Trăng nơi đáy sông
Đêm!
Sóng vỗ mạn thuyền ì oạp. Khoảng không trong veo vằng vặc.
Trăng mướt mát lúc ẩn lúc hiện như chơi trò trốn tìm nấp sau những dãy núi đá
vôi dựng đứng trước mặt. Thuyền rẽ ngang một khúc cua, dập dềnh xuôi qua Pò Giả
Mải, đến Pé Lầm. Chừng hai khúc ngoặt nữa là tới. Gió nhẹ lả lướt như
khêu như gợi. Cả mặt nước loang loáng ánh trăng.
Tôi không nhớ nổi nữa, có lẽ đã hơn một tháng nay, đêm nào
cũng tầm giờ này tôi cũng cùng mẹ chèo thuyền ra chỗ chị Hằng nằm. Tôi hỏi sao
mẹ không đi từ sớm, để bớt lạnh, bớt gió và bớt sợ. Đêm sợ nhất là tiếng cú
mèo, tiếng cọp vờn. Mẹ bảo đi sớm sẽ không gặp được chị Hằng. Tôi chỉ biết tin
vậy chứ chẳng biết có gặp được chị không? Dân vùng này chẳng ai sợ gì
sông nước. Họ đều coi sông như nhà và tôi cũng vậy. Tôi thỏa thuê ngụp lặn,
vẫy vùng. Mười lăm tuổi tôi bơi ngang dòng pé thả mình lờ lững đến tận Puông.
Chỉ có điều tôi nhát ma lắm.
Chiếc thuyền nhổ neo tròng trành rời bến. Ngôi nhà sàn của
ngoại xa dần, xa dần, chìm trong bóng tối chỉ còn ánh sáng của một ngôi sao nhỏ
lấp lánh giữa đại ngàn.Taymẹ thoăn thoắt điệu nghệ như một dân chài thứ thiệt.
Mẹ chỉ cần cảm nhận bằng nhịp đi của chiếc xuồng là biết chỗ nông, sâu, xoáy,
hay lặng nước. Cơ thể mẹ khi gồng lên những nhịp rắn chắc, khi nhẹ
nhàng khoan khoái xuôi dòng. Đời đàn bà sông nước rắn rỏi phi thường lắm.
Chẳng rõ mẹ biết đi thuyền từ khi nào. Chỉ biết hồi bố tôi mất thì mẹ tôi kế
nghề này làm vốn sinh nhai nuôi chị em tôi khôn lớn, ăn học thành người.
Hết Pé Lù ngoặt cua chỗ xoáy rẽ phải là ra đến cửa sông nơi Động
Puông kỳ vĩ hoang sơ. Những thạch nhũ óng ánh mở ra cả huyền thoại, những câu
chuyện kỳ thú. Vẻ đẹp thiên nhiên kỳ vĩ hoang dại ấy ẩn chứa một nỗi buồn thầm
lặng, nỗi buồn không nguôi đối với tôi. Đầu máy lịm dần rồi tắt hẳn. Chiếc thuyền
trôi lờ lững. Dòng nước hung dữ đục ngầu của mùa lũ được thay thế bằng con sông
hiền hòa trong veo, lạnh ngắt.
Trong khoang thuyền tối om, mẹ bảo tôi soi đèn pin tìm túi nến
để thắp. Tôi loay hoay một hồi mướt hết cả mồ hôi hột. Giờ mà quên nến thì làm
sao quay về lấy. Từ nhà ngoại ra đến đây cách cả một chân trời tít tắp chứ gần
đâu.
Ngoài kia trời bắt đâu nổi gió, tiếng lá rơi sột soạt, tiếng
những cành mục va vào nhau nghe răng rắc. Mùi phong rêu, tanh tưởi của dòng
sông sau một ngày phơi nắng khô giòn thoảng vào mũi. Mẹ trấn an tôi, quờ đôi
vai tôi bấm nhẹ. Trong thâm tâm tôi biết mẹ cũng sợ nhưng nếu bỏ chạy lúc này
thì còn nhiều chuyện đáng sợ hơn nữa. Tôi từng nghe cả một truyền kỳ về khúc
sông này. Nơi thuồng luồng cá dữ cũng như quỷ quái thôi thì đủ kiểu. Tôi giỏi
ngụp lặn nhưng rất nhát ma. Con trai đấy nhưng cứ thế tôi đứng chôn chân tại chỗ,
không nhúc nhích động đậy trong khoang thuyền. Đứa con gái nào mà biết tính tôi
như vậy chắc sau này nó chả dám yêu. Nhiều lần tôi đã thử luyện cho mình lòng
can đảm. Thậm chí đã từng rủ chị Hằng về nhà ngoại ở Bó Lù rồi bắt chị ngủ ở đấy.
Dặn dò chị đủ kiểu mình tôi quyết đi bộ men đường rừng quanh hồ và trở về Pác
Ngòi. Nhưng đường vắng càng đi càng thấy sợ, những tiếng động trong các lùm cây
như có ai đang đuổi theo sau tôi. Tôi bỗng chột dạ và ghĩ đến đấy thôi, đi được
mươi bước tôi đã phải chạy bán sống bán chết rơi cả đèn pin mà cắm đầu cắm cổ
quay đường về nhà ngoại chui tọt lên giường rên hừ hừ. Chị Hằng ở buồng bên cười
khanh khách. Ngoại đang nhào mẻ tép chua ở ngoài hiên cho kịp mai bán thì ngơ
ngác không biết thằng cháu chui ở đâu ra. Chuyện này tôi thề đến chết cũng chẳng
kể cho ai. Thế mà sáng hôm sau tôi chưa về đến nhà, mẹ đã biết hết chuyện.
Con thuyền được nước âu yếm vỗ bờ thích chí thi thoảng dềnh
lên tỏ nỗi mừng vui khôn xiết. Mẹ giục tôi mới giật mình luýnh quýnh. Cuối
cùng những cây nến to nhất, đẹp nhất mà tôi mua hồi chiều ở quán bà Thiêm béo
được thắp lên. Thoáng những lời bà ấy rủ rỉ ban chiều, tôi quýnh quáng
tay chân, không dám trông ra xa. Ngoài kia mặt nước đang xao động, ánh trăng
vàng lăn những sóng hoa tuyệt diệu.
- Đẹp
quá Minh ơi!
Mẹ tôi nói gần như reo lên hệt một đứa trẻ được quà. Lâu rồi
mới bắt gặp mẹ với một khoảnh khắc nhẹ nhõm như vậy. Rồi lại thoáng buồn ngay,
mặt nước xao động. Mẹ nói thều thào như người mất giọng.
- Con biết
chuyện anh Tuấn chứ? Tòa xử năm năm tù giam đấy. Thế là chẳng mấy chốc hết một
đời người.
Mẹ lại buông tiếng thở dài, cảm giác tiếng thở mạnh đến nỗi
làm tiếng lá của rừng cây cổ thụ, rủ xuống mặt hồ lay động. Nước lăn tăn sóng từng
vệt lan xa.
Mẹ lặng đi hồi lâu, những chiếc nến thơm hương làm rực cả một
Khoảng không rực rỡ. Vùng sáng soi rõ khuôn mặt mẹ, người đàn bà trung tuổi vẫn
có những nét đoan trang của một thời thiếu nữ và vẻ mặt cương nghị của người
đàn bà từng trải. Cá bắn tung tóe cả mặt nước, tiếng con nai lạc mẹ khản giọng ầm
ào. Thuyền lạo xạo ập vào bãi, theo quán tính tôi bị đổ ra phía sau. Định thần
lại tôi nhảy thoắt lên bãi kéo dây buộc thuyền rồi nhanh chóng bước ra. Dưới
vòm Puông tối om, trên vách đá chỉ có tiếng dơi bay đập cánh hốt hoảng khi
chúng nhìn thấy ánh sáng và hơi người. Tạo hóa sinh loài dơi như vậy đấy, quanh năm sống trong bóng tối và chỉ rúc đầu chúi xuống mặt đất. Loài vật
hèn mọn và kém cỏi nhất trong giới sinh vật. Nhưng ai biết cái giá trị mà chúng
cống hiến cho loài người là vô cùng đẹp đẽ lớn lao.
Tôi lia đèn qua một cái, mẹ ra hiệu lặng im. Trong ánh sáng lờ
mờ tôi nhận rõ chỗ cắm hương từ những đêm trước cháy dở nham nhở bởi nước tấp
vào.
Không gian thâm u tịch mịch, mẹ tôi lầm rầm khấn vái. Mẹ kéo
tay tôi chắp trước ngực lạy vách đá vô tri, sờ lần từng thớ đá lạnh ngắt. Nước
mắt mẹ rơi vào đá mặn chát. Rồi nhẹ nhàng quay ra ôm lấy gốc cây si đầy vết cào
xước chưa kịp lành lặn, đờ đẫn thảng thốt như cố nắm lấy tay chị lúc chới với
mà gọi tên:
- Hằng ơi! Con có lạnh lắm không?
Không ai đáp lại, chỉ có tiếng rì rào của dòng sông và tiếng
dơi vỗ cánh giữa ngàn trùng.
Nhà tôi ở mé sông. Nơi mở cửa ra nhìn thấy dòng sông Lèng hiền
hòa trong xanh lờ lững chảy cả bốn mùa. Những hàng tre rủ xuống chở che tưới tắm
cho chúng tôi suốt tuổi thơ một thời hoa lửa. Nơi cha tôi, người đàn ông da màu
nắng vét cá mùa lũ và ngụp lặn với dòng sông rồi không bao giờ về nữa. Gia tài
duy nhất để lại là chiếc thuyền cũ kỹ mà chúng tôi trông vào để mưu sinh. Chị
em tôi lớn lên theo con nước vơi đầy, những giậu bìm bìm nở tím ven sông, những
chùm hoa cây mác bát trắng xóa thơ mộng như tranh vẽ. Tháng ba khi hoa gạo cháy
đỏ cả một góc trời, những con chim queng quý về đậu trên mái nhà đợi ăn xôi đỏ
đen. Chị em tôi hái những chùm hoa thật đẹp để mũi thuyền. Rồi ngày ngày buổi
trưa trốn mẹ lái thuyền đưa nhau vượt Pé vào hồ ba kiếm quả mác
coóc về ăn. Thứ quà dân dã chỉ duy nhất mọc trong lòng hồ khu rừng ramsa
ngập nước. Thứ quà đắm đuối mê ly hút hồn tuổi thơ khiến ngày nào mẹ tôi cũng tất
tưởi vượt sông vượt hồ đi kiếm chị em tôi. Lần nào mẹ cũng giận tím mặt, vụt
cho nhừ đòn mà chị em tôi vẫn không chừa.
Rồi cả khi lớn lên, chị tôi đi học rồi đi làm, cứ ngày nghỉ
trúng mùa quả là chị em tôi hớn hở cầm câu, móc nhảy lên thuyền và nổ máy.
Giờ mẹ không cấm cản nữa, quả mác coóc đang mùa rộ mà không
thấy chị về.
Hai mươi hai tuổi, chị đang độ tươi nõn xinh đẹp rực rỡ.
Mới ra trường chị đã xung phong tình nguyện lên dạy học ở vùng cao Pác Nặm. Mẹ
can mãi vì sợ con mình khổ. Là dân miền núi sinh ra và lớn lên với cỏ cây,
với đại ngàn hoang sơ nhưng mẹ vẫn lo đứa con gái da trắng trẻo, mảnh mai xinh
đẹp ấy lâu nay chỉ biết cầm bút, cầm sách không leo nổi vách đá cheo leo lên bản
Mông bản Dao quanh năm chỉ ăn mèn mén và xì xà xì xồ nói tiếng của họ . Mẹ
sợ con gái lên đấy lỡ mê tiếng sáo của người trên vách đá rồi sợ anh Mông nào bắt
về làm vợ thì coi như mất con. Người yêu chị còn giận mấy ngày liền, nhưng cuối
cùng chính anh là người thuyết phục mẹ cho chị lên vùng cao dạy chữ. Nhìn những
em bé người dân tộc trong chuyến đi tiền trạm cùng chị mẹ càng ủng hộ chị hơn.
Mẹ yên tâm khi con sống giữa một tập thể đoàn kết, ấm áp tình
người. Đồng nghiệp của con, người mãi tận Nam Định, người Thái Nguyên... rồi
các huyện lân cận. Mẹ còn ấn tượng nhất một cô giáo trẻ người Hưng Yên tên Liên
khóc thút thít mãi khi nhận từ anh Chủ tịch Công đoàn cái chìa khóa phòng ở
chung với chị Hằng. Một căn nhà mái lá, vách nứa thông thống chênh vênh giữa sườn
đồi. Trường học có năm gian nhỏ rách rưới hiu hắt. Từ chỗ này có thể trông thấy
khu dân cư Pù Lườn, Lủng Pạp, Nặm Đăm. Nhìn cảnh vật như vậy chị càng thấy
cần phải có trách nhiệm hơn với sự nghiệp giáo dục.
Chị lên đó một năm rồi. Tôi và mẹ cũng lên trường thăm chị
đôi ba lần. Ai cũng quý mến tôi, nhất là chị Liên. Chị Hằng với Liên hợp nhau lắm,
hợp đến nỗi thân quý nhau như máu mủ ruột rà. Cuối tuần chị Liên hay theo
chị Hằng về Pác Ngòi nhà tôi chơi. Mẹ tôi quý chị như con đẻ và thường
hay cho gạo, cho rau mang lên trường. Mẹ thường đùa mai này cho hai chị lấy chồng
ở Pác Ngòi rồi phụ mẹ mở quán Hát then, dân ca đàn tính chuyên biểu diễn phục vụ
khách du lịch thôi, chứ tuần nào cũng đi đi lại lại xa xôi như vậy mẹ không yên
tâm đâu.
Dường như số mệnh của các chị được sắp sẵn .
Hôm đó giữa tháng năm trời oi như lửa đổ. Một tiếng sét xé rạch
trời trên đỉnh Pù Lườn. Mây đen vần vụ. Những ngọn cây, chạc ba chạc bốn gẫy
răng rắc tả tơi. Người H’mông trên nương rầm rập vác cuốc, vác dao từng đoàn từng
đoàn áo váy tím vàng xanh đỏ bảy sắc cầu vồng cắm đầu chúi xuống đất chạy như
bay xuống núi. Mưa ầm ào sầm sập tối tăm trời đất.
Trong căn phòng dột mưa ấy chị Liên lên cơn đau bụng dữ dội
,quằn quại. Cả tập thể nhốn nháo, người dồn lũ học sinh vào chung một lớp tránh
mưa, người chạy ra khơi mường đằng sau lớp học. Bỗng chốc nước đã lênh láng khắp
sân, tràn vào lớp. Những chiếc trống nằm im hứng nước nghe lùm bùm rách hết cả
mặt đã sờn cũ. Liên nằm ôm bụng rên rỉ ở căn phòng nhỏ. Hằng nhìn bạn chực khóc
theo. Hai tiếng trôi qua mưa vẫn không ngớt hạt nhưng tình hình Liên càng trở
nên nguy cấp, mọi người quyết định đưa Liên đi cấp cứu. Nước lớn đỏ quạch từ
các khe, từ sườn đồi, nương ngô ầm ầm đuổi theo con đường mòn xô vào gót
chân đoàn người bước tiếp bước thay nhau cõng Liên xuống núi.
Mạn Cao Thượng lũ kéo đến rất nhanh. Thoáng chốc dòng
lũ đã cuồn cuộn đỏ ngàu trước mặt. Bóng tối đổ dồn. Chị Liên mặt tái nhợt run rẩy.
Nước mắt hòa lẫn mưa chảy tràn ướt nhẹp. Anh chủ xuồng là Tuấn do dự
không muốn vượt sông lúc này. Nhưng vì cứu người, trước tình huống nguy kịch và
mọi người đều thúc giục nên anh quyết định đi. Xuồng tròng trành nhổ neo. Cả
đoàn nín thở. Gương mặt ai cũng căng thẳng. Hoàng - chàng trai thư sinh vẫn
nguyên bộ sơ mi lên lớp chiều nay. Chiếc tông của Huyền ngập trong bùn vì mỗi
bước nhấc gấp gáp của cô trước khi lên thuyền đã đứt quai. Hùng chưa vợ, chàng
trai ít nói và có những nỗi buồn sâu thẳm giờ càng nặng trĩu trong lòng. Thi
thoảng Hùng nắm lấy bàn tay của Liên xoa xoa như truyền hơi ấm. Vẻ mặt thất thần
khi tiếng rên của Liên ngày càng yếu ớt. Chị Hằng giục Tuấn đi tốc độ nhanh nhất
khi có thể. Tuấn đứng mũi thuyền cao to vạm vỡ rẽ sóng về hướng động Puông
trong lúc trời đã nhá nhem tối.
Sóng ầm ào chực xô chiếc thuyền lật úp. Đến ngay giữa Puông
đúng lúc một chiếc thuyền ngược chiều lướt băng băng tới. Thuyền Tuấn né không kịp.
Một tiếng rầm mạnh dưới lòng Puông. Xuồng kia chìm nghỉm trong tích tắc. Bóng
người đen ngòm rơi ra bơi tới tấp ồn ào. Đám người bám vào những thanh gỗ dập dềnh
còn thơm mùi cưa mới. Hằng cố bám lấy khoang thuyền, cố giữ lấy Liên. Cả năm thầy
cô giáo đều không biết bơi. Chiếc thuyền ngập nước và chìm dần. Tiếng la hét,
va đập chới với vào các vách đá. Tiếng dơi vỗ cánh loạn xạ. Chị tôi trong giây
phút định mệnh còn nắm lấy tay Liên. Đến tận chiều hôm sau người ta tìm thấy chị
mãi tận khúc xa gần thác Đầu Đẳng. Mẹ tôi tưởng như chết đi vì không tin nổi sự
thật. Tôi khóc như mưa từ trường cấp hai nội trú về nhà và không hiểu về bằng
cách nào nữa. Sáu người trên chuyến xuồng ấy không còn ai trở về. Chỉ mỗi anh
Tuấn biết bơi nhưng dù dã cố gắng anh cũng không cứu được người nào.
Mẹ tôi rưng rưng khóc, khẽ đặt bó cúc trắng lên gờ đá, nơi nước
không cuốn đi những yêu thương mà mẹ gửi cho chị, cho bạn bè đồng
nghiệp của con mình. Ngủ ngoan nhé, ngày mai các anh chị lại về với bản làng,
nơi có các em nhỏ chờ thầy cô giáo phía sông bên kia. Mưa đã tạnh rồi, dòng
sông lại hiền hòa như trước. Nằm nơi đáy sông lạnh lắm. Về đi... về nhà đi chị.
Về! Liên ơi! Hoàng ơi! Hùng ơi! Huyền ơi!
Ngọn nến trong khoang thuyền vụt tắt, mẹ chèo nhẹ nhàng xuôi
qua dòng. Trời tang tảng sáng. Trên sông bình minh đang rạng rỡ, tiếng của người
bắn tôm cá, kéo lưới sôi động. Sự sống ấm áp lan tỏa.
Hà Sương Thu
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét