Lắng nghe Thu về hát giữa
cõi nhân gian …
*Kính dâng những người mang
chiếc áo cô đơn
đem Tuổi trẻ, Lý tưởng & Tình yêu dấn thân vào đời…
Thu mang những lớp phù vân
vương tràn tia nắng, gọi lời
trùng khơi
ồ kìa hạt bụi tuôn rơi
hình như đời vội quên chăng
lối về
đường xa ngàn lối rong chơi
cỏ xanh mờ khuất đỉnh đồi
tinh sương
vạn lời gọi gió vàng hương
nhân gian mở ngỏ, đón thu trở
về..
Mưa thật nhiều suốt đêm qua,
những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ
cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc, mang âm thanh rì
rào giữa đêm khuya, vọng vang đến những tấm lòng muốn vươn cao lên trên cuộc sống,
phiêu lãng, vô thường. Anh đó ư? em đó sao? Chúng ta là ai trên cõi đời hay chỉ
là những thân phận nhân sinh mỏng manh đi hoang trên hành tinh, vất vưởng tìm lại
mảnh tâm, những tiền kiếp gợi hình, đổi dạng. Bản nhạc mưa hoà tấu cùng cơn lạnh,
hình như làm thấm thiá đến tận cùng cõi lòng hoang vắng, khiến trời cũng đổi
tánh, mang hơi lạnh buông toả ra, làm cho nghĩ đến những phận người bấp bênh
trước đời sống, lầm than đi dưới cơn mưa tầm tã vì cuộc mưu sinh, chợt nghe tim
mình thót lại, day dứt, xót xa khôn nguôi.
Có mùa mưa hối hả lúc đêm
qua
Cùng cơn lạnh, vô tình bày
cuộc tiệc
đời chơi vơi, từng chân bước
đơn côi
trong hoang vắng, dấu chân
vang lời hát
kìa em bé, nhìn mưa, lời tha
thiết
phận con người, sao ướt lạnh
xót xa
trái tim em mong giở cõi ngục
buồn
xin rải xuống hoa từ bi ấm đẹp…
Cuộc phù sinh với những cơn
huyễn mộng, nhưng là đời người mà, nên tự bản chất là phải có khổ đau, có hạnh
phúc, có vui có buồn, có ưu tư, có nông nổi…thể hiện cho kiếp nhân sinh trên bước
đường sinh tử. Người từ thưở ra đi, vào cơn gió bụi, bụi của mưa, của gió hay
là dòng nước mắt buông rơi. Không phải là chúng ta từng đi đếm những giọt nước
mắt khổ đau của đại dương, được nhân lên qua vô lượng kiếp, để tìm lối về trong
cơn mộng của thân năm uẩn. Hãy hát vang lên khúc hát ngàn xưa, nối lại tâm tình
đứt khoảng khi mộng mị bủa vây, để thắp sáng ngọn đèn của chân tâm, nhìn rõ thực
tại, thấy lại nụ cười hiền hoà của đức Phật vẫn hằng có mặt trong tự tâm.
Người con Phật trước bao
nhiêu sóng gió của cuộc đời, vẫn là người biết hát ca, hát rong vang lên trên
đường đời, để nghe rõ tiếng của nhẫn nhục, tiếng từ tâm … luôn thôi thúc, sống
vững vàng trong tâm, để bước chân đời không vấp ngả. Tiếng hát đó có thể là âm
thanh bảng lảng, thể hiện tâm tư, vút cao lên hoặc có thể là tiếng hát toả dịu
ra trên đôi mắt, nhìn, quán chiếu vào nội dung của Phật chất hay là sự im lặng
tịnh thanh.
Buổi sáng nay, sau thời Thiền
toạ, hình như Thu đang có mặt, đâu đây. Tiếng chân Thu long lanh kỳ diệu, có
hương thơm của lá vàng, ngọt ngào của sự chuyển mình, biến hoá và lắng nghe lại
tâm mình, cảm nhận những bâng khuâng, trăn trở vẫn còn dày đặc. Những bước chân
hoang trên cuộc trần thế, mở ra những con đường đi bất động trước những vô
tình, hoang vắng. Những ưu tư về cuộc đời là giây phút kéo lại cái tâm muôn
trùng nổi sóng. Lặng yên để chuyển động và từng cơn sóng vỗ, để rồi tịnh lặng,
sinh diệt, vãng lai. Đi tìm cảm thọ qua những phóng ảnh của mình, tìm hình bóng
của những vọng tưởng rã rời, tìm những phù du trong cuộc đời hiu quạnh
Ta về ru lại nhân gian
Nghe thu giũ vỡ, vẫn hoài giấc
mơ
Lá vàng vừa chớm nụ thơ
lời thưa sắc giới, còn mang
cuộc đời
bên kia đỉnh núi trăng lơ
em mang hạt bụi trên tầng mộng
say
ngồi ôm viễn mộng mây bay
âm thanh vô tự đón mời chân
tâm..
Tiếng khóc chào đời để tỏ lộ một hữu tình có mặt, một mối tình thủy chung, với
những nghiệp lực vương mang từ quá khứ đem về hiện tại, để tạo thành nhân dáng,
tánh tình, suy tư, cuộc sống. Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật dạy rằng: “Muốn biết
kiếp quá khứ ra sao, hãy nhìn đời sống hiện tại. Cũng như muốn biết đời sống
tương lai, cũng nhìn vào những gì làm của hiện tại” (Dục tri tiền thế nhân, kim
sinh thọ giả thị. Dục tri lai sinh quả, kim sinh tác giả thị).
Và mỗi người khi lớn lên, có sự suy tư về thân phận con người, đều mong muốn đi
tìm đáp án cho cuộc đời, trước biết bao nhiêu là ẩn số, biến dịch…Ai là không
mong ước được hạnh phúc, giàu sang phú quí, sức khoẻ sung mãn …nhưng rồi, khi
nghiệp lực có mặt như cơn gió- có thể là gió thoảng, có thể là cuồng phong vũ
bão, đã làm cho cuộc đời có nhiều biến chuyển, để cho người lãng tử đứng lặng
mình trước cuộc phù du và hỏi rằng: cuộc đời là gì?
Vào những năm đó … Đất nước tôi đang có chiến tranh. Không khí chết chóc lẫn
thanh bình chen chân có mặt, giành giựt nhau, nhưng mọi người ai nấy đều cần phải
sống. Khi trong mùa thi cuối năm, tôi thường đến một ngôi Chùa lớn tại giữa
trung tâm Saigon, tìm chỗ thanh vắng để ôn bài thi. Mặc dù là nằm gần nơi đại lộ,
thị tứ, xe cộ tấp nập, tiếng xe tiếng còi thường réo vang, nhưng bên trong
khuôn viên ngôi Chùa nầy, cảnh trí lại thanh tịnh, im lắng.
Hai bên hông của ngôi Chùa, được tạo cảnh rất là đẹp, theo hình dáng cây cảnh
bonsai của Nhật bản. Không gian yên tỉnh, có bụi trúc vàng, có nước chảy róc
rách, có hồ nước trong vắt, có những con cá vàng lượn lờ dưới nước. Những cánh
chim xoè cánh, bay sát mặt nước, rồi bay lên đậu trên cành trúc, cất tiếng hót,
hoà ca, khua động không gian. Ôi, cảnh đẹp và thanh bình quá.
Cành trúc lá vàng
Đong đưa trước gió
Khi tâm bỏ ngỏ
giọt nước nhỏ to
em từ cơn gió
bay ngược dòng đời
hỏi nhau lối nhỏ
đỏ mắt đi tìm
bờ tâm quên ngỏ
bỏ ở chốn nao
dưới chân em, gõ
con nước bóc vỏ
vỡ hạt sen nhỏ
Có những ngày, ngồi ôn bài thi từ sáng đến chiều, để bên cạnh chỗi ngồi là ổ
bánh mì, bình nước uống. Tôi đã có những ngày đẹp tại nơi chốn nầy, vì mỗi ngày
khi trở về nhà trọ, hình như đều mang theo mình một cái gì đó nên thơ, ấm áp,
khó diễn tả. Tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng mộc bảng, tiếng chuông đại hồng, lời
kinh sáng chiều … có mặt trong tâm tôi, thật là gần gũi, thân thương.
Cũng ở nơi đây, tôi đã gặp vị Thầy trẻ học cùng trường và đã bị vô thường đem
đi khi tuổi còn rất trẻ, với lý tưởng vẫn còn mang nặng trên đôi vai. Trong bài
viết « chiếc áo cô đơn » ghi lại năm nào, tôi đã quì xuống trước di ảnh
của Người và đã khóc.
Cũng ở nơi đây, sau nhiều ngày đến tìm chỗ yên tịnh để ôn bài, học thi, tôi lại
được duyên lớn là quen biết vị Tôn Túc lớn của Phật giáo- Thầy Thích Thanh Kiểm.
Có lẽ, vì chỗ tôi hay ngồn ôn bài thi, lại gần Thất và Văn phòng của Thầy và
ngày nào cũng thấy người học trò nầy đến, nên chắc có cảm tình. Biết Thầy có dạy
«Cắm hoa Nhật bản» tại phòng lớp học được mở sau lưng Vãng Sinh Đường,
tôi cũng có tham dự học, biết chút chút, nhưng lại không giỏi gì. Những lúc ngồi
chán, đứng dậy, cầm quyển sách trên tay, đi tới lui để giản gân cốt, vừa đi vừa
lẩm nhẩm đọc bài…gặp Thầy, tôi chắp tay xá và đón nhận nụ cười Từ bi của Thầy.
- Con ráng học và phải
thi đậu nha. Nước mình chưa có thanh bình, chiến tranh vẫn còn. Rớt thì phải đi
lính…
Thầy bỏ lửng câu nói, như một
lời nhắn nhủ, khuyến khích, chia sẻ và như một cái gì chứa đầy ắp tình thương,
nhưng đượm màu chua xót..
- Dạ, con cám ơn Thầy ...
Những lúc thấy tôi không có cắm cúi học, mà đi lòng vòng. Thầy gọi lại và kể
vài câu chuyện về Phật Pháp, có ý nghĩa tâm linh rất hay, để chỉ dạy và cũng
không hỏi là tôi theo tôn giáo nào.
Một hôm, tôi xin gặp Thầy và trình lên Thầy một bài viết trong quyển tập học
sinh. Bài Tiểu luận dài mấy chục trang...nhờ Thầy đọc và cho ý kiến. Thầy ngạc
nhiên, nhìn tôi và mở trang đầu ra đọc: “Mật nghĩa Kinh Di Đà”.
- Mật nghĩa Kinh Di Đà. Ủa,
bài nầy ai viết. Con viết à? Như vậy, gia đình con là Phật tử?
Mà làm sao, con lại viết được một đề tài lớn như vậy, trong lúc mỗi ngày, Thầy
đều thấy con đến đây để ôn luyện bài thi mà?
- Dạ! Thầy hỏi nhiều
làm con hồi hộp và run quá Thầy à. Những trang giấy nầy được con nghiên cứu và
viết vào lúc đêm về, khi chỉ còn lại một mình, yên lặng. Cảnh chùa, hình dáng của
Thầy, lời Kinh mà con lắng nghe được khi đến đây, như một động lực nào đó, kéo
con gần với đạo Phật và con viết…Không biết có đúng với tư tưởng của đạo Phật
hay không?
Hai Thầy trò đều im lặng, nhưng tôi biết chắc là Thầy rất ngạc nhiên về tôi, mà
chính tôi, tôi cũng ngạc nhiên về chính mình, là làm sao tôi lại vượt qua đoạn
đường dài như vậy?
Vài ngày sau, Thầy trả lại tôi quyển tập, và đưa ra lời nhận xét rằng:
- Con viết rất hay, đúng lắm
khi đưa ra những nhận thức về Phật giáo, nhưng chỉ thiếu dẫn chứng từ Kinh
sách. Một bài viết có giá trị nghiên cứu, cần phải có sự dẫn chứng, rõ ràng,
tương ứng, để chứng tỏ đó là những luận giãi từ Kinh.. Mà sao con lại thích thú
với Mật nghĩa của Kinh Di Đà? Có thời gian, con cũng nên nghiên cứu thêm
với tinh thần của tuổi trẻ. Phật giáo cần được dấn thân, đem vào đời với sự sống,
vì đạo Phật là đạo sống, hoàn thiện con người mình và người. Cõi Tịnh độ cũng
còn có nghĩa là thiết lập nơi trần gian nầy..
Cõi Tịnh độ còn có nghĩa là được thiết lập ở cõi Ta bà. Lời của Thầy như một
công án đối với tôi, người mới tập tễnh bước vào đạo. Nhiều khi, trong đời sống
có quá nhiều khổ đau, bất hạnh…mà con người phải gánh chịu, khiến dễ nhàm chán
đời sống, và mong mỏi được đi về nơi chốn nào đó, nơi không có khổ đau, không
có nước mắt buồn rơi, chỉ thuần là an lạc, hạnh phúc.
Người ta chỉ nhìn thấy mùa Thu thật đẹp, có lá vàng, vàng lợt, vàng sậm. Có lá
vẫn còn bám trên thân cây, có lá rơi tả tơi nằm trên đất, lay động theo từng
cơn gió. Lá của sắc màu, lá của chuyên chở, của tâm tình, của lúc ngồi lặng
yên, cất lên lời hát, của lúc thổn thức đau thương, vui buồn, của những trường
giang sóng gió, của đất trời chấn động, của cơn giông bão, của hạt mưa rơi, của
nóng giận tử sinh, của từng mùa réo rắc v.v.. đã và đang ẩn chứa trong Thu, để
Thu thực hiện hạnh kham nhẫn, đem cho đời những hình ảnh thật là đẹp.
Thu đẹp quá, mảnh mai vàng mỏng
như người con gái lúc đợi chờ, như cánh chim bay lượn trên chiếc cầu ảo vọng,
có mây trời trôi, có bước chân trên cõi đời, thầm khẽ, rung động, nhặt lên những
màu mỡ của ước mơ ..
Có phải tà áo em bay trong
gió
chở hương thơm ngây ngất buổi
trời mây
hay nước mắt ngỡ ngàng trên
vai nặng
mỗi lá rơi, vàng sậm cả cõi
lòng ..
Và người ta ca tụng, làm thơ
văn, chiêm ngưỡng, tán thán. Mùa Thu là mùa đẹp nhất trong các mùa, trong trời
đất, nhưng, những ai đang tâng bốc Thu trên cao của cõi đời, có bao giờ biết được
nổi lòng hy hiến của Thu, để cho chúng ta được thưởng thức các sắc màu tuyệt diệu.
Chúng ta đang là Xuân mà, sao lại bỏ ra đi, để về nơi bão lửa, sa mạc với cơn
nóng cháy của mùa Hè, bỏng da cháy thịt, để quay quắt trong mình những rã rời,
hoang vắng. Ánh mắt Thu đượm buồn như nổi sầu của thế kỷ, của vô tận, đi
vào đời, để rồi chìm mình trong cơn lạnh giá của Động. Thu là đoạn đường đã qua
với nhiều bi hài kịch, Thu cũng là bước đi nối tiếp với nhiều hy hiến, dâng tặng.
Tại sao không ai nhìn thấy Thu trong giây phút hiện tại, nhìn vào chiều sâu vô
tận của đáy tâm, có sự nhẫn nhục, để chia sẻ cùng Thu.
Nhận thức cuộc đời là Khổ,
người con Phật vẫn đi vào đời với những tư lương hạn hữu, để đối diện với cuộc
đời, mong tìm sự chuyển hoá khổ đau, bất hạnh. Nước mắt có tuôn rơi, khổ đau có
mặt, nhìn lại tâm mình, quán chiếu và nhận được chất liệu trưởng thành, lớn mạnh,
vững vàng, an tịnh, giải thoát có trong các khổ đau.
Những người mang chiếc áo cô
đơn, chiếc áo hoại sắc như tấm lòng của sắc màu của Thu, đối với cuộc đời, với
nội tâm là một chiến trường kỳ diệu, vinh hiễn « chiến thắng vạn
quân, không bằng tự chiến thắng mình ». Chiếc áo đó là cả một tấm lòng cao
rộng, an nhiên, thư thái, chịu đựng, thử thách, bỏ rơi những hạn hẹp thường
tình, để mở rộng cõi lòng với Tuổi trẻ trong sáng, với Lý tưởng cao vời vợi và
với Tình yêu tràn ngập, bởi Từ bi và Tuệ giác có mặt.
Có lúc nào chúng ta lắng
nghe lại tiếng của Lăng Nghiêm trong một buổi khuya lắng đọng, nghe lại lời của
Ngài A-nan trước đức Phật sau cuộc bể dâu của tâm…
« Con nguyện chứng
thành đạo quả, hoá độ chúng sinh, để báo ân Phật. Xin Ngài chứng minh cho con.
Trong đời ác năm trược, con xin nguyện dấn thân vào trước, nếu như còn một
chúng sinh nào chưa thành Phật, thì mãi mãi trọn kiếp con cũng không vào cảnh
giới Niết Bàn»
(Nguyện kim đắc quả thành Bảo
vương, hoàn độ như thị hằng sa chúng, tương thử thân tâm phụng trần sái, thị tắc
danh vi Phật báo ân. Phục thỉnh Thế tôn vị chứng minh, ngũ trược ác thế thệ
tiên nhập, như nhất chúng sinh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ nê hoàn…).
Lời kinh đó như là bài thơ
tuyệt đẹp, đánh động và rung chuyển tâm thức của con người, để rồi dám hy sinh
tất cả cho lý tưởng, vào đời, tạo thành một đạo Phật dấn thân, thiết lập cõi Tịnh
độ trên cõi nhân sinh.
Người mang chiếc áo cô đơn
đó, là người nhận thức được Tánh Phật có mặt trong tâm, và thiết lập sự giao
thông giữa tâm và tâm, thể nhập để nhập thế, nhập thế để thể nhập, tương tức
tương nhập, để làm hiễn lộ Từ bi và Tuệ giác, bộ mặt thật của muôn đời. Người
đó trở thành khiêm cung như mùa Thu, nói với tâm mình với Tam đề: «Nguyện
không làm điều ác. nguyện làm tất cả việc thiện. Nguyện cứu độ tất cả chúng
sinh » ( Nguyện độ nhất thiết ác, nguyện tu nhất thiết thiện, nguyện độ nhất
thiết chúng sinh ) và Năm quán với tương quan giữa người và người, vạn vật:
«Công ơn Phật, Thầy Tổ, cha mẹ, mọi người trong xã hội … để có vật thực nầy.
Xét lại phẩm hạnh để thọ dụng phẩm vật. Tránh không để tâm tham đắm, mà chỉ xem
đây là lương dược để có sức khoẻ, thực hiện lý tưởng thành đạo» (Nhất
- kể công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ. Nhị tổn kỳ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng.
Tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tâm. Tứ chánh sự lương dược, vị liệu hình
khô. Ngũ vi thành đạo cố, đương thọ thử thực).
Thu đã tràn về trên chiếc
áo, tung bay trong gió ngược chiều, trước những cơn gió của thành bại, vinh nhục,
được thu, hơn kém … để tô đậm thêm màu áo của sở nguyện vì đời, thiết lập tương
giao, để thực hiện cõi Tịnh với Phàm Thánh đồng cư, để báo đáp bốn ân.
Trong Kinh có
nói: «Đức Phật thường dạy rằng: Tất cả Pháp đều do nhân
duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt» (Chư pháp tùng duyên sanh, diệc
tùng nhân-duyên diệt, Ngã- Phật Ðại Sa-Môn, thường tác như thị thuyết) để
nói lên sự tương duyên tương sinh giữa vạn hữu, và cũng nói đến tâm nguyện của
người nầy vì người kia và ngược lại, trên bước đường sống của đạo Phật, vì con
người và vũ trụ, đều liên hệ lẫn nhau, trong sự thể nhập vào Phật Tri Kiến.
Trong một bài viết năm 2000,
nhân khi đọc Kinh Pháp Hoa, tôi chợt có những cảm xúc và đã ghi lại:
«Trên cao, ánh trăng mười sáu mủm mỉm cười rực rỡ. Mảnh trăng đã chín
vàng, trưởng thành sau một đêm rằm ngời sáng, nên tròn trịa như tâm địa giác ngộ.
Gặp tuổi thơ, một thoáng đời của quá khứ vô hình lại là hiện tại. Quá khứ là hiện
tại và tương lai cũng bồng bột trong hiện tại. Phải có tâm “trống không” mới cảm
nhận được bước chân tung tăng của trẻ thơ trên cánh đồng cỏ non, mới đủ vững mạnh
để đôi tay ôm ấp cả hư không. Phải thực hành miên mật, phải có niềm tin chắc chắn
rằng “tất cả mọi người đều có Phật tánh” và mình sẽ là vị Phật tương lai, hằng
sống hoài với Tri Kiến Phật thì mới hiểu thấu được thọ lượng hay Pháp thân Thường
trụ của Đức Phật theo “Khai tích hiển bổn”, và trực nhận ra sự chuyển mình kỳ
diệu của Long nữ trong phẩm thứ 12 , Đề-bà-đạt-đa của kinh Pháp hoa.
LONG NỮ
Hỡi em! khi gió tràn về
con trăng mười sáu rạng ngời
trên cao
tuổi thơ nào chỉ hôm nầy
tung tăng chạy nhảy, cánh đồng
cỏ non
Trăng đùa ngọn lúa nội đồng
gió đưa hương thoảng phương
trời đồi xanh
đôi tay ôm ấp hư không
tóc mây tung xõa, nụ cười
thiên thu
Đôi tay em khéo vun đầy
hiện thân nam tử hiễn bày
tánh không
chơn như nào chút vướng trần
chuyển từ Long nữ, Trượng
phu tướng đầy
Bước chân sen nở nhiệm mầu
mười phương hoa trổ trải dày
thảm “ không”
đàn thiên trổ khúc hoan ca
hóa thân lượng kiếp, lúc nầy
nào hai.
1.05.2000
Cuộc sống hiện nay có muôn vàn sự đau khổ, đổi thay, diễn dịch không ngừng, có
mặt khắp mọi nơi nơi. Lò lửa của tham sân si luôn luôn chực cháy bất cứ lúc
nào. Lời nguyện xưa của người dấn thân vào đời, mong chuyển hoá, làm đẹp cho cuộc
đời, vẫn còn nồng cháy mãi. Hoá thân vô lương kiếp, kiếp nầy nào hai, trên thảm
cỏ “không tánh”. Trong mỗi con người chúng ta, dù với bất cứ hình dạng nào, thì
Tánh Phật vẫn tròn đầy, chỉ cần “ quay đầu hồi ngạn”, bến bờ có đó.
Mùa Thu đã mang áo nhẫn nhực,
điềm nhiên, tự tại và thiền định trong sư chuyển hoá để cho đời những hình ảnh
sẻ chia thật đẹp. Giá trị đích thực của cuộc chuyển mình, đặt nặng trên mình
Thu, như đặt gánh nặng trên vai của Tuổi trẻ, Lý tưởng và Tình yêu, vì cuộc đời.
Đau khổ làm chúng ta trưởng thành, có giông bão làm chúng ta gần gủi nhau, để
chia sẻ tình thương và hạnh phúc, bất hạnh tạo thành tiếng nói chung để bảo vệ
môi trường, môi sinh, sinh mệnh con người. Tất cả mọi triết thuyết đều không có
giá trị bằng sinh mệnh con người, và tất cả muôn loài đều có mặt trên vai người
mang chiếc áo cô đơn, trong cái tâm mở rộng, trọng bốn ân, tri ân và báo đáp….
và nguyện lớn được nuôi dưỡng, thao thức ..
Bàn tay đó trở thành Thiên
thủ
hạnh Viên thông chuyển hoá
mê tâm
tai lắng nghe giúp đời qua bể
khổ
đôi mắt tỏ đưa người về nẻo
sáng..
Chúng ta từng đi đây đó để tham vấn Phật Pháp và tu học. Chúng ta cũng từng được
trao tay cho đèn tuệ đang thắp sáng, có an lạc, có hạnh phúc, có từ bi …nhưng,
cõi Tịnh độ được thiết lập, không phải là nơi chốn nào đó, mà trong tâm mỗi người,
và cần được đem về nhà để thắp sáng, san sẻ cho những người chung quanh. Không
có bất kỳ vị Thầy nào muốn cho người hành giả chỉ thắp sáng ngọn đèn Tuệ chỉ ở
nơi chốn tu học, mà cần phải thắp sáng mãi và ở mọi nơi chốn, vì đạo Phật là đạo
sống, sống trực tâm, sống thực như lời đức Phật dạy. Nếu quên điều nầy, bám víu
vào địa dư, không gian, hoàn cảnh v.v.., mà khi trở về với tâm, về với người
thân, gia đình, mà ngọn đèn tuệ bị tắt ngủm trên đường, thì sự đau khổ và bất hạnh,
bất an vẫn luôn còn mãi trong ta và ảnh hưởng đến người chung quanh, dù là
chúng ta có mang tâm nguyện chia sẻ. Gia tài không có, ta không thể chia sẻ,
đùm bọc được cho bất cứ ai, để cùng chung hưởng.
Chúng ta thường than thân trách phận, nghiệp lực nặng nề, nên đời sống quá nhiều
khổ cực, lo toan, nhiều khi mất ăn mất ngủ…như tôi vẫn thường có, để rồi kêu
gào lên “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về …”,
trong khi thực sự là chúng ta không đi, không về, mà đứng một chỗ, không biến
hoá, chuyển tâm, nên ôm trong mình những khổ đau, bất an, không tự tại. Sự trở
về là lòng kham nhẫn, xả ly, sống hiện tại trên đôi chân trần, nắm tâm trong
chánh niệm và trong từng giây phút hiện tại, thì cõi bất an, vọng niệm sẽ không
có mặt, còn chăng là cõi đi về chân thật, ý nghĩa, sống thực, hoàn thiện chính
mình và người.
Nằm trong bối cảnh của mùa Lễ Tạ Ơn, sống động bởi sư khuyến khích mua sắm, tiệc
tùng v.v…Người con Phật chia sẻ với Mùa Lễ, vì trong mỗi người con Phật đều
hàng mang nặng bốn ân với cuộc đời. Nhưng sự tàn sát các sinh vật còn đó, lũ lụt
còn đây, thiên tai, nhân tai, động đất, chiến tranh vẫn còn rền vang mãi ở mọi
nơi và ngay chính trong tâm mọi người, với bao nhiêu là “điên đảo mộng tưởng”
gây thành thảm cảnh bi đát cho nhân loại. Xin thành kính cầu cho:
- Thiên nhiên được bảo vệ,
môi trường được xây dựng, rừng xanh được trồng lại, tạo thành không khí trong
lành cho vũ trụ.
- Lò lửa chiến tranh
được dập tắt, mọi hận thù đều không có mặt để cho nhân loại sống được an lành,
hạnh phúc.
- Bửa ăn trên bàn của mọi
ngưòi giảm thiểu sinh mạng của các loài sinh vật, để cho trái đất được ấm lại,
mọi loài đều thong dong.
- Cầu xin cho giáo Pháp của
đức Phật được lan truyền khắp mọi nơi chốn, và cùng chung các tôn giáo khác,
đem tình yêu thương thực sự để cứu giúp nhân loại qua cơn bỉ cực, và đem trí tuệ
để chỉ rõ đường mê, về nẻo chánh..thoát khỏi khổ đau.
Thưa bạn, là người học hạnh yếu kém, biết được chút ít về Phật Pháp so với rừng
giáo Pháp bao la. Tôi cũng đã từng đau khổ, bất hạnh và khóc. Có người hỏi là:
Anh mà cũng khóc nữa sao? Thưa vâng, tôi còn khóc nhiều hơn ai tưởng, nếu có hồ
chứa, sẽ đong đầy, lai láng như nước của biển hồ. Tôi cũng từng than thân,
trách phận, buồn phiền, mất ăn mất ngủ. Xin đừng hỏi tôi là anh mà cũng như vậy
ư?- Đúng, may mà không ngăn bờ đấp đê lại, nếu không cũng sẽ gây nên nhưng cơn
địa chấn, động đất.
Nhưng, nước mắt đã rửa sạch
đôi mắt để nhìn tỏ cuộc đời vô thường và nước mắt cũng tưới tẩm cho mảnh đất
tâm được mầu mỡ, tăng trưởng hạnh lành, khơi dậy Phật chất có mặt, dù là còn hạn
hẹp, ốm yếu. Những sự bất an làm cho bừng tỉnh qua suy niệm, quán chiếu, thiền
định để nhìn rõ mặt mũi khổ đau. Tuy nhiên, vì là ngưòi ít học, xin được ghi lại
những lời thô thiển tự đáy lòng, và trong tâm vẫn hoài mang lý tưởng làm được
gì đó cho cuộc đời, nhưng do vẫn còn nhiều khiếm khuyết, nên những dòng chữ ghi
lại, dù là có là gì hoặc không trung thực với chính con người mình, nhưng vẫn
như là một ước muốn, lòng mong mỏi, hy vọng của một con người muốn thực hiện.
Xin được mạn phép, kính chia sẻ cùng tất cả mọi người, nhân ngày Lễ Tạ Ơn (Happy Thanksgiving) - dù bạn có đồng ý hay không, với tấm lòng quí kính,
trân trọng và kính chúc tất cả mọi ngưòi tìm được Tánh Phật trong mình, để sống
đời sống An lạc & Hạnh phúc cho mình, cho gia đình và cho thiên nhiên…
Liên Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét