Bài I : Hương hoa lan
của hồn oan nước sở
Hơn hai trăm năm trước, trong một cuộc “Bắc hành”, đại thi
hào Nguyễn Du đã viết tới tám bài thơ chữ Hán về Khuất Nguyên hoặc có liên quan
tới Khuất Nguyên. Trong “tòa lâu đài” thơ chữ Hán Nguyễn Du (Mai Quốc Liên), có
một mảng thơ rất quan trọng là nói về các danh nhân văn hóa - lịch sử, đặc biệt
là về các bậc thầy văn chương Trung Hoa. Tám bài thơ nói trên mà chúng tôi sẽ
khảo sát có trữ lượng suy tưởng - cảm xúc cực kỳ phong phú, sâu sắc, cho thấy cả
trái tim lớn của đại thi hào nước Việt dành cho một nhà thơ-nhà ái quốc vĩ đại
của Trung Hoa cổ xưa, đồng thời thể hiện bút pháp siêu việt của Nguyễn Du trong
khả năng khám phá chiều sâu tâm hồn bản thân lẫn đối tượng miêu tả, trong sự
sáng tạo về nghệ thuật ngôn từ của một nhà văn-nghệ sĩ Việt Nam kiệt xuất thời
Trung đại.
Khuất Nguyên là nhà thơ Trung Quốc duy nhất được nhân dân
dành cho một ngày lễ đặc biệt được tiến hành hàng năm, đúng vào ngày nhà thơ trầm
mình, từ suốt hơn hai ngàn năm nay, đó là tết Đoan ngọ mùng 5 tháng 5, có phong
tục bơi thuyền rồng, ném bánh gói lá xuống sông để giao long ăn bánh đừng rỉa
xác Khuất Nguyên… Tác phẩm Sở từ của Khuất Nguyên đã được dịch in ở
Việt Nam từ hơn bốn chục năm trước, gồm 6 chương: Cửu ca, Bốc cư, Ngư phủ,
Ly tao, Cửu chương, Thiên vấn (1) trong đó tuyệt tác Ly tao.
Trước khi Nguyễn Du tới các địa danh nước Sở gắn với một con
người mà nhà tư tưởng lớn Dương Hùng thời tiền Hán từng ca ngợi: “Ông quả là
viên hồng ngọc, là tấm pha lê”(2), qua sách vở không lúc nào rời xa, đại thi
hào chắc hẳn đã nhiều lần rung động, đồng cảm, đồng điệu sâu sắc với một bậc
quân tử kì tài ôm nỗi thống khổ tới cực độ cào xé tâm can, thành nỗi hận ngàn
thu gửi gắm trong thơ ca. Thời tuổi trẻ, trong một đêm dài lạnh Không ngủ (Bất
mị), Nguyễn Du đã Ngầm đọc bài Hỏi trời (Ám tụng Vấn thiên chương) -
tức tác phẩm Thiên vấn trong bộ Sở từ của đại thi hào Khuất
Nguyên, mong tìm được lời giải đáp cho những trăn trở cùng nỗi buồn trĩu nặng của
ông về cái cuộc đời nhiều cạm bẫy đối với người lương thiện, mà ông gọi là Vô
cùng kim cổ thương tâm xứ - Đó là chỗ đau lòng vô hạn xưa nay. Cái thời đại Khuất
Nguyên sống mà Nguyễn Du từng lắng sâu hồn mình vào để cảm thụ thấu hiểu, là cái
thời đại được nhà Phương Đông học nổi tiếng N. Konrat đã phân tích kỹ lưỡng về
bản chất, trong đó, theo Tư Mã Thiên, con người được chia làm hai loại Quân tử
và Tiểu nhân. Luận Ngữ của Khổng Tử phân biệt: Quân tử chỉ loại người có trí tuệ
và phẩm chất đạo đức cao, Tiểu nhân là kẻ có phẩm chất ngược lại. Đến Tư Mã
Thiên, ông vạch ra: khi kẻ tiểu nhân biến thành kẻ dã man và biến văn hóa thành
giả ngụy khiến xã hội và nhà nước suy đồi, bại vong, càng cần tìm đến cái trung
(sự thành thực), tức là bản tính trong sáng, thuần khiết, cái Tâm của con người
mà cốt lõi là chữ Nhân, là tình thương yêu đối với con người; như khái quát của
Tăng Tử về Đạo của Khổng Tử: thành thực và từ tâm (trung và thứ). (3) Đó
cũng là giai đoạn lịch sử mà Trang Tử nhận định: “Ngày nay kẻ sĩ ở vào cái thời
hôn quân loạn thần thì làm sao mà khỏi khốn khổ cho được. Chứng cớ là Tỷ Can bị
moi tim đấy.” (4) Sau này, khi tới trước mộ Tỷ Can, Nguyễn Du đã bùi ngùi
trước số phận của người đã dũng cảm can gián vua Trụ, nên đã bị ông vua tàn bạo
mổ bụng để xem tim, trong khi các vị quân tử khác đều trốn tránh hay giả điên đều
giữ được tính mệnh (Tỷ Can mộ). Lòng trung nghĩa, khí phách can trường cùng số
phận bi đát của các bậc nghĩa liệt, như Tỷ Can, Dự Nhượng, Liêm Pha, Hàn Tín,
Văn Thiên Tường, Nhạc Phi, Âu Dương, Bùi Độ, Cù Thức Trĩ, v.v đã tạo nguồn cảm
hứng sâu sắc cho Nguyễn Du trên vạn dặm Trung Hoa.
Nhưng, trước và trong khi “Bắc hành”, là người ôm mộng văn
chương xuất thân hàng ngũ quý tộc, với vốn Nho học dầy dặn được đào tạo bài bản
qua “cửa Khổng sân Trình”, Nguyễn Du đã từng trăn trở đi tìm thêm cái nguyên
do, cái cội nguồn của sự sáng tạo văn học, thông qua những bậc thầy văn chương
nước bạn như Khuất Nguyên, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Liễu Tông Nguyên, v.v, cùng những
tư tưởng văn học từ thời cổ đại Trung Quốc, mà đặc biệt là cái tư tưởng “xem
văn học như một sự tự biểu hiện của những chiều sâu bí ẩn của tồn tại. Với tư
cách đó người ta sử dụng văn học vào việc sáng tạo cuộc sống và bản thân con
người như là nơi chứa đựng của khí, một thực thể cực kỳ tinh vi của thế giới,
như là điểm quy tụ của tinh thần thế giới có khả năng nhận được hồi âm từ mọi
phía của vũ trụ… là một sự đột phá trong khoảnh khắc vào bản chất, là sự bừng
sáng thi vị, một trong những phương thức nhận thức siêu cảm tính.” (5)
Như thế là, Nguyễn Du quan tâm sâu sắc tới số phận của Khuất
Nguyên không chỉ bởi đó là một nhân cách sáng chói về đạo làm người trong thời
đại loạn ly, tàn bạo, mà còn bởi đấy là một nghệ sĩ ngôn từ, được đời sau đánh
giá: “Bắt đầu từ Khuất Nguyên tác giả cá nhân trong thơ đã trở thành chuẩn mực” (6);
Nguyễn Du không chỉ coi “ngôn từ chỉ là môi giới của cái vĩ đại” (6), mà
ông đã coi bản thân ngôn từ nghệ thuật cũng là một hiện hữu vĩ đại không kém,
“là một sự đột phá trong khoảnh khắc vào bản chất, là sự bừng sáng thi vị, một
trong những phương thức nhận thức siêu cảm tính.”
Chắc chắn Nguyễn Du đã biết tới Khuất Nguyên qua Sử ký của
Tư Mã Thiên, mà điều ông tâm đắc nhất trong đó là sự kết hợp giữa cái khí
chất con người Khuất Nguyên với văn chất của Khuất Nguyên như
hai mặt của một tờ giấy mà sử gia vĩ đại đã phát hiện thần tình: “Khuất Bình
theo đạo ngay đi đường thẳng, dốc hết lòng trung, đưa hết trí khôn ra thờ vua,
nhưng lại bị kẻ gièm pha ly gián, có thể gọi là ở vào cảnh khốn cùng vậy!… Khuất
Bình viết Ly Tao là do oán thán mà ra vậy!... Nó nêu rõ tầm quan trọng của đạo
đức, nguyên nhân làm nước nhà trị hay loạn, không có chuyện gì là không nói đến.
Văn ông ngắn gọn, kín đáo, chí ông trong sạch, nết ông thanh cao; tuy nói những
điều vụn vặt, nhưng ý nghĩa rất rộng; việc nhắc đến tuy gần, nhưng nghĩa thì
xa. Chí ông trong sạch nên hay nói đến cái hoa thơm. Nết ông cao cho nên dù chết
cũng không được dung nạp. Ông thoát khỏi cái thế giới bùn lầy như con ve bỏ lốt
ở nơi dơ đục, để cất mình ra khỏi đám bụi trần chẳng để cho đời làm dơ bẩn. Thật
là ở bùn mà trong trắng chẳng lây đen. Suy cái chí ấy thì ông có thể thi sáng với
Mặt Trăng, Mặt Trời vậy!” (7). Sau Tư Mã Thiên trên hai ngàn năm, nhà Đông
Phương học người Nga Alecxâyep cũng nhấn mạnh tới vẻ đẹp của văn chương Khuất
Nguyên hòa hợp kỳ diệu với chiều sâu tâm hồn ông: “Phong cách thơ của ông có một
hình thức hàm súc, ngôn từ của ông tinh vi và không dễ hiểu, tâm hồn ông thuần
khiết, hành vi ông trong sạch không một vết nhơ. Tất cả những gì ông nói bằng
thơ hình thức thì không lớn, nhưng về nội dung thì rất to tát, vượt ra ngoài mọi
thước đo. Những cái ông đưa vào hình ảnh thì gần gũi, nhưng ý tứ thì sâu xa…”(8).
Rõ ràng là bắt đầu từ Khuất Nguyên, văn chương đã có một mẫu hình tác giả và
thoát thai ra khỏi các tài liệu triết học - đạo đức - chính trị mà sẽ còn ám ảnh
suốt nhiều thế kỷ sau đó ở các nước Á Đông.
Thiết nghĩ, trước khi đi vào các bài thơ cụ thể của Nguyễn Du
viết về Khuất Nguyên, cần đưa ra vài ý tưởng có tính chất tiền đề như vậy, để
có một lối đi, một cánh cửa bước vào khả dĩ có thể hiểu một cách tương đối thấu
đáo những gì mà Nguyễn Du với tư cách là một nhà văn-nghệ sĩ muốn gửi gắm về một
tác giả vĩ đại của Sở từ, qua các bài trong Bắc hành tạp lục: 1, 2.
Tương Đàm điếu Tam Lư Đại Phu, 3. Tương Âm dạ, 4. Phản Chiêu Hồn, 5. Biện Giả
Nghị, 6.Trường Sa Giả Thái phó, 7. Ngũ nguyệt quan cạnh độ, 8.Thương Ngô trúc
chi ca kỳ 11 (9).
1. Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu 1
Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải,
Thử địa do văn lan chỉ hương.
Tông quốc tam niên bi phóng trục,
Sở từ vạn cổ thiện văn chương.
Ngư long giang thượng vô tàn cốt,
Đỗ nhược châu biên hữu chúng phương.
Cực mục thương tâm hà xứ thị,
Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương.
湘潭弔三閭大夫其一
好修人去二千載,
此地猶聞蘭芷香。
宗國三年悲放逐,
楚詞萬古擅文章。
魚龍江上無殘骨,
杜蒻洲邊有眾芳。
極目傷心何處是,
秋風落木過沅湘。
Dịch nghĩa
ĐẾN TƯƠNG ĐÀM VIẾNG TAM LƯ ĐẠI PHU 1
Người ham muốn tu dưỡng đức tốt cho đời ra đi đã hai nghìn
năm. Đất này còn thoang thoảng mùi hương của hoa lan, cỏ chỉ. Ba năm bị đày xa
tổ quốc (tông quốc) khôn xiết đau buồn. (Nhưng) muôn đời Sở Từ của
ông vẫn là áng văn chương tuyệt tác. Trên sông đầy cá, rồng, vì vậy nắm xương
tàn không còn nữa. (Nhưng) bên bãi sông đầy hoa đỗ nhược có thêm những giống cỏ
thơm. Nhìn hết tầm mắt, đau lòng vì chẳng biết dấu tích cũ ở nơi nào, Chỉ thấy
gió thu thổi lá rụng qua sông Nguyên Tương.
Sông Tương đã là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm thi ca
Trung Quốc và Việt Nam, như Kinh Thi có câu: Quân tại Tương
giang đầu,Thiếp tại Tương giang vĩ, Tương giang bất tương kiến, Đồng ẩm Tương
giang thủy. (Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương, Sông Tương
không gặp mặt, Cùng uống nước sông Tương), như chính Nguyễn Du viết trong Đoạn
trường tân thanh: Sông Tương một dải nông sờ. Bên trông đầu nọ bên chờ cuối
kia… Sông Mịch La là một nhánh chảy vào sông Tương. Sách Thủy kinh chú sớ đã
trích nhiều sách sử viết về địa danh này gắn với Khuất Nguyên: “Trường Sa có
sông Mịch La là sông mà Khuất Nguyên trầm mình ở đấy… Khuất Nguyên đến bờ sông,
làm bài Hoài sa phú rồi ôm đá nhảy xuống sông Mịch La tự tử. Cho nên đầm sâu lấy
tên là Khuất. Ngày xưa Giả Nghị, Sử Thiên đều từng đi qua chỗ này, dừng mái
chèo, thả bài điếu Khuất Nguyên xuống vực…” (10)
Theo ông Phạm Trọng Chánh, Nguyễn Du có đến huyện Tương Đàm
thuộc tỉnh Hồ Nam thời đi giang hồ năm 1789 vào tháng 5, lúc có đua thuyền kỷ
niệm tết Đoan Ngọ; và nhiều năm sau lúc đi sứ lại qua đây, làm bài thơ Đến
Tương Đàm viếng Tam Lư Đại Phu, có câu: Chỉ thấy gió thu thổi lá rụng qua
sông Nguyên Tương, chứng tỏ bài thơ này làm vào tháng 7 năm 1813. Chúng tôi
nghiêng về ý kiến này (11).
Hai câu đề khẳng định ngay một điều như chân lý không ai có
thể chối cãi: Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải, Thử địa do văn lan chỉ hương.
(Người ham muốn tu dưỡng đức tốt cho đời ra đi đã hai nghìn năm. Đất này còn
thoang thoảng mùi hương của hoa lan, cỏ chỉ.) Nhà thơ như lấy cả cái khoảng
cách thời gian và không gian mịt mù dằng dặc suốt hơn hai thiên niên kỷ nhằm dựng
nên một tấm bia hùng vĩ để khắc vào đó công đức sáng chói của bậc hiền lương -
Hiếu tu nhân (chữ lấy trong Sở từ) - tức là người sửa sang các đức tính tốt
cho đời… Và dường như “tấm bia” đặc biệt này lại càng có khả năng làm nổi bật
hơn cái mỏng manh cao khiết và hiếm hoi của hương thơm hoa lan, cỏ chỉ ( Khuất
Nguyên có câu thơ: Bờ sông Nguyên có cỏ chỉ, bờ sông Lễ có hoa lan), mùi
hương thanh khiết ấy toát ra từ thân thể tới tâm hồn Khuất Nguyên giữa một
không gian cao vời tràn ngập ánh sáng vùng Thiên thai, khi Khuất Nguyên căm
ghét khinh bỉ cái cuộc đời ngột ngạt nhơ bẩn, muốn cưỡi mây đạp gió tới các
phương trời và các vùng cổ tích để lánh xa chúng, như Ly tao đã kể: Hương
còn thoang thoảng xa đưa/ Ðẹp còn nguyên vẹn vẫn như ngày nào/ Tự an ủi, theo
vào mực thước/ Ngắm hoa đeo ngày trước còn xinh/ Khắp vùng trời đất mông mênh/
Tìm cho thấy bạn hữu tình mới thôi (Nhượng Tống dịch.) Hai câu thơ này
Nguyễn Du như viết trong một cảm xúc nghẹn ngào vì thương cảm và kính phục, tâm
tưởng ông chợt hiện về mồn một hình bóng con người kỳ vĩ song gần gũi vô hạn với
mình.
Hai câu thực: Tông quốc tam niên bi phóng trục/ Sở từ vạn cổ
thiện văn chương. (Ba năm bị đày xa tổ quốc, khôn xiết đau buồn. Nhưng muôn đời Sở
Từ của ông vẫn là áng văn chương tuyệt tác.) Các nhà lý luận văn học Trung
Quốc các thời đại và các nhà Đông Phương học, Trung Quốc học Phương Tây hiện đại
cũng đều nhất trí khẳng định: “Khuất Nguyên - nhà thơ vĩ đại đầu tiên của
Trung Quốc, trường ca và ca khúc của ông đánh dấu sự ra đời của một loại văn học
mới.” Ông vĩ đại “ở chỗ cá tính của người sáng tác, tính khác thường và tính
sinh động thực tại trong số phận của nhân vật trữ tình chưa từng có trong văn học,
ở sức mạnh và sự hùng vĩ của bản thân nhân cách nhà thơ” - “Văn học cổ đại Trung
Quốc cũng không truyền lại cho ta một tác phẩm nào khác giống như Ly tao với
một tâm hồn cởi mở và sự bay bổng mãnh liệt của trí tưởng tượng.” (12)
Như thế là, bằng sự hiểu biết sâu sắc cộng với mối thiện cảm
tuyệt đối của mình, vô tình Nguyễn Du đã có một đánh giá chân xác giàu tính khoa
học về tác phẩm của Khuất Nguyên cũng như vị trí của ông trong lịch sử văn học
Trung Quốc qua hàng ngàn năm. Có điều, sự đánh giá ở đây là thông qua cảm xúc về
thân phận bi tráng một con người-tác giả mang nỗi đau buồn tha hương
bị đuổi khỏi tổ quốc ba năm ròng bởi chính tình yêu tổ quốc của mình! Hai câu
thực này - sự đánh giá bằng xúc cảm thơ ở mức độ cao nhất của lý trí và tình cảm,
cũng là cơ sở gốc quan trọng để Nguyễn Du tiếp tục phát biểu cảm nghĩ của mình-
không chỉ ở bài thơ này mà còn ở tất cả các bài thơ khác, về một tác giả mà ông
vô cùng yêu quý, kính trọng, với một nỗi “liên tài liên tình” (thương tài
thương tình) cao độ.
Hai câu luận: Ngư long giang thượng vô tàn cốt/ Đỗ nhược châu
biên hữu chúng phương.(Trên sông đầy cá, rồng, vì vậy nắm xương tàn không còn nữa.
Nhưng bên bãi sông đầy hoa đỗ nhược có thêm những giống cỏ thơm.) Ở trên, Nguyễn
Du mới nói về hoa lan, cỏ chỉ, giờ lại nói thêm tới hoa đỗ nhược - cũng là một
giống hoa cỏ thơm mà Khuất Nguyên hay nhắc đến trong Sở từ - tác phẩm vạn
cổ thiện văn chương. Hình ảnh về những loài hoa cỏ thơm có thật này gợi cảm xúc
và trí tưởng tượng rất mạnh, và mặc nhiên tượng trưng thuyết phục nhất cho tâm
hồn cao khiết của Khuất Nguyên, đối lập một cách tuyệt đối với cái xã hội “ăn
thịt người” đã vùi dập đày ải một con người đầy tài năng giàu lòng yêu nước, mà
khi ông chết đi, chúng vẫn hiển hiện là loài cá, rồng độc ác hủy hoại nắm xương
tàn của ông dưới đáy sông, chẳng để anh linh ông được yên lành! Những cặp tiểu
đối theo cách rất chỉnh (công đối): ngư long/ đỗ nhược + vô tàn cốt/ hữu
chúng phương đã góp phần cực tả cái sự thật về cuộc đời đau thương bi phẫn
của thi hào Khuất Nguyên và đồng thời gửi gắm được một cách thấm thía nỗi lòng
thương cảm, xót xa của thi hào Nguyễn Du! Nhưng có điều an ủi lớn lao với cuộc
đời, và với những ai yêu quý Khuất Nguyên, là bên bãi sông đầy hoa đỗ nhược có
thêm những giống cỏ thơm dường giúp lưu mãi danh hương của một con người vĩ đại.
Hai câu kết: Cực mục thương tâm hà xứ thị/ Thu phong lạc diệp
quá Nguyên Tương. (Nhìn hết tầm mắt, đau lòng vì chẳng biết dấu tích cũ ở nơi
nào, Chỉ thấy gió thu thổi lá rụng qua sông Nguyên Tương.)
Chúng ta hình dung: Nguyễn Du đứng trước dòng sông như một nấm
mồ lớn mùa thu, nhớ lại những vần thơ nồng ấm và xót đau của Khuất Nguyên, ngắm
nhìn cảnh vật lạnh lẽo tiêu tao và cố tìm lại dấu tích xưa gắn với người ôm đá
nhảy xuống sông tự trầm mình. Có gì hao hao với Đỗ Phủ trong một mùa thu “cố
viên tâm”: Nhớ cố đô, bạc đầu, thơ nát ruột (Thu hứng VIII - Phan Ngọc
dịch). Bài thơ tới đây mở ra mấy bình diện để có thể thâu tóm toàn bộ thần khí
của cả bài: bên ngoài là cảnh vật, bên trong là nội tâm nhà thơ, trong hai bình
diện ấy lại có cả quá khứ và hiện tại, cả mộng ảo và thực, và tất cả các bình
diện này lại hòa lẫn nhau trong một cái khí của văn chương mà “theo
cái nhìn của Lưu Hiệp thì đó là hình tượng một sinh thể có xương có thịt, nhưng
xuyên qua mọi ví von văn học, vẫn là một cái gì sống động, thậm chí còn sống động
hơn bất cứ thứ cỏ cây cầm thú nào trên quả đất, bởi nó mang đầy khí, một
thứ khí tinh vi, trong sạch chỉ có ở các nấc thang thẳng tiến cao nhất của tinh
thần.” (13). Cảnh vật mùa thu với làn gió lạnh (thu phong, phong hàn) từng xao động,
vận hành trong cảm hứng thơ ca phương Đông nhiều thế kỷ, ở đây, lúc này, hơn
bao giờ hết đã rung động mạnh mẽ tâm hồn Nguyễn, chuyển hóa hầu như toàn bộ
cái khí của thiên nhiên thành sức mạnh tinh thần khi tìm kiếm, tưởng
nhớ Khất Nguyên, lắng nghe trong những tiếng lá rụng bay qua sông như tiếng sắt
ấy “một thứ khí tinh vi, trong sạch” mang nỗi buồn ai oán của Khuất Nguyên, bởi
theo Trang Tử, “Khúc ca của con người là phong của người đó, có điều đó là thứ
phong có thể nghe thấy được.” (14)
Như vậy, trước cảnh vật thê lương não nề, khi Nguyễn “nhìn hết
tầm mắt” cũng là đồng thời nghe thấy những gì cần nghe bằng mọi cung bậc suy tư
cảm xúc; ông đau lòng khôn xiết khi không tìm thấy dấu tích cũ, song bởi vậy lại
có khả năng cảm nhận hết nỗi niềm của người xưa… Đó cũng là cách “ý đáo nhi bút
bất đáo” (ý đến mà bút không đến) đặc sắc của nghệ thuật Đường thi.
2. Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu 2
Sở quốc oan hồn táng thử trung,
Yên ba nhất vọng diểu hà cùng.
Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ,
Hà hữu Ly tao kế Quốc phong?
Thiên cổ thuỳ nhân liên độc tỉnh,
Tứ phương hà xứ thác cô trung?
Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục,
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.
湘潭弔三閭大夫其二
楚國冤魂葬此中,
煙波一望渺何窮。
直交憲令行天下,
何有離騷繼國風。
千古誰人憐獨醒,
四方何處托孤忠。
近時每好為奇服,
所揹椒蘭竟不同。
Dịch nghĩa
ĐẾN TƯƠNG ĐÀM VIẾNG TAM LƯ ĐẠI PHU 2
Hồn oan của nước Sở chôn vùi tại chốn này đây, Vời trông khói
sóng mênh mông chẳng biết đến đâu là cùng. Ví như hiến lệnh đó được ban hành
trong thiên hạ, Thì làm gì có được Ly tao nối tiếp Quốc phong? Nghìn xưa, có ai
thương người một mình tỉnh táo, Bốn phương có chốn nào gửi được tấm lòng cô
trung? Gần đây, mỗi khi người ta thích trang phục lạ, Nhưng thứ hoa tiêu, hoa
lan của họ đeo chẳng giống ông chút nào.
Liên 1: Sở quốc oan hồn táng thử trung/ Yên ba nhất vọng diểu
hà cùng. (Oan hồn của nước Sở chôn vùi tại chốn này đây, Vời trông khói sóng
mênh mông chẳng biết đến đâu là tận cùng.)
Bằng câu thừa đề: Oan hồn của nước Sở chôn vùi tại chốn này
đây, Nguyễn Du đã khẳng định/ vẽ lên ngay tức thì một sự thực lịch sử bi thảm
vào bậc nhất của lịch sử Trung Quốc: Khuất Nguyên vì tài năng, trung nghĩa, yêu
nước nên bị ghen ghét, vùi dập, xua đuổi, và khi bất lực tuyệt vọng trước vua u
mê, trước những kẻ tiểu nhân xâu xé hoành hành tổ quốc mình, ông đã phải đau đớn
tự trầm mình xuống sông. Ông trở thành một oan hồn nước Sở làm xúc động biết
bao thế hệ người Trung Quốc và thế giới suốt hơn ngàn năm qua. Tới Tương Đàm,
bên dòng Mịch La, Nguyễn Du đã giống như nhiều văn nhân, chính khách là làm thơ
tưởng nhớ Khuất Nguyên; và ông có ném bài thơ xuống dòng sông điếu Khuất Nguyên
giống như Giả Nghị hay không, không ai biết được, nhưng có điều chắc chắn ông
đã làm thơ về Khuất Nguyên nhiều hơn tất cả mọi người - và chắc chắn hơn nữa là
độ sâu sắc, mức rung cảm cùng sự thấu hiểu nỗi niềm thăm thẳm của Khuất Nguyên
thì không tác giả nào khóc/ điếu Khuất Nguyên có thể so sánh nổi! Hai bài thơ
viếng Khuất Nguyên này cũng có chung một nguồn cảm hứng với hai bài viếng Đỗ Phủ
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ - nhị thủ). Cũng ở một bến sông thu đầy rẫy cá, rồng,
từ mộ Đỗ Phủ, lúc thi tứ dào dạt, Nguyễn Du thả chiếc thuyền trên sông (Thiên
chu giang thượng đa thu tứ) để khóc thương cho người đất Đỗ Lăng sống ngàn năm
trước, buồn thương cho người văn chương đáng bậc thầy muôn thở mà phải gửi nấm
mồ gió cô đơn nơi đất khách (Thiên niên nhất khốc Đỗ Lăng nhân. Cộng tiễn thi
danh sư bách thế. Độc bi dị vực ký cô phần).
Câu phá đề: Vời trông khói sóng mênh mông chẳng biết đến đâu
là tận cùng, như trực cảm và sự hình dung rõ rệt của Nguyễn: khói sóng vật vờ
mênh mông đó chính là oan hồn Khất Nguyên vẫn chưa tan, và giúp người đọc trực
tiếp liên tưởng ngay tới nỗi niềm oan khuất vô bờ bến mà Khuất Nguyên ôm suốt
hơn hai thiên niên kỷ dưới đáy sông! Đây là cách thức “tá khách hình chủ” quen
thuộc của thơ ca phương Đông, có điều, qua tâm hồn và ngòi bút Nguyễn Du, chúng
dường có thêm sức mạnh phi thường nêu bật tình cảm, thái độ của tác giả với đối
tượng viếng/ điếu và in hằn trong tâm trí người đọc. Nếu thử thao tác chồng văn
bản hai câu này với hai câu đề của bài I, sẽ thấy sự tương đồng và bổ trợ về
nội dung: vùng khói sóng mênh mang chứa oan hồn vĩ đại nước Sở ấy cũng thoang
thoảng mùi hoa lan, cỏ chỉ, hoa đỗ nhược gợi nhớ một tâm hồn cao khiết, và oan
hồn đó càng trải qua thời gian lại càng khắc sâu vào tâm trí mọi người: đó là
oan hồn của một người hiền lương hiếm có trên đời… Trong bài Sơ thu cảm hứng1,
Nguyễn cũng nhắc đến nỗi đau lòng này: Sông Sở (sông Tương) hoang vắng lá cây rụng
bời bời.Trong một đêm xiết bao đau lòng (Tiêu tiêu mộc lạc Sở giang không,Vô hạn
thương tâm nhất dạ trung).
Liên 2: Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ, Hà hữu Ly tao kế
Quốc phong? Ví như hiến lệnh đó được ban hành trong thiên hạ, Thì làm gì có được
Ly tao nối tiếp Quốc phong?
Hiến lệnh, tức là pháp lệnh mà Khuất Nguyên làm giúp Sở Hoài
vương, nhưng không được chấp thuận. Sử ký viết: “Tuy bị ruồng bỏ, xua
đuổi, ông vẫn lo toan cho nước Sở, lòng vẫn nghĩ đến Hoài vương, cứ mong trở về,
mong có một ngày nào nhà vua tỉnh ngộ, tập tục sẽ thay đổi. Lòng ông chỉ mong
sao cho nhà vua được còn, nước được mạnh… Nhưng rốt cục vẫn không làm sao được!
Điều đó chứng tỏ Hoài vương suốt đời không tỉnh ngộ…” (15)
Hai câu thực này đưa ra một giả thiết lịch sử não lòng mà nó
đã không hề xảy ra: nếu Khuất Nguyên được thiên tử nước Sở trọng dụng và những
tư tưởng trị quốc bình thiên hạ của ông được Sở Hoài vương ủng hộ, được thực hiện
tốt đẹp, thì sẽ không có một kiệt tác của Sở từ xuất hiện! Trước hết,
Nguyễn đã cảm nhận khá sâu sắc một trong những bi kịch của lịch sử mà bản thân
ông cùng gia tộc từng nếm trải, đó là tình trạng đối chọi giữa “tính liên tục
thầm lặng, tính trường cửu trong sự tồn tại tầng lới viên chức trí thức” với
“trạng thái không an toàn của cuộc đời, sự không ổn định trong số phận của những
phần tử của nó xét với tư cách cá nhân” mà trong đó, “Chịu chi phối của chính
quyền độc tài tuyệt đối và chuyên chế, những quan chức cao cấp nhất cũng có thể
biến mất đi từng ngày một, ngày hôm nay còn là thượng thư, nhưng ngày mai đã chết
trong xó ngục…” (Êchiên Balat) (16). Đó cũng chính là cảnh ngộ của bậc hiền nhân
quân tử, bậc “hiếu tu” số một của quốc gia như Khuất Nguyên mà Tư Mã Thiên đã vạch
ra: “Hoài vương vì không biết phân biệt kẻ trung thần cho nên ở trong thì bị Trịnh
Tụ làm mê hoặc, ở ngoài bị Trương Nghi lừa dối, rốt cục ruồng bỏ Khuất Nguyên
mà tin đại phu Thượng Quan, lệnh doãn Tử Lan. Rốt cục quân thua, đất bị cắt, mất
đứt sáu quận, chết bỏ xác ở đất Tần, làm trò cười cho thiên hạ… Vua không sáng
thì thực là vô phúc vậy!” (17).
Trong cái phản đề mang tính giả thiết đầy cay đắng này, ta thấy
thái độ phê phán ngầm song cũng khá gay gắt của Nguyễn đối với triều đình nước
Sở. Nhưng chúng ta hãy quay trở lại với ý tứ của thơ. Lịch sử diễn ra không có
chữ “giá như”, không thể làm lại được, tuy thế, Nguyễn vẫn mượn cái tình thế giả
định bất đắc dĩ này để tôn vinh giá trị cuộc đời Khuất Nguyên qua sáng tạo thơ
ca - bằng sự phủ định cái quy luật đối kháng thê thảm giữa chính trị và văn
chương, giữa sự sủng ái hoặc thù địch của nhà cầm quyền với sự sáng tạo nghệ
thuật ngôn từ. Cái “phản đề” oái oăm đầy nghịch lý này không chỉ xảy ra một lần
trong đời sống nghệ thuật thế giới Cổ Kim. Như một viên quan triều đình khi
nhìn văn hào Tây Ban Nha M. Cervantes phải làm người thu thuế vất vả, đã phán:
cần phải để ông ta khốn khổ hơn nữa thì mới có thể tiếp tục viết được truyện
hay cho đời! Như nhà thơ Âu Dương Tu đời Tống từng chua chát thốt lên: Không phải
thơ làm cho người ta cùng khổ mà có cùng khổ đã, thơ mới hay! (18) Chính
Nguyễn cũng ngậm ngùi nói tới nghịch lý này khi viết về Đỗ Phủ - người “Thiên cổ
văn chương thiên cổ sư”: Thơ hay đến độ kinh động lòng người lẫn quỷ thần phải
chăng chính vì xuất phát từ cảnh cùng khốn của nhà thơ? (Nhất cùng chí thử khởi
công thi - Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ1).
Quả thực là, nếu Khuất Nguyên không bị biếm trích, bị đi đày
thì ông sẽ không viết Ly tao, tác phẩm mà Nguyễn trân trọng nhắc đến,
chính là tiếng khóc đớn đau đến xé lòng Trông về nước Sở gạt hàng lệ rơi của
Khuất Nguyên:
… Xưa nay chỉ bậc thánh hiền, Thương dân mới được cầm quyền trị
dân.Trông sau trước xét lần sự thế, Hãy để tâm suy nghĩ cho cùng. Làm đâu được
việc bất công! Những phường bất nghĩa có dùng được đâu. Lòng này nghĩ trước sau
như một, Dẫu chết ngay chẳng chút nôn nao. Người xưa oan thác biết bao, Theo
vuông lựa có vào sao lỗ tròn. Nức nở khóc cho buồn đầy dạ, Tủi cho thân sinh đã
lỗi thời! Gạt sầu bứt cánh huệ tươi, Áo khăn lã chã lệ rơi ướt đầm! (Trích,
Nhượng Tống dịch) (19)
Sử ký giải thích: “Khuất Bình giận về nỗi nhà vua nghe
không phân biệt phải trái, để lời gièm pha che mất óc sáng suốt, để kẻ gian ác
làm hại người trung thành, khiến cho người ngay không có chỗ dung thân, cho nên
lo buồn nghĩ ngợi (ly ưu) mà làm ra Ly tao… Khuất Bình viết Ly tao là
do oán thán mà ra vậy!” (20).
Nhưng, xuất phát từ niềm oán thán, bi phẫn, nỗi ưu phiền sâu
kín nhất tự đáy lòng Khuất Nguyên, kiệt tác Ly tao đã miêu tả một
cách sâu sắc, khúc triết toàn bộ tư tưởng và hành động trong hơn nửa đời người
của Khuất Nguyên, hơn thế, đã lột tả một cách sáng rõ và cảm động tấm lòng yêu
nước thương dân, lòng căm ghét những gì xấu xa bỉ ổi đang thống trị thế gian và
cản trở ông thực hiện lý tưởng giúp dân cứu nước; và tất cả được thể hiện bằng
một nghệ thuật ngôn từ trác tuyệt, một trí tưởng tượng bay bổng, một kết cấu
hoàn mỹ, một bút pháp tráng lệ, huyền ảo, nhiều màu sắc làm say lòng người… Và
Nguyễn đánh giá: tác phẩm Ly tao nối theo Quốc phong, tức là Kinh Thi (đúng
hơn là phần quan trọng nhất của Kinh Thi) - tổng tập thi ca đầu tiên của
Trung Quốc, một di sản văn hóa vô giá của nhân dân Trung Hoa và của nhân loại.
Sau ngọn núi thi ca hùng vĩ Kinh Thi khuyết danh, qua mấy trăm năm nữa,
qua hết các thời kỳ tản văn lịch sử, tản văn triết học chư tử, mới có đỉnh cao
sáng tác văn chương của Khuất Nguyên - nổi bật nhất là Ly tao; đó không chỉ
là một nhận định xuất phát từ lòng ngưỡng mộ Khuất Nguyên của Nguyễn, mà đó còn
là sự thật khách quan mà khoa lịch sử văn học tại chính quốc từ thời đó và các
nước Âu - Mỹ sau này đã chỉ ra. (Một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp của ta đã nhầm
lẫn tai hại khi viết: “Bởi nếu như kế trị quốc của Khuất Nguyên được vua Sở chấp
thuận, hiến lệnh được ban hành thì không chắc hai kiệt tác Ly tao và Quốc
phong sẽ ra đời.” 21)
Liên 3: Với cách đối cực chuẩn về ý tứ và cú pháp (công đối),
hai câu luận đã lý giải và khái quát lên một cách sinh động toàn bộ thực chất tấn
bi kịch của nhà nho-người cầm bút vĩ đại thời Chiến quốc gây nên bởi tập đoàn
thống trị hủ bại, và trở thành hai câu thơ kinh điển có thể nói là hay nhất
trong thơ chữ Hán Nguyễn Du: Thiên cổ thuỳ nhân liên độc tỉnh, Tứ phương hà xứ
thác cô trung? Nghìn xưa, có ai thương người một mình tỉnh táo, Bốn phương có
chốn nào gửi được tấm lòng cô trung?
Trong các cặp tiểu đối, cặp từ thuỳ nhân/ hà xứ có
thể nói là trung tâm cho cả liên 3, như hai câu hỏi đầy khắc khoải viết lên bầu
trời thu vần vụ u ám treo suốt hơn ngàn năm về hồn oan nước Sở, cho thấy trái
tim Nguyễn Du rung động và đồng cảm với Khuất Nguyên sâu sắc, mênh mông đến dường
nào!
Sử gia Tư Mã Thiên đã diễn tả lại thiên Ngư phủ từ,
tương truyền là của Khuất Nguyên, trong đó dựng lên một ông lão đánh cá, và Khuất
Nguyên vấn đáp với nhân vật tượng trưng này để bày tỏ lòng mình, có câu: “Chúng
nhân giai túy ngã độc tỉnh” (Mọi người đều sau chỉ riêng mình ta tỉnh): “Khuất
Nguyên đến bờ sông, xõa tóc đi, ngâm nga trên bờ đầm, sắc mặt tiều tụy, hình
dung khô héo. Một ông cụ đánh cá, thấy hỏi ông ta:- Ông là quan tam lư đại phu
đấy phải không? Vì sao đến nông nỗi này? Khuất Nguyên nói: - Tất cả đời đều nhơ
đục, chỉ mình ta trong, tất cả mọi người đều say, riêng một mình ta tỉnh, cho
nên bị đuổi.” (22)
Theo Sử ký: “Khuất Nguyên tên là Bình cùng họ với vua nước
Sở. Bình làm chức tả đô đời Sở Hoài vương (tương đương với tể tướng), học rộng,
nhớ lâu, thấy rõ lẽ trị loạn, thạo việc giấy tờ. Vào cung thì cùng vua bàn tính
việc nước, ban bố các mệnh lệnh, ra thì tiếp đãi khách khứa, ứng đối với chư hầu.
Nhà vua rất tin dùng” (23)
Dù Sở Hoài vương đồng ý cho Khuất Nguyên thực hành những chủ
trương chính trị do ông đề xuất, từng nói cùng ông những lời “thề ước” (Trước
cùng ta nặng lời thề ước/ Sau vì đâu biếng nhác đơn sai - Ly tao), nhưng
quanh Sở Hoài vương là một bọn đại thần bảo thủ, phản động, ghen ghét tài năng,
rình rập mọi cơ hội để hãm hại Khuất Nguyên, một người hiền lương ôm ấp lý tưởng
cao đẹp và hoài bão to lớn cho tổ quốc mình, nhưng rồi bị cả hai đời vua xa lánh,
phế bỏ, phải bị đày đi Giang Nam. Nỗi niềm “cô trung” của Khuất Nguyên là điều
dễ hiểu, qua Ly tao, qua sử sách kể lại, và được trái tim nghệ sĩ Việt Nam hơn
ngàn năm sau đồng cảm sâu sắc, như chính Nguyễn là người cùng cảnh ngộ: Bốn
phương có chốn nào gửi được tấm lòng cô trung?
Liên 4: Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục, Sở bội tiêu lan cánh bất
đồng. Gần đây, mỗi khi người ta thích trang phục lạ, Nhưng thứ hoa tiêu, hoa
lan của họ đeo chẳng giống ông chút nào.
Tới hai câu kết, Nguyễn Du đột ngột kéo ngàn xưa về với hôm
nay, bằng sự so sánh tương phản để nêu bật phẩm chất con người ông hằng kính trọng,
thương cảm, đồng thời thêm một lần nữa luận bàn về giá trị của Nhân phẩm, giá
trị của Văn chương.
Trong nhiều tác phẩm Sở từ, đặc biệt là Ly tao, Khuất
Nguyên đã miêu tả mình buổi sớm uống sương đọng trên hoa lan, chiều ăn cánh hoa
cúc mới nở, và trên người lúc nào cũng ăn mặc lạ, đeo gươm dài, đội mũ cao,
khoác các vòng hoa cỏ thơm như hoa tiêu, hoa lan, hoa thiên lý, hoa huệ… Trang
phục lạ đó, cùng những loài hoa cỏ thơm để ví với đức tính cao quý, trong sạch,
và ý thích sự tu dưỡng bản thân, luôn gắng làm điều đức nghĩa; như một thái độ
khinh bỉ, cố tình đối lập lại với sự tham lam, ích kỷ, ghen tỵ, thói bon chen
danh lợi của bọn người xấu xa. Phải là nhân cách đó mới có thể đưa thơ ca bay
lên được với núi sông, với vũ trụ, và thâm nhập được vào cõi sâu thẳm của truyền
thuyết, của lịch sử, của tâm hồn người, như Ly tao đã làm. Còn giờ
đây, trong mắt Nguyễn, con người ham vật chất, ham của lạ - cũng là một thứ ham
vật chất biến tướng, học đòi cái vẻ ngoài của Khuất Nguyên xưa nhưng không thể
hiểu nổi tâm sự thầm kín cùng vẻ đẹp tâm hồn ông, và càng không thể so sánh nổi
cùng ông ở bất cứ phương diện nào, nên vô tình trở thành kệch cỡm, lố lăng. Bởi
thế, Nguyễn mỉa mai kín đáo: Nhưng thứ hoa tiêu, hoa lan của họ đeo chẳng giống
ông chút nào! Cái kết này tựa như một lời thở dài của Nguyễn về nhân tình thế
thái, sau khi ông trầm mặc tưởng nhớ về Khuất Nguyên với tất cả lòng thương cảm,
kính trọng.
Chú thích:
1. Sở từ. Đào Duy Anh, Nguyễn Sĩ Lâm dịch. Nxb Văn học, 1974
2. I.X. Lixêvich. Tư tưởng văn học cổ Trung quốc. Trần Đình Sử
dịch. Nxb Giáo dục 2000. tr. 317
3. Phương Đông và Phương Tây. Trịnh Bá Đĩnh dịch. Nxb Giáo dục,1997.
Tr.31.
4. Trang Tử và Nam Hoa kinh. Nguyễn Hiến Lê giới thiệu và chú
dịch. Nxb Văn hóa - Thông tin 1994, tr.20
5. Tư tưởng văn học cổ Trung quốc. Sđd, tr.328
6. Tư tưởng văn học cổ Trung quốc. Sđd, tr.231
7. Tư Mã Thiên. Sử ký. (Thiên Khuất Nguyên liệt truyện) Phan
Ngọc dịch, Nxb Văn học và TT Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây 1999
8. Tư tưởng văn học cổ Trung quốc. Sđd, tr.235
9. Những thơ trích dẫn và chú thích chủ yếu lấy ở nguồn: Nguyễn
Du toàn tập, Thơ chữ Hán. Tập II. Mai Quốc Liên và Vũ Tuấn Sán dịch nghĩa,
chú thích. Nxb Văn Học, 2015
10. Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh sớ.
Thủy kinh chú sớ. Nguyễn Bá Mão dịch, Nxb Thuận Hóa và TT Văn hóa Ngôn ngữ
Đông Tây, 2005- tr. 563
11. Phạm Trọng Chánh - Nguyễn Du trên quê hương Khuất Nguyên.
Vanhoanghean
12. Dẫn theo: Tư tưởng văn học cổ Trung quốc. Sđd, tr. 235
13. Tư tưởng văn học cổ Trung quốc. Sđd, tr. 231- 232
14. Tư tưởng văn học cổ Trung quốc. Sđd, tr. 136
15. Sử ký. Sđd
16. Dẫn theo: Thơ văn cổ Trung Hoa - mảnh đất quen mà lạ. Nguyễn
Khắc Phi - Nxb Giáo dục 1999, tr. 450
17. Sử ký. Sđd
18. Khâu Chấn Thanh. Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung
Quốc. Mai Xuân Hải dịch, Nxb Văn học 2001, tr. 94
19. Theo Thivien.net
20. Sử ký. Sđd
21. ĐHQGTP. HCM - Trường ĐHKH xã hội và Nhân văn. Đại thi
hào dân tộc, Danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Nxb ĐHQG, TPHCM, 2015, tr. 45.
22, 23. Sử ký. Sđd
Bài II: HỒN OAN NƯỚC
SỞ HỠI, ĐỪNG VỀ!
Cũng như hai bài thơ Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu đã
khảo sát ở phần I, trong các bài thơ còn lại về chủ đề này, Nguyễn Du vẫn say
mê trò chuyện, luận bàn, thậm chí tranh cãi với Hồn oan nước Sở từ hơn hai ngàn
năm, như hồn đang hiển hiện quanh quất bên mình, trên dòng sông lịch sử tựa một
nấm mồ lớn đang vùi lấp thân xác của một con người tri âm tri kỷ đặc biệt đối với
ông.
Đêm ở Tương Âm, một huyện thuộc tỉnh Hà Nam, có đoạn sông
Tương gần với sông Mịch La nơi Khuất Nguyên trầm mình, Nguyễn Du lặng nhớ đến
Khuất Nguyên từng thân thuộc với ông lâu nay qua sử sách. Thủy kinh chú sớ viết:
“… ở quận Trường Sa có sông mà Khuất Nguyên tự trầm mình, núi sông trong sáng,
khác với chỗ bình thường, dân lập miếu ở phía tây đầm Mịch. Ngày nay, miếu Mịch
La ở bên sông Mịch La, cách phía bắc huyện Tương Âm 60 dặm… trước miếu có bia…” (1)
3. Tương Âm dạ
Mãn mục giai thu sắc
Mãn giang giai nguyệt minh
Tịch liêu kim dạ vọng
Thiên trích cổ nhân tình
Thu thủy tòng tây lai
Mang nhiên thông Động Đình
Tĩnh dạ tức ngâm khiếu
Vô sử giao long kinh.
湘陰夜
滿目皆秋色,
滿江皆月明。
寂寥今夜望,
遷謫古人情。
秋水從西來,
茫然通洞庭。
靜夜息吟啸,
無使蛟龍驚。
Dịch nghĩa:
ĐÊM Ở TƯƠNG ÂM
Khắp chốn toàn là sắc thu. Khắp sông nơi nào cũng sáng trăng
. Đêm nay vời trông khung cảnh hiu quạnh. Cạnh nhớ người xưa bị giáng chức đi
đày. Nước thu từ phía tây đổ lại, Mênh mang thông với hồ Động Đình. Đêm yên
tĩnh thôi đừng ngâm nga nữa, Chớ làm cho loài giao long kinh động.
Vương
Trọng dịch thơ:
Sắc thu ngời ánh mắt
Một dòng sông trăng đầy
Đêm nay nhìn cảnh vắng
Nhớ người xưa lưu đày.
Nước thu từ tây lại
Vào Động Đình mênh mông
Đừng ngâm nga đêm vắng
Làm giật mình giao long.
Liên 1: Mãn mục giai thu sắc, Mãn giang giai nguyệt minh - Khắp
chốn toàn là sắc thu. Khắp sông nơi nào cũng sáng trăng. Với hai câu đề lặp hai
chữ mãn (đầy khắp) ở đầu câu, ta tưởng đâu tác giả đắm chìm trong cảm
hứng về thiên nhiên tuyệt đẹp, khi cặp mắt ông tràn đầy sắc thu (mãn mục giai
thu sắc), và cũng qua cặp mắt ấy, dòng sông thì tràn đầy ánh trăng thu được phản
chiếu từ bầu trời đầy sắc thu (Mãn giang giai nguyệt minh). Nhưng, thực ra, cảnh
vật đó càng khiến ông chợt lặng cả người, tê tái đến nôn nao tưởng nhớ đến số
phận trớ trêu buồn thảm của Khuất Nguyên: Tịch liêu kim dạ vọng/ Thiên trích cổ
nhân tình-Đêm nay vời trông khung cảnh hiu quạnh, Chạnh nhớ người xưa bị giáng
chức đi đày. Có cảm tưởng, khung cảnh thu càng trong, càng đẹp, hình bóng người
xưa càng hiện về rõ nét, và Nguyễn Du càng cảm thấy cô độc khi in hằn tâm tưởng
mình giữa không gian tràn trề trăng thu sáng ngời ngời, chúng chợt trở nên hiu
quạnh (tịch liêu); cặp mắt ông đẫm lệ bởi “mãn trăng” và đồng thời có cảm giác
thiếu vắng, trơ trọi đến vô cùng. Tâm trạng ấy dẫn đến liên 3: Thu thủy tòng
tây lai/ Mang nhiên thông Động Đình - Nước thu từ phía tây đổ lại, Mênh mang
thông với hồ Động Đình. Trăng thu phản chiếu rờ rỡ trên sông kia chẳng qua chỉ
là một mảnh của cả dòng nước thu đang cuồn cuộn đổ về, thông với hồ Động Đình
bát ngát có liên quan tới nước Sở và Khuất Nguyên lúc cuối đời. Động Đình thuộc
Hồ Nam, cũng nằm trong bản đồ nước Sở thời Chiến Quốc. Theo Thủ kính chú:
“bốn con sông Tương, Tư, Nguyên, Lễ phía nam vào, sông Đại Giang từ phía bắc đi
qua, hồ Động Đình tụ nước ở giữa gọi là Ngũ Chử… Nước hồ rộng tròn hơn 500 dặm,
mặt trời mặt trăng giống như mọc lặn ở trong đó” (2). Còn theo Sơn hải kinh,
núi Quân Sơn ở hồ Động Đình là nơi ở của hai người con gái vua Nghiêu, vua Thuấn… (3).
Trong Ly tao, Khuất Nguyên thường hay nhắc đến Nghiêu,
Thuấn, Vũ, Thang, Chu Văn Vương… như những hình mẫu của người đứng đầu nhà nước
mà ông mong vua Sở noi theo để hành đạo: Theo đạo chính nhằm đường ngay thẳng/
Nghiêu Thuấn xưa thiệt đấng minh quân (Ly tao). Trong khi u uất không than
thở được với ai, ông đã mơ ước lên trời xuống biển để tìm được người hiểu mình.
Ông từng trò chuyện trong tưởng tượng với vua Trùng Hoa (vua Thuấn), bày tỏ lý
tưởng chính trị của mình, và điều đó chỉ có thể diễn ra ở vùng hồ Động Đình
mang nhiều linh khí sông núi và truyền thuyết cổ xưa chứa đựng hoài bão cao cả
của Khuất Nguyên...
Tới đây, Nguyễn Du như nghe thấy lời thơ tuyệt mệnh của Khuất
Nguyên: Mênh mông Nguyên Tương/ Cuồn cuộn chừ sóng dồi/ Đường xa man mác/
Ngất tạnh chừ mù khơi (Hoài sa phú), và ông bất giác thốt lên: Tĩnh dạ tức
ngâm khiếu/ Vô sử giao long kinh. Đêm yên tĩnh thôi đừng ngâm nga nữa, Chớ làm
cho loài giao long kinh động (Liên 4). Ông muốn nhắn ai đó và với chính mình:
trong khung cảnh tĩnh mịch bao phủ bởi linh khí đất trời và sự ngưỡng vọng Khuất
Nguyên, đừng làm cho cá, rồng sợ hãi nhốn nháo, khiến oan hồn nước Sở nằm dưới
đó không yên! Phải chăng, đó cũng là một lời an ủi đầy ý nghĩa đối với vong hồn
đang vất vưởng, xót đau suốt bao thế kỷ, và đối với cả chính tác giả đương ngậm
ngùi xót thương cho Khuất Nguyên? Toàn bài thơ là phương thức thi ca quen thuộc
của văn chương phương Đông: “Dĩ vạn vật vi ngã” (lấy mọi vật để làm rõ mình) mà
ở đây Nguyễn Du đã vận dụng nhuần nhị thông qua suy tưởng trĩu nặng của mình -
Ánh trăng thu, dòng sông thu êm ả, nước thu cuồn cuộn đổ về, hồ Động Đình, đêm
tĩnh mịch, giao long, và cái bóng của Nguyễn Du in trên dòng sông trăng thu
đang vời nhìn về phía xa mù mịt… Rất có thể, chính trong cái tâm thế cảm xúc và
suy tưởng đó mà Nguyễn Du viết Phản chiêu hồn.
4. Phản chiêu hồn
Hồn hề! Hồn hề! Hồ bất quy?
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi?
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ toạ,
Toạ đàm lập nghị giai Cao, Quỳ.
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di!
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.
Hồn hề! hồn hề! suất thử đạo
Tam Hoàng chi hậu phi kỳ thì.
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,
Thận vật tái phản linh nhân xi,
Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La,
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà?
反招魂
魂兮魂兮胡不歸,
東西南北無所依。
上天下地皆不可,
鄢郢城中來何為。
城郭猶是人民非,
塵埃滾滾汙人衣。
出者驅車入踞坐,
坐談立議皆皋夔。
不露爪牙與角毒,
咬嚼人肉甘如飴。
君不見湖南數百州,
只有瘦瘠無充肥。
魂兮魂兮率此道,
三皇之後非其時。
早斂精神返太極,
慎勿再返令人嗤。
後世人人皆上官,
大地處處皆汨羅。
魚龍不食豺虎食,
魂兮魂兮奈魂何。
Dịch nghĩa
CHỐNG LẠI BÀI CHIÊU HỒN
Hồn ơi! hồn ơi! sao chẳng về? Đông tây nam bắc không chốn
nương tựa. Lên trời xuống đất đều không được. Còn trở về thành Yên thành Sính
làm gì? Thành quách còn đây, nhân dân đã khác, Bụi bặm mù bay làm dơ bẩn quần
áo. Ra ngoài thì ruổi xe, vào nhà ngồi chễm chệ, Đứng ngồi bàn bạc như hai bậc
hiền thần Cao, Quỳ, Không để lộ ra nanh vuốt nọc độc, Mà cắn xé thịt người ngọt
xớt. Không thấy sao mấy trăm châu ở Hồ Nam, Chỉ có người gầy gò, không ai béo tốt.
Hồn ơi! hồn ơi! nếu cứ noi theo lối đó, Thì sau Tam Hoàng không hợp thời nữa.
Hãy sớm thu góp tinh thần trở lại Thái Cực. Đừng trở lại đây nữa để người ta
mai mỉa. Đời sau đều là Thượng Quan, Khắp mặt đất đều là sông Mịch La, Cá rồng
không ăn, sói hùm cũng nuốt. Hồn ơi! hồn ơi! hồn làm sao đây?
Khương Hữu dụng và
Xuân Diệu dịch thơ:
Hồn ơi! Hồn ơi, sao không về?
Đông tây nam bắc không nơi tựa
Lên trời xuống đất đều chẳng xong
Về thành Yên, Sính làm chi nữa?
Thành quách y nguyên, dân sự khác
Cát bụi nhớp cả quần áo người
Đi ra xe ngựa về vênh váo
Lên mặt Quỳ, Cao tán chuyện đời
Không lộ vuốt nanh cùng nọc độc
Mà xé thịt người nhai ngọt xớt!
Kìa hồn chẳng thấy: mấy trăm châu ở Hồ Nam
Chỉ có gầy nhom, không béo tốt!
Hồn ơi, vì cứ theo đường ấy
Sau Tam Hoàng thôi chẳng hợp thời!
Đành sớm thu hồn về thái cực
Chớ về đây nữa, người mỉa mai
Hậu thế đều là họ Thượng quan
Mặt đất đâu cũng sông Mịch La
Cá rồng không nuốt, hùm beo nuốt
Hồn ơi! Hồn ơi! biết sao mà?
Vương Trọng dịch thơ:
Sao không về, hỡi hồn ơi?
Đông tây nam bắc không nơi nương vì
Về thành Yên Dĩnh làm gì
Lên trời, xuống đất chẳng đi được nào
Thành quách cũ, người khác sao
Bụi bay mù mịt bẩn bao áo quần
Họ đi xe ngựa rầm rầm
Đứng, ngồi đàm đạo ngang tầm Quỳ, Cao!
Vuốt, nanh, nọc độc giấu vào
Thịt người chén ngọt khác nào đường, cam
Kìa hồn, nhìn xuống Hồ Nam:
Không ai béo tốt, gầy tàn trăm châu
Từ Tam Hoàng trở về sau
Hồn theo đường ấy còn đâu hợp thời?
Sớm tìm Thái cực đi thôi
Đừng về, mai mỉa miệng người thế gian
Đời sau, ai cũng Thượng Quan
Nơi nơi, chốn chốn sông toàn Mịch La
Rồng không nuốt, hổ cũng tha
Hồn ơi, hồn hỡi biết là làm sao?
Theo ông Phạm Trọng Chánh, bài thơ này Nguyễn Du làm lúc đi
giang hồ năm 22 tuổi. Lúc đó nhà thơ mang tâm sự của người không nơi nương tựa,
chưa muốn về chốn cũ, vì chưa biết tin anh Nguyễn Nễ. Thời thế đổi khác nhiều từ
sau khi nhà Lê- Trịnh sụp đổ vào năm 1786. Hai anh Nguyễn Khản, Nguyễn Điều mất.
Nguyễn Du sau khởi nghĩa cùng Nguyễn Đăng Tiến tại Thái Nguyên thất bại, được
tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm tha chết, sang Vân Nam rồi đi giang hồ khắp Trung Quốc…
Tình hình Trung Quốc cũng chẳng yên. Do cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam mà
Càn Long phát động, người dân Trung Quốc phải đóng góp vật lực nuôi lính viễn
chinh, nên đời sống cơ cực, nghèo đói, không ai béo tốt. Thời thế trong giai đoạn
này, từ Việt Nam sang đến Trung Quốc, Nguyễn Du thấy đâu đâu cũng là sông
Mịch La, ai ai cũng là Thượng Quan; còn dưới triều Gia Long, thời thế đã ổn định,
Nguyễn Du ra làm quan được trọng dụng, được thăng tiến nhanh chóng, hẳn sẽ
không viết như thế. (4)
Chúng tôi chỉ đồng tình với ý kiến trên ở vế thứ nhất: Nguyễn
Du làm bài thơ này lúc đi giang hồ năm 22 tuổi.
Nguyễn Du như tranh luận trực tiếp với người trên hai ngàn
năm trước, tác giả của Chiêu hồn: Tống Ngọc - thuộc hàng học trò của Khuất
Nguyên, người nước Sở, lãng mạn và đa tình, tác giả của nhiều bài từ, phú.
(Trong Truyện Kiều có câu: Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. Tống Ngọc
là con người này, còn Tràng Khanh là Tư Mã Tương Như - cũng là một nhà từ phú nổi
tiếng, được Tư Mã Thiên dành cả một thiên trong Sử ký. Sớm tối Kiều phải
tiếp khách ở lầu xanh Tú Bà, nhưng toàn là khách phong lưu tài tử cỡ Tống Ngọc,
Trường Khanh, không phải là loại khách tầm thường). Các nhà nghiên cứu văn học
Trung Quốc cho biết: tác phẩm của Tống Ngọc gồm 16 thiên, trong đó có Cửu
biện, Chiêu hồn. Từ thể tao do Khuất Nguyên sáng tạo ra, Tống Ngọc đã
biến hóa để tạo ra thể phú. Ông cũng là người yêu chính nghĩa, ghét kẻ xu
nịnh hãm hại người hiền, và Cửu biện của ông là tác phẩm ưu tú nhất
trong các tác phẩm mô phỏng thơ ca Khuất Nguyên cho tới thời Hán cả về nội dung
lẫn nghệ thuật, thể hiện tình cảm thương tiếc Khuất Nguyên một cách sâu sắc và
tinh tế. Chiêu hồn đã phát huy, mở rộng nội dung và bút pháp của Cửu
biện. (5)
Tống Ngọc lập đàn giải oan cho Khuất Nguyên, đọc bài Chiêu
hồn cầu cho hồn được siêu thoát. Nhưng Chiêu hồn đã nói những gì
để Nguyễn Du phản bác lại quyết liệt đến thế, để rồi ông khuyên hồn Khuất
Nguyên không nên trở về cõi trần đầy kẻ thâm hiểm gian ác?(6) Thực ra,
bài Chiêu hồn giống như niệm chú của thầy phù thủy. (Một số nhà
nghiên cứu Trung Quốc còn cho rằng: trong tác phẩm này, hồn được gọi về chính
là hồn của một Sở vương nào đó). Điều khiến Nguyễn Du phản bác không phải là
cái nội dung trong bài từ của Tống Ngọc, mà là bản thân việc gọi hồn về trong bối
cảnh nước Sở bại vong, sau khi những hiền tài trung lương bị đày đọa, hãm hại…
Tống Ngọc kêu gọi hồn Khuất Nguyên hãy trở về nước Sở; còn những nơi Tống Ngọc
khuyên hồn Khuất Nguyên đừng về được miêu tả thật rùng rợn. Lúc sinh thời, Khuất
Nguyên đã để tâm hồn mình bay bổng tới để thoát ly cảnh sống ngột ngạt, tối
tăm, nguy hiểm của triều đình hủ bại, ông tìm thấy không phải hàng chục mặt trời
làm chảy đá ở biển Đông, hay băng tuyết phủ dầy phương bắc hoặc sa mạc cỏ cây
không mọc được phía tây, cũng như lũ mãng xà vương, bọn xăm trán, bọn răng đen
muốn ăn thịt hồn phương nam như Chiêu hồn dọa dẫm, mà là những hình ảnh
chói lọi, huy hoàng như cảnh thần tiên mà Ly tao đã miêu tả.
Phản chiêu hồn được viết theo thể cổ phong, thất ngôn
trường thiên, gồm có 20 câu.
Đầu tiên, Tống Ngọc gợi ý hồn nên về nước Sở, thì Khuất Nguyên
phản bác lại ngay bằng bốn câu:
Hồn hề! Hồn hề! Hồ bất quy? Đông tây nam bắc vô sở y. Thướng
thiên há địa giai bất khả, Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi? Hồn ơi! Hồn ơi! sao
không về? Đông tây nam bắc không có nơi nào nương tựa. Lên trời xuống đất đều
không được, Còn trở về thành Yên, thành Dĩnh làm gì?
Câu đầu tiên, Nguyễn Du như hiểu nỗi niềm bối rối của hồn trước
những lời kêu gọi tử tế, chân thành, là hồn hãy trở về nước Sở; nhưng, sau hai
câu cảm thán như một tiếng khóc, Nguyễn Du đưa ra câu hỏi tu từ, diễn tả sự chần
chừ của hồn và sự thắc mắc của tác giả lẫn người đọc: hồn sao không về?
Tiếp liền, ba câu sau là sự khẳng định một sự thật đau lòng,
nhằm lý giải ngay lập tức cái mắc mớ vừa nói trên: Đông tây nam bắc không có
nơi nào nương tựa, Lên trời xuống đất đều không được, Còn trở về thành Yên,
thành Dĩnh làm gì? Như vậy có khác gì nói thẳng với hồn: hồn đừng về trần gian
nữa, vì còn chỗ nào mà về, cả Đông Tây Nam Bắc, dưới đất trên trời. Còn thành
Yên, thành Dĩnh (Sính) - hai thành thuộc nước Sở, sao lại không thể về? Về
làm gì nữa, khi đó là địa ngục với hồn lúc còn trên dương thế! Khẩu khí luận
chiến gay gắt với Chiêu hồn ngay từ khởi đầu. Nguyễn Du như ngầm bảo
Tống Ngọc: gọi hồn Khuất Nguyên về làm gì nữa bởi bốn phương tám hướng đất trời
không còn nơi nào cho hồn “nương tựa” cả. Hai chữ “hồn hề!” điệp lại như tiếng
kêu xót thương não nùng: Hồn hề! Hồn hề! Hồ bất quy? Kinh đô nước Sở, và cả tổ
quốc của Khuất Nguyên chẳng còn tồn tại nữa để cho hồn dung thân! Hồn đã tuyệt
lộ! Hơn ai hết, Khuất Nguyên đau đớn khi phải rời xa thành Sính, và lẽ ra, ông
phải là người thiết tha mong được trở lại cố đô. Bài thơ dài Ai Sính của
ông như một tiếng khóc đau đớn ngày ông buồn thương cho kinh đô của nước Sở là
đất Sính bị Tần vây hãm, Sở Hoài Vương chịu nhục tại nước Tần:… Qua Hạ Thủ
sang tây trông lại/ Cửa thành rồng nhìn mãi thấy đâu!/ Thở dài ngắm dãy cây
cao/ Rưng rưng nước mắt tuôn trào như sương… (7)
Phần thứ hai, tám câu tiếp theo, nhà thơ nói với hồn về một
thế giới đau thương: Nhân dân lầm than, cái ác ngự trị, cùng những nguyên cớ
gây ra nỗi bi thảm đang diễn ra trên nước Sở thời ấy.
Thành quách do thị, nhân dân phi, thành quách vẫn còn đấy,
nhưng nhân dân đã khác, người không phải như xưa nữa đâu! Như xưa, Nguyễn Du muốn
nói tới thời Khuất Nguyên sống. Đó là thời cái kỳ: Trần ai cổn cổn ô nhân y. Bụi
bặm cuồn cuộn mù bay làm dơ bẩn quần áo. Trần ai (bụi) - hình ảnh tượng trưng
cho một thời loạn lạc, nhân dân lầm than, đau khổ, mà bụi bặm đó chính là cái
không gian ngầu đục, nhơ bẩn do lũ người “căn tính sói” đã tạo ra.
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa, hàm ý mỉa mai sâu cay: Ra ngoài
thì ruổi xe, ngựa xe tiền hô hậu ủng, vào nhà ngồi chễm chệ, ngồi lỳ trên ghế
quyền lực đã chiếm được bằng mọi thủ đoạn. Bọn nịnh thần được đặc tả bằng những
nét rất điển hình của kẻ cơ hội, kiêu ngạo, sống xa hoa: “ngựa ngựa xe xe”,
“vênh vênh váo váo”, và tọa đàm lập nghị giai Cao, Quì. Đứng ngồi bàn bạc như
hai bậc hiền thần Cao, Quỳ, mở miệng ra nói toàn điều nhân đức như ông Cao ông
Quỳ thời Nghiêu - Thuấn huyền sử, vốn là người thương dân thương nước thực sự.
So sánh như thế, Nguyễn Du đã vạch trần bản chất tàn ác, tham lam nhưng đạo đức
giả của bọn quan lại, quý tộc nước Sở khi đó đã trở thành kẻ thù không đội trời
chung của nhân dân. Chúng ta liên tưởng tới văn hào Lỗ Tấn thời hiện đại
trong Nhật ký người điên từng kể: giở lịch sử ra tra cứu, “trang nào
cũng có mấy chữ Nhân Nghĩa Đạo đức viết lung tung tí mẹt” nhưng đọc kỹ tới
khuya mới thấy từ đầu chí cuối ở giữa các hàng ba chữ : “Ăn thịt người”; và nhà
văn khái quát: “Bây giờ mới biết mình đã sống bao nhiêu năm ở một nơi mà người
ta ăn thịt lẫn nhau từ bốn nghìn năm nay!” (8)
Từ câu 5 đến câu 8, Nguyễn Du đã cố ghìm sự phẫn nộ trong sự
mỉa mai thực sâu cay.
Nhưng rồi Nguyễn Du đã không kìm được sự phẫn nộ nữa, ông cất
lời lên án nghiêm khắc như của một quan tòa, vạch ra bản chất lang sói của bọn
cầm quyền sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt dân lành, hèn hạ luồn cúi cầu thân
với giặc để cầu vinh, chúng đẩy cả một đất nước vào thảm cảnh điêu linh, nhân
dân bị áp bức, bóc lột tận xương tủy: Bất lộ trảo nha dữ giác độc, Giảo tước
nhân nhục cam như di! Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu, Chỉ hữu sấu tích, vô
sung phì. Không để lộ ra nanh vuốt nọc độc, Mà cắn xé thịt người ngọt xớt như
đường. Không thấy sao mấy trăm châu ở Hồ Nam, Chỉ có người gầy gò, không ai béo
tốt! Nguyễn Du đã vẽ lên sống động một loại người - thú có “vuốt nanh, sừng và nọc
độc” nhưng lại gian ngoan xảo quyệt, không để lộ thủ đoạn và hành động man rợ:
cắn xé thịt người ngọt xớt như đường!
Hồn hề! hồn hề! suất thử đạo,Tam Hoàng chi hậu phi kỳ thì.Tảo
liễm tinh thần phản thái cực,Thận vật tái phản linh nhân xi, Hậu thế nhân gian
giai Thượng Quan, Đại địa xứ xứ giai Mịch La, Ngư long bất thực, sài hổ thực, Hồn
hề! hồn hề! nại hồn hà? Hồn ơi! hồn ơi! nếu cứ noi theo lối đó, Thì sau Tam
Hoàng không hợp thời nữa. Hãy sớm thu góp tinh thần trở lại Thái Cực, Đừng trở
lại đây nữa để người ta mai mỉa. Đời sau đều là Thượng Quan, Khắp mặt đất đều
là sông Mịch La. Cá rồng không ăn, sói hùm cũng nuốt. Hồn ơi! hồn ơi! hồn làm
sao đây?
Tám câu cuối khuyên hồn phải sớm liệu về trời, nếu trở về nước
Sở lần nữa vẫn không thoát khỏi cái chết thảm khốc. Ngư Long - cá, rồng, sài hổ
- hùm, sói, những hình ảnh tượng trưng cho cái ác, mọi thế lực thù địch với
lòng nhân hậu, sự tử tế.
Sau sự phẫn nộ, giọng thơ đi vào chiều sâu tâm tình, khuyên
nhủ. Nguyễn Du dẫn sử sách: Sau thời Tam Hoàng (Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế,
ba vị vua cổ nhất của Trung Quốc) - xã hội lí tưởng, tốt đẹp ấy đâu còn, nếu hồn
cứ khăng khăng trở về là “không còn hợp thời nữa” tất sẽ bị người “mỉa mai” chê
cười và xa lánh. Nguyễn Du khuyên hồn trở về với Thái cực - thuở ban đầu của trời
đất, thời hoang sơ, khi con người còn chưa biết đâm chém hãm hại lẫn nhau bởi
quyền lợi ích kỷ. Nhưng bảo Hồn đừng về đây nữa, để người ta khỏi mai mỉa chỉ
là một cách nói giảm khinh, bởi điều đáng sợ nhất đối với Hồn chính là sự thật
này: Đời sau đều là Thượng Quan, Khắp mặt đất đều là sông Mịch La. Cá rồng
không ăn, sói hùm cũng nuốt. Thượng quan Ngân Thượng là quan địa phu nước Sở đã
dâng đất cho Tần, xúi vua xa lánh ruồng rẫy Khuất nguyên, rồi cùng đồng bọn
thao túng vua Sở làm khổ dân để vinh thân phì gia. Nguyễn Du muốn nói với Hồn:
người đời nay và hậu thế trên đất Sở đều cùng một duộc với bọn Thượng Quan Ngân
Thượng đó! Mịch La là nơi hợp lưu của hai sông là Mịch và La, nơi Khuất nguyên
trầm mình, trong lời gọi Hồn, lại trở thành một địa danh khủng khiếp tượng
trưng cho chốn địa ngục của những người trung nghĩa, mà thế gian này khi còn loại
người như Thượng Quan thì mọi nơi chốn đều trở thành Mịch La! Đâu chỉ có bọn nịnh
thần Thượng Quan thời ấy, mà khắp mọi nơi trên thế gian này đã/ đang đầy rẫy
cái ác và cạm bẫy giết người. (Trong bài Tháng năm xem đua thuyền, Nguyễn
Du cũng nói với Hồn Khuất Nguyên: Trong khói sóng mênh mông, lòng ta luống những
đau thương và oán giận. Hàng năm chiêng trống chỉ để vui chơi, nô đùa. Hồn
có về thì cũng không có nơi chốn để nương tựa. Rắn rồng quỉ quái ở khắp nhân
gian). Trong sự phẫn uất tột độ, Nguyễn Du vẫn đủ sự tỉnh táo để khái quát về
nhân tình thế thái - không chỉ về nước Sở thời Chiến quốc mà về cả xã hội đương
thời, ở nước ông và đất nước Trung Hoa ông đang trải nghiệm bằng vốn văn hóa lịch
sử và bằng thực tế “sở kiến”, những điều trông thấy mà đau đớn lòng! Bọn
vua chúa suy đồi, bọn gian thần và nhân dân nước Sở được Nguyễn Du đặt trong thế
đối lập tương phản gay gắt, để nói lớn với Hồn như một tiếng thét đau đớn: Hồn
ơi, hồn không còn chỗ nương tựa nào nữa đâu! Hồn vốn thanh cao, trong sạch, làm
sao có thể về nước Sở để sống cùng bọn ác thú ăn thịt người ấy được! Đó chính
là nguyên cớ thực sự và sâu xa chống lại việc chiêu hồn, chống lại bài Chiêu
hồn.
Câu kết: Hồn hề! Hồn hề! nại hồn hà? Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn biết
làm thế nào, một câu hỏi thấm đầy nước mắt, gần như lặp lại câu đầu: Hồn hề! Hồn
hề! Hồ bất quy? Hồn ơi! Hồn ơi! Sao không về? góp phần diễn tả tâm trạng quẩn
quanh, bối rối, lo nghĩ, khó xử của Hồn, bởi Hồn vốn là người trung hậu, giàu
tình yêu thương, dễ tin người, vì thế mà bao lần bị kẻ tiểu nhân cho sa bẫy, và
cho đến chết vẫn ôm mối cô trung đáng thương. Trước khi Nguyễn Du “Bắc hành”,
có nhiều bài thơ, câu thơ trong Thanh hiên thi tập và Nam trung
tạp ngâm cũng mang không khí bi thương và tâm trạng phẫn uất không
kém Phản chiêu hồn, như Bát muộn (Xua nỗi buồn): Cát bụi
che mờ thềm ngọc mười năm nay. Thành phủ xây dựng trăm năm trước, một nửa thành
gò hoang, Các loài chim nhỏ bé đều bay lên cao hết. Sau các cuộc huyết chiến,
cõi càn khôn trở nên nhơ nhớp. Quê nhà trong cơn binh lửa hẳn đã tiêu điều, Ở
xa muôn dặm nghĩ đến mà rơi nước mắt. Bạn bè, bà con chỉ còn lại mấy hàng thư
dưới đèn. Đêm thu vắng, cá rồng lặng lẽ, trăm mối u hoài chưa dẹp được chút
nào! (Thập tải trần ai ám ngọc trừ, Bách niên thành phủ bán hoang khư.Yêu ma
trùng điểu cao phi tận,Trĩ uế càn khôn huyết chiến dư.Tang tử binh tiền thiên
lý lệ,Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư. Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ, Bách chủng
u hoài vị nhất sư).
Nhà nghiên cứu Trương Chính băn khoăn: “Lời thơ trong
bài Phản chiêu hồn, sôi nổi mà đầy oán hận, không ra vịnh sử hoài cổ. Vì nếu
thế thì giọng phải điềm tĩnh hơn, buồn man mác hơn, chứ đâu có cái ảo não thắt
ruột, thắt gan đến thế.” (9) Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên nhận định: “Đại địa
xứ xứ giai Mịch La! Bi phẫn biết chừng nào! Sao Nguyễn Du, con người hay sầu mộng
và đa cảm nữa, lại có thể bất ngờ vút lên một câu thơ khái quát vĩ đại đến thế?... Phản
chiêu hồn cũng như Hamlet là sự khẳng định chủ nghĩa nhân văn bằng
cái nhìn phủ định.” (10) Còn nhà thơ Xuân Diệu thì có cảm xúc đặc biệt:
“nhìn chung thơ trong Bắc hành tạp lục, đa phần để lại cảm giác chung của
một buổi chiều thu tê tái. Buổi chiều đó là xã hội phong kiến ở Việt Nam, ở
Trung Quốc, phản ảnh trong tâm hồn Nguyễn Du. Trên con đường đi sứ, nhà thơ được
thấy nhiều cảnh xưa nổi danh và đây là những dịp tức cảnh, đề vịnh, cảm hoài…
Nhưng Nguyễn Du là một tâm hồn nghệ sĩ lớn, nên có những cái vượt bậc đột ngột,
có những cái lượng biến thành chất kỳ diệu, nghĩa là trong cái buổi chiều thu
tê tái trên bỗng nhiên có sấm chớp mưa gió bão bùng, có bài Phản Chiêu hồn,
căm giận trên đầu tóc dựng...” (11)
Nhiều bài viết đã nêu ra: giá trị tố cáo hiện thực gắn liền với
tinh thần nhân đạo bao la là cốt cách, là vẻ đẹp của bài thơ Phản chiêu hồn.
Điều đó là chính xác, song chưa đủ. Chúng tôi nghĩ, gần đây, có một số nhà
nghiên cứu đã đi sâu vào tập Bắc hành tạp lục dưới khía cạnh tìm hiểu
tư tưởng “giải ảo, giải thiêng” Trung Hoa cũng như chế độ phong kiến mạt kỳ,
con đường này có thể giúp chúng ta giải mã được rất nhiều giá trị còn ẩn sâu
trong thơ chữ Hán Nguyễn Du nói chung, bài Phản chiêu hồn nói riêng.
Bài viết Nguyễn Du, từ giải ảo Trung Hoa đến giải thiêng chế độ phong kiến của
nhà nghiên cứu Nguyễn Phạm Hùng là khá tiêu biểu, có đoạn: “Dường như, bằng nghệ
thuật, Nguyễn Du muốn nói rằng, Trung Hoa không phải là mảnh đất “thiên đường”
như nhiều người ảo tưởng, mà chỉ là một “mảnh đất lắm người nhiều ma”, cũng đầy
đau khổ và bất trắc.”(12)
Trong Phản chiêu hồn, chúng ta nhận ra: Nguyễn Du như
mang trong lòng nỗi “ly ưu”, uất hận nóng bỏng của chính Khuất Nguyên, với tư
cách là một “đồng tâm nhân”, ông thay mặt Khuất Nguyên ném ra lời lên án, phán
xét hùng hồn, nghiêm khắc của một sử gia, và với sức mạnh của sự “phân tích tâm
lý tàn nhẫn” (Phan Ngọc) của một nhà văn lớn.
MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN
Chú thích:
Chú thích:
1, 2, 3. Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội
Trinh sớ. Thủy kinh chú sớ. Nguyễn Bá Mão dịch, Nxb Thuận Hóa và TT Văn hóa
Ngôn ngữ Đông Tây, 2005 tr. 568
4. Nguyễn Du trên quê hương Khuất Nguyên. Vanhoanghean
5. Sở nghiên cứu văn học, Viện KHXH Trung Quốc. Lịch sử văn học
Trung Quốc. Tập I. Nhiều người dịch. Nxb Giáo dục 1997, tr.121-125
6. Bài Chiêu hồn: Hồn hỡi hồn về đây đừng ra bể Đông/ Ở
đó hàng chục mặt trời làm chảy đá, chảy kim loại/ Hồn sẽ tiêu tan thành nước, đừng
tin cậy vùng đó./ Hồn hỡi hồn về đây, đừng đi về hướng Tây/cát mềm ngàn dặm sa
mạc mênh mông/ Ngũ cốc không mọc, sông hồ cạn queo/ Hồn sẽ bị đốt chóng khô,
nên tránh hướng đó./ Hồn hỡi hồn về đây đừng lên miền Bắc,/ Băng giá như núi,
tuyết phủ ngàn dậm,/ Hồn hỡi hồn về đây đừng xuống phương Nam,/ Đó là xứ
rắn mãng xà vương khổng lồ,/ Bọn xăm trán, bọn răng đen sẽ ăn thịt,/ Hồn để
cúng tế, nấu xương hồn làm canh... (Bình Nguyên Lộc. Nguồn gốc Mã Lai của
dân tộc Việt Nam, Sài Gòn, 1971, tr. 808-809). Theo Bình Nguyên Lộc, đất phương
nam tả trong bài thơ Chiêu hồn không phải là nước Văn Lang hay Âu Lạc, mà đại
khái là vùng Lĩnh Nam. Người Việt tộc ở Lĩnh Nam xăm trán, nhuộm răng đen. Người
Lạc Việt tổ tiên ta cũng xăm trán, nhuộm răng đen. Tức cái tục xăm da, nhuộm
răng là tục chung của nhiều nhóm Bách Việt.
7. Theo: Văn học Trung Quốc - Tài liệu tham khảo, tập 1. NXB
Giáo dục, 1963.
8. Lỗ Tấn. Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học 2004,
Trương Chính dịch, tr. 20, 31
9. Trương Chính. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nhà xuất bản Văn học.
1978.
10. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. Nguyễn Du toàn tập, TII.
Mai Quốc Liên - Vũ Tuân Sán dịch nghĩa, chú thích. Nxb Văn học 2015. tr. 11.
11. Xuân Diệu. Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Tập I. Nxb Văn học 1981.
12. Viện hàn lâm KHXHVN và Viện văn học. Di sản văn chương
đại thi hào Nguyễn Du: 250 năm nhìn lại. Nxb KHXH,HN 2015. Tr. 276. Xin tham
khảo thêm bài: Bắc hành tạp lục- sự thức ngộ của Nguyễn Du về Trung Hoa của Trần
Thị Băng Thanh, cũng trong sách này.
Bài III: Bạn đồng tâm
xưa nay được mấy người?
Tám bài thơ viết về Khuất Nguyên hoặc có liên quan tới Khuất
Nguyên mà chúng tôi đã/ sẽ khảo sát đều được đại thi hào Nguyễn Du viết khi chu
du trên sóng nước Tiêu Tương, vùng Hồ Nam - nơi nổi tiếng với “Tiêu Tương bát cảnh”
từng thu hút cảm hứng vô hạn của bao thế hệ văn nhân, nghệ sĩ Triều Tiên, Nhật
Bản, Việt Nam… Đặc biệt là thơ đi sứ của Việt Nam, theo thống kê của một nhà
nghiên cứu Trung Quốc, trong toàn bộ tác phẩm của 53 sứ giả Việt Nam từ thế kỷ
XIV đến thế kỷ XIX, thơ có nội dung viết về Hồ Nam, Tiêu Tương có tới hơn 700
bài! (1) Một nhà nghiên cứu Trung Quốc khác sau khi thống kê sáng tác của
Nguyễn Du trong Bắc hành tạp lục (có 132 bài, từ bài số 24 Thương
Ngô tức sự đến bài số 64 Nhạc Dương lâu, hơn 40 bài thơ này đều viết ở
đoạn hành trình Hồ Nam - Tiêu Tương, tỷ lệ chiếm một phần tư cả tập), đã so
sánh với mảng thơ cảm hoài của các sứ thần Việt nam, rồi đi tới nhận định: “Các
danh nhân lịch sử thường được các sứ thần Việt Nam đề cập như Khuất nguyên, Giả
Nghị, Liễu Tông Nguyên, Chu Đôn Di,… trong đó những bài thơ viết về Khuất
Nguyên, Giả Nghị chiếm tới bảy tám mươi phần trăm… Thông qua những bài thơ này,
chúng ta không chỉ thấy sự am hiểu của sứ thần Việt Nam đối với kinh điển, điển
cố Trung Quốc, đó còn là sự kết hợp tuyệt vời giữa tài học và tình cảm cao thượng
được tu dưỡng trong bản thân các sứ thần Việt Nam. Nói về thơ vịnh danh nhân,
không thể không kể tới những bài thơ viết theo thể thất luật của Nguyễn Du,
như Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu, Trường Sa giả Thái phó, Vĩnh Châu Liễu
Tử Hậu cố trạch, những bài thơ này thảy đều viết hết sức cảm động.” (2)
Chúng ta tiếp tục tìm hiểu về mảng thơ viết về Hồ Nam - Tiêu
Tương của Nguyễn Du có liên quan tới Khuất nguyên.
5. Biện Giả
Bất thiệp Hồ Nam đạo,
An tri Tương Thuỷ thâm?
Bất độc Hoài sa phú
An thức Khuất Nguyên tâm?
Khuất Nguyên tâm, Tương giang thủy,
Thiên thu vạn thu thanh kiến để.
Cổ kim an đắc đồng tâm nhân,
Giả sinh nhất phú đồ vi nhĩ.
Liệt nữ tòng lai bất nhị phu,
Hà đắc thê thê “tướng cửu châu”.
Vị tất cổ nhân tri hữu ngã,
Nhãn trung Tương Thuỷ, không du du!
辯賈
不涉湖南道,
安知湘水深。
不讀懷沙賦,
安識屈原心。
屈原心湘江水,
千秋萬秋清見底。
古今安得同心人,
賈生一賦徒為耳。
烈女從來不二夫,
何得栖栖相九州。
未必古人知有我,
眼中湘水空悠悠。
Dịch nghĩa:
Không đi qua Hồ Nam, Sao biết sông Tương sâu. Không đọc phú
Hoài sa, Sao hiểu lòng Khuất Nguyên. Lòng Khuất Nguyên, nước sông Tương, Nghìn
thu vạn thu trong suốt thấy đáy. Xưa nay mấy ai có được bạn đồng tâm. Bài phú của
thư sinh họ Giả chẳng có nghĩa lý gì, Liệt nữ xưa nay không lấy hai chồng, Cần
gì phải tất tả đi khắp chín châu tìm vua khác. Chưa chắc người xưa biết có ta,
Trước mắt dòng sông Tương lững lờ trôi mãi…
Bản dịch thơ của Mai Quốc Liên:
BÁC GIẢ NGHỊ
Chẳng qua đất Hồ Nam
Sao biết sông Tương sâu?
Chẳng đọc phú Hoài Sa.
Sao biết Khuất Nguyên đau.
Lòng Khuất Nguyên, nước sông Tương
Ngàn năm vạn năm trong thấy đáy.
Đồng tâm xưa nay được mấy ai,
Bài phú Giả sinh vô nghĩa lý
Liệt nữ xưa nay lấy một chồng
Sao lại tìm vua trong chín cõi?
Chắc gì người xưa biết có ta.
Trước mắt dòng Tương dằng dặc mãi.
Vương Trọng dịch thơ:
Đất Hồ Nam chưa qua
Tương Thuỷ sâu sao biết?
Chưa đọc phú Hoài sa
Lòng Khuất Nguyên cách biệt.
Lòng Khuất Nguyên, nước Tương Giang
Trong veo thấu đáy hàng ngàn vạn năm
Cổ kim hiếm bạn đồng tâm
Những lời Giả Nghị chỉ nhàm đôi tai
Một chồng, liệt nữ xưa nay
Khuất Nguyên sao có thể thay vua thờ?
Sông Tương trước mặt lững lờ
Người xưa chắc cũng không ngờ có ta.
Giả Nghị (200-168 TCN) người Lạc Dương (nay thuộc Hà Nam) là
một nhà từ phú và chính luận nổi tiếng thời Tây Hán. Ngoài hai mươi tuổi làm
quan cố vấn cho nhà vua, không đầy một năm, thăng lên làm Thái Trung Đại Phu (đảm
nhiệm chức quan nghị luận, ngự sử), nhiều lần dâng vua nghị luận chính trị
đương thời, đề xuất chủ trương cải cách, nhưng bị các đại thần bài xích, ông bị
biếm đẩy ra khỏi triều đình làm Thái Phó Trường Sa. Bất đắc chí chết năm 33 tuổi.
Khi đi qua sông Tương, ông làm bài phú Viếng Khuất Nguyên, đồng thời than
thở cảnh ngộ mình. Tư Mã thiên đã chép về Giả Nghị chung một thiên với Khuất
Nguyên trong Sử ký.
Nguyễn Du viết: Không đi qua Hồ Nam, Sao biết sông Tương sâu?
Không đọc phú Hoài sa, Sao hiểu lòng Khuất Nguyên? (phú Hoài sa là tên một
thiên trong Cửu Chương gồm: Quất tụng, Tích tụng, Trừu tư, Tư mỹ nhân, Bi
hồi phong, Thiệp giang, Ai Sính, Hoài sa, Tích vãng nhật). Trong Hoài Sa
phú Khuất Nguyên nói lên nỗi lòng bi phẫn của mình sinh không gặp thời, ví
mình như ngọc tốt mà không có kẻ dùng, chỉ cái chết mới có thể kết thúc được nỗi
đau vô hạn. Sử Ký kể: Hoài Sa được viết sau khi trò chuyện
lần cuối với ông lão đánh cá trong tưởng tượng (Ngư phủ từ), như một “tuyệt mệnh
từ”, trước khi ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La.
Nguyễn Du cho rằng không ai hiểu Khuất Nguyên bằng mình, kể cả
Giả Nghị, và cần đọc Hoài Sa phú để có thể cảm nhận được tấm lòng Khuất
Nguyên như một bạn đồng tâm hiếm có xưa nay, như ông: Khuất Nguyên tâm, Tương
giang thuỷ, Thiên thu vạn thu thanh kiến để. Cổ kim an đắc đồng tâm nhân- Lòng
Khuất Nguyên, nước sông Tương, Nghìn thu vạn thu vẫn trong suốt thấy đáy, Xưa
nay mấy ai có được bạn đồng tâm.
Chúng ta hãy thử đọc “tuyệt mệnh từ” Hoài sa phú để
hiểu nỗi lòng Khuất Nguyên như Nguyễn Du đề nghị. (3)
Hãy trở lại những lời thơ ngắn gọn mà trang trọng như nỗi niềm
thổn thức của Nguyễn Du trước dòng sông Tương trong suốt tưởng nhớ Khuất
Nguyên. Sau khi nói về cái lẽ đời chẳng mấy ai có được bạn đồng tâm tương khí,
Nguyễn Du bắt đầu nói về bài phú của người dù yêu quý trân trọng Khuất Nguyên,
dù đã ném bài viếng xuống sông Tương như mấy tiền nhân đã làm để tìm sự đồng cảm,
song đã không hiểu thấu tấc lòng của Khuất Nguyên bằng câu viếng: Lịch cửu châu
nhi tướng kỳ quân hề, hà tất hà thử đô dã (Trải chín châu mà tìm vua, hà tất ôm
lấy cố đô ấy mà nhớ mong), có hàm ý chê Khuất Nguyên ngu trung, cổ hủ. Nguyễn
Du đã bác lại luận điểm mà theo ông chẳng có nghĩa lý gì (đồ vi nhĩ) của người
thư sinh họ Giả: Liệt nữ tòng lai bất nhị phu, Hà đắc thê thê “tướng cửu châu”.
Liệt nữ xưa nay không lấy hai chồng. Cần gì phải tất tả đi khắp chín châu tìm
vua khác. Khi viết Phản Chiêu hồn, Biện Giả Nghị, Nguyễn Du rõ ràng đã thấy
rằng: Tống Ngọc và Giả Nghị tuy đều là những nhân sĩ có lòng thương tình trọng
tài của Khuất Nguyên một cách chân thành, song đã không thấu hiểu tấc lòng cùng
ý chí cao vời của ông. Nguyễn Du phản đối Giả Nghị chê Khuất Nguyên không biết
đi khắp chín châu mà tìm vua khác, trong khi đó lại kêu gọi Hồn đừng trở về nơi
có vua ấy ngự, tưởng đâu có sự mâu thuẫn; song thực ra, điều gan ruột mà Nguyễn
Du muốn bộc bạch là: nếu có đi tìm vua khác, hay tìm chốn dung thân, thì cần
tìm về chốn thái hư (Tảo liễm tinh thần phản thái cực- Phản chiêu hồn) - nơi
trong sạch, nguyên sơ có thể sản sinh nuôi dưỡng những vị vua biết quý trọng hiền
tài… Hơn nữa, chúng ta cần nhớ, Nguyễn Du cũng từng chê trách sự thiếu sáng suốt
của Phạm Tăng- người chỉ biết giữ lòng trung với nước Sở mà không chịu hiểu “mệnh
trời” đã thuộc về nhà Hán: Bao nhiêu kẻ hết lòng trung với người mình thờ, Thường
bị thiên hạ cười là ngu (Đa thiểu nhất tâm trung sở sự, Mỗi vi thiên hạ tiếu kỳ
ngu. Á phủ mộ). Và cũng chính Giả Nghị đã cho rằng mình lầm, chưa hiểu nổi Khuất
Nguyên; theo Sử ký: “Thái sử công nói: tôi đọc Ly tao, Thiên vấn,
Chiêu hồn, Ai Sính thương cho chí ông. Tôi sang Trường Sa xem quãng sông
Khuất Nguyên trẫm mình, không lần nào không khóc. Khi thấy Giả Sinh viếng ông,
tôi lấy làm lạ về chỗ tài giỏi như Khuất Nguyên nếu đi sang chư hầu thì nước
nào mà chẳng dùng, tại sao làm khổ mình như thế? Đến khi đọc bài phú Phục
điểu thấy nói đến việc coi sống chết như nhau, coi thường việc đi hay ở, bấy
giờ lòng luống bâng khuâng tự biết là lầm!” (4) (Bài Phục điểu
phú - phú con cú, Giả Nghị viết: “Sống như trôi chừ, chết kia như nghỉ”- ý
nói Khuất Nguyên là một người không phải như hạng Tô Tần lo mưu lợi cho mình mà
là người yêu nước cho nên coi thường sự sống chết”). Không phải ngẫu nhiên mà
Tư Mã Thiên đã chép Khuất Nguyên và Giả Nghị vào chung một thiên trong Sử
ký.
Từ những suy tư về chính sự đó, Nguyễn đi vào hai câu kết: Vị
tất cổ nhân tri hữu ngã, Nhãn trung Tương Thủy, không du du! Chưa chắc người
xưa biết có ta, Trước mắt sông Tương lững lờ trôi mãi.
Người xưa biết hay không biết đến ta, đâu có phải là điều
đáng bận tâm, điều quan trọng là ta đã hiểu nỗi niềm người mà ta kính phục, thế
là đủ; và dòng sông ngàn đời vẫn cứ lững lờ trôi theo quy luật, bất chấp mọi thị
phi, hiểu lầm, sỉ nhục, sự sủng ái hay thất sủng, để lưu dấu trong đáy lòng
sông hình bóng một Con người mà thế gian muôn đời thương xót, quý trọng, cảm phục.
Nếu ở bài thơ Biện Giả Nghị, Nguyễn Du có ý chê trách
chàng thư sinh đời Hán không hiểu Khuất Nguyên, thì ở bài thơ sau đây, ông lại
có thái độ khác hẳn đối với người được chép chung một thiên với Khuất Nguyên
trong Sử ký, điều đó có lý do xác đáng mà ông sẽ diễn giải chân tình:
6. Trường Sa Giả thái phó
Giáng Quán võ nhân hà sở tri,
Hiếu Văn đạm bạc đạn canh vi.
Lập đàn bất triển bình sinh học,
Sự chức hà phương chí tử bi.
Thiên giáng kỳ tài vô dụng xứ,
Nhật tà dị vật hữu lai thì.
Tương Đàm chỉ xích tương lân cận,
Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi.
長沙賈太傅
絳灌武人何所知,
孝文澹泊憚更為。
立談不展平生學,
事職何妨至死悲。
天降奇才無用處,
日斜異物有來時。
湘潭咫尺相鄰近,
千古相逢兩不違。
Dịch nghĩa:
GIẢ THÁI PHÓ Ở TRƯỜNG SA
Giáng Hầu, Quán Anh là những kẻ võ biền có biết gì. Vua Hiếu
Văn không tha thiết gì cả nên sợ thay đổi. Đứng mà bàn luận suông không thể bày
tỏ cái học một đời mình. Làm hết chức phận, còn ngại gì mà đến nỗi phải chịu chết
đau thương. Trời ban cho tài lạ mà không có chỗ dùng. Trong bóng chiều tà có
lúc chim lạ đến. Tương Đàm với đây gần nhau chỉ trong gang tấc. (Sống cách
nhau) nghìn năm, gặp nhau, cả hai bên không có gì trái nhau.
Vương
Trọng dịch thơ:
Biết gì Quán, Ánh võ biền
Hiếu Văn sợ mới, chỉ quen duy trì
Giúp vua chẳng được mấy khi
Không tròn phận sự, chết đi tỏ lòng
Kỳ tài không có chỗ dùng
Điềm hung, chim lạ báo ông chiều tà
Tương Đàm gần với Mịch La
Ngàn năm ý hợp hai nhà gặp nhau.
Đất Hồ Nam chưa qua
Tương Thuỷ sâu sao biết?
Chưa đọc phú Hoài sa
Lòng Khuất Nguyên cách biệt.
Lòng Khuất Nguyên, nước Tương Giang
Trong veo thấu đáy hàng ngàn vạn năm
Cổ kim hiếm bạn đồng tâm
Những lời Giả Nghị chỉ nhàm đôi tai
Một chồng, liệt nữ xưa nay
Khuất Nguyên sao có thể thay vua thờ?
Sông Tương trước mặt lững lờ
Người xưa chắc cũng không ngờ có ta.
Giả Nghị là bậc hiền tài, muốn cải cách nhưng gặp bọn võ tướng
nắm giữ triều chính chẳng biết gì, nhà vua Hiếu Văn, tính cũng ngại mọi sự đổi
thay nên Giả Nghị bị đày ra làm Thái Phó Trường Sa. Được ba năm thì chết vì bất
đắc chí, tài không có chỗ dùng. Giả Nghị với Khuất Nguyên: hai người ở cách
nhau ngàn năm, nhưng Tương Đàm và Trường Sa cách nhau không xa. Hai người cùng
gặp gỡ nhau chỗ này, người thì ôm đá trẫm mình, người thì làm thơ viếng thả xuống
sông, phải có mối đồng cảm ở mức độ sâu xa.
Nguyễn Du đưa ra những nhân vật lịch sử mà ông đánh giá trực
tiếp về tài năng, nhân cách để đối lập với Giả Nghị: Giáng Hầu (tước Chu Bột)
và Quán Anh đều là võ tướng, có công khai quốc nhà Hán được Hán Văn Đế trọng dụng,
nhưng thực chất chỉ là bọn võ biền. Vua Hiếu Văn tức Hán Văn Đế tính đạm bạc chẳng
thiết tha gì nên ngại mọi sự thay đổi. Sau đó, ông luận bàn về cách hành xử của
Giả Nghị, có ý tiếc cho người tài năng, tâm huyết mà không thức thời, thiếu tỉnh
táo: Đứng mà luận bàn thì không thể bày tỏ hết cái học một đời mình. Làm hết chức
phận, còn ngại gì mà đến nỗi phải nhận cái chết đau thương. (Đương thời có câu
thơ khen Giả Nghị: Cố nhân sự nhất chức, khởi cám cấu nhiêu vi, nghĩa là người
xưa giữ chức vụ gì không dám làm cẩu thả; đồng thời cũng nói tới chuyện Giả Nghị
coi cái chết của Lương Hoài vương do ngã ngựa là bởi mình không làm tròn trách
nhiệm, nên đau buồn mà mất năm mới 33 tuổi.) Nhưng sau khi có hàm ý trách nhẹ
như thế, Nguyễn Du liền bày tỏ mối đồng cảm sâu sắc với người Thiên giáng
kỳ tài vô dụng xứ. Bởi chính ông trong nhiều năm ròng cũng là người ôm nỗi niềm
tương tự: Trời ban cho tài lạ mà không có chỗ dùng, Đeo đẳng thông minh để thiệt
đời (Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân - Tự thán II), Văn chương bình sinh như
chim phượng trong lồng nát (Sinh bình văn thái tàn lung phượng - Tống Nguyễn Sĩ
Hữu Nam quy). Giữa cảnh hoàng hôn cô quạnh trên sông Tương, Nguyễn Du tưởng tượng
ra cảnh một con chim lạ đến đậu bên chỗ Giả Nghị ngồi khiến ông rất lo lắng,
cho là điềm gở: Trong bóng chiều tà có lúc chim lạ đến. Và chi tiết này tựa một
ký ức lóe sáng giúp Nguyễn Du chợt nhận thấy oan hồn Khuất Nguyên quanh quất
đâu đây, giữa mối “liên tài liên tình” giữa những con người xa cách trong thời
gian song lại xiết bao gần gũi trong không gian: Tương Đàm với đây gần nhau chỉ
trong gang tấc. (Sống cách nhau) nghìn năm, gặp nhau, hai bên không có gì trái
ngược nhau, chung một nỗi chua cay! Viết về Giả Nghị cũng là thêm một cơ hội để
Nguyễn Du tưởng nhớ tới con người mà ông xót thương, ngưỡng mộ vô hạn.
7. Ngũ nguyệt quan cạnh độ
Hoài Vương qui táng, Trương Nghi tử,
Sở quốc từ nhân ký bội lan.
Thiên cổ chiêu hồn chung bất phản,
Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan.
Yên ba diểu diểu không bi oán,
La cổ niên niên tự tiếu hoan.
Hồn nhược quy lai dã vô thác,
Long xà quỷ vực biến nhân gian.
五月觀競渡
懷王歸葬張儀死,
楚國詞人記佩蘭。
天古招魂終不返,
滿江爭競太無端。
煙波渺渺空悲怨,
羅鼓年年自笑歡。
魂若歸來也無托,
龍蛇鬼蜮遍人間。
Dịch nghĩa:
THÁNG NĂM XEM ĐUA THUYỀN
Hài cốt của Hoài Vương được đưa về chôn (ở nước Sở), Trương
Nghi đã chết. Nhớ người thơ nước Sở đeo hoa lan. Nghìn thuở gọi hồn nhưng cuối
cùng hồn chẳng về. Đầy sông đua tranh thuyền, thật chẳng có nghĩa lý gì. Trong
khói sóng mênh mông, (lòng ta luống) những đau thương và oán giận. Hàng năm
chiêng trống chỉ để vui chơi nô đùa. Hồn ví có về thì cũng không có nơi chốn
nương tựa. Rắn rồng quỷ quái ở khắp nhân gian.
Bùi Kỷ - Phan Võ - Nguyễn Khắc Hanh dịch thơ:
Hoài vương quy táng, Trương Nghi chết,
Nước Sở còn ghi khách bội lan.
Nghìn thuở gọi hồn nào có thấy?
Đầy sông đua chải thật thêm nhàm!
Nước mây nhiều lúc sầu thương hão,
Chiêng trống hàng năm hát múa tràn.
Nếu thật hồn về không chỗ ở,
Rắn rồng quỷ quái khắp nhân gian.
Vương Trọng dịch thơ:
Hoài Vương táng, Trương Nghi tiêu
Lòng dân nước Sở nhớ nhiều Khuất Nguyên
Ngàn xưa, phí hội đua thuyền
Gọi hồn, hồn chẳng chịu lên lần nào
Mịt mù khói sóng nhìn đau
Hàng năm chiêng trống gọi nhau tưng bừng
Giá hồn về được, cũng đừng
Rắn, rồng, quỷ quái khắp vùng nhân gian
Theo ông Phạm Trọng Chánh, Nguyễn Du viết bài Ngũ Nguyệt
Quan Cạnh Độ khi đi giang hồ năm 1789, ngày mùng 5 tháng 5 Ất Dậu. Trên khắp
sông Tương ngày này có tổ chức đua thuyền, và ném bánh lá tro xuống sông tưởng
nhớ Khuất Nguyên. Khi đi sứ, Nguyễn Du đi qua nước Sở từ 18-7 đến 30 tháng 7
năm Quý Dậu (1813). Ngày mùng 5 tháng 5, Nguyễn Du còn ở thành phủ Ngô
Châu. Đợt về thì ngày 29-3 năm Bính Tuất, Nguyễn Du đến Trấn Nam Quan, do đó
không thể dự tết Đoan Ngọ tại sông Tương (5). Chúng tôi tán thành luận điểm
này.
Câu đầu là một dòng thơ mang tính chất sử ký cô đúc lịch sử:
Hoài Vương vua nước Sở không nghe lời can của Khuất Nguyên cứ đi hội với vua Tần,
bị Tần bắt giữ lại, sau khi chết mới được đưa về nước Sở chôn. Trương
Nghi là nhân vật thuyết khách chủ trương thuyết “liên hoành” liên kết
sáu nước Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy để phò Tần chống thuyết “hợp tung” sáu
nước hợp thành một để đánh Tần của Tô Tần. Trương Nghi từng làm tướng quốc nhiều
nước, từng sang Sở mua chuộc các đại thần và Trịnh Tụ, vợ yêu của Sở Hoài
Vương, dèm Khuất Nguyên để Khuất Nguyên bị đi đày và hắn ta làm tướng quốc. Sau
bị lộ mưu, chạy về Tần rồi sang Ngụy, chết ở Ngụy.
Câu hai trực tiếp nói về Khuất Nguyên: Sở quốc từ nhân ký bội
lan, nhớ người đeo hoa lan nước Sở, gợi đến Ly tao có câu: Xâu kết
hoa lan để đeo vào người (Nhận thu lan dĩ vi bội), một câu thơ mà khái
quát lên toàn bộ nhân cách cao quý của một con người hương thơm lưu truyền mãi
từ ngàn xưa tới nay. Nhưng Thiên cổ chiêu hồn chung bất phản, cũng trong nghìn
thuở ấy, nỗi oan của Hồn lớn đến nỗi biết bao người viếng hồn, gọi hồn, nhưng hồn
chẳng thể về, nỗi buồn nặng trĩu cả câu thơ! Hồn chẳng về bởi nhiều lý do,
trong đó có cảnh tượng bày vẽ hình thức: Đầy sông đua tranh thuyền, thật chẳng
có nghĩa lý gì. (Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan). Chính vì thế mà Yên ba diểu
diểu không bi oán - Trong khói sóng mênh mông, lòng ta xiết bao đau thương và
oán giận, có cả nỗi bi oán của Khuất Nguyên khi đương thời không hiểu ông và đến
ngàn năm sau vẫn chưa hiểu nổi, thế nhưng, bao thế kỷ qua, hàng năm chiêng trống
vẫn diễn ra chỉ để vui chơi nô đùa phù phiếm, (La cổ niên niên tự tiếu hoan).
Hai câu thơ trong liên 2 và 3 (thực và luận) như đay lại cùng một ý: sự vui
chơi vô tâm chẳng có nghĩa lý gì hết trong ngày 5 tháng 5, thực ra để chuẩn bị
cho hai câu kết nặng nề phản ánh tâm trạng nhà thơ lúc ấy, cái tâm trạng sẽ được
diễn tả một cách bi phẫn trong Phản chiêu hồn về sau này. Trước cảnh
tượng đám đông hồ hởi say sưa trong lễ hội truyền thống kỷ niệm Khuất Nguyên,
nhớ lại những lời thơ Chiêu hồn của Tống Ngọc, thi hào Nguyễn Du bất
giác thốt lên lời gọi Hồn oan nước Sở: đừng có về nữa Hồn ơi, dù hồn muốn về, bởi
nếu có về thì đâu có nơi nương tựa, khắp trần gian này chỉ rặt có quỷ quái rắn
rồng độc ác ăn thịt người! Hai câu kết điệp với câu bốn của bài Ngũ nguyệt
quan cạnh độ càng làm nổi bật sự xót thương niềm kính trọng vô hạn của tác
giả đối với Khuất Nguyên: Thiên cổ chiêu hồn chung bất phản, Nghìn thuở gọi hồn
nhưng cuối cùng hồn chẳng về!
Bài thơ này nếu so sánh, chồng văn bản với các bài thơ đã khảo
sát sẽ thấy sự trở lại về chủ đề, tiếp tục mạch suy tưởng sâu nặng, nguồn thi hứng
dạt dào của Nguyễn Du đối với nhân vật lịch sử Khuất Nguyên.
Để hiểu thêm bài thơ này, có lẽ nên tham khảo đoạn văn của
tác giả Vương Dật thế kỷ II: “Nhân dân ở đấy (quanh sông Tương) tin vào thần
linh và sùng kính chúng. Trong thời gian cầu nguyện thì phải hát và biểu diễn,
đánh trống và múa nhảy để cầu các thần linh về. Khuất Nguyên trong những ngày
lưu lạc của mình đã tìm thấy chốn nương thân ở vùng ấy. Nỗi buồn chất đầy ngực,
nỗi đau thiêu đốt trong tim, nhà thơ tràn đầy những suy nghĩ u uất. Để khuây khỏa,
ông đi ra xem người dân bình thường múa hát vui vẻ như thế nào, uốn nắn họ
trong nghi thức hành lễ. Ngôn từ của họ rất mộc mạc, vụng về, và vì vậy ông đã
viết ra Cửu ca” (6). Rõ ràng là dòng sông Tương gắn với những ngày
tháng cuối đời Khuất Nguyên khi ông bị đi đày và viết chùm Cửu ca, sau đó
chúng đã trở thành những ca khúc dân gian Nhạc phủ trong các chương
trình biểu diễn dân gian kéo dài ít nhất đến thời Nguyễn Du được chứng kiến và
làm ra bài thơ ta vừa tìm hiểu.
Các chương trình biểu diễn dân gian đó đã biểu hiện sức sống
ngàn đời của người dân lao động, trong đó đặc biệt nhất là mang đậm dấu ấn của
Khuất Nguyên ở khắp vùng Thương Ngô - Hồ Nam mà Nguyễn Du viết tới 15 bài từ,
đây là bài thứ 11:
8. Thương Ngô Trúc chi ca - kỳ 11
Thập chích long châu nhất tự trần,
Xao la qua cổ điếu Linh quân.
Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc,
Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân.
蒼梧竹枝歌 其十一
十隻龍舟一字陳,
敲鑼撾鼓弔靈均。
黃花閨女貪行樂,
跳出船頭不避人。
Dịch nghĩa
CA ĐIỆU TRÚC CHI KHI QUA ĐẤT THƯƠNG NGÔ (Bài thứ 11)
Mười chiếc thuyền rồng bày hàng chữ nhất. Khua thanh la, đánh
trống viếng Linh quân (Khuất Nguyên). Cô gái cài hoa cúc mải xem cuộc vui. Nhảy
ra đầu thuyền không tránh người lên xuống…
Vương Trọng dịch thơ:
Thẳng hàng mười chiếc thuyền rồng
Viếng Linh Quân, tiếng trống cồng vang vang
Mái đầu cài đoá hoa vàng
Mải vui, cô gái chen ngang trước thuyền.
Bài thơ này nằm trong loạt 15 bài cùng tên, viết theo điệu
Trúc chi - điệu từ chuyên viết để ca ngợi phong thổ của một địa phương nào đó.
Thương Ngô là đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay, xưa kia nằm trong bản đồ nước Sở.
Nguyễn Du có nhiều bài viết về đất Thương Ngô, như Thương Ngô tức sự,
Thương Ngô Mộ vũ, Sở vọng… Cũng theo ông Phạm Trọng Chánh, Nguyễn Du viết chùm
thơ này lúc đi giang hồ 1787-1790, có nói đến đua thuyền nhân ngày tết Đoan Ngọ
trên sông Tương. (7) (Bài Ngũ nguyệt quan cạnh độ - Tháng năm xem đua
thuyền được xếp tiếp liền sau chùm bài này). Lễ hội đua thuyền này được phổ
biến rất nhiều vùng Nam Trung Quốc kể cả Đông Nam Á, nơi có người gốc
Nam Trung Quốc, nước Sở cũ trú ngụ.
Trong cả chùm 15 bài này, Nguyễn Du miêu tả rất nhiều các cuộc
đua thuyền, dạo chơi bằng thuyền, và bày tỏ tình yêu với cảnh sắc, con người
Thương Ngô, cho dù nơi đó còn có những tệ nạn, bất công xã hội mà ông châm biếm
khá sâu cay. Và trước cảnh đua thuyền trong ngày 5-5, ở bài ca điệu Trúc Chi thứ
11, Nguyễn Du đã không hề có cái cảm giác u uất nặng nề như bài Tháng năm
xem đua thuyền - dù trong bài có nhắc tới Khuất Nguyên. Vào ngày này, người
ta dùng xương ngãi có vị thuốc rất nồng làm thành hình nhân, hình hổ treo ở
trong nhà ngoài sân làm bùa chú đánh dẹp bọn quỷ quái; có người đem xương ngãi
treo trên cửa gọi là Kiếm ngãi chém bọn yêu ma trong nhân gian; nhiều nhà đổ đầy
gạo nếp vào ống tre, thả xuống sông Mịch la để mong Khuất Nguyên không bị đói.
Theo quan niệm: giao long sợ cây chít và màu ngũ sắc, nên không ít nhà đã dùng
lá chít gói bánh, dùng chỉ ngũ sắc buộc xung quanh ném xuống sông tế cúng Khuất
Nguyên. Còn trên sông Tương, dân chài ở các nơi ở phương Nam đều cử từng đội
thuyền tới đây để đua thuyền rồng. Nguyễn Du đã miêu tả chân thực, như một ký sự
về cuộc đua thuyền: Mười chiếc thuyền rồng bày hàng chữ nhất. Khua thanh la,
đánh trống viếng Linh quân. Linh Quân là cách gọi sùng kính tôn trọng của nhân
dân sau khi ông ôm đá trầm mình trên sông Mịch La - một con sông nhỏ chảy vào
sông Tương. Hai chữ Linh quân vô tình tạo ra cái hồn thiêng liêng bao trùm cả
cuộc vui. Nguyễn Du rất tinh tế và như giấu nụ cười hóm hỉnh khi tả: Cô gái cài
hoa cúc mải xem cuộc vui. Nhảy ra đầu thuyền không tránh người lên xuống… Nguyễn
Du như hòa cả tâm hồn mình vào sự náo nhiệt tưng bừng của cuộc đua thuyền truyền
thống tưởng nhớ Khuất Nguyên, và để bằng cách đó thêm một lần nữa đến với “người
đồng tâm” vĩ đại của mình…
Trong khi trải nghiệm trên sóng nước của vùng “Tiêu Tương bát
cảnh”, đại thi hào của chúng ta đã viết hơn chục bài thơ nhưng hầu như không có
một dòng thơ nào ngâm vịnh những cảnh đẹp nổi tiếng của chúng; thiên nhiên tuyệt
mỹ như chỉ càng giúp ông thấm thía hơn cái bi kịch đau buồn của Khuất Nguyên dường
còn ẩn hiện giữa khói sóng từ suốt hai ngàn năm qua. Và viết về vùng Hồ Nam, ấn
tượng sâu đậm nhất trong tâm hồn Nguyễn Du chỉ là cảnh tang thương khốn khổ của
người dân lành gây ra bởi biết bao kẻ Không để lộ nanh vuốt nọc độc, Mà cắn xé
thịt người ngọt xớt như đường (Bất lộ trảo nha dữ giác độc, Giảo tước nhân nhục
cam như di) khiến ông phải thốt lên tiếng than: Không thấy sao mấy trăm châu ở
Hồ Nam, Chỉ có người gầy gò, không ai béo tốt! (Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách
châu, Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì. Phản chiêu hồn), và ông đã không chỉ một lần
chảy máu mắt trước cảnh dân lành trong nước cũng như ở nước bạn chết lăn nơi
ngòi rãnh, Máu thịt nuôi béo lũ sói lang (Nhãn hạ ủy câu hác, Huyết nhục tự sài
lang. Sở kiến hành).
Viết về Khuất Nguyên với tất cả sự đồng cảm sâu sắc của một
“đồng tâm nhân” cùng sự đánh giá xác đáng của một người cầm bút “quán thông kim
cổ”, Nguyễn Du đã vô tình bộc lộ bản lĩnh tâm hồn lẫn bản lĩnh văn chương có thể
sánh ngang với văn hào Trung Hoa cổ đại. Tám bài thơ trên quả là đã mang những
phẩm chất cao quý để văn chương Nguyễn Du đạt tới độ Nghìn thuở nơi chín suối vẫn
có mùi hương (Thiên cổ trùng tuyền thượng hữu hương. Âu Dương Văn Trung Công mộ).
Chú thích:
1,2. Zhan Zhihe. Thơ đi sứ chữ Hán của Việt Nam trong mối
quan hệ với văn hóa Hồ Nam. Nguyễn Đình Phức dịch (Đại thi hào dân tộc, Danh
nhân văn hóa Nguyễn Du. Nxb ĐHQG, TPHCM, 2015, tr. 133, 134)
3. Phú Hoài Sa: Tiết đầu hè nóng bừng, cây cỏ tươi tốt
xanh mượt. Lòng cứ tưởng nhớ thương xót mãi. Rảo bước nhanh về phương
Nam, trông vời mù mịt, bốn bề lặng im phăng phắc. Uất ức rồi đau, chỉ thấy lòng
sầu khổ mà khốn hoài. Suy tình xét chí. Oan khuất mà tự dằn lòng. Chỉ vì mình
ngay thẳng không thể đẻo vuông ra tròn, biết sự phải lòng không thể
thay đổi. Đổi đầu bỏ gốc, người quân tử lấy làm hổ thẹn. Vạch rõ đúng mực,
ý trước sau cũng không đổi. Tính tình trong dày thẳng thắng, bậc đại nhân ưa
thích. Lòng như gỗ thẳng, thợ khéo không cần đẽo, ai xét được là thẳng cong. Màu
sắc không thể nhìn thấy trong bóng tối. Người mù bảo rằng không đẹp, lim rim
đôi mắt. Kẻ loà bảo rằng mắt anh ta không sáng. Không thể lấy trắng làm đen, lấy
trên làm dưới. Phượng hoàng bị nhốt trong lồng, để gà vịt múa may. Ngọc lẫn với
đá, không thể cùng sánh nhau. Nghĩ người bè đảng, chật hẹp ngoan cố, chẳng biết
lòng ta như thế nào?. Lòng như gánh nặng chở nhiều nên sa lầy không qua được.
Mang ngọc cẩn, cầm ngọc du không biết giơ lên để ra hiệu lệnh cho ai. Chó trong
ấp sủa cả bầy, vì con này sủa con khác cũng sủa. Sủa vì thấy quái dị. Chê
tuấn ngờ kiệt vốn là thói của kẻ hèn. Văn thì sơ mà chất thì chắc, chúng chẳng
biết tài vẻ lạ của ta. Tài năng bỏ xó vì chúng không biết ta có gì. Ta trọng
nhân theo nghĩa, lấy cẩn thận trọng hậu làm sự giàu có. Ta chẳng gặp được minh
quân như vua Thuấn, ai biết được ta ung dung đúng đắn. Thánh hiền xưa nay vốn
chẳng sánh cùng nhau. Há biết là vì cớ gì. Vua Thang, vua Vũ đã xa từ lâu. Xa
xôi rồi không ai mến biết tài ta, nên ta nuốt tủi nhịn hờn, tự gắng dằn
lòng. Gặp đau khổ chẳng thay đổi. Nguyện ý chí làm mẫu mực. Đường tiến về Bắc,
ngày xâm xẩm tối rồi, khuây buồn thương nguôi. Đời có hạn ở cái chết.
Nhìn mênh mông sông Nguyên Tương, cuồn cuộn sóng dồi, khúc cuối sông chia hai
nhánh chảy vào Động Đình Hồ. Đường dài tối tăm, nẻo xa mù tít mù. Mang tâm sự một
mình, cô đơn chẳng thổ lộ cùng ai. Bá Nhạc đã mất, ngựa ký chạy ngàn dậm
ai xem được. Đản sinh đều có mệnh, mỗi người yên một chỗ. Lòng vững chí rộng ta
có sợ hãi gì. Sau cứ xót thương nhiều than thở mãi… Đời đục ngầu chẳng ai biết
đến ta. Lòng người không thể phó cho thiên hạ. Biết chết mà không thể tránh được.
Nguyện chớ yêu tiếc thân mình. Các bậc quân tử sáng suốt, Ta lấy làm mẫu mực
cho mình. (Khuất Nguyên. Sở Từ. Đào Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm dịch và chú
thích. Nxb Văn Học, Hà Nội 1974).
4. Sử ký. Tư Mã Thiên. Phan Ngọc dịch. Nxb Văn học và TT
văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, HN -1999
5, 7. Nguyễn Du trên quê hương Khuất Nguyên. Vanhoanghean.
6. Dẫn theo: I.X. Lixêvich. Tư tưởng văn học cổ Trung quốc.
Trần Đình Sử dịch. Nxb Giáo dục 2000. tr. 233.
22/42019
Nguyễn Anh Tuấn
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét