Trong những năm 1957-1963, Đặng
Phùng Quân viết văn, làm thơ với bút hiệu Trường Dzi trên những tạp chí
Sáng Tạo (hiện còn giữ được truyện ngắn Tuổi Trẻ trong số đặc biệt Hà Nội), Thế
Hệ (Xuyên Sơn làm Tổng thư ký), Tiểu thuyết tuần san (Nguyễn thiện Dzai làm Chủ
nhiệm), trang Văn Nghệ (Hồ Nam /Vương Tân phụ trách) v.v.. Bỏ viết từ đó cho đến
1969.
Hiện nay, ngoài tên thật còn
viết với bút hiệu V.T.D.
Các sách biên khảo đã xuất bản:
L'existence d'autrui et la fidelite dans l'oeuvre de Gabriel Marcel (1967), Hiện
hữu tha nhân với G. Marcel (1969), Triết học và Khoa học (1972), Chân dung triết
gia (1973), Triết học và Văn chương (1974), Văn chương và Lưu đày (1985), Hành
trạng tư tưởng giữa hai thế kỷ (2002) [trong sách này có một bài tổng quan về
tình hình triết học và văn chương 100 năm qua (tức thế kỷ XX), một bài chuyên
khảo về 2 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp của Trần Đức Thảo (Phenomenologie et
Materialisme Dialectique và Recherches sur l'origine du langage et de la
conscience)], Phê phán hệ tư tưởng Mac-xit (2002) [bàn về những vấn đề tha hoá,
tư bản, ý thức hệ của Marx và Engels, vấn đề vật hoá (Verdinglichung) của Georg
Lukács, vần đề lịch sử của Louis Athusser v.v.].
Một số tập truyện ngắn đã xuất
bản (in chung hoặc in riêng): Miền thượng uyển xưa (1983), Một dặm tương thân
(1987), Tự truyện (1997).
Những dự án nghiên cứu đang
xúc tiến: Cơ sở tư tưởng thời quá độ, Phê phán lý trí văn chương
VCV lần lượt giới thiệu tác
phẩm của anh, nếu đã được đưa lên ở các trang khác sẽ trích một phần cho bạn đọc
tiện theo dỏi và ghi rõ đường link, như bài này, anh đã đưa lên gio-o, sẽ trích
2 kỳ , anh cũng có một trang web dangphungquan.com để bạn đọc tiện việc tìm đọc
anh.
Thế kỷ XXI đã qua năm thứ
chín - đối với những người sinh vào nửa đầu thế kỷ XX thật là một hành trình
dài, kinh qua những cuộc chiến tự sát và tiêu diệt. Những khái niệm bạo động,
khủng bố, cách mạng dường như không còn ý nghĩa của điều ác, những mục tiêu dân
chủ, độc lập, nhân quyền, tự do cạn kiệt những ý nghĩa về thiện. Thời đại của
nghi hoặc có một quá trình vô tận. Trước sự băng hoại to lớn ấy, không chỉ là
hiện tượng kinh tế suy thoái toàn cầu, mà cả một cuộc phá sản tư tưởng, khởi sự
là ý thức hệ cộng sản.
Trong cuộc khủng hoảng ấy,
triết học đi đến đâu? Câu hỏi có quá vô tình trước những thảm họa nhân loại
đang chịu đựng không? Hay vấn đề cấp thiết, trước một thế giới thiếu sinh lực động
não?
Tiểu luận này sẽ bắt đầu bằng
ba chặng:
1/ Nhìn lại 100 năm triết học
của thế kỷ vừa qua.
2/ Những bước ngoặt ở cuối-thế-kỷ.
3/ Thời quá độ
1/ Nhìn lại 100 năm triết học
Năm 1900: mở đầu một thế kỷ. Die
Traumdeutung của Sigmund Freud xuất bản vào năm này, với tầm quan trọng
trong việc đóng góp cho khoa tâm lý học (ngự trị qua hai thế kỷ) cũng như trong
khoa học mới - phân tâm học - và chính Freud nhận định nó chứa đựng những cái
giá trị nhất trong những khám phá ông đã may mắn thực hiện vì nhận thức
sáng suốt như vậy rớt vào số phận một người nhưng chỉ xảy đến một lần trong suốt
cuộc đời. Một tác phẩm khác Logischen Untersuchungen của Edmund
Husserl cũng xuất bản vào năm này. Mục tiêu của những nghiên cứu nhằm soi sáng những
vấn đề cơ bản của lý luận về nhận thức và lĩnh hội phê phán về luận lý như một
khoa học.
Freud và Husserl đã mở ra những
con đường cho phân tâm học và hiện tượng luận ảnh hưởng trên nhận thức con người
trong suốt quá trình của thế kỷ.
Tuy nhiên, trước hết đặt vấn
đề nhìn lại 100 năm. Tại sao nhìn lại? nhìn lại thường để kiểm điểm, tổng kết,
phê phán những thành quả đắc thủ, những tồn tại, tuy nhiên quá trình không diễn
ra trên một cương tuyến liên tục mà có những cách quãng nhảy vọt (như
Bachelard hay Althusser quan niệm, là những bước cắt tri thức). Nhìn lại còn
hàm ngụ sự khủng hoảng tất yếu khi một thời đại đã cáo chung, đến bước quá độ.
Có thể xác định thời quá độ? Lấy tình hình triết học tư tưởng tây phương làm mẫu mực: Nếu như những
Nietzsche, Kierkegaard chấm dứt thế kỷ của Hegel trước khi bước chuyển tiếp cho
những trào lưu hiện tượng luận, phân tâm học và hiện sinh xác định thế kỷ hai
mươi, thì với sự phê phán chủ nghĩa Mác, hậu hiện đại, hậu cấu trúc luận, sự gặp
gỡ giữa triết học (quen gọi là) lục địa truyền thống với triết học Anh-Mỹ (ít
ra là sự đối đầu giữa triết học phân tích, chủ nghĩa thực chứng và thuyết hủy tạo)
có thể là dấu mốc của thời quá độ.
Có thể xác định thời quá độ
vì chuyển tiếp của thế kỷ, không hẳn theo niên biểu, nhưng những vấn đề đặt ra
chưa chứng thực là những dấu hiệu của thế kỷ kế tiếp. Sự kế thừa những di sản của
giai đoạn hậu hiện đại, hậu cộng sản, hậu thuộc địa cũng như quá trình tiến hóa
hậu công nghiệp đã đưa ra những vấn nạn về sự cáo chung của lịch sử (chỉ khác
biệt ở chỗ khủng hoảng của thời hậu thế chiến thứ hai dẫn tới viễn cảnh bi quan
về cái chết của con người, còn sự khủng hoảng của thời hậu lịch sử là tuyệt lộ
của tư tưởng?)
Như đã chỉ ra ở tiểu đề, một
trăm năm triết học. Nhưng triết học nào?
Ngày nay người ta có thể nói
đến triết học châu Mỹ La tinh (ít ra là tư tưởng thời tiền thuộc địa), triết học
(falsafâ) Ả rập, triết học Ba tư thời tiền Hồi đến đoàn nhóm sufi, triết học
châu Phi. Tuy vậy ảnh hưởng giao lưu văn hóa rõ ràng đã xóa bỏ những phân định,
nếu không muốn nói đến là cơ sở tư tưởng vẫn là sự thống nhất giữa những mặt
khác biệt. Cho nên khi đề cập đến những vấn đề như những vấn đề trong một triết
học, như triết học Nhật bản chẳng hạn, không phải chỉ chuyển nhập từ triết học/philosophia qua tetsugaku,
công trình của Nishi Amane, mà là sự thống nhất ngôn ngữ trong tác động thông
giao của con người nói chung.
Không thể bỏ qua những cơ hội
lịch sử xác định: thế chiến thứ Nhất đánh dấu sự phân hóa cùng cực của nền văn
hóa châu Âu, thế chiến thứ Hai với hội chứng Auschwitz thúc đẩy làn sóng di dân
từ cựu lục địa sang châu Mỹ làm thay đổi hẳn quan niệm về sự cách biệt giữa hai
nền triết học. Những vận động trí thức từ châu Âu đã đem đến nước Mỹ một luồng
gió mới như những người siêu thực trong những năm 40, những thành viên của Học
viện Nghiên cứu xã hội ở Frankfurt (Institut für Sozialforschung) lưu đày sau
khi đảng Quốc xã lên cầm quyền. Trong thời Chiến tranh Lạnh, những hiện tượng
samizdat và tamizdat nổi lên tại những xứ sở đảng Cộng sản nắm chính quyền đưa
ra một hình thức văn chương mới chống lại cái văn chương “chính thống” ở trong
nước. Những phong trào giải thực đã hóa giải những lý luận sai lạc về văn hóa
khác biệt và tạo điều kiện cho những nền văn chương đa dạng ở châu Phi,
châu Á và châu Mỹ La tinh. Sự sụp đổ toàn diện khối Cộng sản Liên Xô và Đông Âu
không phải chỉ một sớm một chiều mà là thành quả của một hệ tư tưởng tan rã qua
thử thách phê phán.
Tôi không nhằm đưa ra một bức
tranh toàn cảnh về triết học thế giới mà giới hạn vào một vấn đề: cơ sở của ý
nghĩa hành trạng triết học và trong một thế kỷ vừa kết thúc.
Đặt vấn đề như vậy có thể
như hỏi chung cuộc của triết học trong cái chung cuộc của con người và lịch sử.
Cho nên tôi sẽ không phân định
những trào lưu tư tưởng như Ludwig Landgrebe, J.M. Bochenski, Mikel
Dufrenne hay Paul Ricoeur, chỉ kể một vài tiêu biểu. Tôi chỉ đề ra một số
những thảo luận trong quá trình vận động của tư tưởng thông qua những sở cứ triết
học và văn chương để thử tìm xem những hạn chế về tri thức của con người trong
một thế kỷ. Dường như sự cáo chung của triết học, sự thất lạc của chủ thể, sự vắng
mặt của tác giả, cái chết của hiện diện là những ẩn số của một nền tảng siêu
hình dấu mặt của con người về cả hai bộ diện tri thức luận và bản thể luận?
Những vận động tư tưởng
không phải không hàm ngụ bạo động, nghĩa là muốn biến đổi tự căn để. Cho nên
khi chỉ ra con đường hiện tượng luận, Husserl đề xuất một phương pháp giảm trừ
ý tượng - eidetische Reduktion - muốn vượt lên khỏi phương pháp quy nạp thông
thường của kinh nghiệm khoa học, điều mà ông gọi trực giác như nguyên lý của mọi
nguyên lý trong Ideen I:
“Mọi trực giác đã có tự
nguyên ủy là cội nguồn chính đáng (Rechtsquelle) của tri thức/daß jede originär
gebende Anschauung eine Rechtsquelle der Erkenntnis sei.”
Tuy nhiên vào gần cuối đời,
lý tưởng đeo đuổi xây dựng hiện tượng luận một triết học như thể khoa học
nghiêm xác của Husserl chỉ như một giấc mộng đã qua (der Traum ist
ausgetraumt).
Giấc mộng đã dẫn Heidegger
đi vào con đường Hỏi về Hữu đồng thời cũng là Hỏi về Chân lý (Aletheia), khởi từ
đó chỉ ra Hữu thể luận cơ bản với nhiệm vụ triệt hủy lịch sử hữu thể
luận:
“Vấn đề hữu thể chỉ đạt được
tính cụ thể thực khi chúng ta thể hiện sự triệt hủy truyền thống hữu thể/in der
Durchführung der Destruktion der ontologischen Überlieferung gewinnt die
Seinsfrage ihre wahrhafte Konkretion.”
Hủy triệt căn để đưa đến vấn
nạn về quan hệ giữa ý nghĩa về Hữu trong tư tưởng Heidegger với phong trào Quốc
xã trong những năm 80. Vấn nạn kéo theo những tranh luận không lối thoát với
nhiều khuôn mặt quen thuộc của triết học đương đại.
Ở vào những năm đầu thập
niên 20, Nicolai Hartmann đã chỉ ra mối quan hệ giữa tri thức luận và hữu thể
luận khi xác quyết tri thức luận phải xây trên cơ sở hữu thể luận, phân biệt
hai phương thức cơ bản của Hữu (Seinsweisen):
“Mọi tính thể (Sosein) cũng
như mọi hiện thể (Dasein) có được sự xác định trên cơ sở toàn chuỗi những xác định,
và chính những chuỗi xác định này cấu thành toàn bộ thực tại
(Realzusammenhang). Đặc tính cô lập của những sự vật cá thể chỉ là trừu tượng.
Thế nên cái hiện thực là thực cũng thực sự khả hữu và tất yếu, ngay trong
những đặc trưng của nó; nhưng nó có thực khả hữu và tất yếu là trên cơ sở
những phức thể điều kiện bao dung tòan diện của một sắp đặt cấu trúc thực
(Realkollokation) trong bất kỳ thời gian nhất định nào/Wie alles Dasein,so hat
auch alles Sosein seine Bestimmtheit auf Grund von Determinationsketten, und
diese eben sind es, die den Realzusammenhang ausmachen. Isolierte
Beschaffenheit eines Einzeldinges ist eine Abstraktion. Was real wirklich ist,
das ist auch bis in seine letzen Sonderzüge hinein real möglich und real
notwendig; beides aber ist est auf Grund von Bedinungskomplexen, welche die
ganze Breite der jeweiligen Realkollokation umfassen.”
Toàn bộ thực tại - ở đó
không biệt phân giữa hữu và tính - mở ra con đường cấu trúc luận sau này, cũng
như thành tựu trong quá trình và tiến bộ của tri thức khoa học.
Chính nhìn ra quan điểm ấy,
vào cuối đời Georg Lukács khi nói đến hữu thể luận đã chỉ ra chính Hartmann là
người đầu tiên đưa ra vấn đề hình thái sơ cấp của hiện thể là phức thể, cho nên
người ta phải nghiên cứu phức thể như là phức thể và phải đi từ phức thể đến những
thành tố chứ không phải (như khoa học nói chung tin tưởng) là trước hết tìm ra
một số thành tố rồi cấu tạo những phức thể nhất định này từ tác động qua lại giữa
những thành tố (das Komplexe das primär Existierende ist, wobei man den Komplex
als Komplex zu untersuchen und vom Komplex zu seinen Elementen und
Elementarprozessen zu kommen hat - und nicht (wie die Wissenschaft im
allgemeinen meint), daß man gewisse Elemente finden muß und aus dem
Zusammenwirken der Elemente bestimmte Komplexe aufbaut).
Có thể nói Heidegger như cái
gạch nối giữa triết học và văn chương không phải vì “giai đọan sau” ông đi lý
giải những tác phẩm thơ của Holderlin, Trakl hay Rilke, nhưng qua thông diễn học,
ông đã phát hiện“Ngôn ngữ là căn nhà của Hữu thể”, và nghệ thuật cũng như triết
lý là con đường “khai mở Hữu như một tổng thể chân lý”. Hartmann như cái gạch nối
giữa triết học và khoa học khi quan niệm những khoa học tự nhiên không thể đọan
lìa với nền tảng siêu hình, trong khi nỗ lực đi tìm những minh chứng khoa học
cho những nguyên lý và đa tầng của hữu (Seinsschichten).
Như đã nói ở trên, đề cương
của bài viết này đưa ra một cái nhìn tổng quan về ý nghĩa hành trạng của triết
học trong một trăm năm, ở đó những mặt đối lập diễn ra:
Những biên giới địa chí như
giữa hai nước (chẳng hạn Pháp và Đức, tinh thần nhận thức khác biệt), môi trường
trí thức (trong và ngòai Đại học, lấy ví dụ trường hợp Marx hay Bergson - tư tưởng
Marx khi xâm nhập xã hội đã không ảnh hưởng trong Đại học, triết học Bergson
lôi cuốn tầng lớp trí thức ở Collège de France đã không ảnh hưởng tới sự giảng
dạy tại Sorbonne), triết học Đại lục châu Âu với triết học Anh Mỹ, tư tưởng
Đông phương và Tây phương.
Những biên giới xã hội-chính
trị như sự phân cách nhất định giữa mẫu quốc và thuộc địa trong giai đọan thực
dân, sự đọan tuyệt thông giao giữa khối Cộng sản với bên ngòai (triết học nói
chung và triết học Diamat, hủy triệt sự phát triển của những trường phái văn học
như chủ nghĩa Hình thái hay Vị lai..), sự chênh lệch giữa những nước phát triển
và Thế giới thứ Ba. Đó là chưa kể đến những mâu thuẫn nan giải về mặt tôn giáo.
Những mặt đối lập kể trên
ngày nay phần nào đã hóa giải dựa trên những biến đổi thể chế hoặc giao lưu văn
hóa.
Tuy vậy cũng cần phải xác định
là những phân định đó chỉ tương đối hoặc biểu kiến vì xu hướng gọi là triết học
Anh Mỹ không hẳn chỉ giới hạn ở ngòai đại lục, hay tư tưởng Đông Tây không triệt
để khu biệt.
Ngay trên lục địa châu Âu,
tư tưởng của Wolfgang Stegmuller, phần lớn xu hướng triết học Phần lan, Ba lan
hay Nam tư là triết học phân tích, mặt khác nguồn cội truyền thống thực nghiệm
Anh từ lý luận của Frege và những nhà thực chứng Áo, Karl Popper, Wittgenstein
và xa hơn là ảnh hưởng của Brentano, Bolzano và Meinong. Ở Pháp trong những năm
chủ nghĩa hiện sinh thống trị, những triết gia như Cavaillès, Jules Vuillemin,
Gilles Granger vẫn tiếp tục con đường luận lý thực nghiệm mặc dầu khoa luận lý
bị coi là thứ yếu. Mặt khác triết học phân tích dựa trên phương pháp phân tích
ngữ học cũng như quan niệm ngôn ngữ thường tục là phần sơ cấp của triết học hãy
còn xa lạ với những ưu tư siêu hình đang được coi như tiên quyết. Phải đợi tới
giai đọan hậu cấu trúc, một thế hệ mới với những Francis Jacques, Denis
Zaslawsky mới đưa những vấn đề của Peirce, Quine, Austin vào cuộc thảo luận.
Jacques Bouveresse làm quen với tư tưởng của Wittgenstein, Deleuze và Guattari
đến gần với những vấn đề của chủ nghĩa thực dụng trong tác phẩm Mille
Plateaux, Paul Ricoeur khi rời châu Âu qua Mỹ đã đưa ra những đối thọai giữa
thông diễn học và triết học phân tích .
Mối quan hệ giữa hai nền triết
học phương Đông và phương Tây trong thế kỷ này không còn xa lạ với nhiều triết
gia. Trong Dẫn vào triết học, Karl Jaspers khẳng định:
“Triết học trong phong cách
lớn và tòan bộ hệ thống đã hiện hữu từ hai thiên niên kỷ rưỡi ở phương Tây,
Trung quốc và Ấn độ”.
Trong bộ Die grossen Philosophen,
ông thảo luận về những nhà tư tưởng lớn như Lão, Khổng, Thích Ca, Long Thọ bên
cạnh những Sokrates, Jesus, Nicolaus Cusanus…
Dẫn lời Jean-Pierre Faye
trong La raison narrative, hai tác giả Deleuze và Guattari chỉ ra là
những triết gia như những người khách lạ đến từ phương Đông. Tuy nhiên, ảnh hưởng
của phương Đông in dấu ấn đậm nét nơi một nhà tư tưởng lớn nhất thế kỷ này là
Martin Heidegger. Trong hai tác phẩm Trên đường tới Ngôn ngữ và Nguyên
lý Đồng nhất, Heidegger đã nói đến từ then chốt (Đạo) trong tư tưởng của
Lão tử “có lẽ ẩn trong từ “con đường” Đạo là huyền nhiệm trên mọi huyền nhiệm của
Ngôn từ đầy vẻ tư duy…tất cả là Đạo”. Otto Pöggeler, một học giả Đức uy tín
chuyên về Heidegger đã chỉ ra là triết học phương Đông nơi Lão tử và Trang tử
đã ảnh hưởng từ sớm vào tư tưởng Heidegger, không phải chỉ qua hai tác phẩm dẫn
trên, khi liên kết Logos với Đạo, khái niệm tương hữu (Mitsein) với ngụ ngôn của
Trang tử. Một học giả Đức khác, Reinhard May cũng chỉ ra những ảnh hưởng Á đông
như Đạo học và Thiền học trong tư tưởng Heidegger trong nỗ lực vượt và hủy triệt
truyền thống siêu hình học tây phương. Heidegger cũng đã cùng với một học giả
Trung hoa, Paul Shih-yi Hsiao cộng tác thử dịch một số chương trong Đạo đức
kinh.
Những kiến thức về Đạo học
và Thiền học của Heidegger một phần dựa trên những tư liệu chuyển qua Đức ngữ (Thuyết
và ngụ ngôn của Trang tử do Martin Buber tuyển chọn xb. năm 1910, Lão
tử của Wilhem xb năm, 1911), mặt khác do sự tiếp cận với những học giả đến
từ Nhật như Tanabe Hajime, Kuki Shùzò, Nishitani Keiji, Yuasa Seinosuke, Tezuka
Tomio (nhân vật trong đối thọai với Heidegger luận về ngôn ngữ dẫn nơi trên).
Trong hội thảo ở Le Thor, một trong những sở cứ cơ bản của triết học Heidegger
là khái niệm Vô (das Nichts), sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của ông đã được định
nghĩa như “biểu thị (Kennzeichnung) của Hữu”. Một triết gia lớn nhất của Nhật,
Nishida Kitarò đã phát biểu trước đó vào năm 1939: Hữu tức vô, vô tức hữu.
Tanabe Hajime, Nishitani Keiji là những môn đệ của Nishida Kitaro, nên người ta
có thể ngờ rằng Heidegger đã làm quen với tư tưởng của ông chịu ảnh hưởng Thiền
học (tác phẩm chính của Nishida - Hỏi về điều Thiện (Zen no kenkỳu) -
đã xuất bản vào năm 1911). Trong tác phẩm này, khi luận về ý thức, Nishida viết
“hữu được coi như phát sinh từ vô”.
Biến hóa tương liên giữa triết
học chịu ảnh hưởng Tây phương và bắt nguồn từ Thiền học là sự gặp gỡ giữa Đông
và Tây trong tư tưởng Nishida. Trong lời tựa tác phẩm từ Hành động đến thị
kiến (Hataraku moro kara miru, 1927), ông viết:
“Không cần phải nói cũng thấy
là nhiều điều được đánh giá và học hỏi từ sự phát triển của văn hóa tây phương,
coi hình tượng (eidos) là hiện hữu và hình thành là thiện. Tuy nhiên ở cơ sở của
văn hóa Á châu đã nuôi dưỡng tiền nhân ta từ bảy ngàn năm qua, có một điều có
thể gọi là nhìn hình tượng của cái vô hình và nghe âm thanh của cái vô
thanh…Tôi muốn đưa ra một cơ sở triết lý cho yêu cầu này”.
Thông thường người ta có định
kiến là khoa siêu hình học không phát triển ở Á đông. Nishida bác bỏ lối nhìn
này khi ông khẳng định là “dầu không có khoa siêu hình học rõ rệt cũng không có
nghĩa là không có tư tưởng siêu hình. Khi một nền văn hóa đặc thù phát triển tới
mức độ nào đó thì có thể xét bằng những từ siêu hình. Mỗi văn hóa có một cái
nhìn về đời sống. Ở cơ sở của nhân sinh quan phải có một lọai tư tưởng siêu
hình, dầu không được nghĩ đến một cách ý thức”. Khi đi sâu vào những đặc tính của
mỗi nền văn hóa, Nishida cũng nhìn ra sự đối lập bổ xung. Chẳng hạn như Ý tượng
của Platon là hình, nhưng không có nghĩa là hình trạng vật lý, theo nghĩa tri
giác mà có một ý nghĩa ngược lại, có thể gọi là đối tượng của lý trí, như vậy
có thể coi là vô hình. Tư tưởng thiên chúa giáo thời trung cổ như Augustin coi
thực tại không là một ý tượng mà là một nhân vị, thiên chúa là Nhân vị tuyệt đối,vượt
khả năng nhận thức của con người, Thiên chúa là Deus absconditus. Xem như vậy,
nếu triết học hy lạp được coi là một triết học về hữu thì triết học thiên chúa
giáo mang ý nghĩa của một triết học về vô.
Kuki Shùzò, triết gia Nhật
được nhắc trong Trên đường tới Ngôn ngữcủa Heidegger đã từng dự lớp của
Husserl tại Freiburg vào năm 1927 và Heidegger ở Marburg, với tác phẩm Triết
học Heidegger (Haideggà no tetsugaku) xuất bản năm 1933 có thể coi như
công trình đầu tiên viết về tư tưởng Heidegger. Kuki trong thời gian dừng lại
Paris đã gặp một sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm và nói về hiện tượng luận Đức
cho người này, về sau trở thành triết gia sáng tạo ra chủ nghĩa hiện sinh Pháp,
Jean Paul Sartre.
Chủ nghĩa hiện sinh của
Sartre chỉ là một tư trào nổi lên sau năm 1945, bắt nguồn từ hiện tượng luận Đức
(mà Kuki thực sự là một người Á đông đầu tiên đã dẫn khởi cho Sartre trước cả
R. Aron và Levinas) và triết học hiện sinh Đức với K. Jaspers và M. Heidegger.
Khi Sartre đưa ra tuyên ngôn: chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản thì
điều đó chỉ có nghĩa : “con người không là gì ngòai điều con người tự tạo”(l'homme
n'est rien d'autre que ce qu'il se fait). Ông coi đó là nguyên lý thứ nhất của
chủ nghĩa hiện sinh, có nghĩa là tính chủ thể. Chính trong chiều hướng này, ông
dẫn giải “hiện hữu có trước yếu tính” và hiểu từDasein của Heidegger là
”thực tại con người” (la réalité humaine - H. Corbin là người dịch Heidegger đầu
tiên tại Pháp đã dùng từ này). Một quan niệm về nhân bản như vậy đã không phản ảnh
đúng tư tưởng của Heidegger, nên Heidegger đã phản bác trong Thư về chủ
nghĩa nhân bản, coi Sartre chỉ đảo ngược một diễn từ siêu hình và thay thế bằng
một diễn từ khác. Thật vậy triết học hiện sinh với Heidegger, Jaspers, G.
Marcel và M.Merleau-Ponty có chung một số vấn đề cơ bản như vấn đề thân xác, nhập
thể, tha nhân trong phản ứng vượt lên trên triết học duy tâm kiểu Kant hay
Descartes.
Chủ nghĩa chống nhân bản thực
sự là một tuyên ngôn của một tư trào triết lý nổi lên chung quanh thập niên 60
dưới một hình thái mới mệnh danh là cấu trúc luận, với những tên tuổi tiêu biểu
như Claude Lévi-Strauss, Roland Barthes, Jacques Lacan, Michel Foucault
và Louis Althusser trong những lĩnh vực khác nhau. Từ ngữ cấu trúc (structure)
bắt nguồn từ tiếng La tinh struere có nghĩa là xây dựng. Ngay trong Sein
und Zeit, Heidegger đã dùng từ “cấu trúc quan tâm”(Sorgestruktur) ở đó hiện thể
là mục tiêu của tư duy hữu thể, khi đặt định vấn đề tìm hiểu yếu tính của con
người có liên hệ cấu trúc với chân lý của Hữu. Có thể nói Heidegger là một
trong bốn nguồn suối tư tưởng (Marx, Nietzsche, Freud) của tư trào chống nhân bản
này. Michel Foucault trong tác phẩmNhững từ ngữ và sự vật (Les mots et les
choses) đã đặt vấn đề “con người” chỉ xuất hiện trong tri thức qua ba mặt:
ngôn ngữ, đời sống và lao động, nói khác đi chỉ là một phụ tượng trong những
khoa ngữ học, sinh học và kinh tế học mới hình thành trong thế kỷ 19 và đi đến
câu hỏi: một khi những điều kiện tri thức này thay đổi, lúc đó con người cũng
cáo chung. Trong những giòng kết tác phẩm, M. Foucault viết “con người có thể bị
xóa bỏ giống như một khuôn mặt vẽ trên cát bên bờ đại dương”. Jacques Lacan
cũng xác định trong phân tâm học khởi từ Freud “cái trung tâm thực của con người
giờ đây không còn cùng chỗ như cả một truyền thống nhân bản gán cho nó nữa”. Những
quan điểm tương tự có thể tìm thấy ở J. Derrida, J.F. Lyotard hay Louis
Althusser.
Luc Ferry và Alain Renaut
trong Tư tưởng 68: Luận về chủ nghĩa chống nhân bản hiện đại (La
pensée 68: Essai sur l'anti-humanisme contemporain) nhận định rằng triết học
Pháp của giai đoạn '68 kiên quyết chọn vị thế chống nhân bản. Lời phê phán này
không có gì quá đáng và còn áp dụng chung cho hòan cảnh một thế giới ở vào giai
đọan phân hóa cùng cực: Chiến tranh Lạnh vẫn ở cao điểm, cuộc chiến Việt nam,
cuộc chiến Algérie, cao trào sinh viên tại nhiều nơi trên thế giới, ảnh hưởng của
Lý luận phê phán (từ những triết gia di dân từ Đức qua Mỹ trong thời Quốc xã
như Max Horkheimer, Theodor Adorno và nhất là Herbert Marcuse với tác phẩm Con
người một chiều kích/Onedimensional Man nhằm phê phán kỹ thuật giảm thăng
áp chế của những xã hội công nghiệp trong thời đại kỹ học cùng với hệ tư tưởng
thống trị của những nước phát triển cao cấp nhằm nô dịch mọi công dân; quan điểm
này thích ứng với nhu cầu sinh viên trong giai đọan này), sự tấn công bằng bạo
lực xe tăng của Liên xô vào những nước trong quỹ đạo đang khao khát độc lập dân
chủ.
Triết học trong thời kỳ này
là triết học khái niệm thay thế cho triết học ý thức để có thể đi tới một học
thuyết về khoa học, như Cavaillès tiên đóan trước đó và Deleuze-Guattari sau
Nietzsche khẳng định nhiệm vụ của triết học là sáng tạo những khái niệm mới.
Lý luận về một vị thế phi chủ
thể phản ảnh trong triết học và văn chương rõ rệt: sự xuất hiện của phong trào
Tiểu thuyết mới (Nouveau Roman) ở Pháp ngay từ thập niên 60, phong trào Tiểu
thuyết thực nghiệm (Experimental Novels), Phá thể tiểu thuyết ở Mỹ, luận điểm
cái chết của tác giả trong phê bình văn học nơi những nhà phê bình mới như R.
Barthes, M. Foucault, Gérard Genette (viết là ẩn dấu, là đeo mặt nạ), thuyết hủy
tạo (Deconstruction) của Derrida xâm nhập văn học Mỹ, thuyết quá trình phi chủ
thể của L. Althusser nhằm lý giải quan điểm khoa học của Marx đối nghịch
với ý thức hệ khi đề ra khái niệm về phương thức sản xuất trong lịch sử.
Một nét đặc thù của thế kỷ
hai mươi là phê bình luận văn chương trở thành một khoa học - nhà phê bình phải
trang bị những kiến thức triết học và ngữ học. Cuộc cách mạng Nga 1917 đã dẫn
khởi hai nguồn phê bình luận văn chương quan trọng: chủ nghĩa Hình thái với
Shklovsky, Eikhenbaum, Tomashevsky, Tynjanov và Mikhail Bakhtin tuy cả hai lý
luận này bị áp chế ngay tại đất nước của nó và chỉ phát triển vào nửa thế kỷ
sau tại Tây Aâu cùng với sự xuất hiện cấu trúc luận. Đóng góp chủ yếu của cấu
trúc luận là khai mở những dấu chỉ, trong vận động văn chương có thể tóm trong
một nhận định của nhóm Tel Quel Pháp: Phân tích đến tận cùng, chúng ta không là
gì hết ngòai hệ thống viết/đọc của chúng ta (Nous ne sommes rien d'autre, en
dernìere analyse, que notre système écriture/lecture).
Chủ nghĩa Mác trong thế kỷ
chứng thực sự thất bại về mặt lý luận qua những bế tắc của Lukács, Althusser và
những người một thời tham gia đã từ bỏ như Bourdieu, Baudrillard, J.F. Lyotard,
về mặt thực tiễn khởi từ sự sụp đổ bức tường Berlin vào năm 1989 đánh dấu sự sụp
đổ tòan diện chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa thực chứng luận lý
xuất phát từ trường phái Vienne vào nửa đầu thế kỷ với tham vọng xây dựng một
khoa học thuần nhất (Einheitwissenschaft) đã thất bại trong tham vọng lý giải
khoa học thay cho khoa học. Mặt khác chủ nghĩa thực dụng khởi từ công trình ngữ
học của Peirce, Wittgenstein, triết học về ngôn ngữ thông tục, lý luận ngôn tác
(speech act) của John Austin, Searle, Dieter Wunderlich, Utz Maas, lý luận văn
bản (texttheorie) của S.J. Schmidt, đến những tranh luận thực chứng trong những
công trình của H. Albert, Karl-Otto Apel, Jürgen Habermas, Richard Rorty,
Richard Bernstein trong quan niệm thực tại không những được xây dựng về mặt xã
tính mà còn về mặt ngữ tính, trong khi đi khai phá cấu trúc của ngôn ngữ, tác động
và thông giao cũng không ra khỏi những bế tắc của cấu trúc luận. Chỉ có sự khác
biệt, đó là nỗ lực trở về chủ thể, như Apel quan niệm “làm mới câu hỏi của Kant
về những điều kiện của khả năng và tính giá trị của kiến thức khoa học như là một
câu hỏi liên quan đến khả năng của một đồng thuận liên chủ thể về ý nghĩa và
chân lý của những câu hay hệ thống những câu”.
Trong chiều hướng đi tìm một
kiểu mẫu mới (new paradigm) vào những thập niên cuối-thế-kỷ này, những
dự phóng của Michel Serres (liên kết văn chương với những kỹ học mới như thông
tin học), Jean Baudrillard (những hệ quả biến đổi của những hình thái vật chất
và tượng trưng trong khoa học kỹ thuật hiện đại), Bruno Latour (Nghị hội của sự
vật: Nếu chúng ta không biến đổi chung cư, chúng ta sẽ không hội nhập những văn
hóa khác mà chúng ta không còn thống trị nữa vào trong nó, và chúng ta cũng sẽ
mãi mãi không thể thích nghi môi sinh mà chúng ta không còn kiểm sóat được nữa.
Không phải Thiên nhiên hay Tha nhân trở thành hiện đại mà chính là tùy vào
chúng ta có biến đổi đường lối biến đổi của chúng ta.)
Quan điểm này có thể là mối
ưu tư của nhiều người trong thời quá độ sang một thiên niên kỷ mới, khi vấn đề
cáo chung của triết học hay văn chương không hẳn như cáo chung của lịch sử, hoặc
phục hưng của một thời đại Ánh Sáng ở cuối đường hầm của nền văn minh khoa học
kỹ thuật hậu hiện đại?
2/ Những bước ngoặt ở cuối-thế-kỷ
Từ thập niên 60 của thế kỷ
20, phong trào tư tưởng cấu trúc luận bùng xuất mạnh mẽ, tạo một chấn động lớn
trong việc xét lại mọi mặt, từ cơ sở, phương pháp đến vị thế khoa học, xét lại
ý nghĩa của lịch sử và biện chứng pháp, ý thức và vô thức, con người và chống
con người (như trong khoa học tự nhiên, vật chất và phản vật chất) - điều quan
trọng nhất là phải chăng triết học cáo chung, nhường chỗ cho những khoa học
nhân văn?
Tại sao vậy? Thử xét những
tư trào cấu trúc luận ở hai vùng khác biệt, như Pháp và Anh/Mỹ: ở Pháp những đại
biểu chính của cấu trúc luận như R. Jakobson là một nhà ngữ học, C.
Lévi-Strauss là một nhà nhân loại học, M. Foucault là một triết gia chuyển biến
tri thức luận, J. Lacan là một nhà phân tâm học, R. Barthes là một nhà phê bình
văn học; ở Anh/Mỹ, E. Leach là một nhà nhân loại học (chịu ảnh hưởng
Lévi-Strauss, ví như Ernest Jones đối với Freud), sự phát triển cấu trúc luận bắt
nguồn từ tổng hợp những lãnh vực đa biệt, từ dân tộc học/folklore (du nhập từ
lý luận của nhà nghiên cứu người Nga Troubetzkoy), bác ngữ học/philology Đức và
triết lý phân tích, học thuyết Charles Sanders Peirce, Lewis H. Morgan, ngữ học
với Zellig Harris và Noam Chomsky. Xét trên bình diện quốc tế, vị thế của
Lévi-Strauss, Foucault, Barthes có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến độ nói đến cấu
trúc luận không thể vượt qua những nhân vật này, bất kể ranh giới địa chí. Có
thể nói, những biến động lịch sử từ áp lực bạo chế phát-xít tạo một cơ hội di
chuyển chất xám sang vùng đất mở rộng đón làn sóng trí thức lưu đày là đất Mỹ
đã dậy lên tinh thần siêu quốc khởi từ trước và sau Thế chiến Hai. Morgan
(1818-1881) và Peirce (1839-1914) thật ra là những nhà tư tưởng của thế kỷ 19,
song khái niệm về quan hệ hỗ tương trong hệ thống liên hệ thân tộc của Morgan
và khái niệm cấu trúc là cái mà sự vật phụ thuộc hơn là sở hữu là những khái niệm
cấu trúc luận lấy lại trong thời đại mới này. Về mặt cấu trúc ngữ học Mỹ cũng
phân biệt với trường phái Pháp ở chỗ nghirên cứu cấu trúc dựa trên những ngôn
ngữ đặc thù thay vì phổ quát. Những công trình nhân loại học, ngữ học của
Victor Turner, Harold Scheffler và Floyd Lounsbury, Clifford Geertz, Kenneth
Pike, J. Culler, René Girard đánh dấu đa hiệu thay vì phụ thuộc vào một phong
trào.
Sự khác biệt về mặt triết học
giữa cấu trúc luận và hiện tượng luận rõ rệt ở chỗ, cấu trúc luận chú trọng đến
những quan hệ hơn là yếu tố, đến cấu trúc hơn là là bản thể, đến cơ sở ngoại tại
hơn là nội tại, giải thích/erklären hơn là lý hội/aufklären tuy nhiên không phải
giải thích sự kiện mà là giải thích tại sao sự kiện có ý nghĩa. François
Wahl trong dẫn nhập tác phẩm tập thể về cấu trúc luận xác định: nếu danh xưng cấu
trúc luận đáp ứng điều gì, chính là một cách thế mới đặt để và khai thác những
vấn đề trong những khoa học khảo ký hiệu: một cách thế khởi đầu với ngữ học
Saussure.
Khi luận về làm thế nào nhận
biết cấu trúc luận, Gilles Deleuze xác định không chỉ riêng Saussure, mà cả trường
phái Moskva và Pra-ha cũng là nguồn của cấu trúc luận. Theo ông, cái biểu tượng
cùng với cái thực và cái tri tuởng là tiêu chuẩn khai phá cấu trúc luận; biểu
tượng là một nhân tố của cấu trúc. Tương phản với triết học phi lý, chủ yếu thiếu
ý nghĩa, cấu trúc luận chỉ ra quá thừa ý nghĩa, siêu sản xuất, siêu xác định ý
nghĩa luôn luôn sản xuất quá thừa qua sự phối hợp những chỗ trong cấu trúc. Những
nhân tố biểu tượng hay những thống nhất vị thế dựa vào cái gì? Lévi-Strauss chỉ
ra “vị thế” trong nghĩa cấu trúc, tức là trong một không gian thực sự cấu
trúc/tọa hình học. Những nhà tư tưởng khác như Foucault khi xác định những tất
định như chết, dục vọng, lao động cũng coi theo vị thế, trong trật tự của cấu
trúc, Althusser khi xác định cấu trúc kinh tế coi chủ thể thực trước hết ở
trong một không gian tọa hình xác định bởi những quan hệ sản xuất (đó là lý do
ông quan niệm có một “quá trình phi chủ thể” trong chủ nghĩa Mác).
Nói chung, những nhà cấu
trúc luận gặp nhau ở chỗ xét mọi sự trên bình diện những quan hệ, dầu là dưới dạng
những dãy (hiểu theo nghĩa toán học), hay cấu trúc đơn giản nhất, hoặc khu biệt
(hiểu theo nghĩa tích phân trong toán học).
Tác phẩm Phê phán lý
trí biện chứng của Sartre xuất hiện vào 1960 (sau nhiều năm miệt mài
nghiên cứu) đã là cung đàn lạc điệu trong thế giới cấu trúc, ngoài hai mục
đích: một, để định vị chủ nghĩa hiện sinh như một giai đoạn cá thể nằm trong tổng
thể là chủ nghĩa Mác (ông đưa ra ba thời kỳ sáng tạo triết học, thời của
Descartes và Locke, thời của Kant và Hegel, sau cùng là thời của Marx, và xác
quyết những triết học sau Marx, chống Marx hay vượt Marx chỉ là trở lại thời tiền
Marx - cho nên để hợp lý, chủ nghĩa hiện sinh của ông nằm trong chủ nghĩa
Marx), hai, để thanh toán với những ràng buộc kế thừa tư tưởng là Kierkegaard
(khi vay mượn ngôn ngữ ký hiệu học hiện đại trong so sánh quan hệ ngữ ý/ngữ
thái nơi Kierkegaard và Hegel) và Jaspers (khi còn là sinh viên trường Cao đẳng
Sư phạm, Sartre và mấy người bạn như Nizan toan tính dịch bộ Allgemeine
Psychopathologie/Tâm bệnh học tổng quát của Jaspers đánh dấu bước đầu vào
tư tưởng hiện sinh của Sartre). Chủ ý của Sartre khi nêu ra: “người Đan mạch [để
chỉ Kierkegaard - ĐPQ] tái xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, khi người ta [để chỉ tư
tưởng tư sản - ĐPQ] tính kích bác biện chứng pháp mác-xít qua việc chống lại nó
bằng những chủ nghĩa đa nguyên, những hàm hồ, những nghịch lý nghĩa là vào thời
điểm tư tưởng tư sản lần đầu tiên thu giản vào phòng vệ. Sựï xuất hiện một chủ
nghĩa hiện sinh đức, giữa hai cuộc chiến, chắc chắn tương ứng, ít ra là nơi
Jaspers, với một ý chí âm hiểm/sournoise volonté là làm trỗi dậy cái siêu việt”.
(Để không tự mâu thuẫn trong hành trạng tư tưởng của mình, Sartre tránh không
phê phán người thày khi viết: trường hợp Heidegger phức tạp nên không thể trình
bày ở đây được). Aûnh hưởng của cấu trúc luận vào thập niên 60 này, như chính
Sartre phải vay mượn, mạnh đến nỗi Sartre phản bác bằng luận điệu của một cán bộ
chính trị khi cho rằng cấu trúc luận nhằm cấu thành một hệ tư tưởng mới, be bờ
sau cùng mà giai cấp tư sản còn có thể dựng lên chống lại Marx (trong tạp chí L'Arc
số 30, 1966 phần Jean-Paul Sartre répond).
Sartre nói đến lịch sử khi
phê phán Foucault, đó cũng là nhan đề bài viết về quan hệ lịch sử và biện chứng
của Claude Lévi-Strauss trong chương IX tác phẩm La pensée sauvage, 1962 để
phản bác Sartre. Ông dẫn ra cái lúng túng của Sartre về hai quan niệm của lý
trí biện chứng: khi thì Sartre đối lập lý phân tích với lý biện chứng như giữa
giả và chân, khi thì cho hai lý này có vẻ bổ túc cho nhau như hai con đường
khác biệt dẫn đến cùng những chân lý, mà tác phẩm mệnh danh Phê phán lý trí biện
chứng là kết quả của thao tác bởi chính tác giả trong lý phân tích của ông khi
định nghĩa, phân biệt, xếp loại và đối nghịch. Lévi-Strausse hỏi: làm thế nào
lý phân tích có thể áp dụng vào lý biện chứng và nhằm xây dựng nó, nếu cả hai
lý được xác định bởi những đặc tính loại trừ lẫn nhau? Ngược lại, nếu rốt cuộc
cả hai lý dẫn đến cùng những kết quả, và những chân lý của chúng nhập vào một
chân lý duy nhất, thì dựa vào cái gì để đối lập chúng, và nhất là cho rằng cái
này ưu việt hơn cái kia? Trong trường hợp thứ nhất, công việc của Sartre tỏ ra
mâu thuẫn, ở trường hợp thứ hai tỏ ra hời hợt.
Những người tham gia vào cuộc
tranh luận này như Jean Pouillon và Raymond Aron đưa ra những nhận xét: Theo
Pouillon, cả hai nhà tư tưởng khởi từ cùng kinh nghiệm hiện sinh, nói rõ hơn là
thiết lập thông giao giữa mọi xã hội, đặc biệt là giữa những xã hội thường gọi
là nguyên thủy và xã hội công nghệ, phát triển của chúng ta; từ kinh nghiệm
chung này, Lévi-Strauss nghĩ về sự đa biệt của các xã hội trên cùng một mức độ
bằng nhau như thể mọi biến thiên cùng loại, trong khi Sartre nghĩ về chuyển biến
của Nhân loại thông qua nhận thức hỗ tương những tổng thể xã hội của mỗi nhóm
cho đến khi đạt tới một Chân lý toàn diện. Theo Aron, điểm hội tụ giữa
Lévi-Strauss và Sartre ở chỗ họ nhìn nhận dây liên lạc giữa cấu trúc của đối tượng
và phương pháp hay bản tính của nhận thức: một đằng ở Sartre, ý thức bao gồm thực
tiễn vì đối tượng biểu hiện cùng một cấu trúc biện chứng như chủ thể, không thể
lý hội được biện chứng của thực tại nếu như thực tại không có tính biện chứng;
một đằng ở Lévi-Strauss, những cấu trúc của những sự kiện nhân chủng học như
trao đổi vợ, hay đối lập nhị thứccủa huyền thoại tái sinh sản ra cấu trúc của
thực tại xã hội hay tinh thần con người. Cả hai nhà tư tưởng đều cùng hướng là
đi tìm cái toàn thể hay tổng thể hóa, cái toàn thể hệ thống những đối lập nơi
Lévi-Strauss hay cái tổng thể hóa của thực tiễn trong mỗi kinh nghiệm sống cá
thể cũng như của xã hội chung nơi Sartre.
Sự khác biệt thực ra vẫn ở vấn
đề triết lý về mặt hữu thể học, đó là ý thức cá thể hay thực tiễn cá thể nơi
Sartre là thực tại chủ yếu, có trước, cho nên mọi nhận thức phải trở về kinh
nghiệm sống này cấu thành lý trí, còn nơi Lévi-Strauss phân tích cấu trúc là
phương thức nhận thức khoa học chính, nghĩa là những hệ thống nhị thức đối lập
có trước, là những quy luật cho mọi chức năng xã hội.
Ở vào nửa sau thế kỷ XX có một
hiện tượng chưa từng nhận thấy trong lịch sử tư tưởng về trước, đó là những chủ
nghĩa hậu/post- với hậu hiện đại luận, hậu cấu trúc luận, hậu siêu
hình học, hậu phân tích, hậu công nghiệp, hậu thực dân, hậu cộng sản v.v..
(không nghe nói đến hậu hiện tượng luận, hậu hiện sinh, hậu siêu thực v.v..?).
Tại sao vậy? Có những khúc quanh tư tưởng, từ khúc quanh ngữ học/linguistic
turn đến khúc quanh hủy tạo/deconstructive turn đánh dấu những chuyển biến quan
trọng trong thời đại này. Thực ra khái niệm khúc quanh/Kehre là một dấu chỉ
trong hành trạng của mỗi nhà tư tưởng, của mỗi tư trào: như trường hợp Heidegger
I và II (khái niệm thủ đắc/Ereignis, để phân chia giai đoạn thực hiện một
quyển sách Aristote/Aristotlesbuch, hay từ hiện tượng luận sang thông diễn
luận, hay từ Sein und Zeit đến Zeit und Sein?), như trường hợp
triết học phân tích, theo Michael Dummett khai sinh từ khi có khúc quanh ngữ học
(Frege là người tiền bối của triết học phân tích, khi chỉ ra sự khác biệt giữa
ý nghĩa và tham chiếu), như trường hợp Michel Foucault quá độ từ cấu trúc
luận qua hậu cấu trúc luận (Peter Tepe trongPostmoderne/Poststrukturalismus,
1992 phân chia ba giai đoạn Foucault 1, Foucault 2 và Foucault 3, sớm nhất
là từ Les mots et les choses đếnL'archéologie du savoir, giai đoạn
giữa từ Surveiller et punir đến La volonté de savoir (Histoire
de la sexualité I) và giai đoạn sau cùng là dự án 2 trở đi của bộ lịch sử
tính dục).
Cấu trúc luận với
Lévi-Strauss và Lacan đã loại bỏ hay đóng triết học lại, trong khi diễn ngôn của
Foucault hay Derrida mở ra những vấn đề như đồng thể/tha thể, nhất thể/phức thể,
chủ thể/khách thể, vơi/đầy v.v… Nếu Saussure là khuôn mẫu cho cấu trúc luận,
thì Nietzsche trở lại trong những tác phẩm của Foucault (ảnh hưởng sâu sắc của
phân tích quyền lực/Macht-Analytik), Deleuze và Derrida. Bốn khuôn mặt chính hậu
cấu trúc thường được nói đến là Lyotard. Derrida, Deleuze, Foucault, tuy nhiên
khác biệt cũng sâu sắc. Lyotard và Derrida khởi cuộc hành trình từ hiện tượng
luận, trong khi Deleuze và Foucault chống hiện tượng luận, có thể nói họ khởi
đi từ duy nghiệm luận.
Hậu cấu trúc luận xét lại những
sai sót của cấu trúc luận qua những giả định mới, cũng như phê phán Saussure và
Lévi-Strauss. Chẳng hạn tham luận Cấu trúc, dấu chỉ và phép chơi
trong diễn ngôn của các khoa học nhân văn Derrida viết cho Hội thảo quốc tế
của đại học John Hopkins vào tháng Mười năm 1966, khi nhận xét cấu trúc luận mệnh
danh phê phán duy nghiệm luận “song cùng lúc, không một quyển sách hay một
nghiên cứu nào của Lévi-Strauss không tỏ ra là một tiểu luận duy nghiệm mà những
thông tin khác luôn có thể bổ xuyết hay bài xích”.
Những khuôn mặt lớn của cấu
trúc luận như Barthes, Lévi-Strauss, Althusser xuất thân là những người
mác-xít, cho nên luận cứ dẫn trên của Sartre vô căn cứ, và một nhà hậu cấu trúc
như Foucault vào năm 1968 trên La Quinzaine littéraire đã phản bác;
tôi đã ở trong đảng cộng sản Pháp một thời gian vài tháng…và vào lúc đó Sartre
đối với chúng tôi được xác định như thành lũy cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc
tư sản… cho nên thật ngạc nhiên thích thú là thấy câu này ngày nay lại thấy từ
ngòi bút của Sartre mười lăm năm sau. Tình huống này sau giai đoạn 1968 chỉ để
muốn nói đến sự thất bại của cấu trúc luận đã dẫn đến khúc quanh tư tưởng, vào
lúc hệ tư tưởng mác-xít rơi vào chỗ bế tắc, đảng CS Pháp trì nõa trước biến động
lịch sử, sự ra đời của một dòng ý thức hệ mệnh danh là “tân triết học” với
Bernard-Henri Lévy, André Glucksmann, Jean-Marie Benoist, Jean-Paul Dollé,
Michel Guérin, Christian Jambet, Guy Lardreau v.v… chịu ảnh hưởng sâu xa hậu
cấu trúc luận trong phê phán Marx của Foucault hay Lyotard.
2/ Những bước ngoặt ở cuối-thế-kỷ
Như đã nói nơi trên, vận động
tư tưởng ở nửa cuối thế kỷ 20 đánh dấu qua những bước ngoặt:
a. Trước hết là bước ngoặt
ngữ học chỉ ra những vấn nạn triết học là những vấn đề về ngôn ngữ; nói như vậy
có nghĩa là người ta không đi tìm ở những triết gia như Descartes, Kant hay
Hegel với những tranh luận không ngừng về cùng những vấn đề mà phát hiện ra ở
một truyền thống khác mệnh danh là “truyền thống Hamann-Herder-Humboldt” (như
lối nói của Charles Taylor, nhà triết học Gia nã đại trong vùng triết học
Anh-Mỹ). Truyền thống này được tiếp thu và khai triển sâu xa ở giai đoạn II
trong hành trạng tư tưởng Heidegger, mở đầu một định hướng tư tưởng vào thời
kỳ này là thông diễn luận nơi Gadamer với Chân lý và Phương pháp/Wahrheit
und Methode, xuất bản năm 1960, cùng thời điểm với cao trào cấu trúc luận.
b. Bước ngoặt ngữ học
trong vùng triết học Anh-Mỹ khởi từ một truyền thống khác, từ hai nguồn thực
chứng luận lý học Áo và duy nghiệm luận Locke, Hume. Sự khác biệt giữa hai định
hướng ngữ học, một đi vào khoa học văn chương, một đi vào khoa học thực nghiệm.
Gustav Bergmann là nhà triết
học đầu tiên đã sử dụng từ ngữ “bước ngoặt ngữ học” trong ý nghĩa: mọi triết
gia ngữ học nói về thế giới qua những phương tiện nói về một ngôn ngữ
thích hợp, đó là bước ngoặt ngữ học, bước đầu cơ bản như đối với phươg pháp,
dựa vào ngôn ngữ thông thường và lý tưởng nào mà các triết gia đồng thuận;
ông kể ra ba lý do: một là những từ được dùng hoặc thông thường hoặc có tính
triết lý, hai là phần đông nghịch lý, phi lý, tối nghĩa của triết học tiền ngữ
học bắt nguồn từ chỗ không phân biệt giữa việc nói và nói về việc nói, ba là
cách chính đáng nói về những sự việc mà ngôn ngữ có thể là nói về cú pháp và
lý giải ngôn ngữ. Wittgenstein chủ trương đưa từ ngữ từ siêu hình học về lại
theo cách sử dụng hàng ngày. Tranh luận gữa triết học của ngôn ngữ lý tưởng với
triết học của ngôn ngữ hàng ngày trong triết học Anh-Mỹ khởi sự từ góc nhìn
này.
c. Bước ngoặt hủy tạo khởi
từ tranh luận giữa triết học và văn chương, trên cơ sở tu từ đã bắt nguồn từ
định kiến lâu đời, thường gán cho Platon trong quan niệm triết học đắc thủ những chân lý mà văn chương làm ẩn khuất vì ngôn ngữ và hư
cấu, hủy tạo chính là phản ứng văn chương về tính chính xác triết lý của nó.
Do sự phát triển phương
pháp hủy tạo trong nghiên cứu phê bình văn học, nhiều nhà triết học thực nghiệm
và phân tích xem những tác phẩm của Derrida như chỉ luận về những vấn đề
ngoài phạm vi triết học. Song chính tranh cãi về triết học ngôn ngữ sau
Saussure xác định vị trí hủy tạo trong chiều hướng hậu cấu trúc luận.
Bức tranh toàn cảnh sinh
hoạt triết học ở nửa sau thế kỷ 20 bày ra theo lối nói của Foucault như một khán
trường triết học/Theatrum Philosophicum: những đặc tính của thời đại này
không thấy ở những giai đoạn về trước như lối viết hợp đồng của hai hay
nhiều tác giả (chẳng hạn Deleuze và Guattari, Lacoue-Labarthe và Nancy,
Renaut và Ferry v.v..), những công trình nghiên cứu chuyên sâu của tác giả xuất
xứ từ phương Tây về triết học phương Đông hay ngược lại, mở ra những viễn
cảnh mới (người ta có thể thấy một Trang tử, Khổng tử, Vương Phu Chi, Karl
Marx như một người đồng thời), ảnh hưởng của triết học, lý luận
Pháp/French theory (như lối gọi của người Mỹ) vào khoa học văn chương (bành
trướng và biến đổi sinh hoạt trí thức Mỹ châu, chẳng hạn).
Lý giải lẫn nhau là một đặc
sắc của tri thức hậu cấu trúc, nói lên trao đổi thông giao hiếm có trong sinh
hoạt triết học. Tôi muốn nói đến tranh biện thân hữu, như những nhà triết
học vào thời kỳ này viết về nhau, giữa Foucault (1926-1984) và Deleuze
(1925-1995).
Michel Foucault đã viết Theatrum
Philosophicum trên tạp chí phê bìnhCritique năm 1970 thảo luận về
hai tác phẩm chủ đạo của chính tư tưởng Deleuze vừa mới xuất hiện vào năm
1969 Différence et répétition/Khu biệt và diễn tập và Logique
du sens/Luận lý của giác. Lời mở đầu của Foucault là một ca ngợi dự báo
người bạn triết lý của mình: một ngày kia, thế kỷ này có lẽ sẽ là của
Deleuze/un jour ce siècle sera peut-être deleuzien. Tất nhiên, ta không nên
coi câu nói này là xưng tụng lẫn nhau, vì chính Deleuze xác định nhận xét của
người bạn là một lời nói đùa, có nghĩa là làm cho những người nào thích họ có
dịp cười thích thú và làm cho những người khác giận bầm gan tím mật. Triết học,
với những người theo Nietzsche, không nên coi nghiêm trọng. Tám năm
sau, Foucault nhắc lại điều đó không ngăn trở việc nhìn nhận Deleuze là một
triết gia quan trọng.
Những lý giải của Foucault
trong bài viết chỉ ra bước ngoặt ngôn ngữ trên hành trạng tư tưởng diễn ra
nơi triết học, không phải tư tưởng, mà trên khán trường của Deleuze, hay của
Foucault: một khán trường của kịch điệu bộ với những cảnh tự phát, phù du, phức
hợp trong đó những biểu hiện cử chỉ mù lòa báo hiệu lẫn nhau.
Triết học như một sân khấu
thì đầy cảnh tượng hoạt náo, như Foucault mô tả ở đó tiếng cười nổ ra từ những
nhà quỹ biện xé toạc mặt nạ của Socrate, những phương pháp của Spinoza dẫn về
một điệu nhẩy man dã trong vòng tâm lệch trong khi bản thể xoay quanh nó như
một hành tinh điên rồ, một Fichte khập khiễng công bố “cái Tôi rạn nứt? cái ngã phân hủy”, một Leibniz đã leo tới đỉnh kim tự tháp, có thể nhìn
xuyên suốt màn đêm thấy nhạc trời thực sự là một bản ca chu trình của
Schoenberg gọi tên Pierrot lunaire, một Duns Scotus thò đầu qua vòm cửa
sổ trong chòi gác Công viên Lục xâm bảo, để ria mép đầy ấn tượng, vốn thuộc về
Nietzsche (chân dung Nietzsche luôn luôn họa một người có bộ ria xồm), hóa
trang như thể Klossowski.
Bút pháp triết học từ
Deleuze hay Derrida đã biến đổi truyền thống nghị luận, như Logique du
sens, 1969 của Deleuze, hay Glas, 1974 của Derrida (sẽ nói đến
ở sau). Cho nên Foucault ví Logique du sens có thểø đọc như một quyển
sách lạ lẫm nhất có thể tưởng được so vớiPhénoménologie de la perception,
1945 của Merleau-Ponty. Trong tác phẩm của Merleau-Ponty, cơ chế thân thể
ràng buộc với thế giới qua một mạng lưới những ý nghĩa cơ bản, phát sinh từ
tri giác sự vật, trong khi theo Deleuze, những ảo tượng hình thành mặt bằng
những cơ thể không thể xuyên thủng và vô thể. Tác phẩm của Deleuze là một khảo
luận siêu hình, không hiểu theo nghĩa siêu hình học lãng quên hữu thể, nhưng
nói về ngoại hữu, diễn ngôn về những sự vật vô thể, như ảo tượng, ngẫu tượng,
giả tượng.
Logique du sens viết
dưới dạng (toán học) ba mươi bốn chuỗi/cấp số nói về những nghịch lý, về chuyển
biến thuần túy, khởi từ phạm trù sự biến(như Deleuze xác định khai phá bản
tính của sự biến trong mọi sách của ông), những nghịch lý nơi Lacan,
Lévi-Strauss, và tìm ra từ tiểu thuyếtAlice và Through the
Looking-Glass của Lewis Carroll, nghịch lý là khẳng định cùng lúc
hai nghĩa, hai chiều hướng. Deleuze gọi quyển sách này của ông là một thử
nghiệm tiểu thuyết luận lý và phân tâm học.
Sự biến và ảo tượng, những
vấn đề mà theo Deleuze và Foucault triết học đã xao nhãng từ nhiều thế kỷ,
chính là đối tượng trong cuộc thử nghiệm của Deleuze. Cũng như Heidegger, và
trước đó là Nietzsche, với Deleuze và Foucault, triết học đến kỳ cùng đều
toan tính quay lại hay lật nhào chủ nghĩa Platon, vì như Heidegger có nói rõ
siêu hình học (phương tây) từ đầu đến cuối là chủ nghĩa Platon. Lật ngược chủ
nghĩa Platon, hay chống-Platon, có phải là khởi đầu với Aristote, hay với những
Quỉ biện gia, hay với những nhà Khắc kỷ? Khoa ảo tượng luận Platon có phải nhằm
phân biệt cái giả/vờ vịt với cái công chính/không pha trộn, không phải từ
phát hiện luật chân giả nhưng tìm một khuôn mẫu sao cho với hiện diện của nó,
cái phù phiếm giả tạo chỉ còn là vô hiện hữu. Deleuze không tìm cái độc đáo
trong sự đối lập giữa bản chất và ảo hiện nơi Platon, hay một thế giới cao
hơn trần gian này, như mặt trời chân lý với bóng tối hang động, mà ở vận động
trước khi phát hiện bản chất, vì nó đòi hỏi thế giới của bản chất trong sự
phân rời những ảo giả với muôn vàn những ảo hiện. Cho nên không phải lật nhào
chủ nghĩa Platon bằng cách dựng lại quyền của những ảo hiện, phú cho chúng ý
nghĩa và củng cố chúng, hay đưa chúng xích gần lại với những hình thái cơ bản:
thật vô dụng, vì chúng chẳng thể vươn lên đứng thẳng, hay trở thành Lý niệm
không bao giờ thủ đắc. Chúng ta chỉ có một quần tụ giả nhái và kêu vang ầm ĩ
trước cửa. Chỉ có sự biến, nhận chìm ảo hiện và phá hủy hôn ước với bản chất,
vô thể phát tán tỷ trọng vật chất, một cố chấp phi thời gian phả hủy cái vòng
bắt chước vĩnh cửu, một dị dạng khó xuyên thủng tự tước đoạt cái lây lan của
chính bằng qua thuần khiết, cái giống thực sự của ngẫu tượng củng cố tính giả
của ảo hiện giả. Nhà quỉ biện chồi lên, thách đố Socrate chứng tỏ y không là
người soán đoạt phi pháp. Lũng đoạn Platon là đứng về phía những người quỉ biện
khinh thị, những người khuyển sĩ thô bạo, những người khắc kỷ lý sự, những
người khoái lạc viễn quan lãng đãng. Deleuze bướcvào lịch sử triết học, viết
về những triết gia cho chính triết học của mình. Ông không chỉ viết những tiểu
lục về Hume, Bergson, Spinoza, Kant, Nietzsche mà còn khai phá tự Epicure, khắc
kỷ, Zénon, Lucrèce, Chrysippus, và đọc Diogène Laërce, Lewis Carroll,
Nietzsche, Proust.
Đọc Nietzsche để khai thác
phương pháp đạt tới một điểm sâu hiểm ở đó cùng một sự vật là dật sự của đời
và cách ngôn tư tưởng; đọc Diogène Laërce trong những trang hay nhất như thể
ông linh cảm phương pháp này trong những cách ngôn sinh động cũng là những dật
sử của tư tưởng - hành tích triết gia; ở Marcel Proust dự tưởng triết học cấu
thành phương pháp từ một điểm nhìn nhất định, đi tìm chân lý có thể dễ nhất
và tự nhiên nhất, chỉ cần quyết định vượt lên những ảnh hưởng bên ngoài làm
tinh thần sao lãng khỏi thiên chức khiến lấy giả làm thực; đọc Lewis Carroll
theo bước vận hành của nhà quỉ biện và biện sĩ lấy hoạt kê như một vũ khí triết
lý chống lại phản chứng Socrate, với nhà khắc kỷ hoạt kê như một biện chứng,
mà ông lấy đó thực hành trong tác phẩm của mình những sự biến trong khu biệt
với những hữu và sự vật. Tái phát kiến khắc kỷ, như tôi đề cập trong Chân
dung triết gia, 1973, hướng đi mới của tư tưởng mang ý nghĩa: không có chiều
sâu, cũng chẳng có chiều cao; Deleuze nói về ba hình tượng triết gia, Apllon
trên cao, Dionysos dưới vực và Hercule tọa thị trên mặt đất liền. Sự nghiệp của
Hercule/nhân vật khắc kỷ là sự nghiệp ở đời.
Trong lời Tựa tập Différence
et répétition, Deleuze xác định lịch sử triết học chính là tái sinh triết học;
trong lịch sử triết học tường trình hành động như một phó bản thực sự và đem
theo biến đổi tối đa riêng cho phó bản (cứ tưởng tượng một Hegel râu xồm về
mặt triết lý, một Marx nhẵn nhụi về mặt triết lý chẳng khác
nào như một nàng Joconde để ria). Có thể kể một quyển sách triết học quá khứ
xem như một quyển sách tưởng tượng, giả đò.
Cũng như Michel Foucault,
Gilles Deleuze đã viết nhiều về người bạn quen biết vào khoảng năm1962, khi
Foucault vừa hoàn tất hai tác phẩmRaymond Roussel và Naissance de
la clinique. Quyển sách Deleuze sưu tập lại những bài viết hầu như suốt hành
trạng tư tưởng Foucault từL'archéologie du savoir đến Histoire de
la sexualité thành quyển sách mang tên Foucault, 1986 sau khi
ông này mất. Ông mệnh danh Foucault là một nhà quản thủ văn khố, một người vẽ
đồ bản, một nhà tư tưởng lớn mà tư tưởng luôn xảy ra những khủng hoảng, dao động
như một điều kiện cho sáng tạo, một điều kiện có mạch lạc tận cùng. Theo
Deleuze, người ta có thể tạo chân dung một tư tưởng như thể tạo chân dung một
con người, chính vì thế ông muốn phác họa một chân dung triết học của
Foucault - đam mê, bạo động, tư tưởng của Foucault đối với ông ta như một bộ
máy chiến tranh.
Foucault khởi sự tác phẩm lớn đầu tiên là Histoire de la folie à l'âge classique, 1961 song vấn đề điên cuồng thực sự đã trải suốt tác phẩm của ông, thay vì kinh nghiệm hiện tượng luận, ông chọn một tri thức luận, ở đó điên cuồng được nhận biết qua một “tri thức” khác biệt tùy thuộc vào hình thành lịch sử. Tư tưởng về điên cuồng không phải là một kinh nghiệm về điên cuồng, nhưng về tư tưởng, nó chỉ trở nên điên cuồng trong suy sụp. Deleuze dẫn lời Leibniz (được nhắc lại trong tácphẩm viết chung với Guattari sau này Qu'est-ce que la philosophie? 1991) trong một tuyên ngôn tuyệt vời: “sau khi đã thiết lập mọi sự, tôi tưởng tới bến, nhưng khi suy niệm về hiệp nhất linh hồn với thân thể, tôi lại cảm thấy như bị thẩy ra giữa biển khơi”, để minh họa tư tưởng Foucault không phải tiến hóa, mà dẫn khởi từ những khủng hoảng.Lịch sử điên cuồng chắc hẳn đã thành tựu từ một khủng hoảng, khai triển một quan niệm tri thức trong Khảo cổ luận tri thức, 1969 là một lý luận về những phát biểu/énoncés, như khởi từ một khủng hoảng mới, cuộc khủng hoảng '68. Từ sự biến này phơi trần mọi quan hệ quyền lực khắp nơi, mang dấu ấn trong tác phẩm Surveiller et punir/kiểm sát và trừng phạt, 1975 chuyển từ tri thức qua quyền lực, dẫn đến La volonté de savoir/Ý chí tri thức, 1976 - lại một khủng hoảng khác, sâu kín hơn như cảm nhận đang vào ngõ cụt. Quả thực Foucault trong tiến trình tiếp diễn lịch sử tính dục, khai phá những hình thành lịch sử, song chính là những vấn đề của đời sống, đó là cách thế muốn ra khỏi cuộc khủng hoảng mới này. Như Deleuze nhận xét, luận lý của một tư tưởng, là toàn bộ những khủng hoảng kinh qua. Cho nên Foucault không phải tìm trở về với người hy lạp (trong Lịch sử tính dục 2 L'usage des plaisirs/Quyền sử dụng lạc thú nói đến khoa tình dục như nghệ thuật ứng xử qua lại của đàn ông và thiếu niên trong quan hệ yêu đương ở xã hội cổ hy lạp và 3, Le souci de soi/Quan tâm bản thân khởi từ bản văn Yếu quết của những giấc mộng của Artémidore đến những bản văn của Soranus, Rufus d'Ephèse, Musonius, Sénèque, Plutarque, Epictète, Marc Aurèle ở thời Khắc kỷ) mà theo Deleuze, quan tâm đến chúng ta ngày nay, nghĩa là tìm hiểu đâu là cách thế sống, khả năng sống hay tiến trình chủ thể hóa, phong thái tạo ra bản thân, bên ngoài tri thức và quyền năng. Deleuze cũng dẫn lời một nhà tư tưởng đương thời, François Châtelet đưa ra chủ điểm thực dụng của Foucault trong nguyên tắc “quyền năng như thao tác, tri thức như quy tắc”, để nhận xét: những khoa học về con người không tách rời khỏi những quan hệ quyền lực tạo cho chúng khả hữu, và thúc đẩy những tri thức khả dĩ có thể vượt qua ngưỡng cửa tri thức luận hay hình thành một nhận thức, chẳng hạn quan hệ kẻ phạm tội-thày rửa tội trong khoa học tính dục, hay những quan hệ trừng giới trong tâm lý học. Ngược lại, những quan hệ lực lượng vẫn mang tính ngoại thi, bất ổn, tiêu thất, hầu như tiềm thế, bất tri nếu như chúng không thực hiện trong những liên hệ hình thành hay thành tằng cấu tạo ra những tri thức. Trong Triết học và khoa học (1972) tôi đã tóm lược điểm nhìn trong suốt hành trạng tri thức luận của Foucault xác định những khoa học về con người (trong khuôn khổ con người sống, nói và sản xuất) như vậy thực sự không phải là về vấn đề con người, nhưng phân tích trong chiều hướng của vô thức, quy pháp, quy tắc những toàn bộ mang ý nghĩa khai mở cho ý thức những điều kiện về nội dung và hình thức của chúng. Deleuze dường như đã thâu tóm điểm chung của những nhà tư tưởng đương thời cùng chí hướng mở ra một chiều kích mới trong Foucault (1986), đó là đăng quang của một hình thái mới, không phải Thượng đế, cũng không phải con người, song người ta có thể kỳ vọng ở đó không tệ hơn hai nhân vật kể trên.
Hình thái mới ấy chính là
siêu nhân nơi “những người theo Nietzsche” (trong một thời khoảng ở Pháp -
như lối nói của Vincent Descombes), để phân biệt với những người “không theo
Nietzsche” (thật ra, đã có hai cuộc hội luận quốc tế về Nietzsche trong nửa
sau thế kỷ này, một vào năm 1964 ở Royaumont, không phải chỉ quy tụ những đại
biểu chính của chủ nghĩa theo Nietzsche như Descombes nghĩ, một vào năm 1972 ở
Cerisy-la-Salle với nhiều khuôn mặt mới). Derrida nói về Nietzsche
trong “một giai đoạn mới của một quá trình lý giải hủy tạo, có nghĩa là khẳng
định”, đánh dấu bước ngoặt hủy tạo của thập niên '70. Trong hội luận quốc
tế về Nietzsche năm 1972, Derrida đã chọn đề tài Những bút pháp/văn
phong của Nietzsche : vấn đề bút pháp theo Derrida luôn luôn là kiểm
tra, trọng lượng của một vật nhọn, đôi khi chỉ là của một ngòi bút sắt, chùy
đao, dao găm, nhờ chúng mà chắc chắn người ta có thể tấn công một cách hung bạo
cái gì mà triết học gọi nó dưới cái tên vật chất hay tử cung, để ấn vào đó một
dấu vết, để vào đó một dấu ấn hay một hình thể, song cũng để nẩy lại một hình
thức dọa nạt, giữ không cho lại gần nó, trấn áp nó, đề phòng nó - rồi gấp xếp
hay cuốn lại, trốn chạy, sau những màn che…Nietzsche dùng đủ mọi thứ màn. Bút
pháp tiến lên như thể mũi nhọn/éperon (trong tiếng Anh là spur, tiếng Đức cổ
là sporo, tiếng Aùi nhĩ lan cổ là spor) chẳng hạn như mũi nhọn ở đầu tàu của
một tàu buồm, phần nhô ra xông lên trước, bẻ tan cuộc tấn công chém văng mặt
đối phương; cũng để gọi trong tiếng hàng hải là mũi đá rẽ phăng sóng để vào hải
cảng. Bút pháp cũng dùng mũi nhọn của nó để bảo vệ chống lại sự dọa nạt khủng
cụ, mù quáng và chết người của cái gì tự hiện, cho nhìn thấy trong cương ngạnh:
hiện diện, nội dung, chính sự vật, ý nghĩa, chân lý - trừ phi đã là vực sâu mất
thanh tân trong vén mở khác biệt này. Nhưng, đúng ra vấn đề bút pháp/mũi nhọn
chỉ để nói về chủ đề chính, vấn đề đàn bà/ihre Wirkung in die Ferne, như
Nietzsche nói: vẻ duyên dáng mãnh liệt nhất của người đàn bà/der Zauber und
die mächtigste Wirkung der Frauen, chính là cảm thấy có khoảng cách xa
(kính nhi viễn chi?)/eine Wirkung in die Ferne, như Derrida dẫn cách dịch của
Pierre Klossowski: une opération à distance, và nói theo kiểu các triết gia,
đó là một hành động cách xa/actio in distans. Văn tự của Nietzsche đã phỏng
theo khoảng xa/Dis-tanz này, một lối văn phong chia cách giữa lời dẫn tiếng
La tinh nhái ngôn ngữ triết gia và dấu than, cái gạch treo lửng từDistanz.
Khoảng xa là nhân tố quyền lực quyến rũ của người đàn bà. Quyến rũ, e ấp như
mọi hiệu quả khác của tấm màn che, chỉ để nói đời là đàn bà, chân lý là đàn
bà, cái chân lý là đàn bà, triết gia tin, tin và giáo điều, vào chân lý cũng
như tin vào đàn bà, triết gia chẳng hiểu gì hết. Đó là mở đầu Bên kia
thiện ác/Jenseits von Gut und Böse của Nietzsche: Giả sử chân lý
là đàn bà, liệu người ta có chỗ để ngờ là mọi triết gia, trong trường hợp họ
là những kẻ giáo điều, khó hiểu nổi đàn bà?/Vorausgesetzt, daß die Wahrheit
ein Weib ist -, wie? Ist der Verdacht nicht gegründet, daß alle Philosophen,
sofern sie Dogmatiker waren, sich schlecht auf Weiber verstanden?
Như Derrida đã thông báo
ngay từ đầu, lý giải của ông là lý giải hủy tạo - những trưng dẫn Nietzsche
qua Le Gai Savoir, Au-delà du bien et du mal, Le crépuscule des idoles… trong
tham luận này, hay ở những tác phẩm khác của ông chỉ ra chân lý, những vũ khí
của đàn bà như quyến rũ, e thẹn, xé rách tấm mạng đó, những chữ nghĩa đó, là văn
tự và khubiệt/l'écriture et la différence, từ người đàn bà-chân lý, đàn bà
quên mình như bị thiến hoạn, ông nhắc đến cái quan hệ với sự thiến hoạn đó bị
treo lửng, như thuật ngữ épokè/έποχή của hiện tượng luận, cái
mô-típ thiến hoạn như trong bản văn của Nietzsche, chính là hướng về ẩn ngữ của
phi-hiện diện của chân lý. Derrida dẫn qua những bản văn Le crépuscule
des idoles (những khung văn Histoire d'une erreur, Moral als Widernatur)
của Nietzsche chỉ ra Cơ đốc giáo là một chủ nghĩa thiến hoạn/Kastratismus ,
nhổ răng, móc mắt như Nietzsche nói là những hành vi/opérations Cơ đốc, hô
hào: il faut tuer les passions/phải tiêu diệt mọi đam mê - nhưng tấn
công tận diệt mọi đam mê đến tận gốc, chính là tấn công tận gốc rễ đời sống:
thực tiễn của Giáo hội (Cơ đốc) tỏ ra thù nghịch đời sống/lebensfeindlich. Đến
đây, qua Nietzsche-Derrida đã tấu cùng một nhịp với những nhà tư tưởng đương
thời, như đã chỉ ra nơi trên. Điểm đặc sắc của riêng ông, đó là đánh dấu bước
ngoặt hủy tạo. Ngay trong vấn đề đàn bà, thiến hoạn, bi kịch, quên lãng hữu
thể, chân lý… Theo Derrida, Nietzsche đã góp phần vào việc giải phóng
ngữ thái/signans ra khỏi lệ thuộc vào logos và khái niệm liên hệ đến chân lý
hay ngữ ý/signatum tối sơ, như khi Nietzsche viết: phần đông các nhà tư tưởng
viết dở là vì họ không bằng lòng chỉ thông tri những tư tưởng của họ, mà họ
muốn thông tri cả cách tư tưởng về những tư tưởng này/das Denken der
Gedanken. Cuộc tranh luận giữa thông diễn luận Gadamer (mãi đến năm 60 tuổi,
mới xuất bản tác phẩm chính Wahrheit und Methode, 1960) và thuyết hủy
tạo Derrida vào năm 1981, như tôi nói đến trong Cơ sở tư tưởng thời
quá độ (2007) chỉ ra thông giao tư tưởng qua biên giới, như Jürgen
Habermas viết Diễn ngôn triết lý của Hiện đại/Der philosophische Diskurs
der Moderne (1985) để đối thoại với Derrida, Bataille, Foucault v.v..; nhiều
tác phẩm viết về những nhà tư tưởng hậu cấu trúc như Peter Tepe viết về
Lyotard, Derrida, Deleuze, Foucault trong Postmoderne/Poststrukturalismus
(1992), tác phẩm nhiều người viết về triết học Derrida trong Einsätze
des Denkens (1997) do Hans-Dieter Gondek và Bernhard Waldenfels biên tập, Reflektierte
Vernunft (1995) về triết học Foucault của Thomas Schäfer, Macht, Moral,
Wissen (1998) của Wolfgang Detel về Foucault và triết học cổ đại
v.v..
Jean-François Lyotard
(1924-1998) là một trong bốn kiện tướng triết học Pháp trong nửa sau thế kỷ
20 (cùng với Michel Foucault, Gilles Deleuze, Jacques Derrida) và tự chọn cho
mình một đường hướng tư tưởng mới:chủ nghĩa hậu hiện đại. Ông khởi sự triết học
với quyển sách nhập môn Hiện tượng luận xuất bản năm 1954 song phải đợi tới
thập niên '70 mới thực sự tung ra một loạt những tác phẩm chính biểu hiện con
đường triết lý qua Discours, Figure (1971), Dérive à partir de Marx et
Freud (1973), Économie libidinale (1974), Les transformateurs Duchamp (1977),
La condition postmoderne (1979), Le différend (1983), Le postmoderne expliqué
aux enfants (1986), L'enthousiasme. La critique kantienne de l'histoire
(1986), Heidegger et “les juifs” (1988), L'inhumain (1988) v.v…
Điểm gặp gỡ chung của những
nhà triết học kể trên là chỉ ra mối quan hệ triết học và văn chương, xây dựng
một khoa học văn chương, chung một nhịp với hướng phê bình mới như Blanchot
và Barthes, từng đứng trong hàng ngũ Mác-xít rồi từ bỏ rất sớm. Lyotard khởi
đi từ hiện tượng luận như Derrida, khác với Foucault và Deleuze là những người
bác hiện tượng luận, gần với duy nghiệm luận và triết học phân tích. Tuy
nhiên điểm độc đáo của riêng Lyotard không chỉ ở những phân tích ý nghĩa học
văn chương và mỹ học, nhưng ở quan điểm hậu hiện đại và xã hội học qua hai
tác phẩm Điều kiện hậu hiện đại với tiểu đề Tường trình/báo cáo về tri
thức/La condition moderne. Rapport sur le savoir và Heidegger và
“những cái thuộc về do thái”/Heidegger et “les juifs”.
Tác phẩm xuất bản năm 1979
mở đầu bằng xác định “nghiên cứu này có đối tượng là điều kiện của tri thức
trong những xã hội phát triển nhất” có những chỉ dấu như:
- mệnh danh là “hậu hiện đại”,
một từ ngữ quen dùng ở lục địa Mỹ trong giới phê bình và xã hội học để chỉ thị
“tình trạng văn hóa sau những biến đổi ảnh hưởng đến những qui tắc trong cuộc
khoa học, văn học và nghệ thuật khởi từ cuối thế kỷ 19”. Phải chăng ở đây
Lyotard nhắc nhở đến xu hướng “khoa học văn hóa/Kulturwissenschaft” của những
người như Heinrich Rickert truyền thụ vào khoa nhân học xã hội và sử học?
- mệnh danh là khoa học,
nguyên thủy xung đột với những trần thuật/récits song muốn hợp thức hóa những
quy luật trong cuộc, gọi là triết học phải nại tới những trần thuật lớn lao
như phép biện chứng Tinh thần, thông diễn học về giác – “hậu hiện đại” là bất
khả tín đối với những siêu trần thuật, một hậu quả của tiến bộ khoa học, do
đó triết học siêu hình cũng như những định chế đại học tương ứng trong khủng
hoảng. Theo Lyotard, chức năng trần thuật mất những năng tố/foncteurs như anh
hùng, hiểm nghèo, mục tiêu, hải trình…
- điều kiện hậu hiện đại
tuy vậy xa lạ với sự thất vọng/tỉnh ngộ, cũng như với tính tích cực mù quáng
của giải trừ hợp thức; tri thức hậu hiện đại theo quan điểm Lyotard không chỉ
là công cụ của những quyền năng mà còn tinh luyện khả giác tính của chúng ta
đối với những khu biệt và tăng cường khả năng hỗ trợ cái phi thông ước của
chúng ta. Vấn đề vẫn còn đặt ra là hợp thức hóa mối liên hệ xã hội, một xã hội
công chính liệu có thực tiễn theo một nghịch lý tương tự như nghịch lý trong
hoạt động khoa học? Nghịch lý này dựa trên cái gì?
- mệnh danh là phi thông ước/incommensurable
vì “mỗi con người chúng ta sống giữa ngã ba đường của những giá trị/valences
thực dụng tự sinh” do chuyên chở của nhiều yếu tố ngôn ngữ chỉ sự, thuyết thoại,
miêu tả, không có những phối ngẫu ngôn ngữ bền vững thiết yếu, mà cả những
ngôn ngữ chúng ta tổ hợp được cũng không thiết yếu thông giao. Có nhiều
lối chơi chữ/sử dụng ngữ khác nhau biểu thị dị tính của những yếu tố, cho nên
hợp thức hóa trong việc thiết lập công lý xã hội hay chân lý khoa học là việc
phải chọn những thực hiện hệ thống nào tốt nhất mà áp dụng tiêu chuẩn này là
chọn lựa , hoặc thi hành được, hoặc biến đi.
Đến đây lộ rõ quan điểm của
Lyotard khác với những người đồng thời, như Habermas, vì theo ông tiêu chuẩn
khả thi có tính kỹ thuật, không nhất thiết trì chú để phán đoán cái thực, cái
đúng, cho nên tìm sự đồng thuận trong tranh biện như Habermas nghĩ là vi phạm
dị tính của những cuộc chơi ngôn ngữ.
Lyotard cũng xác định bản
viết của ông mang tính thời thế, tường trình về tri thức trong những xã hội
phát triển nhất, đước góc nhìn của một nhà triết học, không phải của một
chuyên gia - chuyên gia biết điều gì ông ta biết và không biết, triết gia thì
không; chuyên gia đưa ra những kết luận, triết gia đi tra hỏi, hai cuộc chơi
ngôn ngữ khác nhau.
Cho nên trong một báo cáo
như vậy, nhà triết học giới thiệu mọi mặt chữ nghĩa: ngữ âm học và những lý
luận ngữ học, những vấn đề thông giao và điều khiển học, tân đại số học và
thông tin học, máy điện toán và ngôn ngữ của chúng, những vấn đề dịch thuật ngôn
ngữ và nghiên cứu khả năng kiêm nhiệm của ngôn ngữ điện toán, những vấn đề xếp
trong bộ nhớ và trữ liệu dữ kiện, khoa viễn thông và hoàn thành những cực
“truyền tin”, nghịch lý luận - cùng với một số lượng thư tịch tham chiếu như Grundzüge
der Phonologie (Troubetzkoy), Cybernetics and Society (Wiener), La
formalisation des systèmes cybernétiques (Bellert), Le tournant informatique
(Moch), Les applications avancées de l'informatique (Joyeux), Pragmatics of
Human Communication (Watzlawick, Helmick-Beavin, Jackson) v.v…
Báo cáo của Lyotard về điều
kiện hậu hiện đại thực sự phản ảnh thời đại thông tin/điện toán, tuy nhiên
ông cũng chỉ rõ ra là “tri thức khoa học không phải là toàn bộ tri thức”, có
tương tranh, đối nghịch với một loại tri thức khác, có thể gọi đơn giản là
thuyết thoại. Không phải thuyết thoại toan tính lấn lướt, song mẫu hình của
nó gắn bó với những ý quân bình tự tại và sống vui hợp quần/convivialité (từ
ngữ này, Lyotard tín nhận từ Ivan Illich trong Tools for conviviality,
1975 - một nhà thần học tiến bộ với phê phán xã hội công nghiệp) mà theo
Lyotard, tri thức khoa học quả thật mờ nhạt so với những ý tưởng này, vì tri
thức khoa học bị người sử dụng hiện tại làm tha hóa còn bạo hơn quá khứ. Vấn
đề cốt lõi của thời đại này là vấn đề hợp thức, với Lyotard có tầm rộng hơn vấn
đề tranh luận của những nhà tư tưởng Đức hiện đại nghĩ (như Habermas,
Luhmann), về mặt luật lệ dân sự (quá trình của nhà làm luật được phép ban
hành luật như một quy tắc), cũng như về mặt khoa học (quá trình qui định những
điều kiện để một phát biểu dự phần trong diễn ngôn khoa học, được cộng đồng
khoa học cứu xét). Cho nên ngôn ngữ khoa học đi đôi với ngôn ngữ đạo đức và
chính trị , chỉ ra hai mặt của một vấn đề: ai quyết định cái gì là tri thức
và ai biết cần phải quyết định cái gì? trong thời đại điện toán, tri thức
khoa học phụ thuộc vào quyền lực. Trong viễn tượng hậu hiện đại, bản nhiên của
dây liên lạc/ràng buộc xã hội không như hai mẫu hình đối nghịch, giữa trường
phái xã hội học Talcott Parsons xem xã hội như một toàn bộ chức năng với
trường phái mác-xít phân chia xã hội thành hai (có phân rẽ nhiều xu hướng,
song cùng quan niệm về nguyên tắc đấu tranh giai cấp, và phép biện chứng như
đối tính tạo thống nhất xã hội). Cả hai hình thái diễn ngôn này đều thừa kế
tư tưởng thế kỷ 19: một đằng là chủ nghĩa chức năng coi xã hội là một toàn bộ
hữu cơ, đồng hóa xã hội với một hệ thống tự điều hợp, tương ứng với những nền
kinh tế tăng trưởng và những xã hội trù phú ổn định; một đằng là chức năng của
nguyên lý đấu tranh giai cấp trong lý luận xã hội của Marx và những nhà Lý luận
“phê phán” (trường phái Frankfurt) dựa trên nhị nguyên luận của nguyên lý, bất
chấp những tổng hợp và hòa giải, chủ trương một mô hình xã hội khác (trong những
nước tự do, tiến bộ thì những cuộc đấu tranh và những bộ phận của chúng biến
đổi thành những cơ chế điều hợp của hệ thống, trong những nước cộng sản thì
trở lại mô hình toàn diện với những hậu quả toàn trị của nó, đấu tranh không
có quyền tồn tại). Phê phán kinh tế chính trị học và phê phán xã hội tha hóa
được sử dụng làm những nhân tố trong thảo chương hệ thống; cái cơ sở xã hội/assise
sociale trong nguyên lý phân rẽ là đấu tranh giai cấp chỉ còn là hy vọng, là
không tưởng. Theo Lyotard, không thể theo giải pháp như vậy, vì nó không giải
quyết gì ngoài phụ thuộc vào một tư tưởng bởi những đối lập không tương ứng với
những phương thức sinh động nhất của tri thức hậu hiện đại. Vấn đề liên hệ xã
hội là một cách vận dụng ngôn ngữ, tra vấn, định vị, tham chiêu, quan trọng
trong một xã hội mà thành phần thông giao là một thực tế. Tuy nhiên ở đây
Lyotard phê phán hai điều, ám chỉ lý luận thông giao của Habermas không nói đến:
một là những thông điệp có những hình thái và hậu quả khác nhau (tùy thuộc
vào ngữ cảnh như hàm thị, mệnh lệnh, đánh giá, thi hành v.v..) không thể giản
lược vào riêng chức năng thông tin (vì chính bộ máy điều khiển học đi tới
thông tin, từ những phát biểu mệnh lệnh và đánh giá), hai là lý luận thông
tin trong phiên dịch điều khiển học tầm thường đã bỏ quên mặt bất khả tri (mỗi
đối thủ ngôn ngữ bị chuyển dịch vì những đòn giáng, không chỉ ở chỗ nhận,
tham chiếu mà còn như chỗ gửi đi). Cho nên để hiểu những quan hệ xã hội,
không phải chỉ có lý luận thông giao mà còn một lý luận dự cuộc, bao gồm bất
khả tri luận trong những tiền giả định.
Như đã giới thiệu ở trên,
tác phẩm 1979 của Lyotard là một báo cáo mưu tìm điều kiện của tri thức, sau
khi đã bác những trần thuật lớn, phân giải tính thực dụng của tri thức trần
thuật với tri thức khoa học về mặt nghiên cứu và giảng dạy, chức năng trần
thuật và hợp thức tri thức. Chẳng hạn đối với khoa học hiện đại, khi đặt vấn
đề hợp thức, trước hết phải giải đáp vấn nạn: làm thế nào chứng thực chứng
nghiệm? Hay khái quát hơn: ai quyết định những điều kiện của cái thực? Nếu
không muốn sa vào chỗ đi tìm siêu hình học về một chứng lý đầu tiên hay một
thẩm quyền siêu việt, phải nhìn nhận những điều kiện của cái thực, nghĩa là
những quy luật của cuộc chơi khoa học đã tự tại ngay trong cuộc chơi. Tri thức
những trần thuật trở lại ở phương Tây để đưa ra một giải pháp cho sự hợp thức
những thẩm quyền mới; như vậy lại hỏi: ai có quyền quyết định trong xã hội?
Cái gì là chủ thể của những mệnh lệnh đã trở thành quy phạm cho những kẻ bắt
tuân thủ? Lối tra vấn tính hợp pháp chính trị xã hội này phối hợp với một
thái độ khoa học mới mà danh xưng nhân vật đó là nhân dân, chỉ dấu hợp pháp
là hiệp điều/nhất trí/consensus, phương thức quy tắc hóa là bàn định. Nhân
dân thì tranh luận với nhau về cái gì là công bình và bất công cũng như cộng
đoàn những nhà bác học thì bàn bạc với nhau về cái gì đúng và sai, tích lũy
thành những luật dân sự cũng như những quy luật khoa học. Nói về hợp thức
hoá, Lyotard chỉ ra hai thoại lớn của trần thuật, một đằng là chính trị, một
đằng là triết học, cả hai có tầm quan trọng lớn lao trong lịch sử hiện đại,
nhất là về tri thức và những định chế của nó. Một đằng chỉ ra chủ thể là nhân
loại như thể người hùng của tự do, có quyền về khoa học; một đằng chỉ ra quan
hệ giữa khoa học, quốc gia và Nhà nước. Ông nhận xét chủ nghĩa Mác, cũng
như Heidegger (mà Lyotard coi bài Diễn văn 1933 để nhận làm Viện trưởng
đại học Thời Đức Quốc xã như một phần (đời) khốn khổ của hợp thức) dao động
trước hai phương thức hợp thức trần thuật nói trên là những tiêu biểu cho bất
kiên định về mặt lý luận, mang âm vọng tàn khốc…Lyotard cũng phê phán nguyên
lý hiệp điều như là tiêu chuẩn của hiệu lực hóa cũng không đủ, điển hình nơi
hai nhà tư tưởng xã hội đương thời như Habermas (xem như thỏa hiệp của những
người như thể những tri năng nhận thức với những ý chí tự do qua phương tiện
đối thoại, mà theo Lyotard, quan niệm này dựa trên hiệu lực tính của trần thuật
giải phóng/validité du récit de l'émancipation) hay Luhmann (xem như điều động
bởi hệ thống như một trong những thành tố duy trì và cải thiện nhũng thực hiện
của hệ thống, là đối tượng của những thủ tục hành chính, mà Lyotard coi chỉ
có giá trị như phương tiện cho cứu cánh thực, cứu cánh hợp thức hóa hệ thống,
quyền năng).
Cho nên Lyotard đặt vấn đề
là xem một hợp thức hóa có phải khả hữu nhờ vào võng luận/paralogie? Trong tiết
cuối thứ 14 của báo cáo này, khi tranh luận về hiệp điều/bất đồng ý, về
nguyên thức/paradigme (hiểu theo nghĩa của Thomas Kuhn (1922-1996), triết gia
khoa học Mỹ), về khởi sinh hình thể của René Thom (1923-2002), triết gia khoa
học Pháp, tranh luận về lý chứng của Niklas Luhmann (1927-1998), nhà xã hội học
Đức chung quanh hai luận điểm, một là hệ thống chỉ có thể hoạt động khi giảm
thiểu phức tạp, nó phải kích động chấp nhận những nguyện vọng (expectations-
JFL) cá nhân cho những mục đích riêng của nó; hai là có thể hướng dẫn những
nguyện vọng cá nhân bằng một tiến trình “hầu như học nghề”, “không bị mọi nhiễu
loạn” ngõ hầu trở nên tương hợp với những quyết định của hệ thống. Những kỹ
thuật viễn thông/télématiques ở trong viễn tượng của những thủ tục hành chính
dẫn trên, với những chức năng thực dụng về lý chứng, quản trị chứng cớ, truyền
đạt cái đã phát kiến, từ học nghiệp đến tri tưởng. Với những kỹ thuật viễn
thông (trong thời đại chuyên gia trị/technocratie mà Lyotard ám thị là nỗi
kiêu hãnh của “những chuyên gia trị tuyên bố không thể tin cậy vào điều gì xã
hội chỉ thị như những nhu cầu của nó, họ “biết” là chính xã hội không thể nhận
ra những nhu cầu vì chúng không là những biến số độc lập của những kỹ thuật
cao cấp mới”, và ông dẫn chứng E.E. David, cố vấn khoa học của tòa Bạch Ốc
ghi nhận vào năm 1972 là xã hội chỉ có thể nhận biết những nhu cầu nó chứng
thực trong hiện tình môi trường kỹ thuật hiện đại), tự thị của những kẻ quyết
định, biểu thị ứng xử kiểu khủng bố, khoa học càng khu biệt, trong thực dụng
tạo ra cái phản mẫu hình của hệ thống bền. Vấn đề hợp thức hóa nói chung đặt
ra: đâu là quan hệ tương ứng giữa cái phản mẫu hình do thực dụng khoa học
đề ra với xã hội, có thể ứng dụng vào muôn vàn mây mờ của chất liệu ngôn ngữ
tạo ra xã hội, vai trò của nó trong liên lạc xã hội, có thể là lý tưởng chấp
nhận được trong cộng đồng cởi mở, hay ngược lại, là khước từ hợp tác với quyền
lực, đi tới chỗ chống văn hóa, có thể dẫn đến tiêu diệt mọi khả năng nghiên cứu
vì thiếu tín dụng?
Lyotard cũng nhấn mạnh chỗ
khác biệt thực dụng giữa những trò chơi ngôn ngữ, như hàm thị tứcthuộc về nhận
thức, hay mệnh lệnh, tức thuộc về hành động (thực dụng khoa học tập trung
trên những phát biểu hàm thị, song đòi hỏi những quy tắc, lại thuộc về mệnh lệnh,
hay gọi là siêu mệnh lệnh, để tránh lẫn lộn) thế nên hoạt động khu biệt, thuộc
tri tưởng hay võng luận trong thực dụng khoa học hiện đại có chức năng làm xuất
hiện những siêu mệnh lệnh này và yêu cầu tham gia phải chấp nhận những mệnh lệnh
khác, mà chỉ có hợp thức duy nhất có thể nhận được là sản sinh ra những ý tưởng,
tức những phát biểu mới. Thực dụng xã hội lại không đơn giản như vậy, nên
Lyotard gọi nó như một quái vật mang những mạng loại phát biểu dị hình như
hàm thị, mệnh lệnh, trình diễn, kỹ thuật, đánh giá v.v..cho nên không thể xác
định những siêu mệnh lệnh chung cho các trò chơi ngôn ngữ, hay một hiệp điều
có thể bao trùm toàn bộ những siêu mệnh lệnh, chỉ ra suy đồi của những trần
thuật hợp thức, bỏ mất niềm tin nên “ý thức hệ của “hệ thống” vừa có
toan tính toàn trị, vừa diễn đạt chủ nghĩa vô sỉ bởi tiêu chuẩn thực hiện của
nó”. Do đó Lyotard quan niệm không thể có sự phát triển vấn đề hợp thức trong
chiều hướng đi tìm một hiệp điều/nhất trí phổ quát như Habermas nghĩ, nhờ vào
cái mà Habermas gọi là “đối thoại của những luận chứng” (trong Der
philosophische Diskurs der Moderne, 1985).
Tác phẩm dẫn trên của
Habermas chủ yếu nhằm vào những nhà tư tưởng hậu hiện đại Pháp như
Foucault, Derrida - và điều kỳ lạ như David Ingram nhận xét là không trực diện
phê phán Lyotard; đó cũng là vấn đề đối chiếu Habermas với Lyotard như
Richard Rorty, David Ingram đã làm, ở thời đại này. Ingram trong The
subject of justice in postmoderndiscourse: Aesthetic judgement and political
rationality (in trongHabermas and the Unfinished Project of
Modernity, 1996) phân giải sự khác biệt giữa Habermas quan niệm những lý tưởng
của công lý và hợp thức dự báo nền dân chủ trong đó mọi công dân hình thành
lý lịch của họ qua bàn bạc tập thể trên những cứu cánh chung, ngược lại
Lyotard phủ nhận sự tất yếu và ước muốn hiệp điều không bị gò bó như một mục
tiêu của ngôn ngữ thuần lý, mà chỉ là một trong những mục tiêu khả hữu của
ngôn ngữ thuần lý. Rorty khi thảo luận về Habermas và Lyotard trên vấn đề
hậu hiện đại/Habermas and Lyotard on Postmodernity (tham gia hội luận
về Habermas, in trong Praxis International, Vol.4, in lại trong sáchHabermas
and Modernity, 1985) phân biệt sự khác biệt giữa Lyotard xác định quan điểm hậu
hiện đại hoài nghi về những siêu trần thuật, theo Rorty, sẵn sàng bỏ chính trị
phóng khoáng để tránh rơi vào triết học phổ cập /universalist philosophy và
Habermas gọi thái độ này là “tân bảo thủ” cũng như phê phán xu hướng
quan niệm “cáo chung triết học” dưới những danh xưng hữu thể luận nền tảng,
phê phán, phép biện chứng tiêu cực, phổ hệ mà “tấm màn rủ những khái niệm triết
lý giống như chiếc áo choàng một cáo chung triết học che dấu vụng về”. Rorty
là đại biểu của triết học hậu phân tích Mỹ mà tôi đã nói đến trong chương 5 Cơ
sở tư tưởng thời quá độ, 2007. Trong bài viết dẫn trên, trích dẫn lời Dewey
“khi triết học phải cộng tác với tác động của những sự biến và làm sáng tỏ mạch
lạc ý nghĩa của tiểu tiết hàng ngày, khoa học và cảm xúc sẽ xâm nhập với
nhau, thực tiễn và trí tưởng sẽ bao gồm lẫn nhau; thi ca và tôn giáo sẽ là những
đóa hoa tự nhiên của cuộc sống” nhằm minh hoạ ý định của Dewey muốn cụ thể
hoá những quan tâm với nhưng vấn đề thường nhật của cộng đồng con người, guồng
máy xã hội, Rorty tỏ ý toan tính thoả hiệp giữa Lyotard và Habermas về hoài
nghi những siêu trần thuật với hiệp điều thông giao.
Không phải mọi nhà tư tưởng
đều đánh giá hiện hữu của tư trào hậu hiện đại, chẳng hạn như Habermas, Peter
Bürger. Trong The Decline of Modernism, 1992 (chương 3, nguyên tác
tiếng Đức in trong Adorno-Konferenz, 1983 do Habermas và von
Friedeburg xuất bản , bản dịch của David J. Parent), Bürger cho là những từ
ngữ 'hậu hiện đại', 'hậu công nghiệp' chỉ đặt tên cho thời đại mới một cách
trừu tượng; vả lại, tuy có những biến đổi xã hội, kỹ thuật và kinh tế sâu sắc
song phương thức sản xuất chủ yếu vẫn là sở hữu tư nhân của giá trị thặng dư
sản xuất tập thể. Ngay trong nghệ thuật, nói đến 'hậu hiện đại' [mặc dầu ngay
từ thập niên 70 của thế kỷ 19, John Watkins Chapman đã dùng để chỉ hội họa tiền
phong hơn hội họa phái Ấn tượng của Monet hay Renoir] theo Bürger cũng có những
nhược điểm của khái niệm 'hậu hiện đại' trong xã hội học, vì hiển nhiên không
có một định nghĩa cụ thể.
Tuy nhiên khái niệm 'hậu
hiện đại' vẫn được nhiều nhà tư tưởng khác sử dụng khi luận về cáo chung của
'hiện đại' trong những tranh luận không chỉ hạn chế trong lĩnh vực triết học,
nhưng mở rộng trong mọi 'trường văn hóa'. Alain Touraine trong Critique
de la modernité, 1992 nhấn mạnh đến sự hội tụ của mọi phê phán 'hiện
đại' đã phân tích bốn dòng tư tưởng chính biểu hiện đoạn tuyệt với hệ tư tưởng
duy hiện đại: Dòng thứ nhất xác định hậu hiện đại như một siêu hiện đại/hypermodernité,
tương tự như Daniel Bell định nghĩa xã hội hậu công nghiệp là siêu công nghiệp.
Ông dẫn nhận xét chí lý của Lyotard về vận động hiện đại không ngừng gia tốc,
những tiền phong càng lúc càng trở nên phù du và mọi sản xuất văn hóa trở
thành tiền phong do tiêu thụ ngôn ngữ và dấu hiệu mỗi lúc một nhanh và tính
hiện đại tự tiêu diệt. Dòng thứ hai không phê phán chủ nghĩa hiện đại kỹ thuật
mà phê phán chủ nghĩa hiện đại xã hội và chính trị đã sáng chế ra những phản
kiểu mẫu xã hội mà thực hiện gọi là sự can thiệp của một quyền lực càng tuyệt
đối hơn khi đoạn tuyệt thực hiện hoàn tất hơn; Touraine gọi tình thế này là hậu
xã hội/post social, sản phẩm của một phân rẽ hoàn toàn giữa công cụ được quản
lý trong những xí nghiệp kinh tế chính trị cạnh tranh lẫn nhau với ý nghĩa trở
nên tuần túy riêng tư, chủ quan. Dòng thứ ba là đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy
sử do sự thay thế kế tục những hình thái văn hóa bằng tính đồng thời tồn tục
của chúng; Touraine gọi chủ nghĩa hậu hiện đại này là chủ nghĩa hậu duy sử/post-historicisme,
tương ứng với kinh nghiệm của những người sống cùng thời với chúng ta băng
qua không gian và thời gian qua những cuộc du hành, thăm viếng bảo tàng viện,
đọc sách, nghệ thuật, nghe những băng đĩa nhạc khiến họ đồng cảm với những
tác phẩm có thể gần về mặt vật chất, hay trái lại có thể xa hàng thế kỷ, ngàn
dặm. Dòng thứ tư xét đến giá trị của những tác phẩm văn hóa (dẫu tách rời
toàn bộ lịch sử mà chúng xuất hiện) chỉ có thể xác định bằng thị trường/marché,
đánh dấu mối quan trọng mới của thị trường nghệ thuật, về cả hai mặt kinh
doanh và tiêu thụ trong xã hội phóng khoáng. Tourainenhận xét vận động hậu
hiện đại đẩy hủy triệt biểu tượng duy hiện đại của thế giới đến cùng cực, như
khẩu hiệu 'phản mỹ học' (Frederic Jameson), loại bỏ 'thế giới hình/Weltbild'
(từ ngữ của Heidegger).
Chủ nghĩa hậu hiện đại
theo Touraine đánh dấu chung cuộc của Nietzsche, hủy triệt sự thống
trị của kỹ thuật và lý tính công cụ. Gianni Vattimo, nhà tư tưởng
theo-Heidegger trong La fine della modernità, 1985đề ra việc khảo sát vấn
đề hậu hiện đại trong triết học theo một đường lối làm sao tránh tạo một tỷ
giảo khoa trương giữa triết học hiện tại và những nét hiển nhiên của hậu hiện
đại trong những lĩnh vực khác như kiến trúc, văn chương và phê bình, phải trở
lại khái niệmVerwindung/vượt,tái thẩm trong tư tưởng Nietzsche và
Heidegger, tương tự và khác biệt với khái niệm Überwindung/thắng, vượt ngõ
hầu sáng tỏ từ ngữ 'hậu' trong khái niệm 'hậu hiện đại'. Mối quan hệ
giữa chủ nghĩa hư vô và hậu hiện đại là vấn đề chính của Vattimo, liên hệ đến
Nietzsche và Heidegger. Không phải tình cờ, Lyotard viết Heidegger et
“les juifs” - mối quan hệ giữa chủ nghĩa hư vô và quên lãng. Vấn đề nêu
ra những tranh luận về lịch sử và phản lịch sử, sẽ bàn đến sau….
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét