Có hàng trăm định nghĩa về thơ, nếu không muốn nói nhiều hơn.
Nếu văn xuôi là ngôn ngữ tự do (oratio solute), thì thơ bị đối lập bởi lực cản
(oratio vineta). Trong thơ tính siêu thực cao, nên ngôn ngữ phong phú, phóng
khoáng. Chính từ đặc điểm này mà “Nàng thơ” có ở khắp nơi, miễn là nhà thơ có
tài năng, sức tưởng tượng, trí thông minh. Người ta dự báo rằng, trong thế kỷ tới
trí thông minh, sức tưởng tượng, trực giác của con người sẽ tiếp tục quan trọng
hơn máy móc. Không cường điệu chút nào khi ta đọc, ta cảm phục những bài thơ
hay, lời thơ súc tích, giọng điệu thơ như những châm ngôn… là nhờ phù sa văn
hóa của nhiều thế kỷ. Bài viết này xin giới thiệu hai đề tài cũng là hai nhu cầu
thẩm mỹ của người đọc thời đại chúng ta, khi tiếp xúc với “nguồn thơ”.
THƠ CHÂM BIẾM, ĐẢ KÍCH - MỘT DẠNG CỦA VĂN HỌC TRÀO PHÚNG
Nhà thơ thường dùng nghĩa hàm ẩn với ngụ ý xấu đối với đối tượng
miêu tả, lời lẽ sắc sảo, cay độc, thâm thúy để vạch trần bản chất xấu xa của đối
tượng mà nhà thơ muốn lên án. Về phương diện xã hội, phần lớn những tác phẩm
châm biếm, đả kích thường chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của nhân dân, đả kích bọn thống
trị tàn bạo, những kẻ xâm lược và bè lũ phản dân bán nước. Trong văn học nước
ta thơ văn đả kích châm biếm đã trở thành một đề tài rộng lớn với nhiều nhà thơ
qua các thời đại: Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến và nhiều nhà thơ xuất
hiện trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta.
Một tác phẩm trường ca trữ tình như Truyện Kiều, bằng
tài nghệ điêu luyện Nguyễn Du đã khắc họa chân dung Thúy Kiều nhan sắc là vậy,
hiếu đễ là vậy, thông minh là vậy vẫn bị chôn chặt trong vòng vây của bọn thống
trị, bọn buôn người: Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà vào lầu xanh; Hoạn Thư đánh
ghen, bắt nàng làm con ở, Hồ Tôn Hiến đánh lừa buộc nàng phải nhảy xuống sông
Tiền Đường tự vẫn... Ngay cả những nhân vật trong vòng vây quan trường, danh vọng
như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát bằng những vần thơ châm biếm với khuynh hướng
bất bình chế độ chính trị đương thời (đầu thế kỷ 19), các ông nói lên niềm ưu
ái lo đời, khắc khoải khi không có cách làm cho thiên hạ thái bình, cứu dân ra
khỏi hoạn nạn. Dưới triều Nguyễn, Đặng Huy Trứ là một ông quan Ngự sử, nhưng tấm
lòng yêu nước thuộc về Dân của ông còn vang vọng đến hôm nay: Trâm bút
phương tri bút hữu quyền (cầm bút nên hay bút có quyền). Có quyền nói thẳng
với nhà vua những sai lầm, khuyết tật của người cai trị khi quốc gia hưng vong.
Đối tượng đả kích Nguyễn Công Trứ là bọn nịnh hót, biếu xén, thờ phụng vua và
quan là cách tốt nhất để leo lên bậc thang danh vọng, nhưng đối với tầng lớp
tri thức, thanh liêm thì ông kính trọng, tiến cử để nhà vua xem xét với tư duy
“quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”.
Trong thời đại chúng ta, những năm 60,70 của thế kỷ trước,
người đọc biết tên tuổi Tú Mỡ (1900-1976) là nhà thơ trào phúng độc đáo. Ông
có bút pháp điêu luyện, bóc trần những hiện tượng rởm đời, chĩa mũi nhọn vào mặt
bọn quan lại tham nhũng, bọn tân học nhố nhăng, mưu mô ngu dân, trụy lạc tầng lớp
thanh niên non dại… Dưới chế độ ta, Tú Mỡ có biệt danh Bút chiến đấu với
nhiều vần thơ, câu thơ lên án bọn phản dân, hại nước. Trên báo Nhân Dân thường
xuyên có bài của nhà thơ trào phúng Xích Điểu và nhiều biếm họa lên án những
thói hư tật xấu trong xã hội mới.
Nhìn rộng ra thế giới, người đọc biết những nhà thơ lớn thường
là những nhà nhân văn, với nhiều bút pháp trào lộng, châm biếm, đả kích. Do hạn
chế bài viết, tôi chỉ nói đôi điều về V.Maiakốpki, nhà thơ đả kích. Bài
thơ Những người loạn họp (1922) với những câu thơ châm biếm, phóng đại: Một
ngày/ chính tôi/ họp hai chục bận/ Họ phải đi hai cuộc họp một lần/ Biết tính
sao/ Đành cắt đôi thân/ Ở đây một nửa tới ngang hông/ Còn nữa kìa/ Đi họp nơi
khác... Bài thơ được V.I. Lê Nin khích lệ và được đưa lên báo Tin tức (1922).
Ưu tiên cho những đề tài của Maia là: lên án những tên quan liêu, những kẻ xu
thời, nịnh hót để thỏa mãn “chạy chức chạy quyền, những kẻ vô đạo đức, phẩm chất
sa sút, công ít tội nhiều… Những bài thơ này đã được đăng trên tạp chí Cá
sấu, Một tạp chí có số lương lớn và được phổ cập cho đến ngày nay. Trong những
năm khó khăn của đời sống Xô viết: Cảm hứng chủ đạo và cảm hứng phân xạ của nhà
thơ vẫn là ca ngợi: Tôi ca ngợi/ Tổ quốc hiện tại/ Gấp ba lần/ Tôi ca ngợi/
Tổ quốc tương lai. Với ngòi bút sắc nhọn ở nhiều bài thơ: Những kẻ xu nịnh, Kể
đặt điều nói xấu người khác, Tên tham ô và nhiều vở kịch. Là nhà thơ
chiến sĩ, cảm hứng phản xạ của ông đã trở thành cảm hứng chủ đạo được nhận biết
qua một mảng đề tài chiếm biếm siêu hạng: Maia chế giễu, Những con
voi trong đoàn thanh niên, Không có báo cáo tôi không vào. Ông còn có một
tập thơ Tiếng cười đe dọa, đe dọa những kẻ ăn bám, bóc lột, trục lợi và
quan liêu Xô viết, đây là những ung nhọt ghê tởm trên cơ thể của một xã hội mới
đang hình thành…
Nói người lại nghĩ đến ta. Trong thời đương đại của chúng ta,
nếu theo định nghĩa về thơ của Khổng Tử: Thi khả dĩ oán, thì phải thừa nhận
rằng đội ngũ nhà thơ chưa thật sự coi trọng vũ khí châm biếm trào lộng. Những
hiện tượng thoái hóa biến chất, tha hóa quyền lực và, những mảng tối trong đạo
đức, nhân cách của một số người có quyền lực đang rơi vào vũng bùn của chủ
nghĩa quan liêu xa dân… cần được đưa ra trước công luận và tòa án lương tâm của
thơ ca. Chưa có nhiều những bài thơ trào lộng, châm biếm thật sâu cay, đượm chất
trí tuệ nhưng cũng có thể dẫn ra mấy dòng thơ của các nhà thơ đương đại, họ có
thể làm nghề khác, nhưng nghiệp thơ lại dành cho họ. Bài thơ Đỉnh cao và
quyền lực của Hồng Vinh là một ý tưởng hay, hỗ trợ cho những nhận định mà
báo Đảng thường tổng kết về một số cán bộ có quyền lực tham nhũng, xa dân:
Năm trước đỉnh cao quyền lực
Người người đăng ký đến thăm
Năm sau ngồi trong trại giam
Đồng tiền làm anh lác mắt
Đỉnh cao, vực thẳm - tấc gang
Lịch sử bao phen sống, chết
Ba lần đánh thắng Nguyên mông
Ba lần chiến tranh uy hiếp
Thành - bại từ người đứng đầu
Lòng dân - trường thành vững chắc (2019)
Khi bàn về thơ châm biếm, đả kích, nhà thơ thường tìm đến
dòng thơ triết luận, ở đó câu chữ súc tích, sức truyền cảm câu thơ, ý thức làm
thỏa mãn trí tuệ, mở mang tư duy khi thưởng thức. Thơ ngắn là lực của ngôn ngữ.
Thơ Mai Quỳnh Nam là một hiện tượng độc đáo của thơ trào lộng. Dưới đây là một
bài trong tập thơ Không thiên vị, Nxb Hội Nhà văn, 2014: Bọn cậy tiền
và bọn cậy quyền/ sát phạt trên bàn tiệc/ càng uống, chúng càng khát… Một bài
thơ khác chỉ hai câu: Rắn là loài bò sát không chân/ hắn là loài bò sát
hai chân...
Còn hiện tượng người buôn tuổi thật đáng khinh bỉ, xấu hổ khi
đồng loại còn có bộ phận đói nghèo, thất nghiệp.
Anh cậy tuổi cao
Anh mang tuổi ra buôn
Mỗi năm mấy lần sinh nhật
Thông báo rộng khắp nơi
Buôn kiểu ấy;
Kiếm lời ngọt xớt
Tập thơ Vòng quay của Phạm Đình Ân vừa ra mắt bạn đọc
vài năm gần đây, tuy chưa đạt đến độ chín của dòng thơ trào phúng, nhưng có nhiều
đoạn thơ “đứng được”, được báo chí chú ý. Đọc bài Người trong ảnh, chỉ có
4 câu ngắn.
Thắt buộc vào nhân thế
Muôn mặt đời dại khôn
Còn cái còn, mà mất
Mất cái mất, lại còn.
Bài Cái ghế chỉ có vài dòng: Nhà công, người
còn, ghế mất/ Nhà riêng, người mất, ghế còn.
Có một nhà thơ tuổi trung niên, vốn là nhà sân khấu học có một
tập thơ bỏ túi, nhiều tập nhan đề: Nghiệm. Tôi hiểu là nghiệm sự đời, chế
nhạo những kẻ ham danh, vụ lợi, khua môi, múa mép, nói nhiều làm ít. Thơ ông là
một chuỗi khái niệm biến dịch, biện chứng của thế sự, người đời, đòi hỏi sự
trăn trở của tư duy khi vận dụng vào hiện thực đời sống: còn và mất, chung và
riêng, đối xứng và phi đối xứng, cười và khóc… Xin dẫn vài câu tâm đắc:
- Ham hố mãi rồi, ham hố gì?
Mất còn biến dị, ham hố chi?
- Quan tham lại nhũng thành dây
Chẳng phường sấp mặt, cũng mày mặc gian
- Tuyên ngôn hảo, ảo tưởng đời
Một mai mưa lũ, nổi trôi còn gì?
Nghệ thuật có hàng trăm cách nói, thơ đả kích châm biếm cũng
không ngoại lệ, lấy cái bình thường để nói cái vĩ đại, lấy giọt nước để miêu tả
biển cả, lấy cái phi lý để diễn đạt cái lý lẽ miễn là mang tính nhân văn. Ở đó
nhà thơ không nên dè dặt với thế giới bản năng, sức mạnh vô thức, khả năng trực
giác mà các nhà triết học thường quan cảm khi bàn về thơ.
THƠ VÀ ĐỜI THƯỜNG
Khái niệm này rất rộng: gia đình và xã hội, khu phố ở đô thị,
đường làng ngõ xóm ở nông thôn… được thiên nhiên bao bọc, mời gọi, che chở, có
cả vẻ đẹp gia phong của con người, và tình yêu của con người đối với những vật
nuôi ngày ngày giúp ích cho con người. Chừng ấy câu chữ vẫn chưa bao chứa hết đời
thường. Sáng tác thơ là thái độ sống; thơ ca lấy chủ nghĩa nhân văn làm trọng,
nên nhà thơ tài năng nhìn đời, trọng người bao nhiêu thì thơ của họ càng hay bấy
nhiếu. Mảng thơ đề tài xin dẫn một số bài hay, nhưng chưa nhiều của một số nhà
thơ đã nhìn đời biến dị, yêu người tha thiết và yêu luôn những gì nhìn thấy.
Trong thơ ca, hội họa thế giới mang đề tài này thường gắn với tên tuổi của những
nhà thơ lớn. Chỉ riêng trong văn học Nga, người đọc đã bắt gặp những hình tượng
thơ dung dị, đáng yêu: Puskin có Chim họa mi và nhánh hồng, Con chim
nhỏ, X.Exênhin có Bài ca về chú chó, E. Eptusenco có Con chó nhỏ của
tôi với tâm sự về một người tình đã đi xa, chỉ tiếc là chú chó không biết
uống rượu để “say” như một người tình. A.Vodonnhixenki có Triệu triệu bông
hồng, kể chuyện một chàng họa sĩ nông nổi có thể bán cả tranh và nhà để mua
hàng triệu bông hồng, coi như báu vật để chiều lòng người đẹp…
Trong thơ ca đời Đường, Tô Đông Pha thường coi con người làm
bạn với tôm cá, hươu nai, coi vạn vật là bằng hữu, con người và vạn vật, bao
dung hòa hợp, yêu thương nhau trong sự bao bọc, giúp đỡ. Trong thơ đương đại,
vài năm gần đây, báo chí đã chú ý đến đề tài này. Báo Văn nghệ số 13
năm 2018 đăng bài Đám tang một con chó của Nguyễn Minh Khiêm: Không
điếu văn, không cờ tang, không khăn trắng. Chỉ nước mắt/ trẻ già rưng rức/ Con
chó/ gầy như cụ già mù chủ nó… Khi cụ già không đi được nữa/ nó vẫn đi từng
ngõ/ với chiếc túi miệng/ người chủ mù gọi nó là mẹ ơi! Kết thúc bài thơ: Làng
không nuôi được người già mù, nhưng nó nuôi được/ Có tiếng nấc trong nước mắt mẹ
ơi!
Truyện thơ có thể tin được, nhưng cái đáng tin, đáng trọng
hơn hết là chủ nghĩa nhân văn cao cả của con người đối với con vật, đối với vật
nuôi trong nhà, như có một vị Thần trời ban cho nó. Trở lên là thơ buồn nói
chuyện thương cảm.
Ở một dạng đề tài khác, bài Bàn giao của Vũ Quần
Phương, Đây là một tứ thơ hay, chất triết lý, đại lý làm người khi tâm tình với
thế hệ trẻ kế tục:
Rồi ông sẽ bàn giao cho cháu
Bàn giao gió heo may,
Bàn giao góc phố
Có mùi ngô nướng bay
Ông cũng bàn giao những tháng ngày vất vả
Sương muối đêm, bay lạnh mặt người
Đất rung chuyển xóm làng loạn lạc
Ngọn đèn mờ, mưa bão rơi…
Bài thơ có bốn đoạn với bút pháp phúng dụ: của cải mà ông bàn
giao cho cháu không chỉ cái cụ thể, thiên nhiên gần gũi của tuổi thơ: gió heo
may, mùi ngô nướng bay, hương bưởi tháng giêng… mà còn bàn giao cả những tháng
ngày xóm làng loạn lạc, mưa bão rơi, mặt người đẫm nắng, và cả những nỗi buồn,
nhưng vượt lên tất cả để nói một chân lý trìu tượng vĩnh hằng: làm người: nhân
chi sơ tính bản thiện.
Nói về đời thường trong thơ, chúng ta không quên hình tượng
bà mẹ và những người phụ nữ vắng chồng hoặc tình cảm vợ chồng. Nhiều năm trước
đây, chúng ta được đọc Gửi mẹ của Chế Lan Viên: “Mẹ ở dưới thành phố
đó, lô cốt ngời vôi, mái đồn máu đỏ, con đi đây trên chót vót đỉnh rừng, mà mẹ
già là gió dịu đưa hương/ Mẹ con ta trong thành Bình Định cũ/ Cái giếng vườn
rau/ Căn nhà nho nhỏ/ Chị em con là trái ngọt sai vườn/ Mà mẹ già là gió đưa hương….”. Đây
là những câu thơ chân chất, nhưng ai cũng thuộc với chất liệu giản dị, đầy xúc
động tình cảm gia đình ly tán trong kháng chiến chống Pháp và là một đoạn đời của
nhà thơ (Chế Lan Viên, quê gốc Quảng Trị, làng An Xuân, trước chiến tranh chống
Pháp, gia đình chuyển vào Quy Nhơn,…).
Vào những năm gần đây, các nhà thơ nữ thế hệ trẻ cũng có những
hình tượng mẹ với giọng điệu xót xa khi không còn mẹ: Nhà thơ Nguyễn Thị Mai với
bài: Qua hàng trầu nhớ mẹ: “Thơm cay một miếng trầu xưa/ Mà con phải bớt
tiền mua vì nghèo/ Bây giờ đã hết gieo neo/ Lại không còn mẹ mà chiều khổ
không/ Từ ngày đưa mẹ ra đồng/ Qua hàng trầu vỏ con không dám nhìn”. Lý Hoài
Xuân với bài Khóc mẹ: “… Mẹ như có phép thần nâng đỡ, che chở tôi/
Thay bằng tiếng khóc, tiếng cười, tôi đã vượt qua nhiều dốc cao, vực thẳm. Thế
mà, có một vực thẳm cuộc đời mẹ, tôi hoàn toàn bất lực/ Lạy mẹ, tôi ôm quan tài
khóc”… Bài thơ gần như văn xuôi, ý thơ hay với cảm hứng phản xạ trước nỗi đau
khôn xiết của người con gái yêu.
Để tiểu kết phần II của bài viết, tôi xin nói đôi điều về thơ
và đời thường. Đời thường nhưng không tầm thường, mà là cảm hứng phản xạ thông
minh, sự liên tưởng ngôn ngữ súc tích với bút pháp vừa hiện thực vừa ẩn dụ.
Trong thơ thời kỳ Trung Cận đại ở nước ta, chúng tôi có thể nhớ lại hai đoạn
thơ xuất thần của các nhà thơ, nho sĩ, có vốn văn hóa rộng khi tiếp cận với con
người bình thường, cuốc sống bình thường. Trạng Nguyên Nguyễn Giản Thanh (cuối
Lê - đầu Nguyễn) nhờ “tia chớp”sáng tạo, nên đã có câu thơ với bút pháp phóng đại,
vừa mang ý nghĩa triết lý sâu xa:
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
(Mưa không phải sợi dây ràng buộc, nhưng thường lưu khách
Sắc đẹp không phải là sóng gió nhưng thường làm say đắm lòng
người)
Tự Đức (1829-1883) là một quốc vương có nhiều sở trường và
quan tâm đến các loại hình nghệ thuật. Người đương thời xem ông là nhà thơ xuất
sắc. Ông sáng tác bằng chữ Hán với tập Việt sử tam bách vinh và Luận
ngũ diễn ca; Người đời sau nhớ ông là nhờ bài thơ Khóc vợ. Khi
Bàng Phi mất ông có bài thơ Khóc vợ với câu thơ hiếm thấy: Xếp
tàn y lại để giành hơi (Ta gấp áo váy cũ của nàng để giữ lại mùi hương
thân thuộc).
Thơ ca cũng là triết học, tư tưởng, cảm hứng nhưng nhà thơ
không thể hiện cuộc đời thân thuộc, con người đáng yêu dưới dạng tư duy biện chứng
mà dưới dạng trực quan, cụ thể của hình tượng, của cảm hứng phản xạ của nhà
thơ. Dù là đề tài đời thường, thơ cần đến tính siêu thực, sức nghĩ, sức cảm, đi
tìm cái đẹp trong cái hài hòa, cái ngọt ngào trong cay đắng, cái đối xứng trong
cái phi đối xứng. Hình thức thơ chỉ mang tính nghệ thuật khi nó được sinh ra từ
nội dung: Cuộc sống muôn sắc.
15/8/2020
Hồ Sỹ Vịnh
Nguồn: Văn nghệ số 33/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét