước, khép mở, mật thiết lẫn nhau. Thơ cố gắng trả lời sành sỏi. Nhưng nhiều lúc thơ lại vụng về, giả định,
vu vơ, vì tạm bợ, không chủ đích. Tới nơi mà không biết. Lạc lõng
mà không hay. Ngay lúc tuyệt độ trong cơ bản tâm tình. Ngay lúc phá thể
trầm trọng để xây dựng lại một trật tự mới, khác với trật tự hiện hữu. Ngay
trong cách sống vô vi, vô thường:
sáng trăng vời vợi xa bao ngả
xa cách lòng tình xa nguyệt nga?
xa cách lòng tình xa nguyệt nga?
how far is the light of the
moon
from the moon? [2]
from the moon? [2]
Nhà thơ không chịu trả lời gọn
gàng, minh bạch, chỉ tủm tỉm cười, rồi trì hoãn vu vơ, hay giải đáp trong hững
hờ, cởi, mở. Thành thử câu hỏi vẫn mãi mãi nguyên vẹn trong lòng người
còn tìm, còn kiếm. Nguyên vẹn từ đầu, bất tận về sau.
Thơ có lúc vắng dấu chân người,
mà chỉ còn là vết tích của đá, của hoa, cỏ lạ, nguồn, khơi. Trong những lúc khô
khan tuyệt tích, cạn hơi, cạn hứng, người thi sĩ đã tìm đường về một địa hạt xa
xăm siêu thực, như tìm đường lên nơi thần linh hay đất cấm, nơi dư âm, hoài cảm
hay huyền thoại, hư vô. Thi sĩ đã thu ngắn lại, buộc nối lại con đường cũ
đưa dẫn về nhà trời, xuyên qua hình dáng mong manh, mở đón của tạo hoá, của cỏ
cây, của tảng đá dẫn lộ. Đó không phải là những cảnh vật vô tri vô giác,
những khối tảng ù lì, cục mịch, mà là những hồn đất, hồn cây, nhữnh tảng đá từ
không gian lạc vào lòng đất, nhưng vẫn biết bay bổng, vẫn nhớ bay bổng, thu
hút; biết gọi nắng từ mưa; biết nghe tiếng thì thầm của những tâm hồn kiệt quệ,
khát khao. Đó cũng là những hạt đá quý, những lệ đá xanh, những tâm linh ẩn
náu cạnh thân thể người yêu:
khi em vuốt ve ngọc biếc
ngọc biếc vuốt ve em
ngọc biếc vuốt ve em
when you touch topaz
topaz touches you [3]
topaz touches you [3]
Như vậy thơ có thế giới
riêng biệt của nó, trong công cuộc tìm lại lòng người, tìm lại lòng nguyên thủy
của đất trời, thiên nhiên, của tiếng nói đầu tiên trong trí nhớ nhân loại,
trong huyền thoại của ý nghĩa ẩn vùi trong lãng quên tập thể. Thơ dẫn đường
vào toàn bích, hé mở thành tôn giáo bỏ ngỏ, hoang vu. Thơ tìm nguồn để tạo
lại cội nguồn, tạo lại tông tích siêu thoát. Thơ hy vọng cả trong nỗi tuyệt vọng.
Thơ là cuộc hành trình với
con người vậy.
[1] Pablo Neruda, The Book of Questions, (El
libro de las preguntas), Copper Canon Press: Port Towsend, 1991. Câu hỏi
có chiều sâu thách đố tuyệt đối như những công án (koan) xuất phát từ tâm thức
các thiền sư.
[2] Pablo Neruda, The Book of Questions. Nhận định như trên.
[3] Pablo Neruda, Stones of The Sky, (Las pierdas del cielo), Copper Canon Press: Port Towsend, 1987.
[2] Pablo Neruda, The Book of Questions. Nhận định như trên.
[3] Pablo Neruda, Stones of The Sky, (Las pierdas del cielo), Copper Canon Press: Port Towsend, 1987.
Lưu Nguyễn Đạt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét