Vào hôm cột ranh giới giữa Hà Nội - Hà Đông được dỡ bỏ, tôi
có dịp đi qua và dừng lại, chợt nhớ đến bài thơ "Hà Đông" của Phạm
Đình Ân. Về nhà, tôi lục tìm đọc lại nó trong tập Những hoàng hôn ngẫu nhiên
(NXB Phụ nữ, 2001) và bâng khuâng suốt một buổi chiều…
Bài thơ được làm vào năm 1985, khi đất nước ta đang chuẩn bị
bước sang thời kỳ đổi mới. Ai cũng biết, từ năm 1985 trở về trước, đời sống của
nhân dân ta còn cơ cực lắm! Thơ tình của Phạm Đình Ân thường kín đáo lồng ghép
các vấn đề xã hội, hoặc cao hơn thế- nảy sinh từ chính vấn đề xã hội, và bài
thơ Hà Đông có thể nói là một điển hình... Chẳng ai có thể cãi rằng: đây không
phải là thơ tình! Mà thơ tình bao giờ chẳng có chút buồn, hơn nữa ở đây lại là
sự chia ly, xa cách. Có điều, nhà thơ đã diễn tả nỗi thất tình của mình thông
qua một địa chỉ là Hà Đông, có những địa danh cụ thể: Vạn Phúc, Đường số 6,
sông Đà, v.v... và gửi gắm một cái gì đó sâu xa hơn nỗi buồn của tình yêu… Những
câu thơ như lời tâm sự thường tình, không gọt rũa, không cố tình làm thơ mà cứ
thế dẫn người đọc vào cõi rung cảm chân thật, sâu lắng của nhà thơ:
Hà Đông vốn thuộc về Hà Nội/ nay thì không mà vẫn cứ Hà Đông
Xưa Hà Đông thuộc Hà Nội. Nay thì không. Em có thể thuộc về
anh, nay thì không, và mãi mãi không bao giờ anh có em nữa… Hà Nội cách Hà Đông
chỉ hơn chục cây số, cách nơi ở của “tôi” có thể chỉ vài chục phút xe đạp.
Nhưng “dăm cây số thoắt bước sang tỉnh khác” mất rồi! Em đã rất gần mà nay hóa xa xôi - cái xa xôi không còn chỉ là địa lý, không gian nữa… Và nhà thơ đã giải
thích ngay cái ý tưởng “vẫn cứ Hà Đông” một cách ý nhị:
Em ở lại thị xã này mãi mãi/ Những buổi chiều em đã có tôi
mong
Cái lý do bâng quơ nhưng “giăng lưới nhện” này chỉ có thể giải
thích bằng logich tình cảm, và chỉ thi sĩ mới có!
Sau đấy, nhà thơ diễn tả thêm sự gắn bó của mình với mảnh đất
của tình yêu bằng ba khổ thơ - cũng bằng cách nói giống lời nói thường, tưng tửng:
Dăm cây số thoắt bước sang tỉnh khác
đường mới làm, nắng gió thảnh thơi hơn
Tôi trót có những chiều vàng hư ảo
vui, trôi qua mắt của em buồn.
Phố lớn nhất nằm trên đường số Sáu
lên Xuân Mai, Hòa Bình, Mai Châu
Qua Hà Đông, xin đừng nhìn hờ hững
điện sông Đà hé sáng giữa gian lao.
Làng Vạn Phúc ở bên bờ sông Nhuệ
Sử sách từng ghi biết mấy mươi lần
Xưa lắm lụa mà đến nay lại hiếm
Những làng La tôi đã quá yêu thân.
Lúc đầu chúng ta hơi ngạc nhiên, vì sao thơ Phạm Đình Ân lại
có vẻ dễ dãi thế, anh dùng những từ ngữ, cách diễn đạt dường ít thơ - nếu không
muốn nói là khá mòn sáo. Nhưng, ngẫm ra mới hiểu, anh đang cố ghìm cảm xúc của
mình - đó chính là chỗ thể hiện bản lĩnh của một nhà thơ giàu kinh nghiệm, đã
làm theo lời khuyên của Viên Mai: ‘ý thâm, từ thiển” (ý sâu mà lời dung dị)
Tôi trót có những chiều vàng hư ảo/ vui, trôi qua đôi mắt của
em buồn.
Hai câu thơ trên tựa như sự lạc lõng của một chàng thi sĩ đa
đoan đa cảm giữa một không gian xô bồ ngổn ngang; và anh chợt ngậm ngùi nhận ra
tình yêu đơn phương của mình, niềm vui hò hẹn của mình chỉ là “những chiều
vàng hư ảo”. Chúng ta có cảm tưởng tác giả đã từng đọc thầm nhiều lần hai câu
thơ trên để thấm thía một nỗi buồn khôn tả! Điều đáng nói là: sự phát hiện đó
được nói ra bằng cách riêng của Phạm Đình Ân, khó lẫn được với ai (trót có;
vui, trôi qua đôi mắt của em buồn). Ta liên tưởng đến cái mỉm cuời buồn bã ẩn
giấu sự hóm hỉnh của anh trong một bài thơ tình khác: “Tôi cất đi những cái giật
mình…” (Những cái giật mình). Và chính hai câu thơ trên, vốn được dụng công chọn
lựa chữ nghĩa lại giống như một sự “xuất thần” - đã làm “xương sống” cho không
những ba đoạn thơ, mà còn cho cả bài thơ; nó khiến những điều giản dị mà nhà
thơ quan sát và kêu gọi trở nên rung động thấm thía: Xin đừng nhìn hờ hững, hé
sáng giữa gian lao, sử sách từng ghi, đã quá yêu thân…Những điều tưởng chừng là
sự “liệt kê” ấy, thực ra là niềm tiếc nuối không che giấu nổi của nhà thơ về vẻ
đẹp và sản vật của quê hương Đất Nước- chúng được “bảo hiểm” bằng mối tình vô vọng
nhưng đáng trân trọng, và chúng đã kín đáo nuôi cảm xúc cho độc giả, để đến đoạn
cuối, cảm xúc của nhà thơ ùa mạnh vào lòng người đọc một nỗi xót xa, nghẹn
ngào, thương nhớ, nuối tiếc thăm thẳm:
Hà Đông có thuộc về Hà Nội/ Hay là không thì vẫn cứ Hà Đông/
Phố thưa vắng, mà tìm người đâu dễ/ Nghìn buổi chiều tôi đến, phải về không.
Đến đây, nỗi buồn thất tình của riêng nhà thơ đã vô tình được
nâng lên trong nỗi nhớ của nhiều người về một vùng đất, một địa danh nổi tiếng… Nhà
thơ mới chỉ phác hoạ ra mấy nét đơn sơ về một vùng “địa linh nhân kiệt”, nhưng
đủ gợi lên trong lòng người đọc biết bao cảm xúc về xứ Đoài - một vùng châu thổ
sông Hồng cổ truyền, nơi tích tụ tinh hoa của ngàn đời dân tộc… Tình yêu không
đạt được mục đích, song những gì mà nhà thơ đã có trên mảnh đất này giống như một
sự “đối trọng” với nỗi buồn - sự thất tình, và vô tình điều đó đã vẽ ra cái tâm
hồn vững chãi, cái nhân cách đáng trọng của một thi sĩ - công dân. “ Nghìn buổi
chiều tôi đến phải về không”, nhưng Hà Đông “thì vẫn cứ Hà Đông”. Nỗi buồn dù lớn
đến đâu cũng chẳng khiến lương tri nhà thơ bị sứt mẻ mảy may. Cuộc đời vốn là
thế, cái gì riêng là của riêng ta, còn cuộc sống vẫn là cuộc sống, không thể
“giận cá chém thớt” - hơn thế nữa, cái riêng ấy đã hòa tan trong một niềm tự
hào, trong nhận thức về lẽ đời rộng lớn.
Tới khổ thơ cuối, đằng sau nỗi buồn và sự tiếc nuối khiến người
đọc cũng phải ngẩn ngơ xa xót cùng, nhà thơ đã cài” được một niềm tin, một lời
nhắn nhủ kín đáo: “tôi” và “chúng ta” có thể “về không” trong mối tình vô vọng,
nhưng không thể “về không” trong sự đánh mất bản sắc của Hà Đông - xứ
Đoài! Chính ở đây, trực cảm thi sĩ đã giúp Phạm Đình Ân vượt trước thời
gian hàng mấy chục năm, để từ nỗi niềm riêng, anh vô tình nói lên được một chân
lý đủ sức khái quát bao tri thức văn hóa, địa lý, lịch sử, cùng tâm tư của những
trí thức chân chính: dù Hà Đông hôm nay đã không còn là Hà Đông nữa, nhưng những
gì Hà Đông (và Hà Tây - Xứ Đoài) đã để lại cho văn hóa, cho lịch sử thì không
thể bị đánh mất đi theo cột mốc...
4/8/2018
Nguyễn Anh Tuấn
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét