Trong bài viết Cơ sở
phê bình luận vị lai [106], tôi đặt vấn nạn: Thế kỷ của khoa học văn
chương còn lại gì? Tôi muốn xác định ở đây thế kỷ nói đến là thế kỷ hai mươi.
Con người kinh qua hai thế kỷ đều thấy những biến động lớn của thế kỷ vừa chấm
dứt để lại những di sản khổng lồ mà hàng ngàn năm trước nhân loại chưa từng thấy.
Khoa học kỹ thuật ngày nay tiến bộ vượt bực về mọi lĩnh vực trong thời đại
thông tin, điện toán, nguyên tử, không gian v.v.. (tùy theo lối ưa gọi của mỗi
người). Ở bài viết nói trên, không chỉ hỏi về khoa học văn chương, mà còn vô số
những vấn nạn khác như hỏi trong thời đại hậu vi tính, mọi dữ liệu đã tồn trữ,
mọi thông tin tràn ngập trên mạng, văn chương có biến đổi, nhận thức viết và đọc
có biến đổi, liệu nền văn minh sách vở có nhường bước cho văn minh siêu bản,
quyển sách có tồn tại? Những câu hỏi đã được đặt từ hơn nữa thế kỷ nay khi người
ta nhìn về tương lai của quyển sách cùng với cách cấu trúc những bản văn có biến
đổi; người ta cũng đã hình dung quang cảnh những quyển sách in, những thư viện
và quán sách, những cơ sở phát hành cổ truyền sẽ nhường bước cho những cơ chế
chức năng điện tử, thuyết thoại theo tuyến trao lại cho những thông tin đa hiệu,
siêu bản? Một quan niệm như thế phát xuất từ chỗ không phân biệt những phương
tiện sản xuất văn hóa với phương thức sản xuất văn hóa.
Wilhelm Dilthey (1833-1911) là người tiền phong đặt cơ sở lý luận khu biệt
khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn. Ông xác định: khoa học nhân văn trước hết
khám phá ra trọng tâm riêng của mình, đó là bản tính con người [107]. Ông xem
như có cuộc cách mạng khoa học trong việc phân loại một cách hệ thống về sự đối
lập giữa cơ sở của những khoa học tự nhiên với cơ sở cho những khoa học nhân
văn; ông cũng phê phán quan niệm sử dụng phương pháp của khoa học tự nhiên vào
lĩnh vực nhân văn. Chính từ khởi điểm này, Dilthey trong bài khai giảng tại đại
học Basel 1867 đã toan tính xây dựng một khoa học thực nghiệm về tinh thần con
người, nhằm nhận thức những qui luật điều khiển những hiện tượng xã hội, trí thức
và đạo lý, là nguồn nguyên ủy của quyền năng nơi con người [108].
Hai mươi năm sau, khi đã xây dựng cơ sở lý luận khu biệt giữa khoa học nhân văn
với khoa học tự nhiên, Dilthey tiến tới việc nghiên cứu một hệ thống khoa học
văn chương, bắt nguồn từ sáng tạo thi pháp/Poetik như Aristote. Công trình của
ông dựa trên hai mặt: tâm lý học cấu trúc đã được khai triển từ tâm lý học miêu
tả/beschreibende Psychologie và thông diễn học/Hermeneutik. Ông viết thiên khảo
luận Tri tưởng của văn gia. Những thành tố cho khoa thi pháp [109]vào
năm 1887, tuy nhiên công trình này không hoàn tất ở đó vì ông vẫn tiếp tục
nghiên cứu vấn đề thi pháp này và để lại những đoạn thiên trong hai dự án
1907/8 [110].
Dilthey nhận xét sáng tạo học/thi pháp của Aristote trong suốt giai đoạn sáng tạo
văn chương có ý thức trước hậu bán thế kỷ 18 vẫn là phương tiện làm việc của
văn gia, là khuôn vàng thước ngọc/Richtmaß của những nhà phê bình như Boileau,
Gottsched và Lessing, là phương sách hữu hiệu nhất của khoa bác ngữ học trong
lý giải, phê bình và đánh giá văn học hy lạp, đồng thời cũng là một thành tố của
khoa giáo dục cao đẳng bên cạnh khoa ngữ pháp, tu từ học và luận lý học [111].
Dilthey xác định mỹ học khởi từ tinh thần Nhật nhĩ man với Goethe và Schiller,
cùng với những Humboldt, Körner, Moritz, Schelling, anh em nhà Schlegel và
Hegel đã thống trị văn học, biến đổi khoa bác ngữ học, hoàn thiện thông diễn luận
thuần lý trên cơ sở mỹ học với Schleiermacher. Tuy nhiên Dilthey xác định trong
thời đại của ông, tình trạng hỗn loạn vô chính phủ đã ngự trị trong lĩnh vực
văn chương ở mọi xứ sở, thi pháp Aristote bị khai tử, nền mỹ học Ðức chỉ tồn tại
trong giảng đường đại học, không còn trong ý thức của nhà văn nghệ hay phê bình
nữa. Giữa tình trạng hỗn độn này, nhà nghệ thuật mất chỗ dựa vào quy tắc, nhà
phê bình thu mình vào cảm tính cá nhân để đánh giá trị tác phẩm.
Dilthey mô tả tình trạng hỗn loạn của thẩm thức luôn diễn ra ở mọi thời đại, một
cách thế mới cảm nhận thực tại đã phá vỡ những hình thái và quy tắc hiện hữu và
phát triển những hình thái mới của nghệ thuật. Tuy nhiên, ông nhận xét tình trạng
này không bao giờ kéo dài, nên một trong những nhiệm vụ sinh tồn ngày nay đối với
triết học và lịch sử nghệ thuật và văn chương là phải tái lập mối quan hệ bình
thường giữa tư tưởng mỹ học và nghệ thuật. Yêu cầu của chân lý thúc đẩy người
làm nghệ thuật phải dựng lên một lý tưởng chân mỹ thuần túy ở bên trên thực
tại thông thường, một tinh thần thẩm tra khoa học trên mọi sự, thẩm thấu mọi
triển khai tinh thần, kích động nhu cầu nhận thức thực tại ở mọi lớp áo khoác
nào. Ông phát hiện những quan hệ tự nhiên cần tranh luận được thiết lập trong
nghệ thuật, suy luận mỹ học và một lớp công chúng phán xét và tranh biện. Tranh
biện mỹ học củng cố vị thế nghệ thuật trong xã hội và thúc đẩy nhà làm nghệ thuật
năng động.
Chính trong khi phân giải tình trạng vô chính phủ của thẩm thức, Dilthey đã đưa
ra một phán đoán khẳng định: Tất cả lịch sử nghệ thuật và văn chương chỉ ra sự
nắm bắt phản tư những chức năng và quy luật nghệ thuật khiến [người ta] ý thức
được tầm quan yếu và những mục tiêu lý tưởng của chúng, trong khi những bản
năng thấp kém của bản tính con người thường tìm cách làm suy đồi chúng [112].
Những vấn nạn đề ra, như phải chăng trong quan hệ sinh động của sáng tạo/Poetik
với thực tiễn của nghệ thuật cần những quy luật chung khả dĩ sử dụng được như
những quy tắc làm việc và như những tiêu chuẩn phê bình? Làm thế nào kỹ thuật của
một thời đại, một quốc gia có thể ứng xử dối với những quy tắc chung này? ở một
góc nhìn khác, sở hữu một thi pháp có phải là nhu cầu khẩn thiết của mọi thời đại?
Để trả lời vấn nạn này, Dilthey nhận xét vô số tác phẩm văn chương của mọi dân
tộc phải đáp ứng lợi ích và khoái lạc từ nhận thức lịch sử của những mục đích
và ích lợi sư phạm, nhận chân giá trị và sử dụng chúng trong nghiên cứu về con
người cũng như lịch sử. Vấn đề này chỉ được giải quyết nếu như câu kết với lịch
sử văn chương, có một khoa học tổng thể những yếu tố và những quy luật dựa vào
cơ sở đó để những tác phẩm văn chương được hình thành.
Khởi điểm của một khoa học văn chương theo quan điểm Dilthey phải từ phân tích
khả năng sáng tạo ở đó quá trình xác định tác phẩm văn chương:
Vị thế tri tưởng của văn gia đối với thế giới những kinh nghiệm tạo thành khởi điểm thiết yếu cho mọi lý luận thực sự muốn giải thích cách nào để những hiện tượng kế tiếp nhau trong thế giới biến đổi của văn chương. Trong ý hướng này, sáng tạo thi pháp là con đường dẫn vào lịch sử những vận động tâm linh. Dilthey khẳng định: thi pháp liên quan tới nghiên cứu dữ kiện cơ bản của những khoa học tinh thần là tính cách lịch sử của bản tính con người tự do, dường như có lợi thế lớn hơn những lý luận tôn giáo hay đạo đức.
Vị thế tri tưởng của văn gia đối với thế giới những kinh nghiệm tạo thành khởi điểm thiết yếu cho mọi lý luận thực sự muốn giải thích cách nào để những hiện tượng kế tiếp nhau trong thế giới biến đổi của văn chương. Trong ý hướng này, sáng tạo thi pháp là con đường dẫn vào lịch sử những vận động tâm linh. Dilthey khẳng định: thi pháp liên quan tới nghiên cứu dữ kiện cơ bản của những khoa học tinh thần là tính cách lịch sử của bản tính con người tự do, dường như có lợi thế lớn hơn những lý luận tôn giáo hay đạo đức.
Mặt khác, ông còn xác quyết: quan niệm triết lý về lịch sử nẩy sinh từ lịch sử
văn chương; dường như thi pháp khoác một ý nghĩa quan trọng tương tự đối với
nghiên cứu một cách có hệ thống những biểu hiện lịch sử của đời sống [113].
Phát triển một khoa học văn chương có một tầm quan trọng thực tiễn, nơi những
triết gia văn học kế tiếp, khởi từ đầu thế kỷ hai mươi với Mikhail Bakhtin
(1895-1975), Roland Barthes (1915-1980), Maurice Blanchot (1907-2003) thực hiện
[114].
Mikhail Bakhtin trong giai đoạn đầu (1918-1925) những năm ở Nevel và Vitebsk đã
viết nhiều biên khảo thấm nhuần tư tưởng triết học tân-Kant; từ ngữ Architektonik lấy
từ khái niệm xây dựng hệ thống của Kant là nguyên mẫu Bakhtin sử dụng nhằm xây
dựng một quan niệm mới về mặt ngữ học, một khoa học văn chương, trong tranh biện
với tư trào Hình thái luận đương đại. Bản văn Vấn đề nội dung, chất liệu
và hình thái trong nghệ thuật sáng tạo ngôn từ [115] được viết ra khoảng
trước năm 1924, vào thời kỳ có thể gọi là triết lý của ông, song mục tiêu chính
là đưa ra ý niệm 'chất liệu' nhằm phê phán ý niệm 'hình thái' của những nhà
hình thái luận.
Trước khi xét đến nội dung bản văn này trong khuôn khổ luận về một quan điểm khoa học văn chương vào đầu thế kỷ 20 từ một góc nhìn khác với quan điểm của Dilthey nói đến ở trên, ta phải định vị Bakhtin trong cuộc tranh biện này. Đây là thời sau cách mạng 1917, đảng bôn-sê-vích đã nắm chính quyền song chưa xẩy ra tình trạng văn nghệ chỉ đạo trấn áp, tuy nhiên Bakhtin cũng đã bị đưa đi an trí vào năm 1929. Cho nên tôi sẽ nói riêng về bản văn này và không tham chiếu một bản văn khác đứng chung tên hai tác giả Bakhtin và Medvedev (1891-1938) nhan đề Phương pháp hình thức trong học thuật văn chương [116].
Trước khi xét đến nội dung bản văn này trong khuôn khổ luận về một quan điểm khoa học văn chương vào đầu thế kỷ 20 từ một góc nhìn khác với quan điểm của Dilthey nói đến ở trên, ta phải định vị Bakhtin trong cuộc tranh biện này. Đây là thời sau cách mạng 1917, đảng bôn-sê-vích đã nắm chính quyền song chưa xẩy ra tình trạng văn nghệ chỉ đạo trấn áp, tuy nhiên Bakhtin cũng đã bị đưa đi an trí vào năm 1929. Cho nên tôi sẽ nói riêng về bản văn này và không tham chiếu một bản văn khác đứng chung tên hai tác giả Bakhtin và Medvedev (1891-1938) nhan đề Phương pháp hình thức trong học thuật văn chương [116].
Bakhtin mở đầu trình bày mục đích luận văn bàn về 'vấn đề nội dung' này nhằm
đưa ra một phân tích những khái niệm cơ bản và những vấn đề sáng tạo học/thi
pháp về mặt phương pháp luận trên cơ sở mỹ học tổng quát có hệ thống. Ông xác định
khởi điểm nghiên cứu phê phán từ những công trình sáng tạo học/thi pháp với những
đề án cơ bản của những học giả Nga. Ý định này chỉ ra rõ ràng hướng nghiên cứu
nhằm tranh biện trên ba vấn đề: nội dung, chất liệu, hình thái, nên giới hạn
vào việc đánh giá khái niệm và đề xuất, mà không xét đến về mặt tất định lịch sử
của những trào lưu và công trình đặc thù.
Những trào lưu phát triển rầm rộ vào thời kỳ này như hình thái luận, trường
phái tượng trưng , vị lai và xã hội học trong lĩnh vực nghiên cứu nghệ
thuật sáng tạo. Điểm nổi bật ở thời kỳ này so với giai đoạn trước theo Bakhtin
là đã nhận ra ưu thế đặc biệt của tư tưởng khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu
nghệ thuật. Ông nhận xét: trong nỗ lực xây dựng một khoa học với bất cứ giá nào
cho mau chóng, thường lại dẫn đến tình trạng hạ thấp mức độ của những vấn đề,
làm nghèo nàn việc nghiên cứu đối tượng, lại còn thay thế không chính đáng đối
tượng này [nghĩa là sáng tạo nghệ thuật] bằng một điều nào đó hoàn toàn khác.
Theo Bakhtin, xây dựng một khoa học liên quan đến một lĩnh vực đặc biệt của
sáng tạo văn hóa, trong khi muốn duy trì mọi cái phức hợp, toàn diện và
khu biệt của đối tượng đặt dưới nghiên cứu là một công việc khó cực kỳ.
Cho nên mặc dầu có nhiều công trình nghiên cứu sáng tạo học phong phú và có ý
nghĩa [trong những năm chung quanh thời đại của ông], song không thể chấp nhận
được vị thế khoa học nói chung của phần lớn những công trình này là hoàn toàn
đúng và tốt đẹp. Đối tượng ông tranh biện ở đây là những đại biểu của trường
phái mệnh danh là có phương pháp hình thái luận.
Trường phái hình thái luận Bakhtin nói đến ở đây là nhóm Opojaz [tên viết tắt của Hội nghiên cứu ngôn ngữ sáng tạo/Obščestvo izučenija poėtičeskogo jazyka] với Viktor Shklovsky (1893-1984), Boris Eichenbaum (1886-1959) và những thành viên của Câu lạc bộ ngữ học Mạc tư khoa [thành lập vào Đông 1914-15] như Roman Jakobson (1896-1982); Opojaz thành lập năm 1917 hợp tác mật thiết với Câu lạc bộ ngữ học. Những nghiên cứu của Opojaz xuất bản tập thể trong những năm này về lý luận ngôn ngữ sang tạo. Tranh luận của Bakhtin quả thực nhằm đối thoại với những nhà hình thái luận này; tuy nhiên về mặt lịch sử, phải đợi tới thập niên 70, giới nghiên cứu mới tiếp cận được những tranh biện này [117].
Trường phái hình thái luận Bakhtin nói đến ở đây là nhóm Opojaz [tên viết tắt của Hội nghiên cứu ngôn ngữ sáng tạo/Obščestvo izučenija poėtičeskogo jazyka] với Viktor Shklovsky (1893-1984), Boris Eichenbaum (1886-1959) và những thành viên của Câu lạc bộ ngữ học Mạc tư khoa [thành lập vào Đông 1914-15] như Roman Jakobson (1896-1982); Opojaz thành lập năm 1917 hợp tác mật thiết với Câu lạc bộ ngữ học. Những nghiên cứu của Opojaz xuất bản tập thể trong những năm này về lý luận ngôn ngữ sang tạo. Tranh luận của Bakhtin quả thực nhằm đối thoại với những nhà hình thái luận này; tuy nhiên về mặt lịch sử, phải đợi tới thập niên 70, giới nghiên cứu mới tiếp cận được những tranh biện này [117].
Sự tương cận giữa Bakhtin với hình thái luận Nga vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa
những học giả nghiên cứu hai trường phái này. Tuy nhiên điểm đáng lưu ý là quan
điểm của Bakhtin chắc chắn ở giai đoạn này không chịu ảnh hưởng xu hướng
Mác-xít, và cũng không đồng điệu với thái độ phê phán của chủ nghĩa Zhdanov
(xem chú thích 117). Ông phê phán công trình hình thái luận về sáng tạo học khi
luận vể tính cách khoa học là sản phẩm của mối quan hệ bất xác về mặt phương
pháp giữa sáng tạo học với mỹ học nói chung. Nó chỉ có một thái độ tiêu cực với
mỹ học tổng quát. Khuyết điểm của trường phái này là quan niệm việc xây dựng một
hệ thống phán đoán khoa học về một nghệ thuật đặc thù, như văn học thì độc lập
với những vấn nạn liên hệ tới bản chất của nghệ thuật nói chung.
Theo Bakhtin, xây dựng khoa học của một nghệ thuật đặc thù độc lập với
tri thức và xác định hệ thống của bản tính khu biệt của mỹ học trong sự thống
nhất văn hóa của con người. Tuy nhiên, ông xác định khái niệm hệ thống của
mỹ học chỉ có thể thấy nơi đối tượng và trong quan hệ hỗ tương với những lĩnh vực
khác trong thống nhất của văn hóa nhân loại.
Sáng tạo học/thi pháp được xác định theo Bakhtin phải là một mỹ học của sáng tạo
nghệ thuật ngôn từ. Khuyết điểm của sáng tạo học Nga trong thời đại ông
là do không có một định hướng mỹ học triết học, tổng quát có hệ thống cho sự thống
nhất của nghệ thuật , do việc đơn giản hóa cùng cực nhiệm vụ khoa học đến độ hời
hợt và bất toàn. Ngay ngữ học, một bộ môn phụ thuộc cần thiết cho sáng tạo học,
song lại giữ một vị trí không thích đáng.
Sự sai lầm của những đối tượng Bakhtin phê phán là do không nắm vững ý nghĩa
của chất liệu trong sáng tạo nghệ thuật. Ưu thế của chất liệu trong
sáng tạo nghệ thuật rút ra một xác định: nếu không có nghệ thuật/văn chương,
thì chỉ có những nghệ thuật đặc thù. Tại sao vậy? Quan niệm này quả thực xác
quyết ưu thế của chất liệu minh thi chất liệu chia cách những nghệ thuật và nếu
có thủ đắc sự tiến lên về mặt phương pháp trong tinh thần nhà mỹ học, nó cũng
tách rời những nghệ thuật ra; ý niệm tách những nghệ thuật riêng ra với nhau đã
được xác định trong luận văn Tác giả và nhân vật trong hoạt động mỹ học[118]:
định nghĩa tiêu cực của hình thức, như 'tách rời', song ở đây là từ then chốt về
mặt mỹ học của Bakhtin, vì trong phần thứ tư về vấn đề hình thái luận văn Vấn
đề nội dung dẫn trên, khi hỏi: làm thế nào hình thái có thể là một biểu hiện
thông qua từ quan hệ chủ quan tích cực với nội dung trở thành một hình thái sáng
tạo hoàn tất nội dung? Cái gì tạo ra hoạt động ngôn từ chỉ sản sinh và tổ
chức được công trình chất liệu, trong thực tế không thể vượt ra ngoài giới hạn
của công trình chất liệu? Bakhtin khẳng định phải nói đến chức năng của tách rời/tháo
gỡ, vốn là chức năng sơ bản của hình thái trong quan hệ với nội dung. Tách rời/tháo
gỡ không liên hệ tới chất liệu nhưng tới ý nghĩa, nội dung, thoát ra khỏi một
vài những quan hệ tất yếu với sự thống nhất của bản tính và thống nhất của sự
biến đạo lý của hữu thể. Cái gọi là giả tưởng trong nghệ thuật chỉ là một biểu
hiện tích cực của tách rời, nghĩa là một đối tượng được tách ra cũng là một đối
tượng ảo; còn đối với thời khoảng tiêu cực, giả tưởng và tách rời trùng hợp với
nhau. Trong giả tưởng, người ta cảm thấy tích cực và chính xác trong việc
dựng ra đối tượng, cảm thấy tự do cho sự biến một hình thái và hoàn tất
nó mà không gặp trở ngại nào.
Chính khi phân tích ý niệm tách rời/tháo gỡ này, Bakhtin đã dùng để phê phán
khái niệm lạ lẫm/ostranenie của nhóm hình thái luận Nga. Theo ông cái gọi là lạ
lẫm về cơ bản là chức năng của tách rời không được diễn đạt rõ ràng lắm về mặt
phương pháp cũng như tham chiếu không đúng đắn trong hầu hết trường hợp tới
chất liệu: cái lạ lẫm là từ ngữ nhằm phá hủy vị thế quen thuộc trong những dẫy
ngữ nghĩa học. Tách rời chính là điều kiện tiêu cực cho hình thái cá nhân, chủ
quan, giúp cho người sang tạo/tác giả trở thành một thời khoảng cấu tạo của
hình thái; tách rời là hành động chiếm phần kiểm sát của tác giả.
Mặt khác của tách rời làm nổi bật ý nghĩa của chất liệu và tổ chức phối hợp của
nó, chất liệu như vậy trở thành điều kiện vì khi dùng chất liệu, tác
giả đang dùng những giá trị của thực tại được tách ra, vì thế đã vượt khỏi chất
liệu tự nội tại mà vẫn không ra ngoài giới hạn. Chữ nghĩa, cách nói không cần
gì thực ngoài giới hạn; qua sức mạnh của nó, chữ nghĩa hoán chuyển hình thái
hoàn tất vào nội dung. Lấy ví dụ như một yêu cầu trong thơ trữ tình bắt đầu tự
túc trong chính nó mà không cần mãn ý (vì đã vừa lòng với chính hình thái biểu
hiện của nó), một cầu nguyện không cần Thượng đế phải nghe lời cầu này, một khiếu
nại không cần giúp đỡ, một hối hận không cần tha thứ, v.v.. Chỉ sử dụng chất liệu,
hình thái mang bất kỳ sự biến nào và áp lực đạo đức tới chỗ hoàn tất trọn vẹn.
Với trợ giúp của riêng chất liệu, tác giả đã chiếm một vị trí sáng tạo, sản xuất
đối với nội dung, có nghĩa là với những giá trị tri thức và đạo đức. Tác
giả vào trong sự biến tách ra và trở thành kẻ sáng tạo trong nó mà không cần trở
thành một kẻ tham dự. Như vậy, tách rời tạo chữ, cách nói và chất liệu nói
chung trở thành sáng tạo về mặt hình thức.
Khái niệm 'tách rời' đã được triết gia Đức Jonas Cohn (1869-1947) xác định trong Mỹ học tổng quát [119]: 'giá trị thẩm mỹ thì thuần túy sâu sắc, đối tượng tương ứng với nó là một đối tượng hiện diện ở đó như một tổng thể tự chế, toàn diện. Do đó người ta có thể nói, sự tách rời đối tượng thẩm mỹ là một khái niệm tương ứng của sức mạnh thuần túy của giá trị thẩm mỹ,..Nghệ thuật tạo ra một sự tách rời do sự kiện đơn giản vì nó là nghệ thuật..Cho nên, những bức tượng có thể không màu sắc hay ít ra cũng không có màu một cách tự nhiên. Vần điệu trong thơ và văn xuôi cao nhã cũng sinh ra một hiệu quả tương tự'. Người ta có thể tìm thấy khái niệm cơ bản này ở nhiều tác giả mỹ học khác, như Hugo Muensterberg, Richard Hamann.
Khái niệm tách rời/tháo gỡ ở Bakhtin trình bày nơi trên tương tự như khái niệm 'hủy tạo' nơi Derrida, mặc dầu không có quan hệ ảnh hưởng. Tương ứng với khái niệm 'tách rời' trong ngôn ngữ mỹ học Bakhtin là khái niệm 'quá chuyển/vnenaxodimost' [120].
Khái niệm 'tách rời' đã được triết gia Đức Jonas Cohn (1869-1947) xác định trong Mỹ học tổng quát [119]: 'giá trị thẩm mỹ thì thuần túy sâu sắc, đối tượng tương ứng với nó là một đối tượng hiện diện ở đó như một tổng thể tự chế, toàn diện. Do đó người ta có thể nói, sự tách rời đối tượng thẩm mỹ là một khái niệm tương ứng của sức mạnh thuần túy của giá trị thẩm mỹ,..Nghệ thuật tạo ra một sự tách rời do sự kiện đơn giản vì nó là nghệ thuật..Cho nên, những bức tượng có thể không màu sắc hay ít ra cũng không có màu một cách tự nhiên. Vần điệu trong thơ và văn xuôi cao nhã cũng sinh ra một hiệu quả tương tự'. Người ta có thể tìm thấy khái niệm cơ bản này ở nhiều tác giả mỹ học khác, như Hugo Muensterberg, Richard Hamann.
Khái niệm tách rời/tháo gỡ ở Bakhtin trình bày nơi trên tương tự như khái niệm 'hủy tạo' nơi Derrida, mặc dầu không có quan hệ ảnh hưởng. Tương ứng với khái niệm 'tách rời' trong ngôn ngữ mỹ học Bakhtin là khái niệm 'quá chuyển/vnenaxodimost' [120].
Bản văn Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thái trong nghệ thuật sáng tạo
ngôn từ của ông thực sự để đáp ứng những điều đã viết trong tiểu luận Nghệ
thuật và chịu trách nhiệm : 'Nghệ thuật và đời sống không phải là một,
song phải trở nên thống nhất trong tôi, trong thống nhất đáp ứng trách nhiệm của
tôi'. Mối liên hệ này biểu tỏ nhiệm vụ của nghệ thuật đối với đời sống, cũng
như ngược lại, nhiệm vụ của đời sống đối với nghệ thuật - ở đâu? Chính là
trong lĩnh vực mỹ học.
Thế giới con người có ba mối quan hệ: hoạt động nhận thức, hoạt động đạo đức và hoạt động thẩm mỹ; về nhận thức, không có hành vi hay công trình phân cách, song về mặt đạo đức có xung đột, dường như chỉ có những giá trị cá thể, đặc thù; mỹ học chính là hoạt động liên kết chúng, tạo môt 'sự thống nhất trực quan cụ thể' nhằm thông giao giữa hai thế giới nói trên, song đòi hỏi một khoa học văn chương, vì như Bakhtin chỉ ra: sự đối lập thông thường của thực tại với nghệ thuật, hay đời sống với nghệ thuật cũng như nỗ lực tìm ra mối liên kết cơ bản cho chúng phải được chứng thực tuyệt đối, song cần một định thức khoa học minh nhiên. Chính trong yêu cầu khoa học văn chương mà những phê phán của Bakhtin có giá trị thực tiễn trong tranh biện với hình thái luận.
Thế giới con người có ba mối quan hệ: hoạt động nhận thức, hoạt động đạo đức và hoạt động thẩm mỹ; về nhận thức, không có hành vi hay công trình phân cách, song về mặt đạo đức có xung đột, dường như chỉ có những giá trị cá thể, đặc thù; mỹ học chính là hoạt động liên kết chúng, tạo môt 'sự thống nhất trực quan cụ thể' nhằm thông giao giữa hai thế giới nói trên, song đòi hỏi một khoa học văn chương, vì như Bakhtin chỉ ra: sự đối lập thông thường của thực tại với nghệ thuật, hay đời sống với nghệ thuật cũng như nỗ lực tìm ra mối liên kết cơ bản cho chúng phải được chứng thực tuyệt đối, song cần một định thức khoa học minh nhiên. Chính trong yêu cầu khoa học văn chương mà những phê phán của Bakhtin có giá trị thực tiễn trong tranh biện với hình thái luận.
Khi phê phán hình thái luận Nga, Bakhtin đã có sẵn hai khái niệm/thiết bị: một
là tách rời/tháo gỡ, hai là quá chuyển/ вненаходивмость/vnenaxodimost [121] để
đối lập với khái niệm lạ lẫm dựa trên hai thiết bị biến lệch và biến dạng.
Tranh biện này chỉ ra 'khoa học văn chương' từ một góc nhìn khác với hình thái
luận.
Từ luận về vấn đề chất liệu, Bakhtin muốn chỉ ra đời sống thực đã hàm ngụ ý thẩm
mỹ vì đời sống trở nên thực đối với con người ngay từ trực quan mỹ học và không
có thực tại trung tính có thể đối lập với nghệ thuật. Cho nên nghệ thuật không
phải tách rời khỏi cuộc sống mà tham dự vào đời sống, có một vị thế duy nhất,
thiết yếu và không thể thay thế trong lòng đời sống. Khi tôi chạm mặt tha nhân
trong đời sống hàng ngày, kinh nghiệm tôi có được xác định ở 'ngoại diện', cho
nên luôn luôn diễn ra là người ta có thể nhìn thấy một cái gì đó song lại không
nhìn được ra bản thân; người ta có thể thấy cả thế giới đằng sau kẻ khác, chẳng
hạn nhìn thấy kẻ khác đau mà chính anh ta không nhìn thấy được cả một bầu trời
xanh làm nền để đau khổ mang lại ý nghĩa nơi tha nhân. Bakhtin gọi tình trạng
đó là 'thặng dư/izbytok' trong viễn quan của tha nhân, nghĩa là người khác cũng
có cái nhìn về tôi, như tôi nhìn họ, ở mọi hình thái hoạt động, dầu là thẩm
mỹ, đạo đức, chính trị v.v.. Tuy nhiên, tình trạng đó không gần với 'thần nhập/Einfühlung'
trong hiện tượng luận vì Bakhtin lý giải tha nhân không thể hợp nhất với tôi, bởi
như vậy họ chỉ nhìn và biết những gì tôi đã thấy và hiểu, nghĩa là lặp lại
trong vòng tự ngã đóng kín nơi tôi, song tha nhân 'ở ngoài' tôi, để ra khỏi
vòng luẩn quẩn đó, Bakhtin đưa ra khái niệm 'sống trong/vzhivanìe' [122] như một
lĩnh hội sáng tạo, tạo ra một cái gì mới, phong phú.
Khái niệm 'quá chuyển/ транстрадиенцво' bao hàm cả ba ý nghĩa: nhận thức, đạo đức và thẩm mỹ. Khi nói đến 'sống trong' ở trên, Bakhtin có ý phê phán quan niệm đạo đức phủ nhận mối quan hệ này giữa cá nhân với cá nhân [giữa anh với tôi] không phải quan hệ phổ quát hóa chung chung, cũng như phê phán quan niệm thần nhập hiện tượng luận [123] đã xóa bỏ tha nhân khi sáp nhập vào chủ thể. Ý nghĩa sống trong vẫn bảo toàn vị thế ta và tha nhân như hai người, về mặt mỹ học, có ý nghĩa quá chuyển bởi vẫn tách rời ở ngoại diện đối với tha nhân [trong ví dụ 'người đau khổ'] và tình trạng đồng hữu của hữu/sobytie bytìia. Chính ở quan niệm này làm rõ vị thế của tác giả và nhân vật trong sáng tạo nghệ thuật: tôi tạo ra nhân vật và để nhân vật sống trong vị thế của tôi [124].
Khái niệm 'quá chuyển/ транстрадиенцво' bao hàm cả ba ý nghĩa: nhận thức, đạo đức và thẩm mỹ. Khi nói đến 'sống trong' ở trên, Bakhtin có ý phê phán quan niệm đạo đức phủ nhận mối quan hệ này giữa cá nhân với cá nhân [giữa anh với tôi] không phải quan hệ phổ quát hóa chung chung, cũng như phê phán quan niệm thần nhập hiện tượng luận [123] đã xóa bỏ tha nhân khi sáp nhập vào chủ thể. Ý nghĩa sống trong vẫn bảo toàn vị thế ta và tha nhân như hai người, về mặt mỹ học, có ý nghĩa quá chuyển bởi vẫn tách rời ở ngoại diện đối với tha nhân [trong ví dụ 'người đau khổ'] và tình trạng đồng hữu của hữu/sobytie bytìia. Chính ở quan niệm này làm rõ vị thế của tác giả và nhân vật trong sáng tạo nghệ thuật: tôi tạo ra nhân vật và để nhân vật sống trong vị thế của tôi [124].
Trong luận văn Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thái trong nghệ thuật
sáng tạo ngôn từ Bakhtin nhấn mạnh đến một trong những nhiệm vụ
quan trọng của mỹ học là khám phá tiếp cận với những triết đề mỹ học, sáng
tạo ra một lý luận của triết học trực giác trên cơ sở lý luận nghệ thuật. Mối
quan hệ giữa nội dung và chất liệu được xác định theo Bakhtin như sau: thực tại
của tri thức và hành động đạo đức đi vào trong đối tượng mỹ học, từ một quá
trình hình thành nghệ thuật toàn diện bằng phương tiện của một chất liệu đặc
thù, chính là nội dung của một tác phẩm nghệ thuật. Mối quan hệ giữa nội dung
và hình thái có tính cách giao hỗ, vì nội dung là thời khoảng cấu tạo cần thiết
của đối tượng mỹ học, mà hình thái nghệ thuật phải tương liên với nó, ngoài
quan hệ giao hỗ, hình thái không có ý nghĩa gì nữa. Nói khác đi, không có nội
dung, hình thái không có giá trị về mặt mỹ học, không làm trọn chức năng cơ bản
của nó.
Như đã xét đến ở trên qua khái niệm 'quá chuyển', 'ngoại diện', vị trí của nhà
nghệ thuật/tác giả cho phép tự hoạt động nghệ thuật thống nhất, cho một
hình thái và hoàn thành sự biến từ bên ngoài. Bakhtin từng giải thích hình thái
có giá trị về mặt mỹ học là biểu hiện của mối quan hệ cơ bản với thế giới của
nhận thức và hành động; tuy nhiên quan hệ này không phải là nhận thức hay đạo đức,
vì nhà nghệ thuật/tác giả không can thiệp vào sự biến như một tác nhân trực tiếp
tham dự trong đó; ông đứng ở ngoài sự biến như một khách quan chiêm không liên
quan, song hiểu được ý nghĩa giá trị học [hiểu về mặt đạo đức] của những gì xẩy
ra. Khách quan chiêm không kinh qua sự biến song đồng kinh nghiệm nó, vì nếu
như không cùng đánh giá tới một chừng mực thì không thể quan chiêm sự biến đặc
biệt như một sự biến. Hình thái luận cũng như Bakhtin tin tưởng rất đúng là nhà
nghệ thuật/tác giả phải 'ở ngoài' tác phẩm, cho nên những thuộc từ tâm lý không
thể lẫn với những sắc thái nghệ thuật; tuy nhiên khu biệt giữa hai phía là, hình
thái luận quan niệm ngoại diện là kỹ thuật, phi đạo đức, thuộc máy móc còn đối
với Bakhtin, ngoại diện là vị thế tất yếu thiết yếu cho đồng nghiệm tác
phẩm nghệ thuật, chịu trách nhiệm về nội dung của nó. Cả hai cũng quan niệm
tính văn chương là đặc sắc cơ bản của khoa học văn chương, tùy thuộc không phải
vào những phẩm chất nội tại của tác phẩm, nhưng vào chức năng hoạt động của
chúng, tuy nhiên với hình thái luận là chức năng trong hệ thống, không kể đến
tác giả (không hiện diện trong tác phẩm, như một quan niệm văn chương và phê
bình luận hiện đại) song đối với Bakhtin, hiệu ứng mỹ học là chức năng không cần
hệ thống, nghĩa là tác giả đóng một vai trò đặc thù triệt để chuyển tất cả
trách nhiệm đạo đức từ nội dung nơi cá nhân mình qua phương tiện ứng dụng tích
cực của hình thái. Chính những sắc thái khu biệt này nên nhiều nhà nghiên cứu
lúng túng trong việc có nên xếp Bakhtin chung hàng ngũ với những nhà hính thái
luận. Vả lại, vào lúc tư trào hình thái luận đang nở rộ thì Bakhtin là người
phê bình và phản biện: Định hướng thứ nhất là quan niệm chất liệu đời sống thực
theo Bakhtin không thể cắt lìa khỏi nghệ thuật, vì đời sống đã được mỹ hóa như
một hình thái thực trong 'trực giác mỹ học'. Khái niệm 'làm lạ/ostranenie' của
hình thái luận, theo Bakhtin, cũng không tạo thành nền cho hình thái nghệ thuật,
hay sản sinh ra được những giá trị thực. Ông ngờ là những nhà hình thái luận sợ
nội dung vì ngộ nhận nó. Về mặt này, ông mượn từ âm nhạc để lý giải: 'âm nhạc
thì không có tất định liên hệ tới đối tượng và khu biệt tri thức, song có một nội
dung sâu sắc: hình thái của nó dẫn ta vượt ra bên ngoài giới hạn của âm thanh
âm hưởng học, nhưng chắc chắn không dẫn ta đi vào chỗ trống giá trị học. Nội
dung ở đây về bản chất mang tính đạo đức'. Khi phê phán xu hướng sáng tạo học
đương thời của ông về 'thiếu định hướng mỹ học có tính chung, triết lý cho sự
thống nhất nghệ thuật, như một lĩnh vực văn hóa thống nhất của con người' nên
đã đơn giản hóa tới cùng cực nhiệm vụ khoa học, hời hợt và bất túc, Bakhtin ghi
chú lập luận của ông nhất trí nhiều điểm với bài viết giá trị của học giả
Aleksandr A. Smirnov (1883-1962) về mặt đạo đức: 'mọi phán đoán về tính 'phi
luân lý' của thi ca là một ngộ nhận hoàn toàn. Thơ chỉ có thể gọi là phi luân
lý theo ý nghĩa chấp nhận thách đố với mọi hệ thống cụ thể của luân lý, song
thơ không những không loại bỏ nguyên tắc tự xác định đạo đức mà tự bản chất còn
nhận thức ra nó' [125].
Bakhtin cũng xác định 'nghiên cứu nghệ thuật' xem chất liệu là cơ sở vững chắc nhất cho suy xét khoa học. Hoạt động mỹ học hướng về một chất liệu đã cho, tạo ra một hình thái cho riêng chất liệu này; một hình thái có giá trị về mặt mỹ học là hình thái của một chất liệu đã cho, nhận ra được từ quan điểm khoa học tự nhiên hay khoa ngữ học.
Bakhtin cũng xác định 'nghiên cứu nghệ thuật' xem chất liệu là cơ sở vững chắc nhất cho suy xét khoa học. Hoạt động mỹ học hướng về một chất liệu đã cho, tạo ra một hình thái cho riêng chất liệu này; một hình thái có giá trị về mặt mỹ học là hình thái của một chất liệu đã cho, nhận ra được từ quan điểm khoa học tự nhiên hay khoa ngữ học.
Nhiều học giả nghiên cứu quan hệ giữa Bakhtin và hình thái luận nhận xét họ
sinh ra để bổ túc lẫn nhau vì mục tiêu của cả hai nhằm thiết lập một khoa học
văn chương, nghiên cứu văn chương từ quan điểm khoa học, tuy mỗi bên có những
phương pháp và thủ tục tiến hành khác nhau; mặt khác họ đều nhận ra 'tính văn
chương' nhằm khu biệt văn chương (bao gồm thơ, văn xuôi và những hình
thái khác) với ngôn ngữ thông thường.
Trong Mấy tiêu chí để tiếp cận lý luận văn học hiện đại [xem
chú thích 117 trên gio-o kỳ 10] tôi
đã nói đến những khái niệm
sơ khởi cấu thành hình thái luận Nga của Shklovsky, Eikhenbaum, Jakobson, sự ngộ
nhận về bất xác của khoa học văn chương theo Hình thái luận là do tư kiến sai lầm
khi cho rằng trường phái này không hiểu những quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống
xã hội, cho là họ chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật; để phản bác quan niệm
sai lầm này, Jakobson chỉ ra một điều là những người phê phán Hình thái luận
quên mất hiện hữu của chiều thứ ba vì chỉ nhìn mọì sự trên cùng mặt phẳng; hình
thái luận quan niệm tính tự trị của chức năng nghệ thuật, như chức năng của thơ
là một nhân tố tự sinh, không thể giản lược máy móc vào những nhân tố khác.
Khi phân tích quan niệm ông
gọi là mỹ học chất liệu, Bakhtin xem như giả thuyết để làm việc của các nhà
hình thái luận trong nghiên cứu nghệ thuật văn chương, và nhận xét là người ta
có thể nhận ra trong những công trình của họ chứa nhiều quan sát có giá trị
khoa học, song cũng nhiều khẳng định không chính đáng, chẳng hạn công trình về
tiết điệu của V.M. Zhirmunsky, về âm luật thơ Nga của B.V. Tomashevsky có giá
trị khoa học cao cấp. Tuy nhiên, Bakhtin cho rằng mỹ học chất liệu chỉ phong
phú trong việc nghiên cứu kỹ năng của sáng tạo nghệ thuật, song không thể chấp
nhận được nếu coi là cơ sở để nhận thức và nghiên cứu tinh sáng tạo nghệ thuật
như một tổng thể, dẫn đến những sai lầm cơ bản và những nan đề khó vượt.. Điểm
đáng chú ý là Bakhtin chủ trương khoa học văn chương có định hướng gần với khoa
học thực nghiệm, xây dựng trên mảnh đất của khoa học tự nhiên, như Freud quan niệm
phân tâm học là một khoa học tự nhiên. Ông cũng chỉ ra phương pháp hình thái của
những nhà hình thái luận này không thể liên hệ với mỹ học hình thái của Kant,
Herbart. Về điểm này, các nhà hình thái từng phủ nhận, như Boris Tomashevsky
trong Formal'nyj metod: Vmesto nekrologa [126] hay Boris Eichenbaum
trongVokrug voprosa o 'formalistach [127]:
Trước hết, hiển nhiên không có 'phương pháp hình thái...Cái đang bị đe dọa
không phải là những phương pháp nghiên cứu văn học mà là những nguyên tắc mà
khoa học văn chương dựa vào đó được hình thành - nội dung, đối tượng
cơ bản của nghiên cứu, và những vấn đề tổ chức cho nó thành một khoa học đặc
thù.
Từ 'hình thái' có nhiều nghĩa thường gây ra nhiều lẫn lộn. Chúng tôi phải minh
xác là sử dụng từ này trong một ý nghĩa đặc biệt, không phải tương ứng với khái
niệm 'nội dung' nhưng với một cái gì chủ yếu cho hiện tượng nghệ thuật,
như là nguyên tắc tổ chức.
Xác định sắc thái đặc thù của từ 'hình thái’ của Eichenbaum có thể thấy những
tiểu dị với nhà hình thái luận ở ngoài nhóm Opojaz như Zhìmunsky, người
có quan niệm chiết trung về danh xưng 'phương pháp hình thái' thường đem lại những
công trình đa biệt nhất lại với nhau trong việc khảo sát ngôn ngữ sang tạo/thơ
và văn phong trong nghĩa rộng của những từ này, những thi pháp/sáng tạo luận lịch
sử và lý thuyết, những nghiên cứu về âm luật, phối âm, và giai điệu, văn thể học,
sáng tác, và cấu trúc tình tiết, lịch sử văn loại và văn thể v.v.. Khác biệt giữa
Zhirmunsky và Eichenbaum có thể biểu hiện rõ ở chỗ, đối vớI Zhirmunsky, là một
nhiệm vụ mới trong nghiên cứu, một phạm vi mới của vấn đề nghiên cứu, còn với
Eichenbaum là một khoa học văn chương độc lập.
Quan niệm một khoa học văn chương như nhóm hình thái luận 'chính thống' (như
Shklovsky, Eichenbaum, Tomashevsky) biểu hiện từ thiết lập nghiên cứu văn
chương là một nghiên cứu khoa học, khai phá cái gì cấu tạo ra 'tính văn chương'
trong tác phẩm là kết quả của chất liệu và cấu thành của tác phẩm, đi tìm nội
dung của tác phẩm dựa trên 'ảnh tượng' và chất liệu tác phẩm không phải ở hình
tượng hay cảm xúc, nhưng ở từ, chữ nghĩa. Shklovsky, người đại biểu nòng cốt của
Opojaz xác định: Văn chương được lập thành từ chữ nghĩa và những quy luật chi
phối ngôn ngữ cũng chi phối chính văn chương.
Khoa học văn chương không phải là một từ mới lạ trong nghiên cứu và phê bình
văn chương, song chỉ nói tới ở thời hiện đại. Thuật ngữ Đức Literaturwissenschaft được
thông dụng so với các ngôn ngữ khác; người ta có thể tìm thấy từ này trong những
Từ điển chuyên biệt về văn chương và ngôn ngữ tiếng Đức [128].
Khi bàn luận đối chiếu giữa Bakhtin và nhóm Hình thái luận Nga (xem gio-o kỳ
11), quan niệm về khoa học văn chương như một phản ứng chống lại phê bình luận
cổ truyền. Khác với lối nghiên cứu văn chương cổ điển xoay quanh những ngành
tri thức khác (lý giải dựa vào những nhân tố lịch sử xã hội, tiểu sử v.v.,.),
Eichenbaum xác định mối quan tâm chính của hình thái luận xem 'văn chương là đối
tượng của nghiên cứu văn chương' [129]; Grigorij Vinokur diễn đạt như 'một ý niệm
đơn giản là khoa học văn chương nghiên cứu chính văn chương, không cái gì khác;
nhà nghiên cứu một tác phẩm nghệ thuật có chủ đề là cấu trúc của tác phẩm,
không phải những nhân tố phụ tùy về mặt lịch sử hay tâm lý trong sáng tạo ra
nó'. Nhiều học giả phê bình ở vào thời đại này ca ngợi hình thái luận đem lại một
khoa học văn chương mới tạo thành một cuộc cách mạng trong nghiên cứu văn
chương. Nửa thế kỷ sau khởi sinh phong trào hình thái luận, một thành viên của
phong trào này, R. Jakobson xác định: người ta phải nhìn nhận sự đóng góp thiết
thực của những nhà tiền phong của những năm 10 và 20 trong lĩnh vực sáng tạo học
vào sự tiến bộ của tư tưởng khoa học liên quan đến ngôn ngữ trong nhiều chức
năng đa dạng của nó.
Vào nửa sau thế kỷ 20, trong lĩnh vực nghiên cứu văn chương ở Đức, Wolfgang
Kayser (1906-1960) cho xuất bản tác phẩm Das sprachliche Kunstwerk [130]
vào năm 1948 đã xác nhận ở tiểu đề là một dẫn nhập vào khoa học văn chương/Eine
Einführung in die Literaturwissenschaft. Ở tiết 2 phần Dẫn nhập, ông xác định đối
tượng của khoa học văn chương: khoa học văn chương chỉ ra đối tượng đặc thù
cùng với biểu hiện của văn chương, ở đó những bản văn luật pháp hay tôn giáo, từ
điển, thư từ giao dịch thương mại hiển nhiên không thuộc vào đối tượng của văn
chương. Trong tiết 3 về khái niệm và lịch sử khoa học văn chương, Kayser liệt
kê một số khái niệm mới trong 'khoa học văn chương' như: công trình nghệ thuật
bao gồm một 'ý nghĩa' tiêu biểu, một 'nội dung', tác phẩm là 'biểu hiện' người
sáng tạo, văn gia là kiểu mẫu của 'tinh thần sáng tạo', bên cạnh văn gia, thế kỷ
18 đã nhận ra sự thống nhất sáng tạo trong 'tinh thần thời đại' và 'tinh thần
dân tộc', tác phẩm văn chương là một tư liệu 'lịch sử' (cùng với quan niệm mới
về lịch sử, phát triển thế kỷ 18 như một yêu cầu tiến tới lĩnh hội toàn diện một
tác phẩm, bao gồm cả điều kiện lịch sử của nó)[131]. Trong lời tựa tác phẩm Das
Groteske: seine Gestaltung in Malerei und Dichtung [132], Kayser dùng
biểu ngữ 'mục đích khoa học' để nói đến ứng xử trong văn chương khi gián tiếp trả
lời ý kiến về quyển sách của ông coi như chưa nắm được vấn đề, không thể xem đó
là một phê bình, song ông hy vọng làm sáng tỏ qua việc để tạo ra được một cơ sở
vững chắc cho những tranh luận như thế, 'mục đích khoa học của quyển sách chỉ
hoàn tất nếu như nó động não được tư duy về vấn đề'.
Thế kỷ hai mươi vừa qua phát triển muôn mặt, từ thông diễn học qua Dilthey, hiện
tượng luận luận của Husserl, những trường phái hình thái luận Nga và hội ngữ học
Pra-ha, cấu trúc luận qua Lévi-Strauss. Yêu cầu khoa học là một đòi hỏi tất yếu
ở thời đại khoa học kỹ thuật thống trị (không những thế còn xâm nhập vào phòng
ngủ của mỗi gia đình [133]) tuy nhiên với phân tích khu biệt giữa khoa học tự
nhiên và khoa học nhân văn từ Dilthey, người ta có thể nói về tính khoa học và
tùy ngữ khoa học mà không sợ rơi vào chỗ duy khoa học/scientism. Ở vào lúc tư
trào cấu trúc luận phát triển thắng thế, chung quanh thập niên 60s, như triết
gia Gilles Deleuze trong mở đầu bài viết A quoi reconnait-on le
structuralism? [134]: Trước đây người ta hỏi: 'chủ nghĩa hiện sinh là
gì?'. Ngày nay (ắt là): chủ nghĩa cấu trúc là gì? Những câu hỏi này có một quan
tâm sinh động với điều kiện thật là thực tế trên những tác phẩm đang thành
hình.Chúng ta đang ở vào năm 1967. Người ta không thể nêu ra tính chưa hoàn tất
của những công trình để tránh việc trả lời, chỉ riêng đặc tính này cũng mang lại
một ý nghĩa cho câu hỏi. Vậy:'chủ nghĩa cấu trúc là gì?' gợi lên ắt phải chịu một
số biến đổi. Trước tiên ai là nhà cấu trúc luận? Có nhiều thói lệ trong cái thực
hiện nhất. Thói lệ chỉ thị, làm mẫu không cần biết đúng hay sai: một nhà
ngữ học như R. Jakobson, một nhà xã hội học như C. Lévi-Strauss, một nhà phân
tâm học như J. Lacan, một triết gia làm mới tri thức luận như M.
Foucault, một triết gia Mác-xít như L. Althusser, một nhà phê bình văn học
như R. Barthes, những nhà văn như nhóm Tel Quel.
Sở dĩ tôi nêu ý kiến của Deleuze, vì ông là người ở ngoài tư trào này, có nghĩa là đứng ở vị thế khách quan về mặt sử, và tôi chọn Todorov viết về quan niệm sáng tạo học/thi pháp của cấu trúc luận cũng trong định hướng đó. Một hợp tuyển [Chủ nghĩa] Cấu trúc luận là gì? xuất bản năm 1968 với những bài viết về cấu trúc luận trong khoa ngữ học của Oswald Ducrot, trong khoa nhân học với Dan Sperber, về cấu trúc trong phân tâm học với Moustafa Safouan, về triết học trước và sau cấu trúc luận vớI François Wahl và sáng tạo học/Poétique của Tzvetan Todorov [135].
Sở dĩ tôi nêu ý kiến của Deleuze, vì ông là người ở ngoài tư trào này, có nghĩa là đứng ở vị thế khách quan về mặt sử, và tôi chọn Todorov viết về quan niệm sáng tạo học/thi pháp của cấu trúc luận cũng trong định hướng đó. Một hợp tuyển [Chủ nghĩa] Cấu trúc luận là gì? xuất bản năm 1968 với những bài viết về cấu trúc luận trong khoa ngữ học của Oswald Ducrot, trong khoa nhân học với Dan Sperber, về cấu trúc trong phân tâm học với Moustafa Safouan, về triết học trước và sau cấu trúc luận vớI François Wahl và sáng tạo học/Poétique của Tzvetan Todorov [135].
Để dẫn vào khái niệm sáng tạo học cấu trúc/poétique structurale, Todorov phân
biệt hai thái độ: một thái độ xác định tác phẩm văn chương có một mục đích tối
hậu và duy nhất làmiêu tả, nghĩa là một cấu tạo bằng ngôn ngữ hơn là một
biểu tượng thực tại; một thái độ coi tác phẩm đặc thù là biểu hiện 'một điều gì
khác', nghĩa là gần với khoa học hơn bởi đối tượng nghiên cứu là chuyển ý nghĩa
của tác phẩm sang một loại diễn ngôn cơ bản, về mặt triết học, tâm lý học hay
xã hội học. Đối tượng của sáng tạo học cấu trúc ở đây không phải là chính tác
phẩm văn chương, mà là những đặc tính của diễn ngôn văn chương. Todorov xác định
khoa học văn chương ở đây không phải là văn chương thực, nhưng là văn chương khả
hữu, mà đặc tính trừu tượng này tạo thành tính đặc thù của sự kiện văn chương,
tính văn chương [hình thái luận Nga gọi là literaturnost'][136].
Sáng tạo học/thi pháp ở đây liên quan tới tất cả văn chương, cả văn xuôi và văn
vần, Todorov kiểm điểm lại xem gần với ý nghĩa Paul Valéry đã mô tả 'có
quan hệ tới sáng tạo hay cấu tạo những tác phẩm có ngôn ngữ vừa là bản thể và
phương tiện' [137], có những nét chung với lối sử dụng của Jakobson trong quan
hệ với khoa học nói chung và ngữ học nói riêng, hay theo Barthes gọi là 'khoa học
văn chương'. Todorov cũng phân biệt những phân tích văn chương theo hứng ngữ học,
hay phân tâm học, xã hội học hoặc lịch sử tư tưởng, vì một vận động như vậy đi
ngược lại với những nguyên tắc sơ đẳng của nghiên cứu khoa học; chẳng hạn khi
Freud thực hiện những phân tích tác phẩm văn chương, những phân tích ấy thuộc về
phân tâm học, không phải thuộc về 'khoa học văn chương'. Một khoa sáng tạo học
gọi là cấu trúc, theo Todorov phải phù hợp với những yêu cầu như Benveniste đã
đề ra trong ngữ học: có ý thức về hệ thống, quan tâm đến việc phân tích tới tận
những đơn vị cơ bản, chọn lọc rõ ràng những phương thức tiến hành [138], nại tới
khoa ngữ học không phải tình cờ, như Mallarmé đã thâu tóm trong một công thức,
đó là 'quyển sách, chính là khuếch trương toàn diện của chữ' [139]. Cơ sở của
văn chương là chữ và ký hiệu bằng động ngữ, bởi chỉ có thể nói về diễn ngôn văn
chương khi nói về động từ nói chung và ngược lại. Ngữ học ngày nay đã hình
thành như một khoa học về ngôn từ, sáng tạo học đang trở thành một khoa học về
diễn ngôn, song hành với tu từ học và những bộ môn khác. Cho nên Todorov phát
biểu như một võng luận: Sáng tạo học/thi pháp không thể hiện hữu mà không có
văn chương, đồng thời chỉ trong một trồi lên khỏi tác phẩm văn chương mới cấu
thành ra nó. Nếu như sáng tạo học là đối tượng và cũng là phương pháp, trong viễn
tượng đảo nghịch, văn chương tạo ra những hình thái động ngữ/formes verbales mà
sáng tạo học cho tên, song chính qua những hình thái này mà văn chương luận giải
về chính nó.
Đặt vấn đề 'khoa học văn chương' trong quyển sách tranh biện như Critique
et Vérité [140], Roland Barthes (1915-1980) quả thực nhằm đối chiếu khả hữu
của khoa học văn chương trong những điều kiện, không phải như lịch sử văn
chương, hay phê bình luận văn chương. Barthes xác định một khoa học văn chương
là một khoa học về những điều kiện của nội dung, muốn nói là những hình thái,
liên quan đến những biến dị của ý nghĩa tác phẩm tạo ra; người ta không lý giải
những biểu tượng, mà chỉ là những giá trị đa dạng. Nhà ngữ học chẳng hạn thiết
lập một mẫu hình miêu tả giả thuyết để có thể giải thích làm thế nào tạo ra được
vô số những câu trong một ngôn ngữ. Qua mẫu tiêu biểu này, văn chương có thể
theo ngữ học để có mẫu hình phát sinh làm nguyên tắc chủ yếu của mọi khoa học.
Khoa học văn chương như vậy có đối tượng nghiên cứu là lý giải
thích cái gì chấp nhận được, như một chức năng của những qui luật ngữ học liên
quan đến những biểu tượng. Đó là một luận lý của những biểu tượng. Nếu
chuyển lên trình độ của một khoa học diễn ngôn, nhiệm vụ của nhà ngữ học ngày
nay là miêu tả tính ngữ pháp của những câu, không phải ý nghĩa của chúng, về mặt
văn chương, có thể nói đến khả năng chấp nhận của tác phẩm, không phải ý nghĩa
của chúng. Nếu như nhà ngữ học giả địnhquan năng ngôn ngữ của con người,
tương ứng trong văn chương, người ta có thể nói đến quan năng văn chương -
một năng lực diễn ngôn, liên quan tới nhiều con người, lập ra những quy
luật. Cho phép nhà văn nói và làm việc. Đến đây, có thể nói không phải những ý
tưởng, những ảnh tượng, những dòng thơ như người ta thường nói của 'thiên tài',
của 'Thi thần' phú cho, mà chỉ còn những biểu tượng. Cái hy sinh trong luận bàn
này, là tác giả, cái chết của tác giả.
Quả thực trong những năm này, Barthes đã viết về 'cái chết của tác giả' [141]: một sự kiện được kể ra, với những chung cuộc ngoại tại, không còn nhằm tác động trực tiếp lên cái thực, nghĩa là rốt cuộc ở ngoài mọi chức năng nào khác với chính chức năng thực tiễn của biểu tượng, cái tháo móc này nẩy sinh, tiếng nói mất nguồn gốc, tác giả đi vào cái chết của chính mình, viết khởi sự [142]. Mallarmé chắc hẳn là người đầu tiên đã nhìn thấy lẽ tất yếu của ngôn ngữ lên tiếng, chứ không phải tác giả [143] - Barthes muốn nói Mallarmé nhằm hủy triệt tác giả vì văn tự, tác giả nhường chỗ cho người đọc. Tác giả không là gì ngoài người viết, như thể cái tôi khác với con người xưng tôi. Ngôn ngữ biết đến 'chủ thể', không phải 'con người' [144]. Người đọc ở đây là ai? Barthes xác định là con người không có lịch sử, tiểu sử, tâm lý,mà chỉ là con người nào đó thu tập lại trong một trường, mọi dấu vết tạo ra cái viết.
Quả thực trong những năm này, Barthes đã viết về 'cái chết của tác giả' [141]: một sự kiện được kể ra, với những chung cuộc ngoại tại, không còn nhằm tác động trực tiếp lên cái thực, nghĩa là rốt cuộc ở ngoài mọi chức năng nào khác với chính chức năng thực tiễn của biểu tượng, cái tháo móc này nẩy sinh, tiếng nói mất nguồn gốc, tác giả đi vào cái chết của chính mình, viết khởi sự [142]. Mallarmé chắc hẳn là người đầu tiên đã nhìn thấy lẽ tất yếu của ngôn ngữ lên tiếng, chứ không phải tác giả [143] - Barthes muốn nói Mallarmé nhằm hủy triệt tác giả vì văn tự, tác giả nhường chỗ cho người đọc. Tác giả không là gì ngoài người viết, như thể cái tôi khác với con người xưng tôi. Ngôn ngữ biết đến 'chủ thể', không phải 'con người' [144]. Người đọc ở đây là ai? Barthes xác định là con người không có lịch sử, tiểu sử, tâm lý,mà chỉ là con người nào đó thu tập lại trong một trường, mọi dấu vết tạo ra cái viết.
Mallarmé, Valéry, Proust, và cả trường phái Siêu thực theo Barthes đều có một
điểm chung là biến đổi hình ảnh tác giả. Biến đổi cả bản văn hiện đại. Ở một
góc nhìn văn chương, phải chăng đó là những người tiên khu của cấu trúc luận?
Song trước hết, thay vì hỏi văn chương là gì? đối với những nhà phê bình hiện đại
như Barthes, Blanchot và nhiều người khác, câu hỏi đặt ra là văn tự là gì? Viết
là gì? Trong Le degré zéro de l'écriture từ 1953, Barthes đã chỉ ra: ở
giữa vấn tính văn chương, văn tự chỉ khởi sự với nó, chủ yếu là đạo lý của hình
thức, chính là mặt bằng xã hội mà nhà văn quyết định đặt để bản tính ngôn ngữ của
mình [145]. Cho nên ông phân tích sự khác biệt nơi những nhà văn hiện đại, như
Mérimée và Lautréamont, Mallarmé và Céline, Gide và Queneau, Claudel và Camus
nói cùng cảnh huống lịch sử của ngôn ngữ [Pháp], sử dụng những văn tự khác biệt
một cách sâu sắc. Chọn lựa của nhà văn là một chọn lựa ý thức, văn tự của ông
là một cách tư duy văn chương. Trước hết văn chương là một hoạt động hình thức,
không phải thông giao, nhưng là ngôn ngữ. Khi chỉ ra điều ông gọi là cách mạng
kịch nghệ của Brecht, ông kết luận không có một 'bản chất' của nghệ thuật vĩnh
cửu, vì mỗi xã hội phải bày ra nghệ thuật có nhiệm vụ đỡ đẻ cho nó sinh ra tốt
nhất lúc chào đời. Nói đến tương quan tác giả/người đọc nơi trên, xét ở cấu
trúc nội tại của tác phẩm văn chương, phải xét đến hai mặt, tạo diện hình thái
của tác phẩm và cơ chế sản xuất/tiếp nhận văn chương, như ảnh hưởng của
tác phẩm trên người đọc. Nếu như trong ngữ học hiện đại khả năng tiếp nhận những
câu phụ thuộc vào tình cảm của những chủ thể nói ra, trong văn chương khả năng
tiếp nhận một tác phẩm cũng tùy thuộc vào luận lý biểu tượng của người đọc.
Trong chiều hướng này Barthes nói đến ngôn ngữ của truyện kể/langue du récit
trong tiểu luận quan trọng ở giai đoạn 60s này của ông: Dẫn nhập vào phân
tích cấu trúc truyện kể [146]. Con người không thể bị tước đoạt mọi hoạt động
biểu tượng, nếu không sẽ chết ngay; vì lẽ đó, cấu trúc luận xác định người là kẻ
làm ra ý nghĩa: homo significans [147], thế giới không ngừng đi tìm ý
nghĩa của cái gì cho hay tạo ra, song điều mới lạ cấu trúc luận đem lại là tư
tưởng/sáng tạo học đi tìm để biết làm sao ý nghĩa khả hữu; con người làm ra ý
nghĩa như thể không phải nội dung những ý nghĩa làm cạn kiệt những mục đích ngữ
nghĩa của chúng nhân, mà chính hành vi nhờ thế mà những ý nghĩa này như những
biến số lịch sử, vô thường được tạo ra.
Tại sao lại gọi là độ không của văn tự? Barthes duyệt lại văn chương kể từ Flaubert đến nay đã trở thành một vấn tính về ngôn ngữ [148], khởi từ một hư vô ở đó tư tưởng dường như trỗi dậy trên trang trí của chữ nghĩa, văn tự như vậy trải qua mọi tình trạng cố kết tiến triển, trước hết là đối tượng của cái nhìn, rồi đến chế tác, sau cùng là giết người, ngày nay tiến tới một hoá thân cuối là vắng mặt. Những văn tự trung tính này Barthes gọi là 'độ không của văn tự', vận động của một hủy thể/phủ định, như thể Văn chương đã vắng mặt mọi ký hiệu, hoàn tất giấc mơ [của Orphée [149]] của một văn tự trắng, nhà văn không Văn chương. Những nhà văn tiêu biểu loại văn tự trắng này Barthes dẫn ra như Camus, Blanchot, Cayrol [150], theo Barthes là hồi cuối của một Đam mê văn tự. Ý niệm về một 'văn tự trắng' chỉ ra chiều hướng đa dạng mà Barthes ý thức được dầu trong những giới hạn ở giai đoạn nghiên cứu đầu đời này (1947-1950) khi ông xác định sự hiện hũu của một thực tại hình thái độc lập với ngôn từ và văn phong, một chiều hướng thứ ba của Hình thái gắn bó nhà văn với xã hội, một nền Văn chương với một Đạo lý của ngôn ngữ, một cái gì đó trong tác phẩm văn chương biểu hiện qua văn tự trung tính này điều kiện đầu tiên của nghệ thuật. Văn tự trắng/écriture blanche là hình thái phi thời gian của văn chương, như Barthes xác định phương tiện hình thái không còn để phục vụ một hệ tư tưởng chiến thắng nữa, mà là phương thức của một hoàn cảnh mới của nhà văn, cách thế tồn tại của một im lặng, 'tự nguyện mất tất cả những cầu trợ vào tính cao nhã hay trang sức, bởi cả hai chiều hướng này lại đưa vào trong văn tự, Thời gian nghĩa là một quyền năng từ Lịch sử mà ra, truyền đi/mang theo Lịch sử' [151]. Cũng trong ngữ cảnh này, Barthes chỉ ra giải pháp 'sáng tạo ra một văn tự trắng, giải thoát khỏi mọi nô dịch vào một trật tự chỉ dấu của ngôn ngữ', giống như trong ngữ học đề ra sự hiện hữu của một hạn từ thứ ba (so với hai cặp hạn từ số ít/số nhiều, quá khứ/hiện tại), một hạn từ trung tính, hay có thể gọi là hạn từ số không, Như vậy so với những cách cầu khẩn/tiếp tục pháp và mệnh lệnh pháp của động từ [ở đây, Barthes đang nói trong văn phạm Pháp: les modes subjonctif et impératif ], cách trình bày/trần trạng [l'indicatif] là hình thái phi cách/forme amodale. Văn tự ở độ không vốn là một văn tự trần trạng, hay có thể gọi là phi cách. Cách trình bày/trần trạng của động từ là hình thái trung tính như nêu trên, văn tự trắng là văn tự ở độ không so với những kỹ năng văn chương truyền thống, thoát khỏi sức ép của Lịch sử, có khả năng xác định mặt hữu thể luận của văn chương.
Tại sao lại gọi là độ không của văn tự? Barthes duyệt lại văn chương kể từ Flaubert đến nay đã trở thành một vấn tính về ngôn ngữ [148], khởi từ một hư vô ở đó tư tưởng dường như trỗi dậy trên trang trí của chữ nghĩa, văn tự như vậy trải qua mọi tình trạng cố kết tiến triển, trước hết là đối tượng của cái nhìn, rồi đến chế tác, sau cùng là giết người, ngày nay tiến tới một hoá thân cuối là vắng mặt. Những văn tự trung tính này Barthes gọi là 'độ không của văn tự', vận động của một hủy thể/phủ định, như thể Văn chương đã vắng mặt mọi ký hiệu, hoàn tất giấc mơ [của Orphée [149]] của một văn tự trắng, nhà văn không Văn chương. Những nhà văn tiêu biểu loại văn tự trắng này Barthes dẫn ra như Camus, Blanchot, Cayrol [150], theo Barthes là hồi cuối của một Đam mê văn tự. Ý niệm về một 'văn tự trắng' chỉ ra chiều hướng đa dạng mà Barthes ý thức được dầu trong những giới hạn ở giai đoạn nghiên cứu đầu đời này (1947-1950) khi ông xác định sự hiện hũu của một thực tại hình thái độc lập với ngôn từ và văn phong, một chiều hướng thứ ba của Hình thái gắn bó nhà văn với xã hội, một nền Văn chương với một Đạo lý của ngôn ngữ, một cái gì đó trong tác phẩm văn chương biểu hiện qua văn tự trung tính này điều kiện đầu tiên của nghệ thuật. Văn tự trắng/écriture blanche là hình thái phi thời gian của văn chương, như Barthes xác định phương tiện hình thái không còn để phục vụ một hệ tư tưởng chiến thắng nữa, mà là phương thức của một hoàn cảnh mới của nhà văn, cách thế tồn tại của một im lặng, 'tự nguyện mất tất cả những cầu trợ vào tính cao nhã hay trang sức, bởi cả hai chiều hướng này lại đưa vào trong văn tự, Thời gian nghĩa là một quyền năng từ Lịch sử mà ra, truyền đi/mang theo Lịch sử' [151]. Cũng trong ngữ cảnh này, Barthes chỉ ra giải pháp 'sáng tạo ra một văn tự trắng, giải thoát khỏi mọi nô dịch vào một trật tự chỉ dấu của ngôn ngữ', giống như trong ngữ học đề ra sự hiện hữu của một hạn từ thứ ba (so với hai cặp hạn từ số ít/số nhiều, quá khứ/hiện tại), một hạn từ trung tính, hay có thể gọi là hạn từ số không, Như vậy so với những cách cầu khẩn/tiếp tục pháp và mệnh lệnh pháp của động từ [ở đây, Barthes đang nói trong văn phạm Pháp: les modes subjonctif et impératif ], cách trình bày/trần trạng [l'indicatif] là hình thái phi cách/forme amodale. Văn tự ở độ không vốn là một văn tự trần trạng, hay có thể gọi là phi cách. Cách trình bày/trần trạng của động từ là hình thái trung tính như nêu trên, văn tự trắng là văn tự ở độ không so với những kỹ năng văn chương truyền thống, thoát khỏi sức ép của Lịch sử, có khả năng xác định mặt hữu thể luận của văn chương.
Barthes trong đàm luận về văn chương ngày nay với nhóm Tel Quel đã bày tỏ mối
quan tâm tìm hiểu hữu thể văn chương, song trên con đường tìm kiếm chỉ ra
cũng như thời thức, văn chương với mọi ngõ ngách/cơ vi của nghệ thuật biểu
thị cái 'không/rien', hữu của chúng ở trong biểu thị ý nghĩa, không phải trong
cái chúng được biểu thị [152].
Đó là cả một quá trình của văn chương, cho nên như Barthes từng viết 'mỗi nhà
văn ra đời mở ra quá trình văn chương trong y'. Vấn đề cơ bản đối với ông không
phải là một lý luận về khoa học văn chương mà là ngôn ngữ của khoa học văn
chương. Những bước nhẩy từ cấu trúc luận qua hậu cấu trúc luận, cuộc phiêu lưu
ký hiệu học, vượt qua siêu ngữ khoa học, song ở tột cùng, khoa học văn chương vẫn
là chính văn chương. Những vấn đề sẽ bàn tới ở những chương sau.
Maurice Blanchot, 'một trong những nhà văn và phê bình quan trọng nhất thời hậu chiến, và là nhà tư tưởng có ảnh hưởng mạnh tới Foucault và nhiều người khác' như John Lechte nhận xét trong Fifty key contemporary thinkers 1994 song 'trongFontana Dictionary of Modern Thinkers 1983 có những mục từ về François Mitterand và Michel Foucault, nhưng không có mục từ về Maurice Blanchot'. Trong Từ điển triết học giản yếu 2010 tôi giới thiệu 'Blanchot cũng như Bataille là những nhà văn ở ngoài dòng chính triết học, về mặt văn chương như những người tiền phong của tiểu thuyết mới, Tel Quel.. .Blanchot viết: Văn chương bắt đầu vào lúc văn chương trở thành một vấn nạn. Nhà văn chỉ hiện thực qua tác phẩm, trước khi có tác phẩm, không những y không biết y là ai, mà y chẳng là gì cả. Hegel, theo Blanchot là ngườI đã cho nghệ thuật ý niệm cao nhất, từng nói là cá nhân không thể biết mình là gì, khi không thực hành đến chỗ hiện thực kỳ thành; dường như không thể xác định mục đích công việc trước khi thực hành, và như vậy y phải ý thức trước tự thân hành động toàn diện là hành động của y, nghĩa là như mục đích. Blanchot viết: tác phẩm được viết ra, cùng với tác phẩm, nhà văn ra đời.'
Những ý niệm văn chương của ông có nhiều chỗ có thể như đồng hành với Barthes, tuy nhiên cũng nhiều khác biệt [153].Christophe Bident, người viết thiên hành trạng trên 600 trang về Blanchot, nhận xét: MỗI bài viết sinh động như một bứt phá mới trong tư tưởng văn chương, triết lý và chính trị. Với Bataille, như có phần khác biệt, và luôn luôn chống Sartre, Blanchot khai mở văn chương cho những nhà triết học, phân tích gia, khiến họ khám phá ra Broch hay Beckett, đôi khi cả Jaspers hay Artaud. Ông khiến họ phải nghe ngôn từ trung tính và quả quyết, riêng tư và chung này, vốn từ tất cả ngôn ngữ vang dậy cái phi lý, phá giới, bất lực và thất miên. Cái đáng nể nhất là ngôn từ này cũng là ngôn từ của ông, và khích động những tinh thần lớn lao nhất như thể bắt họ phải im lặng' [154], giải thích nguyên ủy sự im lặng xuẩn động nói trên.
Im lặng dường như lại là bản tính của đời sống của Blanchot, như phần thứ nhất tác phẩm L'espace littéraire 1955 mang tên Cô đơn chủ yếu/la solitude essentielle. Cô đơn của tác phẩm nghệ thuật hay văn chương, như Blanchot chỉ ra, không phải là 'tĩnh tâm' như thi sĩ Rilke ẩn mình trong cô độc để làm thơ, mà chủ yếu hơn, loại trừ trạng thái cô lập thoải mái của chủ nghĩa cá nhân, quên đi việc tìm khu biệt. Ngoại trừ con người đang viết tác phẩm, đã viết xong nó thì được tống khứ đi. Nhà văn không bao giờ biết tác phẩm đã hoàn thành; điều ông kết thúc ở quyển sách này, ông lại bắt đầu nó hoặc hủy diệt nó ở quyển sách khác. Tóm lại, tác phẩm nghệ thuật hay văn chương không kết thúc mà cũng không phải chưa thành tựu: nó hiện hữu đó, nó là. Khởi sự hữu thể luận văn chương phải chăng khởi sự từ tác phẩm?.
Maurice Blanchot, 'một trong những nhà văn và phê bình quan trọng nhất thời hậu chiến, và là nhà tư tưởng có ảnh hưởng mạnh tới Foucault và nhiều người khác' như John Lechte nhận xét trong Fifty key contemporary thinkers 1994 song 'trongFontana Dictionary of Modern Thinkers 1983 có những mục từ về François Mitterand và Michel Foucault, nhưng không có mục từ về Maurice Blanchot'. Trong Từ điển triết học giản yếu 2010 tôi giới thiệu 'Blanchot cũng như Bataille là những nhà văn ở ngoài dòng chính triết học, về mặt văn chương như những người tiền phong của tiểu thuyết mới, Tel Quel.. .Blanchot viết: Văn chương bắt đầu vào lúc văn chương trở thành một vấn nạn. Nhà văn chỉ hiện thực qua tác phẩm, trước khi có tác phẩm, không những y không biết y là ai, mà y chẳng là gì cả. Hegel, theo Blanchot là ngườI đã cho nghệ thuật ý niệm cao nhất, từng nói là cá nhân không thể biết mình là gì, khi không thực hành đến chỗ hiện thực kỳ thành; dường như không thể xác định mục đích công việc trước khi thực hành, và như vậy y phải ý thức trước tự thân hành động toàn diện là hành động của y, nghĩa là như mục đích. Blanchot viết: tác phẩm được viết ra, cùng với tác phẩm, nhà văn ra đời.'
Những ý niệm văn chương của ông có nhiều chỗ có thể như đồng hành với Barthes, tuy nhiên cũng nhiều khác biệt [153].Christophe Bident, người viết thiên hành trạng trên 600 trang về Blanchot, nhận xét: MỗI bài viết sinh động như một bứt phá mới trong tư tưởng văn chương, triết lý và chính trị. Với Bataille, như có phần khác biệt, và luôn luôn chống Sartre, Blanchot khai mở văn chương cho những nhà triết học, phân tích gia, khiến họ khám phá ra Broch hay Beckett, đôi khi cả Jaspers hay Artaud. Ông khiến họ phải nghe ngôn từ trung tính và quả quyết, riêng tư và chung này, vốn từ tất cả ngôn ngữ vang dậy cái phi lý, phá giới, bất lực và thất miên. Cái đáng nể nhất là ngôn từ này cũng là ngôn từ của ông, và khích động những tinh thần lớn lao nhất như thể bắt họ phải im lặng' [154], giải thích nguyên ủy sự im lặng xuẩn động nói trên.
Im lặng dường như lại là bản tính của đời sống của Blanchot, như phần thứ nhất tác phẩm L'espace littéraire 1955 mang tên Cô đơn chủ yếu/la solitude essentielle. Cô đơn của tác phẩm nghệ thuật hay văn chương, như Blanchot chỉ ra, không phải là 'tĩnh tâm' như thi sĩ Rilke ẩn mình trong cô độc để làm thơ, mà chủ yếu hơn, loại trừ trạng thái cô lập thoải mái của chủ nghĩa cá nhân, quên đi việc tìm khu biệt. Ngoại trừ con người đang viết tác phẩm, đã viết xong nó thì được tống khứ đi. Nhà văn không bao giờ biết tác phẩm đã hoàn thành; điều ông kết thúc ở quyển sách này, ông lại bắt đầu nó hoặc hủy diệt nó ở quyển sách khác. Tóm lại, tác phẩm nghệ thuật hay văn chương không kết thúc mà cũng không phải chưa thành tựu: nó hiện hữu đó, nó là. Khởi sự hữu thể luận văn chương phải chăng khởi sự từ tác phẩm?.
[106] In lại trong Hành
trạng tư tưởng giữa hai thế kỷ 2002.
[107] [In diesem Systems]
haben die Wissenschaften des Geistes zuerst ihr eigenes Zentrum gefunden - die
menschliche Natur. Einleitung in die Geisteswissenschaften, (Zweites Buch,
Vierter Abschnitt, Drittes Kapitel).
[108] 'eine
Erfahrungswissenschaft des menschlichen Geistes', Diese Erkenntnis der Gezetze
ist die Quelle aller Macht des Menschen'. Antrittsvorlesung in Basel (in Die
geistige Welt, Erste Hälfte GS V).
[109] Die
Einbildungskraft des Dichters. Bausteine für eine Poetik. (in Die geistige
Welt, Zweite Hälfte, GS VI). Thiên biên khảo này in lần đầu trong tập san
kỷ niệm sinh nhật năm 70 của Eduard Zeller 'Philosophische Aufsätze,
Eduard Zeller zum 70. Geburtstag gewidmet' Leizig 1887. Trong chú thích ở trên
đã giải thích từ Dichter được dùng để chỉ chung nhà văn, nhà thơ, cho nên ở đây
gọi chung là văn gia. Trong một chương sau khi nói về thơ sẽ rõ việc thơ là văn
chương sáng tạo giữ vị thế chủ vào những thời đại cổ ở Đông cũng như ở Tây.
[110] Fragmente zur Poetik. Dự án thứ nhất mang tên: Thi pháp. Tiểu luận áp dụng phương pháp nhân học và tỷ giảo vào những dữ kiện của văn học sử/Poetik. Versuch einer Anwendung anthropologischer und vergleichender Methode auf den Stoff der Literaturgeschichte gồm:
Quyển thứ nhất. Cơ sở/Grundlegung.
[110] Fragmente zur Poetik. Dự án thứ nhất mang tên: Thi pháp. Tiểu luận áp dụng phương pháp nhân học và tỷ giảo vào những dữ kiện của văn học sử/Poetik. Versuch einer Anwendung anthropologischer und vergleichender Methode auf den Stoff der Literaturgeschichte gồm:
Quyển thứ nhất. Cơ sở/Grundlegung.
Tiết 2. Những kết quả thu hoạch/Die erworbenen Einsichten.
Quyển thứ hai.
Tiết 1. Tư chất văn gia/Die Organisation des Dichters.
Tiết 2. Tự chứng/Selbstzeugnisse.
Tiết 3. Những giải minh tâm lý/Psychologische Erläuterungen.
Quyển ba. Tri năng thực tại của văn gia/Verständnis der Wirklichkeit der
Dichter.
Tiết 1. Những tính người/Die menschlichen Charaktere.
Tiết 2. Những thu tập của đời sống/Die Lebensbezüge.
Tiết 3. Ý nghĩa đời sống/Die Bedeutung des Lebens.
Quyển bốn. Kỹ thuật thi pháp/Die poetische Technik.
Trong dự án thứ nhất này có
một số điểm quan yếu song chưa kịp khai triển như Mỹ học siêu hình trở nên vô
hiệu lực (Die metaphysische Ästhetik ist wirkunglos geworden), một tình trạng
thẩm thức hỗn loạn phát sinh. Nó ngự trị trong lĩnh vực văn chương rộng lớn ỏ mọi
xứ sở (So ist eine Anarchie des Geschmacks entstanden. Sie herrscht auf dem
weiten Gebiet der Dichtung in allen Ländern); tương phản [trong mẫu điển hình
văn chương] trong lĩnh vực tri tưởng: cái thực thì phản lý (das Reale ist
irrational) v.v..
Dự án thứ hai mang tính cách tu chính toàn diện hơn được phác thảo tự thủ bút của
Dilthey ‘tổng luận thi pháp' (Übersicht der Poetik) chưa hoàn tất:
Quyển một. Văn gia/Der Dichter.
Tiết 1. Kinh nghiệm sống/Das Erlebnis.
Chương một. Mô tả khái quát/Allgemeine Beschreibung.
Chương hai. Khu biệt trong kinh nghiệm sống/Unterschiede in den Erlebnissen. a)
cảnh trạng nghiệm sống/Erlebnislagen, b) định hướng nghiệm sống/Erlebnisrichtungen,
c) chân trời nghiệm sống/Der Erlebnishorizont.
Chương ba. Chu kỳ nghiệm sống/Erlebniskreise.
Tiết 2. Tri tưởng văn chương/Die dichterische Phantasie.
Chương một. Mô tả khái quát tri tưởng/Allgemeine Beschreibung der Phantasie.
Chương hai. Tự chứng của văn gia/Selbstzeugnisse der Dichter.
Chương ba. Phân tích tri tưởng văn chương.
1. Tri tưởng nghiệm sống/Die Erlebnisphantasie. a) biểu hiện kinh nghiệm sống/Ausdruck
des Erlebnisses, b) thu tập
những biểu hiện nghiệm sống trong văn chương miêu tả/das Eingehen von
Erlebnisaudrücken in die darstellende Dichtung.
2. Những ảnh tượng văn chương/die dichterischen Phantasiebilder.
3. Tri tưởng ngôn ngữ. Tri tưởng nhịp điệu và âm điệu/Sprachphantasie. Rhythmische und Klangphantasie.
2. Những ảnh tượng văn chương/die dichterischen Phantasiebilder.
3. Tri tưởng ngôn ngữ. Tri tưởng nhịp điệu và âm điệu/Sprachphantasie. Rhythmische und Klangphantasie.
Tiết 3.Sáng tạo văn
chương/das dichterische Schaffen.
Chương một. Phạm trù đời sống:
ý nghĩa/Kategorie des Lebens: Bedeutung. Tầng hai/die zweite Schicht. Đặc trưng trong văn chương (khái niệm và biểu tượng)/das Typische in der Dichtung
(Begriff und Symbol).
Chương hai. Những quan tượng
của văn gia trong tri tưởng/die Vision des Dichters in der Phantasie.
Chương ba. Biểu tượng/die
Darstellung.
Tiết 4. Văn gia và công chúng của mình/der Dichter und sein Publikum.
Chương một. Sáng tạo văn chương và ấn tượng thi pháp/das dichterische Schaffen und der poetische Eindruck.
Chương hai. Tính phổ cập và quá độ của tính lịch sử của tạo phẩm, không chỉ về kỹ thuật/Allgemeingültigkeit und Übergang zur Geschichtlichkeit jedes Produktes, nicht bloß der Technik.
Tiết 4. Văn gia và công chúng của mình/der Dichter und sein Publikum.
Chương một. Sáng tạo văn chương và ấn tượng thi pháp/das dichterische Schaffen und der poetische Eindruck.
Chương hai. Tính phổ cập và quá độ của tính lịch sử của tạo phẩm, không chỉ về kỹ thuật/Allgemeingültigkeit und Übergang zur Geschichtlichkeit jedes Produktes, nicht bloß der Technik.
Quyển hai. Tác phẩm/das
Werk.
Dẫn nhập. Cơ sở nhận thức luận/Erkenntnistheorische
Grundlegung: (Thông diễn luận như một bộ phận của nhận thức luận/die
Hermeneutik als ein Teil der Erkenntnistheorie.)
Tiết 1. Những thể loại văn
chương/die Dichtungsarten.
Tiết 2. Phân tích/die Zergliederung.
Tiết 3. Tính lịch sử của tác phẩm, như thành quả từ những quan hệ rút ra từ kinh nghiệm sống, ý nghĩa, nội dung sáng tác và hình thái (cũng như kỹ thuật)/Geschichtlichkeit der Werke, wie sie aus dem Verhältnis von Erleben, Bedeutsamkeit, Schafensgehalt und Form (also auch Technik) entsteht.
Tiết 4. Tính lịch sử của những hình thái lớn thuộc văn chương như sử thi tiểu thuyết, anh hùng thi, trữ tình trí thức đồ sộ v.v..Đó là những phạm trù lịch sử. Quá độ trong văn học sử/die Geschichtlichkeit der groß Formen der Poesie wie romantisches Epos, Heldenepos, große Gedankenlyrik etc. Es sind historische Kategorien. Übergang in Literaturgeschichte.
Tiết 2. Phân tích/die Zergliederung.
Tiết 3. Tính lịch sử của tác phẩm, như thành quả từ những quan hệ rút ra từ kinh nghiệm sống, ý nghĩa, nội dung sáng tác và hình thái (cũng như kỹ thuật)/Geschichtlichkeit der Werke, wie sie aus dem Verhältnis von Erleben, Bedeutsamkeit, Schafensgehalt und Form (also auch Technik) entsteht.
Tiết 4. Tính lịch sử của những hình thái lớn thuộc văn chương như sử thi tiểu thuyết, anh hùng thi, trữ tình trí thức đồ sộ v.v..Đó là những phạm trù lịch sử. Quá độ trong văn học sử/die Geschichtlichkeit der groß Formen der Poesie wie romantisches Epos, Heldenepos, große Gedankenlyrik etc. Es sind historische Kategorien. Übergang in Literaturgeschichte.
Tiết 5. Chức năng văn chương
trong lịch sử nhân loại/die Funktion der Poesie in der Geschichte der
Menschheit.
Georg Misch (1878-1965), người
học trò thân tín và là rể của Dilthey trong phần biên tập tác phẩm Die geistige
Welt (GS Vvà VI) này ghi nhận 'để khởi đầu toàn bộ, như Dẫn nhập
cho quyển một, chương 'Die Organisation des Dichters' [đã in trong thiên khảo
luận nói đến ở trên]; 'tâm lý học cấu trúc/die Strukturpsychologie thay cho
chương 'tâm lý học giải thích/erklärende Psychologie' đã được xóa bỏ.
Dilthey là triết gia có quá
nhiều dự án, ông lại chịu tiếp thu những cái mới, chẳng hạn hiện tượng luận của
Husserl đã có ảnh hưởng đến giai đoạn sau trong hành trạng tư tưởng Dilthey. Về
khoa học văn chương, Roman Ingarden (1893-1970), người học trò của Husserl và
Mikel Dufrenne là những triết gia hiện tượng luận theo đuổi chuyên biệt con đường
nghiên cứu tác phẩm văn chương như Dilthey.
[111] Sie war zugleich neben
Grammatik, Rhetorik und Logik ein Bestandteil des höheren Bildungswesens.Sdt.
[112] Die ganze Geschichte
der Kunst und der Dichtung zeigt, wie das nachdenkliche Erfassen von Funktionen
und Gesetzen der Kunst die Bedeutung und die idealen Ziele derselben im
Bewußtsein erhält, während die niederen Inktinkte der menschlichen Natur sie
beständig herabziehen möchten.Sdt.
[113] An der
Literaturgeschichte entfaltete sich [bei uns] die philosophische
Geschichtsbetrachtung. Die Poetik hat vielleicht eine ähnliche Bedeutung für
das systematische Studium der geschichtlichen Lebensäußerungen. Sdt.
[114] Xem: Từ điển triết
học giản yếu 2010. (ÐPQ)
[115] Problema
soderzhaniia, materiala, i formy v slovesnom khudozhestvennom tvorchestve (in
trong Voprosy literatury i estetiki: Issledovaniia raznykh let 1975. Tiểu
luận này được Kenneth Brostrom dịch sang Anh ngữ, in trong Art and
Answerability [Iskusstvo i otvetstvennost/nghệ thuật và chịu trách nhiệm],
edited by Michael Holquist and Vadim Liapunov 1990.
[116] Formal'nyi metod
v literaturovedenii (Kriticheskoe vvedenie v sotsiologicheskuiu poetiku)
1928. Về phía những nhà hình thái luận, Boris Eichenbaum đã viết thiên tiểu luận Lý
luận về phương pháp hình thức/Teoriya 'formalnovo metoda' 1926quan niệm thiết lập
một khoa học văn chương đặc thù và thực sự xây dựng trên cơ sở phương pháp hình
thức.
[117] Roman Jakobson đã ghi
nhận: những năm 20 [của thế kỷ XX] đã cho một chí lực hùng hậu với những
nghiên cứu sáng tạo học/thi pháp Nga. Nghiên cứu, giảng dạy, danh mục những tác
giả, xuất bản, học viện chuyên về nghiên cứu thơ và những nghệ thuật khác, những
giáo trình và hội thảo gia tăng không ngừng. Khủng hoảng của phát triển
dường như tự tại. Sự phát triển liên tục sáng tạo học đòi hỏi một bước nhẩy vọt
mới của khoa ngữ học tổng quát vẫn còn trong tình trạng phôi thai. Song cấm chế
nhất thời lại biến thành một trạng thái hôn thụy lâu dài.
Cấm lệnh mà Jakobson ám chỉ chính sách văn hoá văn nghê trong chế độ cộng sản, cực điểm vào thời Stalin với chỉ đạo của Zhdanov. Trong Mấy tiêu chí để tiếp cận lý luận văn học (in lại trong Tẩu khúc văn chương/triết lý 2004) tôi cũng nhắc đến lời nhà thơ Semyón Isaákovich. Kirsanov (1906-1972) dũng cảm nói lên thực trạng ấy trong đại hội nhà văn Xô viết lần thứ nhất tại Moskva năm 1934: Người ta không thể đụng đến những vấn đề về hình thái thi pháp, ẩn dụ, vần thơ hay hình dung từ mà không khiến đáp lại tức thời: hãy câu lưu bọn hình thái chủ nghĩa! Ai cũng có thể bị đe dọa kết vào tội hình thái chủ nghĩa. Từ này trở thành một bao đấm để những nhà phê bình thử sức. Mọi dẫn chứng những 'từ hoa thanh âm' hay 'ngữ nghĩa' đều tự động đi kèm với lời cự tuyệt: đả bọn hình thái! Nhiều nhà phê bình tàn bạo còn lấy khẩu lệnh này thành tiếng sất sá để bảo vệ sự ngu dốt của họ trong lĩnh vực thực hành và lý luận nghệ thuật sáng tạo, và để lột da đầu những ai dám làm rối cái xóm ngu dân của họ.
Cấm lệnh mà Jakobson ám chỉ chính sách văn hoá văn nghê trong chế độ cộng sản, cực điểm vào thời Stalin với chỉ đạo của Zhdanov. Trong Mấy tiêu chí để tiếp cận lý luận văn học (in lại trong Tẩu khúc văn chương/triết lý 2004) tôi cũng nhắc đến lời nhà thơ Semyón Isaákovich. Kirsanov (1906-1972) dũng cảm nói lên thực trạng ấy trong đại hội nhà văn Xô viết lần thứ nhất tại Moskva năm 1934: Người ta không thể đụng đến những vấn đề về hình thái thi pháp, ẩn dụ, vần thơ hay hình dung từ mà không khiến đáp lại tức thời: hãy câu lưu bọn hình thái chủ nghĩa! Ai cũng có thể bị đe dọa kết vào tội hình thái chủ nghĩa. Từ này trở thành một bao đấm để những nhà phê bình thử sức. Mọi dẫn chứng những 'từ hoa thanh âm' hay 'ngữ nghĩa' đều tự động đi kèm với lời cự tuyệt: đả bọn hình thái! Nhiều nhà phê bình tàn bạo còn lấy khẩu lệnh này thành tiếng sất sá để bảo vệ sự ngu dốt của họ trong lĩnh vực thực hành và lý luận nghệ thuật sáng tạo, và để lột da đầu những ai dám làm rối cái xóm ngu dân của họ.
Cái xóm ngu dân là những
quan thần phê bình kiểu Zhdanov thời bấy giờ.
[118] Avtor i geroi v
esteticheskoi deiatel'nosti viết trong thập niên 20 song chỉ được xuất
bản vào năm 1979 trong tập Estetika slovesnogo tvorchestva do Sergei
G. Bocharov biên tập.
[119] Allgemeine
Ästhetik 1901.
[120] Trong luận văn Tác
giả và nhân vật trong hoạt động mỹ học nói trên. Bản dịch sang tiếng Anh
là transgredient (bắt nguồn từ Latinh: transgredi, transgressus).
Vadim Liapunov nhận xét trong ngôn ngữ của J. Cohn, từ này nhằm đối lập với 'tự
tại'. Michael Holquist dùng từ mới là 'transgradient'. Tham khảo: Reviving
the Living: Meaning Making in living Systems, 2008 của Yair Neuman (chương
17: Transgradience: A Lesson from Bakhtin).
Lấy một ví dụ dễ hiểu như
làm thế nào tôi tri giác được sự đau khổ của người khác. Tôi thấy họ đau nhưng
không cảm được nó, song tôi có thể vào trong không gian tri thức của họ về mặt
khái niệm và tri giác qua mắt họ để thấy biểu diện thế giới được tô điểm ở mọi
mặt qua cảm giác đau khổ. Khi người đau khổ nhìn cây cối quanh ta , cảm thấy
cây cối đau khổ, khi nhìn người khác cũng nhìn họ qua lăng kính đau đớn của họ.
Như câu thơ trong Truyện Kiều : Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Nhưng khi tôi trở lại thời gian và không gian của chính nơi chốn hiện hữu của
tôi, cộng với nhận thức thu nhận ở thế giới của kẻ đau khổ, tôi có thể thêm vào
trong danh mục sự vật họ nhìn sự vật mà không thể thấy từ hoàn cảnh của họ và
chỉ có thể tri giác từ hoàn cảnh của tôi, như cái nhăn mặt của họ chẳng hạn.
Hơn nữa tôi nhìn mọi sự này trong khung cảnh cây cối họ tri giác qua nỗi đau của
họ, song những cây cối này có bộ diện khác hẳn từ vị thế của tôi. Vị thế này
Bakhtin gọi nó là 'quá chuyển', nghĩa là vị thế của nhân vật ở vị thế cao hơn
trong quan hệ này: nhà văn, tác giả ở bình diện cao hơn những nhân vật của
mình, có thể nhìn thấy trong hiện hữu toàn diện, ý nghĩa sâu xa nhất nhân vật của
ông.
[121] Những nhà nghiên cứu,
dịch giả Anh ngữ như Caryl Emerson, Gary Saul Morson, Michael Holquist, Vadim
Liapunov v.v.. dùng nhiều từ khác nhau: outsideness, trangredience,
transgradience, extralocality, exotopy [từ sau cùng này chuyển từ tiếng Pháp
trong bản dịch tác phẩm Mikhail Bakhtin, The Dialogical Principle của
Tzvetan Todorov] để dịch tân từ này của Bakhtin [ông giản lược câu tiếng Nga: nakhodit'sja
vne (định vị ở ngoài biên của người hay vật) thành vnenakhodimost (tình trạng
định vị ngoài biên liên hệ/với)].
[122] Trong tiểu luận (di cảo)
mang nhan đề Về một triết học hành vi/K filosofi postupka S.G.
Bocharov xuất bản, dẫn giải như một tiếp nối di cảo Tác giả và nhân vật
trong hoạt động mỹ học (xem chú giải 118 gio-o kỳ 10) Bakhtin viết:
Tôi chủ động đi vào như một sinh hữu/vzhivaius trong một cá nhân, và quả thực
không đánh mất bản ngã hay mất vị thế đặc thù của mình bên ngoài cá nhân này.
Đó không phải là chủ thể chiếm hữu bất ngờ của ngã thụ động, song là cái
Tôi chủ động đi vào y; sống trong/vzhivanie là hành vi của tôi, và chỉ ở hành
vi này có sản xuất và làm mới.
[123] Bakhtin không chỉ ra đối
tác, song trong thời kỳ này, công trình bàn rộng về 'thần nhập' của các nhà hiện
tượng luận, phải kể ngoài Ideen I của Husserl, tác phẩm của Edith Stein Zum
Problem der Einfühlung 1917.
[124] Trong K filosofi
postupka nói đến ở trên [chú giải 122] Bakhtin viết: Trong đáp ứng
trách nhiệm mỹ học của diễn viên và toàn thể con người để thích ứng đóng vai
trò vẫn ở trong đời sống thực, để vai trò như một tổng thể là hành vi đáp ứng hoàn thành bởi con ngưòi diễn, không phải con người được diễn, nghĩa
là nhân vật. Toàn thế giới mỹ học như một tổng thể chính là một thời khoảng của
Hữu -như- thể- sự- biến mang lại trong cộng thông với Hữu- như- thể- sự biến
qua một ý thức đáp ứng trách nhiệm - thông qua hành động đáp ứng của nhân vật
tham dự. Lý mỹ học là một thời khoảng của lý thực tiễn.[125] Dẫn theo G. S. Morson
& Caryl Emerson, Mikhail Bakhtin, Creation of a Prosaics 1990 từ
bản văn Những con đường và nhiệm vụ trong nghiên cứu văn học/Puri i
zadachi nauki o literature in trong Literaturnaja mysl' 1923.
[126] Phương pháp
hình thái: thay thế vào người chép sổ tử nhân, in trong Sovremennaja
literature: Sbornik statej 1925.
[127] Bàn về vấn đề
'hình thái' in trong Pečat' i revoljucija 1924.
[128] Chẳng hạn, Sachwörterbuch der Literatur (1. Auflage 1955) của Gero von Wilpert: Literaturwissenschaft , die gesamte systematische Wissenschaft von der Literatur, ihren möglichen Betrachtungsarten und Methoden zur Erschließung der Sprachkunstwerke entweder in ihrem Wesen alt Dichtung oder ihrer historischen Entwicklung und ihrem Lebenszusammenhang, neben der Sprachwissenschaft Unterabteilung der Philologie im weiteren Sinne, doch über die mehr sprachlich und volkskundlich ausgerichtete Germanistik hinausragend (Khoa học văn chương, khoa học có hệ thống toàn diện về văn chương, về nghệ thuật quan chiêm khả hữu và phương pháp về phát triển những công trình nghệ thuật bằng ngôn ngữ, hoặc trong bản chất của nó như văn thơ, hoặc tiến trình lịch sử của nó và quan hệ sinh hoạt của nó, bên cạnh những bộ môn khoa học ngôn ngữ như bác ngữ học theo nghĩa rộng, song vượt lên trên khoa Đức văn về mặt ngữ ngôn và dân gian).
[128] Chẳng hạn, Sachwörterbuch der Literatur (1. Auflage 1955) của Gero von Wilpert: Literaturwissenschaft , die gesamte systematische Wissenschaft von der Literatur, ihren möglichen Betrachtungsarten und Methoden zur Erschließung der Sprachkunstwerke entweder in ihrem Wesen alt Dichtung oder ihrer historischen Entwicklung und ihrem Lebenszusammenhang, neben der Sprachwissenschaft Unterabteilung der Philologie im weiteren Sinne, doch über die mehr sprachlich und volkskundlich ausgerichtete Germanistik hinausragend (Khoa học văn chương, khoa học có hệ thống toàn diện về văn chương, về nghệ thuật quan chiêm khả hữu và phương pháp về phát triển những công trình nghệ thuật bằng ngôn ngữ, hoặc trong bản chất của nó như văn thơ, hoặc tiến trình lịch sử của nó và quan hệ sinh hoạt của nó, bên cạnh những bộ môn khoa học ngôn ngữ như bác ngữ học theo nghĩa rộng, song vượt lên trên khoa Đức văn về mặt ngữ ngôn và dân gian).
Trong Từ điển chuyên biệt
văn chương nói trên, von Wilpert xác định biểu ngữ này Theodore Mundt dùng đầu
tiên trong Dẫn nhập vào Lịch sử văn học hiện đại/Geschichte der Literatur
der Gegenwart năm 1842.
René Welleck tác giả Concepts
of Criticism 1963 trong chương viết về từ ngữ và khái niệm phê bình luận
văn chương nhận xét: ở Đức từ 'Literaturwissenschaft' giữ vị thế của 'phê
bình luận' thường dùng ở phương Tây, được thịnh hành trong khi những tổ hợp
từ như 'science de la littérature' hay 'science of literature' không được để ý ở
phương Tây. Tuy nhiên, Wellek cũng nói ngay là ý niệm về một khoa học văn
chương không phải là đặc thù ở Đức, vì ở Pháp cũng đã có một truyền thống lâu
dài dùng nó, như J.J. Ampère đã nói đến triết học văn chương là lịch sử văn
chương cấu tạo thành hai bộ phận của một 'khoa học văn chương/science
littéraire' trong Discours sur l'histoire de la poésie (1830), chưa kể
đến Taine, Brunetière, Hennequin đã nói đến xu hướng dùng phương pháp
khoa học trong nghiên cứu văn học ở Pháp. Song theo Wellek, từ này chỉ cắm
rễ ỏ Đức, thường được Karl Rosenkranz dùng trong việc điểm sách trong 'Die
deutsche Literaturwissenschaft, 1836-1842, trong một tạp chí xuất bản năm 1865,
hay những bài giảng của Ernst Grosse năm 1887 về Die
Literaturwissenschaft, ihr Ziel und ihr Weg, hay Ernst Elster trong bộ khảo
luậnPrinzipien der Literaturwissenschaft hai tập năm 1897 và 1911. Wellek
cho rằng từ 'khoa học văn chương' không có tiến triển nào ngoài nước Đức, chẳng
hạn những bài diễn thuyết về The Science of Literature của học giả Hà
lan Henrik Clemens Muller ở
Edinburg năm 1898 là ngoại lệ,
cũng như bộ Introduction à une science de la littérature (1928-29) bốn
quyển của học giả Lỗ mã ni Michel Dragomirescou. Biểu ngữ này lại xuất hiện
trongIntroduction à une science de la littérature của Guy Michaud năm
1950.
Wellek cũng nhận xét là
trong Das sprachliche Kunstwerk của Wolfgang Kayser năm 1948, từ này
và những vấn đề đã không được thảo luận mặc dù cái tên của nó xuất hiện trong
những nhan đề ở thư mục.
Điều nhận xét này thật kỳ lạ
và sai lầm vì René Wellek thực đã không đọc thấy ngay ở Dẫn nhập tác phẩm nói
trên của Kayser tiết 2 và 3 luận về:
2. Der Gegenstand der Literaturwissenschaft/đối tượng của khoa học văn chương.
3. Begriff und Geschichte der Literaturwissenschaft/khái niệm và lịch sử khoa học văn chương.
Do tư kiến đó, ngay từ tác phẩm viết chung giữa hai tác giả René Wellek và Austin Warren Theory of Literature 1948 không có từ 'khoa học văn chương'.
2. Der Gegenstand der Literaturwissenschaft/đối tượng của khoa học văn chương.
3. Begriff und Geschichte der Literaturwissenschaft/khái niệm và lịch sử khoa học văn chương.
Do tư kiến đó, ngay từ tác phẩm viết chung giữa hai tác giả René Wellek và Austin Warren Theory of Literature 1948 không có từ 'khoa học văn chương'.
Tác phẩm Methodologie der
Literaturwissenschaft 1978 của Joseph Strelka có thể tiêu biểu loại
sách giáo khoa về khoa học văn chương, từ lý luận về những nguyên tắc (đối tượng
và mục đích), lý luận về phương pháp (những điều kiện và những phương pháp nội
tại và siêu nghiệm của tác phẩm), quan hệ đối với triết học, tôn giáo, phong tục
học và nhân loại học, sử học và xã hội học.
[129] Teorija 'formal'nogo
metoda 1927 [bản dịch tiếng Pháp:La théorie de la 'méthode formelle' trong Théorie
de la littérature, Textes des Formalistes russes 1965; bản dịch tiếng Anh trong Russian
Formalist Criticism 1965]
[130] Công trình nghệ
thuật văn ngôn 1948 (cho đến nay có một bản dịch tiếng Tây ban nha: Interpretacion
y Analisis de la Obra literaria 1954).
[131] Der neuen Begriffe der
'Literaturwissenschaft':
1/ das Kunstwerk enthält einen eigenen 'Sinn', einen 'Gehalt';
2/ das Werk ist 'Ausdruck' eines Schöpfers;
3/ der Dichter ist das Urbild des schöpferischen Geistes;
4/neben dem Dichter erkannte das 18. Jahrhundert auch in dem 'Zeitgeist' und dem 'Volksgeist' schöpferische Einheiten;
5/ das Dichtwerk ist ein 'historisches' Dokument. In Verbindung mit der neuen Auffassung von der Geschichte, die das 18. Jahrhundert entwikkelte, ergab sich als Forderung, zum vollen Verständnis eines Werkes seine geschichtlichen Voraussetzungen mit einzubeziehen. Sdt.
1/ das Kunstwerk enthält einen eigenen 'Sinn', einen 'Gehalt';
2/ das Werk ist 'Ausdruck' eines Schöpfers;
3/ der Dichter ist das Urbild des schöpferischen Geistes;
4/neben dem Dichter erkannte das 18. Jahrhundert auch in dem 'Zeitgeist' und dem 'Volksgeist' schöpferische Einheiten;
5/ das Dichtwerk ist ein 'historisches' Dokument. In Verbindung mit der neuen Auffassung von der Geschichte, die das 18. Jahrhundert entwikkelte, ergab sich als Forderung, zum vollen Verständnis eines Werkes seine geschichtlichen Voraussetzungen mit einzubeziehen. Sdt.
[132] Kỳ cục: hình
thành trong hội họa và văn chương 1957.
[133] Xem: Hành trạng của
tri tưởng/về một nền văn hóa truyền hình (in trong Tẩu khúc văn
chương/triết lý 2004 - ĐPQ)
[134] Người ta biết gì về
cấu trúc luận? In trong Le XX? siècle, Histoire de la
Philosophie VIII, F. Châtelet phụ trách biên tập.
[135] Qu'est-ce que le
structuralisme? F. Wahl chủ biên.
[136] Roman Jakobson
đã xác định trong Novejšaja russkaja poèzija 1921: chủ đề của
nghiên cứu văn học không là văn chương trong toàn bộ của nó, mà là tính văn
chương.
[137] 'comme nom de tout ce
qui a trait à la création ou à la composition d'ouvrages dont le langage est à
la fois la substance et le moyen' De l'enseignement de la Poétique au
Collège de France.
[138] La conscience de
système, le souci de pousser l'analyse jusqu'aux unites élémentaires, le choix
explicite des procédures.
[139] Le livre, expansion
totale de la lettre.
[140] Phê bình và Sự thật 1966 nguyên ủy từ việc Raymond Picard , tác giả tác phẩm nghiên cứu La Carrière de Jean Racine 1956, dạy văn chương Pháp tại đại học Sorbonne viết Nouvelle Critique ou Nouvelle Imposture 1965 nhằm phê phán Barthes, tác giả Sur Racine 1960, 1963 và trào lưu phê bình mới, như: 'phần lớn những công trình phê bình này được chú ý vì ý hướng của những tác giả là cầu tới những phương pháp mới:phân tâm học hay tâm lý-phê bình, phân tích Mác-xít, phân tích cấu trúc, miêu tả hiện sinh hay hiện tượng luận v.v..', 'một trong những đặc tính của phê bình mới này là khó phê phán nó, vì nó tự nguyện hoạt động trong cái không thể chứng thực', 'cung cách phê bình của Barthes khởi từ hai thái độ dễ nhận ra, nhưng dường như không thể hợp với nhau,đó là thái độ ấn tượng và thái độ giáo điều..Barthes đã chế ra một chủ nghĩa ấn tượng ý thức hệ mà bản chất là giáo điều'.
[140] Phê bình và Sự thật 1966 nguyên ủy từ việc Raymond Picard , tác giả tác phẩm nghiên cứu La Carrière de Jean Racine 1956, dạy văn chương Pháp tại đại học Sorbonne viết Nouvelle Critique ou Nouvelle Imposture 1965 nhằm phê phán Barthes, tác giả Sur Racine 1960, 1963 và trào lưu phê bình mới, như: 'phần lớn những công trình phê bình này được chú ý vì ý hướng của những tác giả là cầu tới những phương pháp mới:phân tâm học hay tâm lý-phê bình, phân tích Mác-xít, phân tích cấu trúc, miêu tả hiện sinh hay hiện tượng luận v.v..', 'một trong những đặc tính của phê bình mới này là khó phê phán nó, vì nó tự nguyện hoạt động trong cái không thể chứng thực', 'cung cách phê bình của Barthes khởi từ hai thái độ dễ nhận ra, nhưng dường như không thể hợp với nhau,đó là thái độ ấn tượng và thái độ giáo điều..Barthes đã chế ra một chủ nghĩa ấn tượng ý thức hệ mà bản chất là giáo điều'.
[141] La mort de
l'auteur in trong Manteia V, 1968 (in lại trongLe
bruissement de la langue, 1984 ).
[142] 'dès qu'un fait est
raconté, à des fins intransitives, et non plus pour agir directement sur le
réel, c'est-à-dire finalement hors de toute fonction autre que l'exercice même
du symbole, ce décrochage se produit, la voix perd son origine, l'auteur entre
dans sa proper mort, l'écriture commence'. Sdt.
[143] C'est le langage qui
parle, ce n'est pas l'auteur. Sdt
[144] Cuộc tranh biện
Barthes/Picard không ngoài vấn đề này; ở một chỗ khác, Barthes xếp Picard vào
những nhà nghiên cứu theo loại 'tiểu sử' về Racine. Cho nên tác giả vẫn còn thống
trị trong những sách giáo khoa văn học sử, tiểu sử nhà văn, hình ảnh của văn
chương trong văn hóa thông thường trụ vào tác giả, con người, lịch sử, sở
thích, đam mê của ông ta.
[145] 'Placée au cœur de la
problématique littéraire, qui ne commence qu'avec elle, l'écriture est donc
essentiellement la morale de la forme, c'est le choix de l'aire sociale au sein
de laquelle l'écrivain decide de situer la Nature de son langage'. Le
degré zéro de l'écriture/ Độ không của văn tự.
[146] Introduction à
l'analyse structural des récits, trongCommunications 1966 (in lại trong hợp
tuyển Poétique du récit 1977, với R. Barthes, W. Kayser, W. Booth, Ph.
Hamon).
[147] Xem: L'activité
structuraliste (trong Essais critiques 1964).
[148] Trong Dẫn nhập
vào tác phẩm Le degré zéro de l'écriture, Barthes nhận xét thế kỷ 19 đã thấy
hiện tượng hý kịch của biểu hiện cụ thể (văn tự là một diễn tập thuần hóa hay cự
lực đối diện vớI Hình thái-Đối tượng mà nhà văn bắt gặp trên con đường viết của
ông; Hình thái treo lửng trước cái nhìn như một đối tượng/khách thể), nơi
Chateaubriand mới chỉ là một loại tự luyến/narcissisme của văn tự phân ly khỏi
chức năng công cụ để tự ngắm mình, Flaubert tạo văn chượng thành đối tượng,
hình thái trở thành từ ngữ của một 'tác tạo' (như thể đồ sành, đồ kim hoàn),
Mallarmé tấn phong cho sự cấu tạo Văn chương-Khách thể (nỗ lực hủy triệt ngôn
ngữ, Văn chương hóa ra thây ma).
[149] 'ce rêve orphéen' như
ngôn ngữ của Mallarmé, Barthes giải thích, giống như Orphée chỉ có thể cứu được
cái gì chàng yêu qua việc từ bỏ và cũng là quay trở lại; đó là Văn chương dẫn về
những khung cửa của miền Đất Hứa, những khung cửa của một thế giới không văn
chương mà những nhà văn mang theo ấn chứng. Barthes ghi nhận giả thuyết về một
Mallarmé kẻ giết ngôn ngữ mượn từ Blanchot .
[150] Những nhà văn Pháp này
tiêu biểu những xu hướng khác nhau vào lúc Barthes viết 'Văn tự của Tiểu
thuyết' trong Le degré zéro de l'écriture. Một số bài viết trong
sách này đăng trên tạp chí Combat (gắn liền vớI tên tuổi Albert
Camus), Barthes nói đến Maurice Blanchot trong hai cuộc mạn đàm: một với
Raymond Bellour trong 'Sur Le système de la mode et l'analyse
structural des récits' năm 1967 nhận xét Blanchot thuộc vào 'cái không thể so
sánh, không thể bắt chước, và không thể thích dụng/l'inégalable, l'inimitable
et l'inapplicable), một trên Tạp chí Tel Quel năm 1963 trả lời Le degré
zéro de l'écriture với nhà xuất bản Éditions du Seuil, sau khi Gallimard từ
chối) có thể như trong những người tiền phong làm mới tiểu thuyết những câu hỏi
của nhóm chủ biên, nhận xét tác phẩm của Blanchot viết phê bình hay 'tiểu thuyết'
biểu hiện một lối sử thi của ý nghĩa , có thể nói sử thi nguyên tổ, bởi
vì đó là của người đầu tiên trước khi có ý nghĩa); Jean Cayrol (cùng với Albert
Béguin là những người giới thiệu, theo Barthes trong bài viết đề cập nhóm
Nouveau Roman nhan đề Il n'y a pas d'école Robbe-Grillet (trên Arguments
1958, in lại trong Essais critiques 1964 ), nhận xét tại sao lại
không kể Cayrol trong trào lưu này, vì kỹ thuật tiểu thuyết của ông thường rất
phóng đạt/hardie.
[151] 'il perd
volontairement tout recours à l'élégance ou à l'ornementation, car ces deux
dimensions introduiraient à nouveau dans l'écriture, le Temps, c'est-à-dire une
puissance dérivante, porteuse d'Histoire.' L'écriture et le silence trong Le
degré zéro de l'écriture.
[152] Nguyên văn: La mode et
la littérature signifient fortement, subtilement, avec tous les détours d'un
art extrême, mais, si l'on veut, ells signifient 'rien', leur être est dans la
signification, non dans leurs signifiés. La littérature, aujourd'hui trong Essais
critiques
[153] Hầu hết những sách của
Blanchot do Gallimard xuất bản, trong khi của Barthes hầu hết ở Editions du
Seuil. Blanchot viết tiểu thuyết, truyện kể, ưa viết phân đoạn như Nietzsche.
Tư tưởng về cái trung tính, sự vắng mặt tác giả gần vớI Barthes. Quan niệm
về khoa học văn chương của họ đánh dấu phát triển trong thập niên 50s và 60s ở
thế kỷ XX.
[154] Christophe Bident: Maurice
Blanchot, Partenaire invisible 1998. Bident ghi nhận nếu không kể hai bài
viết của Bataille về truyện kể và bài viết của Levinas về tư tưởng phê bình,
không nhà văn hay nhà triết học quan trọng nào trong những năm 50s này viết về
Blanchot. Bataille và Levinas là hai người bạn thân nhất của Blanchot.
(Trích trong ĐƯỜNG VÀO VĂN
CHƯƠNG xuất bản vào tháng 8 năm 2012).
Những chú thích giữ nguyên đánh số như trong sách. TG.
Những chú thích giữ nguyên đánh số như trong sách. TG.
Đặng Phùng Quân
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét