Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2025
Tiếng nói
1. Hắn chết đêm hôm trước. Mãi đến buổi sáng hôm sau người ta mới biết. Hắn cố ngoi từ giường đến cửa sổ kẹp đầu vào khe hở giữa hai chấn song mà chết. Máu chảy từ miệng trào ra thành cửa, loang những đường thâm trên mặt tường vôi bẩn. Người ta cứ ngại làm dấu và thương tiếc một cách dửng dưng. Mấy đứa trẻ con lối xóm lấy ngón tay quệt nước bọt bôi vào chỗ máu đọng vẽ ra tường: hình ảnh một con người dang tay chân, đầu to hơn bụng, mắt tròn mồm méo. Đứa này thêm tí chân, đứa kia thêm tí tay, tí râu, tí tóc, tí đuôi, để trở thành một con vật, một con vật thực sự.
Trong cõi u minh
Trong cõi u minh
Phán quan để tập giấy trắng xuống trước mặt
tôi. Anh ta ngồi ngay phía đối diện, lưng thẳng,
hai tay để trên mặt bàn. Phán quan nói: Anh
chưa thành thật khai báo. Tôi nhìn thẳng vào mắt anh ta: tôi không có gì để
khai thêm. Các ông muốn biết điều gì các ông cứ đặt câu hỏi, tôi sẽ
trả lời, khai thì tôi không có gì để khai. Hai bàn tay để trên mặt
bàn không động đậy, nét mặt như đanh lại, giọng nói khô: anh phải khai, phải
khai hết ra, tôi biết gì anh mà hỏi. Tôi ngậm miệng mắt nhìn về phía trước,
thân hình ngay cứng. Thoạt đầu phán quan ngồi thẳng người, mắt nhìn
xuống tập giấy trắng để trước mặt. Tôi nhìn
lên đầu anh ta: những sợi tóc dựng đứng như cỏ
cháy ngày khô hạn. Phán quan nói: anh khai đi, anh phải khai thôi...
Một giọng nói nhẹ nhàng khác hẳn trước đó. Tôi thẳng người dựa nhẹ vào lưng ghế.
Giọng phán quan tiếp tục: tôi tên là....bố tôi tên là...mẹ tôi tên
là...ông nội tôi tên là...Anh bỏ ngay cách khai của anh đi. Những
anh sinh ở đâu, học ở đâu, thi đậu năm nào, làm quan, đi sứ, những vợ, những
con, những cái đó tôi không cần anh khai... Tôi đứng lên: Sao tôi nghe nói, muốn
biết rõ một con người cần phải biết tới ba đời của anh ta, biết càng
nhiều càng tốt? Anh nói rõ đi? Các anh cần cái gì?
Tôi đứng lên, bước ra, đi vòng một quãng rồi trở lại đứng
ở sau lưng ghế của mình. Tập giấy trắng vẫn nằm im, không khí lặng lẽ
với một vùng ánh sáng đục lờ làm những vật chung quanh như nhòe
đi. Phán quan đứng lên, ở yên một chỗ: chúng tôi muốn biết
những gì anh đã sống, đã nghĩ, đang
nghĩ...
Tôi cười phá lên: Ở gần đây có sẵn vạc dầu đang sôi
không? Để làm gì? Phán quan hỏi và nhìn thẳng
vào mặt tôi. Tôi nói: Để anh dẫn tôi tới rồi thảy tôi xuống
đó cho xong mọi chuyện. Phán quan lặng lẽ
ngồi xuống, hai bàn tay đan vào nhau, hai ngón tay
trỏ cử động không ngừng. Chợt anh ta cười nửa
miệng: đâu có phải chết rồi là mọi chuyện đã xong, đã hết, đã
kết thúc. Hạnh phúc cho ai được chết một lần. Anh tưởng ai cũng được chết một lần
hả? Không đâu. Có người phải chết nhiều lần, có kẻ phải chết đi sống lại. Bao kẻ
xác bỏ quan tài còn phải lôi ra, quần áo bị lột bỏ. Đâu đã yên, nhiều kẻ còn bị
moi ruột, móc óc ... Bao kẻ còn bị đào lên lấp xuống đến nỗi không kịp thối...
Vì sao thế anh biết không ?Tôi cười: chắc là tại không thành thật khai báo?
Phán quan đứng lên làm mấy động tác thư giản, anh ta bước lại
gần tôi, giọng nhẹ nhàng: anh hãy quên chuyện khai báo đi. Giữa anh với tôi là
trao đổi, là làm sáng tỏ một điều gì đó.Tôi ngồi xuống ghế trở lại: Tôi đã chết
rồi. Anh nhớ cho tôi điều đó. Phán quan trở lại ghế ngồi: Anh nói đúng. Anh đã
chết rồi. Nhưng chết rồi đâu có nghĩa mọi điều cũng chết theo. Anh có nhớ câu:
trâu chết để da người ta chết để tiếng. Lại còn: trăm năm bia đá thì mòn ngàn
năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Anh thấy đó: nhiều kẻ sống đã khai gian lý lịch,
khai gian để lừa người. Nào thay họ đổi tên, thay[2] đổi quê quán, thay cả tên
tuổi cha mẹ. Như thế chưa khiếp. Có kẻ còn tạo ra một tiểu sử đề cao mình, suy
tôn mình... Muốn chết thanh thản người ta phải sòng phẳng với đời. Chỉ có thành
thật và thành khẩn người ta mới chết yên được. Chính vì thế mà chúng tôi muốn tận
tình giúp đỡ anh.
Giúp đỡ, giúp đỡ hết lòng. Quả thực tôi muốn văng tục. Tôi
nói: cám ơn anh, tôi không có gì để khai nữa. Bao nhiêu trang giấy tôi đã giao
cho anh như vậy chưa đủ sao? Anh muốn làm gì thì làm. Tôi chết rồi.
Phán quan gằn giọng: đúng là anh đã chết, nhưng vẫn còn sống ở một thế giới
khác. Vả lại những điều anh viết ra, tôi đã đọc nhưng nay tôi không còn nhớ gì
nữa. Anh cứ coi như bây giờ mình mới bắt đầu câu chuyện có được không? Phán
quan bước đi khoan thai nhiều vòng trong gian phòng. Không một tiếng động. Một
giọng nói chậm, nhẹ vang lên như từ một cõi nào xa lắm: Mình có thể nói chuyện
với nhau bắt đầu từ chỗ nào nhỉ? Cuộc đời của anh cũng có nhiều phiên hồi đáng
ghi nhớ...Khi khóc, khi cười, khi lên khi xuống...Anh cũng có lúc bị tống giam
phải không? Anh nhớ chứ? Mình có thể bắt đầu ở chỗ này không? Hay lùi xa lên ở
cái lúc dinh cơ của ông anh Nguyễn Khản bị Kiêu binh đốt cháy? Hay lùi lại vào
lúc anh thi đỗ tam trường? Nhưng thực ra phải đợi đến khi anh ra làm quan cho
Nguyễn Ánh thì lý lịch mới rõ ràng, phải thế không? Mọi điều tưởng như rõ ràng
nhưng thực ra ở đó vẫn còn những khuất lấp. Anh biết rõ điều này hơn ai hết.
Sao anh lại im lặng? Khó thật đấy. Bắt đầu từ chỗ nào chăng nữa chắc cũng làm
anh lúng túng với những điều khó nói. Anh cũng có lúc bị bắt giam, bị nhốt lại,
được hỏi han, chắc chưa bị tra khảo? Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại... Với
anh nói tù thì cũng không đúng hẳn phải không? Phán quan đã dừng lại
ở một góc khuất nào đó mà tôi không thể nhìn thấy. Giọng nhẹ và đều vang vang:
Sống vào thời của anh, thời của những động loạn không ngừng: lửa cháy, máu và
nước mắt tuôn trào và những chia tan thảm thiết, những hận thù... Anh viết: cổ
kim vị kiến thiên niên quốc ...Từ một thực tại anh đã nhìn thấy những đổi thay.
Anh đã trải qua bao nhiêu đời vua? Chỉ ngừng lại và nghĩ đến thôi hẳn anh đã bồi
hồi. Thời nhiễu nhương làm đảo lộn những giá trị. Trung thần đó mà cũng nghịch
thần đó. Phản trắc đó mà trung thành đó. Chẳng còn vò đậu đen và vò
đậu trắng riêng biệt. Đen trắng đã đổ lẫn với nhau. Dù anh có đào một cái hang
mà chui xuống cũng không thoát. Anh thấy vậy không? Những kẻ tròn như viên bi,
trơn như lươn còn mất mạng, hoặc khốn đốn, nói gì đến những người như anh sinh
ra đã sần sùi, có góc có cạnh... Tôi đứng vùng dậy: chẳng ai lại muốn bước chân
vào nhà giam, vào cũi sắt. Ai cũng muốn sống. Có con chim nào lại không muốn
bay cao và cất tiếng hót. Sống lương thiện sao lại bị tù? Phán quan nhìn vào mặt
tôi: Nhưng thế nào là lương thiện? Không chờ [3] câu trả lời, phán quan cười ngất:
có thời chính vì lương thiện nên người ta phải ngồi tù. Anh không hiểu vì sao
à? Khi bọn bất lương cầm quyền thì người lương thiện đi ở tù. có khi bị treo cổ,
có khi bị chém đầu. Những người chính trực phải chết khi dối trá, bạo lực ngự trị
cuộc sống...Anh nghĩ lại coi. Đối với anh có một nghi vấn: anh bị bắt giam, bị
nhốt tù có phải vì một mưu toan? Có phải anh định đi vào miền Nam? Nhưng
đâu phải chỉ có một mình anh đi Nam, sao những ngươi khác không bị bắt?
Hay anh có can dự vào một tội ác nào đó? Xin lỗi, có lẽ tôi đã dài lời. Bây giờ
là việc của anh. Phán quan bỏ đi trong im lặng.
Tôi ngồi im. Nơi này đã có bao nhiêu người đến rồi đi? Có bao
nhiêu phán quan? Đây là đâu? Tôi nhìn chung quanh, tất cả bao trùm trong một thứ
ánh sáng đục, vây quanh tôi hình như là một bức tường. Tôi đập mạnh tay xuống
bàn, xô cái ghế. Sao không có một tiếng động nào? Tôi đang ở đâu? Tôi đã chết.
Một ngày nào đó, tôi nhớ: tôi nằm im không còn cựa quậy, đầu óc tỉnh táo, người
như nhẹ hẳn...Tôi thấy chung quanh tôi bao nhiêu là người, tôi chú ý và nhận ra
những gương mặt thân quen. Tôi đang ở đâu? Dần dần những gương mặt như mờ và
trôi đi ... Những tiếng nói thân thuộc đầm ấm mỗi lúc một nhỏ đi rồi biến vào
im lặng ... Tôi đã chết. Tôi nhớ lại những giây phút cuối cùng đó. Tôi thấy
mình rất tỉnh táo nhưng sao cả thân người thì cứng đơ và lạnh dần... Tôi cố gắng
nói với người ngồi gần nhất, không biết là con, là cháu hay là một người nào
đó: sờ giúp cái chân một chút. Sao tôi không còn thấy một cảm giác nào. Có tiếng
nói: lạnh rồi. Lạnh rồi. Tôi nghe rõ. Tôi nhìn lướt nhanh những khuôn mặt nhòe
nhoẹt đang vây chung quanh tôi. Có phải cả tôi và những chung quanh đều đang đợi
một điều gì đó. Tôi cố gắng mở rộng mắt, lấy hết sức để nói: được...được. Tôi
muốn nói một điều gì khác nhưng lưỡi đã cứng lại. Có còn điều gì để nói nữa?
Tôi nhủ thầm: mình đang chết, chết từ chân lên ...Tôi lịm đi. Tôi chìm dần vào
trong bóng tối .. Những bóng người chập chờn không rõ nét, những tiếng nói rì rầm
mơ hồ. Tôi thấy mình như đang trôi đi ...Tôi đã chết. Mình đã bước vào một cõi
khác. Phú Xuân, đó là nơi tôi đã sống những giây phút cuối cùng của đời mình.
Phú Xuân, đó đâu phải quê tôi. Tôi được sinh ra ở một nơi khác. Tôi đã sống ở
nhiều nơi. Tôi không có ngôi nhà nào là nhà của mình. Tất cả là ăn gửi nằm nhờ.
Người ta nói sống gửi thác về. Nhưng về đâu?
Phán quan ở đâu bỗng xuất hiện, bước tới, ngồi xuống ghế đối
diện với tôi. Không khí im lặng như làm tôi nghẹt thở. Phán quan
nhìn xuống tờ giấy những ghi chép nhằng nhịt. Phán quan ngẩng nhìn
lên giọng hoài nghi: Anh họ Nguyễn sao? Tôi nói: Tôi họ Nguyễn, thế anh muốn
tôi họ gì? Phán quan cười thành tiếng: Tôi làm sao mà có thể muốn thế này thế
khác. Tôi được biết có người họ Nguyễn mà không phải họ Nguyễn. Có
chắc anh [4] họ Nguyễn không? Có nhiều người họ Nguyễn nhưng gốc là họ Hồ, họ Mạc,
họ Trịnh, họ Lý ... Những thay họ đổi tên này có gốc gác bởi một tên vô lại mù
là lịch sử. Có điều này tôi muốn hỏi anh: họ Nguyễn của anh có liên hệ gì với họ
Nguyễn của Nguyễn Ánh không? Câu hỏi của phán quan làm tôi nhớ tới những gì thuộc
về nguồn gốc. Tôi họ Nguyễn. Nếu lấy Nguyễn Bặc thời Đinh Tiên Hoàng làm gốc
thì Nguyễn Ánh với tôi cùng một dòng, cùng một tổ. Có điều chi của tôi bị đại
tông khai trừ. Tại sao thế? Cái này là do những đổi thay của các triều đại. Gia
phả họ tôi ghi về những ông tổ mà tôi được biết thì nó thế này. Gốc họ Nguyễn của
tôi ở làng Cổ Hoạch, sau này gọi là Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông.
Nơi này hiện còn nhà thờ tổ. Một trong những cụ tổ có cụ Nguyễn Doãn Địch, cụ đỗ
thám hoa triều Lê Thánh Tông. Dòng họ Nguyễn này của tôi có nhiều người học giỏi,
đỗ đạt cao và ra làm quan từ thời Lê thịnh. Sau đó vào thời nhà Mạc có Nguyễn
Thuyến đậu trạng nguyên và cả ba cha con đều làm quan trong triều. Làm quan cho
nhà Mạc nên Nguyễn Thuyến, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn bị kết án phản Lê. Sau đó
Nguyễn Thuyến bỏ nhà Mạc vào Thanh Hóa phù Lê trung hưng. Nguyễn
Thuyến chết, hai người con lại trở ra Bắc phục vụ dưới trứơng Mạc Mậu Hợp. Sau
này tôi có được đọc trong ngoại sử nói chính Nguyễn Bỉnh Khiêm, người có những
liên hệ với Nguyễn Thuyến đã khuyên hai người con của Nguyễn Thuyến về giúp nhà
Mạc. Cả hai người này sau bị Trịnh Tùng giết. Con của Nguyễn Miễn là Nguyễn Nhiệm
tìm đường chạy vào Nghệ An và chọn Tiên Điền làm quê hương mới. Nguyễn Tiên Điền
ở Nghi Xuân, Nghệ An ra đời. Tôi sinh ra ở Tiên Điền. Tôi là hậu duệ của kẻ bỏ
chạy khỏi đất bắc để tránh bị tiêu diệt bởi những thế lực tranh nhau quyền thống
trị. Thực ra tới thời gọi là Lê Trung Hưng thì không còn nhà Lê nữa. Nhà Lê chỉ
là bù nhìn cho các chúa Trịnh thao túng.
Phán quan nói: cái họ của anh nhiều người học giỏi,
làm quan to mà sao lung tung quá, nay theo người này mai theo người khác, vậy
là thế nào? Hôm nay là minh chủ mai đã thành kẻ địch? Đó có phải là câu hỏi
dành cho tôi không? Câu hỏi này có lẽ người muốn moi móc tới những vị
tiền bối của tôi. Nhưng vào cái thời nhiễu nhương giữa Lê Trịnh, Mạc, Nguyễn
thì cũng khó để nói tới những lựa chọn minh bạch. Nhưng có một câu hỏi mà cho tới
nay mỗi khi nhớ tới tôi vẫn thấy choáng váng: có phải anh đã chạy theo Lê Chiêu
Thống bám gót giặc ngoại xâm? Đây là sự thật tôi không thể nào trối được. Nếu
ba anh em tôi mà chạy kịp sang Tàu thì đời tôi đã như thế nào nhỉ? Bám gót giặc
ngoại xâm? Điều này thì oan cho tôi. Nhưng tại sao lại chạy theo Lê Chiêu Thống?
Có phải vì Lê Chiêu Thống là hậu duệ của Lê Lợi, người đã đánh đuổi giặc Minh dựng
nền tự chủ. Vua chết tôi phải chết. Thờ hai vua là bất trung. Điều
này ở đâu ra vậy. Nhà [5] Trần suy tàn, Hồ Quý Ly đứng dậy lập triều đại mới.
Nhà Lê thối nát bạc nhược, Mạc Đăng Dung nổi lên dựng nghiệp, một số các quan
chống đối, dân không đồng lòng. Thấy xã hội bất công dân tình khốn khổ, Cao Bá
Quát phất cờ khởi nghĩa bị gán là giặc châu chấu. Sợ thay đổi, đó là bản chất của
những ông quan, quan lớn hay quan nhỏ cũng thế. Vì mất chức thì họ sống bằng
gì? Những ông quan tốt nhất của giới sỹ phu thấy những sai trái của triều chính
thường chỉ biết dâng sớ tâu vua, nhưng thường vua đâu có nghe, kẻ
còn liêm sỉ chỉ có con đường từ quan, đó là hành động cao nhất mà họ dám làm. Tại
sao họ không chiêu mộ nghĩa sỹ đứng lên kêu gọi dân nổi dậy. Lịch sử Đại Việt
không có truyền thống nổi dậy chống bạo quyền. Anh làm quan nhà Lê
Trịnh cũng như ông cha anh với quyền cao chức trọng nên tất nhiên anh phải
trung thành với họ. Thời nào cũng vậy mỗi triều đại đều thiết lập một cơ chế gồm
những kẻ trung thành, được ưu đãi để cai trị dân và duy trì chế độ
lâu dài , hẳn nhiên những kẻ này chẳng bao giờ muốn thay đổi. Thời Lê Trịnh tôi
đã là một ông quan dù là một ông quan nhỏ. Có phải vì thế mà tôi sợ thay đổi ?
Cha mẹ tôi mất sớm, được đi học là nhờ người anh lớn khác mẹ
nuôi nấng. Nhưng tới một lúc anh tôi như linh cảm thấy những bất trắc đang chờ
đợi và ông mang gửi gấm tôi cho một ông quan võ họ Hà. Bao nhiêu sự kiện dồn dập
xẩy ra: một vụ án đưa anh tôi vào tù, ra tù, làm quan lớn hơn nhưng kiêu binh đốt
nhà phải bỏ chạy về quê. Nhờ làm con nuôi họ Hà tôi được yên thân tiếp tục học
hành để sau đó cắp giấy bút tới Sơn Nam dự kỳ thi hương và đỗ ba trường.
Cha nuôi của tôi qua đời, tôi được kế chân, đúng là cha truyền con nối. Cha làm
vua thì con làm vua, cha làm quan thì con làm quan, từ thời nào đã có diện
chính sách. Tại sao tôi lại là con nuôi nhà họ Hà mà không phải là con nuôi nhà
họ khác?
Cha nuôi tôi là người thân tín trong đường giây quyền lực của
cha tôi và ông anh quyền thế. Đây chắc chắn là điều khiến tôi trở thành con
nuôi nhà họ Hà. Tôi luôn nhớ: nhờ quan Chánh Thủ Hiệu tỉnh Thái Nguyên mà tôi
có chốn nương thân và sau khi ông qua đời tôi đã thành quan Chánh Thủ Hiệu mới.
Làm quan, tôi giật mình. Đỗ ba trường nhưng thực chất ở mức đó không dễ để được
làm quan. Muốn được làm quan phải ít ra là đậu cử nhân. Kế thừa chức của cha
nuôi tôi thành một ông quan võ không biết võ. Có lúc tôi tự hỏi: tại sao mình lại
chấp nhận một cách thụ động như vậy? Mình cũng ham làm quan lắm sao ?Thật là
khó nói. Đi học với bao công sức, đi thi với bao nhọc nhằn cay đắng để làm gì?
Tất nhiên để làm quan. Nếu không đi học đi thi làm gì? Đã hơn một lần
tôi tép miệng ngán ngẩm: không làm quan thì lấy gì để ăn ? [6] Anh bị
bắt giam, bị nhốt tù có phải vì một mưu toan? Phán quan vừa nói vừa nhìn tôi với
vẻ dò xét. Anh ta muốn biết điều gì nơi tôi? Sao anh ta lại nghĩ tôi có mưu
toan? Bị bắt nhốt vào tù thì hẳn phải có nguyên nhân. Từ ngày anh bỏ đi khỏi
Tuyên Quang đến nay anh đã làm những gì? Dù sống ở xa kinh đô nhưng tôi cũng được
biết tin về những gì đã diễn ra ở đó: Nguyễn Huệ đã ra Thăng Long truất bỏ chúa
Trịnh, Nguyễn Hữu Chỉnh lộng quyền, Nguyễn Huệ ra bắc lần thứ hai, Chiêu Thống
chạy sang Tàu cầu cứu quân Thanh, Nguyễn Huệ ra bắc lần thứ ba đánh tan quân
Thanh, Chiêu Thống bỏ chạy theo giặc kết thúc vương nghiệp nhà Lê. Trong khung
cảnh những biến động ấy đám bề tôi của triều đình Lê Trịnh đã bị đặt trong tình
huống rối bời. Chính trong khung cảnh đó tôi cũng tìm đường bỏ chạy trong hoảng
loạn.Trước sức tấn công như sóng lửa vào kinh thành Thăng Long, quân Thanh chống
đỡ trong tuyệt vọng, tàn quân đạp lên nhau cố gắng chạy sang bên kia sông.Tôn
Sĩ Nghị phải chui vào ống đồng cho binh lính kéo chạy. Chiêu Thống chạy ra bờ
sông bị dân kẻ chợ cởi thắt lưng tìm vàng bạc châu báu và bị lột cả hoàngbào...
Chạy theo vua không kịp , đi đâu đây?
Đi đâu đây ? Trở lại nhiệm sở ? Không được. Về nhà? Tôi còn
nhớ như in thời điểm đó khi ba anh em tôi dừng lại trên con đường cái
quan và nhìn nhau bần thần. Đi đâu ? Về đâu? Cuối cùng ba anh em tôi
chia tay nhau mỗi người đi một ngả. Hình như chúng tôi chẳng có điều gì để dặn
dò hay hẹn ước. Anh Nễ về quê mẹ ở Từ Sơn, chú Úc về Tiên Du còn tôi về Thái
Bình, nơi vợ con tôi đang sống. Những ngày tháng ở Thái Bình có gì để
nhớ? Chỉ có niềm vui nhỏ được sống bên vợ con nhưng thực ra bao nhiêu sự việc
làm rối lòng đã khiến cho niềm vui đó chẳng còn ý nghĩa gì với tôi. Tin từ Nghi
Xuân cho biết dinh thự, nhà thờ... đã bị đập phá tan hoang vì Nguyễn Quýnh kết
lạp nghĩa sỹ nổi dây chống Tây Sơn. Trong khi Nguyễn Nễ đang ẩn náu ở
Bắc Ninh thì nhận được dụ của Quang Trung triệu vào Phú Xuân. Cùng
lúc Đoàn Nguyên Tuấn, anh vợ tôi, ra cộng tác với nhà Tây Sơn và có mặt trong
đoàn sứ bộ sang Tàu. Một triều đại mới đã bắt đầu. Nhà Lê đã dứt. Bao nhiêu sự
việc ngổn ngang lại thêm cái chết bất ngờ của người vợ thân yêu, tôi quyết định trở
về quê nhà.
Quê nhà ngày tôi trở lại vẫn còn nguyên đó một vùng đất
nghèo,một thiên nhiên khô cằn với cát và đá, cỏ cây xơ xác, những luống khoai bụi
sắn èo oặt, những diện tích trồng lúa nhỏ hẹp, ít ỏi chen vào giữa những đồi đất
đá rộng lớn... Tôi tự hỏi: Sao tổ tiên tôi lại dừng chân ở nơi này để khởi nghiệp?
Tại sao không đi thêm nữa về phương Nam nơi có những cánh đồng màu mỡ
bạt ngàn, những dòng sông đầy tôm cá, những cánh rừng đầy cây ăn trái? Tổ tiên
tôi đã đến đây, đã ở lại đây. Tôi đâu có quyền để chọn [7] nơi mình sinh ra
...Những đổi thay của cuộc sống thời nhiễu loạn như đã để lại dấu vết trên từng
tấc đất dưới bước chân tôi. Quê nhà đã không còn như ngày ra đi. Qua xã Xuân
Yên, Tiên Điền vẫn còn đó nhìn ra biển Đông bao la lộng gió, bờ biển cát trắng
một màu, trên sóng nước những cánh chim biển bay lượn ... Phía tây dãy Hồng
Lĩnh vươn cao sừng sững. Nước sông Lam vẫn chảy, bến Giang Đình còn đây
nhưng dinh thự, từ đường, chùa miếu thời cha tôi ở lúc thịnh thời
xây dựng đã không còn, có chăng một mảng tường , một cột trụ , một bậc thềm rêu
phong ... Thay vào đó có mấy ngôi nhà nhỏ mái ngói còn tươi là những xây dựng của
Nguyễn Nễ. Một thời đã qua.
Tôi đã trở lại quê nhà. Những gặp gỡ bàng hoàng. Những nghẹn
ngào không nói thành lời... Bao nhiêu câu chuyện đau lòng. Những miệng
cười mếu máo. Những hàng nước mắt bỗng trào ra. Tôi bước đi trên những con đường
quen thuộc mà sao bỗng thấy xa lạ. Tôi lại nhớ những nơi chốn đã từng đặt chân
tới như đất Thiên Trường của nhà Trần, đất Lam Kinh...lịch sử mới qua đó nay đã
sớm hoang tàn. Điều đó cũng đã hiện hữu ngay trên quê hương Tiên Điền của tôi.
Đi thăm những gia đình người thân nhà nào tôi cũng thấy có bàn thờ, có thư
phòng với bút nghiên, trên cột, nơi vách đều có treo câu đối, những bức họa đề
thơ. Tôi nhớ tới hai câu ca dao truyền tụng: Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông
Rum hết nước họ này hết quan.Trong họ có bao nhiêu người học giỏi, bao nhiêu
người đỗ đạt, bao nhiêu người làm quan, quả thực tôi không thể nhớ hết. Có một
điều buộc tôi phải biết: tất cả những người đó nay không chung về một mối. Kẻ
hướng về nhà Lê, người ra làm quan với nhà Tây Sơn, kẻ lui về ở ẩn, có người hướng
về phương Nam. Tôi hoang mang trước những lựa chọn. Tôi quanh quẩn nơi quê
nhà với thực tế cuộc sống : cơm gạo. Phải làm gì đây? Sao không vứt bỏ bút
nghiên mà lội chân xuống ruộng cầm lấy cái cày cái cuốc. Mở hai bàn
tay ra trước mặt: bàn tay này không cầm bút có thể cầm cuốc, cầm cày được không
? Tôi thầm điểm danh những người chung quanh, những người đã có chút chữ nghĩa
thì chẳng thấy ai chân lấm tay bùn, chẳng thấy ai nói tới lúa khoai, bàn về mưa
nắng, nông vụ...Thường mọi người gặp nhau bên khay trà , hoặc chung quanh bình
rươu luận bàn về Tứ Thư, Ngũ Kinh ... Chuyện thơ phú và những ngâm vịnh
có khi thâu đêm suốt sáng. Điều này đã hình thành từ bao giờ. Truyền thống của
những người ra đi mở cõi khai hoang lập nghiệp sao không còn thấy. Ở đất này
hình như ai cũng làm thơ , đọc thơ , thuộc thơ .Chữ nghĩa , thơ phú lúc này đối
với tôi thực vô nghĩa. Tôi quẩn quanh, đi ra đi vào, nằm ngồi lẩn thẩn có lúc lại
cầm lấy cuốn sách lật ra đóng lại với đầu óc rỗng không. Những người trẻ trong
làng thường kết hợp lại thành những nhóm nhỏ khoảng năm bảy người. Có đám vào
núi đi săn, có đám đi câu, có đám đêm đêm rủ nhau sang làng bên ca hát...hình
như họ chẳng bận tâm gì tới cuộc sống. Sự thay đổi triều đại, những va đập của
chọn lựa đã không hiện diện trong trao đổi. Tại sao vậy ? Tôi lúng túng với
chính mình: tại sao lại bắt tôi phải lựa chọn? Và tôi tự đưa ra câu trả lời:
hãy vào rừng lên núi mà săn thú, bắn chim, Hãy ngược[8] sông, ra biển
mà bắt cá, hãy vui chơi mà quên đi thế sự... Nhưng tôi không thể nào quên được
với một tâm tư nặng trĩu những âu lo dằn vặt ...
Tại sao anh không ra hợp tác với tân triều? Anh nghĩ nhà Lê sẽ
khôi phục lại cơ đồ à? Hay anh đang hướng về Nguyễn Ánh ở
phương Nam? Mấy câu hỏi của viên phán quan làm tôi nhớ tới cái lúc
bước chân vào nhà giam ở trấn Nghệ An hôm nào . Việc xẩy ra vào một buổi sáng:
một toán lính đứng trước cổng với công văn gọi đích danh Nguyễn Du lên trình diện
quan Trấn thủ Nghệ An. Tôi tự hỏi: cái gì vậy ?Toán lính lặng lẽ dẫn
tôi đi không nói một lời. Tới dinh quan trấn thủ tôi được ra dấu đứng lại nơi
giữa sân. Một người lính bước vào trong, lúc sau anh ta đi ra đứng
trước mặt tôi bảo: đi theo tôi. Tôi được dẫn đi về phía sau ngôi nhà lớn, vượt
qua thêm mấy lớp cửa và người lính ngừng lại trước một gian phòng có
những chắn song lớn. Người lính mở cửa và nói với tôi: có lệnh bắt giam anh. Tại
sao? Không một lời giải thích. Tôi bất ngờ với sự việc. Kẻ cầm quyền khi nào
cũng có lý cho hành động của mình. Tôi bước chân vào trong phòng, người lính
đóng mạnh cánh cửa. Tôi đã trở thành tù nhân. Phải có lý do để trấn
thủ Nghệ An ra lệnh bắt giam mình. Tôi thử tìm kiếm lấy một câu trả lời, nhưng
tất cả đều mơ hồ. Có một buổi sáng tôi thấy khu nhà tù chộn rộn một cách khác
thường: từng toán người được đưa đi sau lại có những toán khác được đưa vào.
Tôi chờ đợi đến phiên mình. Tôi ngồi sát ra cửa đưa mắt quan sát
sinh hoạt ở phía ngoài. Không xa, ở gần một lớp cửa có hai lính gác
đang nói chuyện với nhau . Một giọng khàn: hôm nay quan ra lệnh cho thả hết những
tên trộm cắp sau khi bắt gia đình viết tờ cam kết bảo lãnh và mỗi tên bị đánh
năm trượng, đứa nào khóc la bị đánh thêm hai trượng. Một giọng khô: có hai thằng
ăn trộm trâu không ? Có - Hai đứa đó là anh em mồ côi thì lấy ai bảo lãnh? Còn
cái bọn kiêu binh kết bè đảng đi ăn cướp ? – Mấy đứa già yếu bệnh tật được tha
,còn những tên khỏe mạnh bị đưa đi đập đá trên núi. Riêng ba cha con
đi đào trộm củ chuối thì không chịu về - Bọn nó điên à – Thằng bố bảo
ở đây không đói , về nhà phải đi ăn trộm khổ lắm - Quan xử trí làm sao ?- Cho
lính lôi bỏ ra đường trong khi chúng kêu khóc thảm thiết. Trại giam đông quá,
phải thả bọn nó ra mới có chỗ mà nhốt bọn khác chứ. Sao nhiều kẻ bị
bắt thế nhỉ - Nghe đâu toàn bọn phản động, trong đó có cả tàn quân của tên Nguyễn
Quýnh bị giết lúc trước. bọn phục Lê ở đất này xem chừng còn nhiều. Lúc sau hai
tên lính bỏ đi , cánh cửa được đóng lại. Tôi nghĩ : chắc là mình nằm trong
danh sách rồi, ông anh mình mới làm loạn đó thôi, trối làm sao được.
Cái mặt của tên phán quan hiện ra với vẻ đáng ghét: anh có
mưu toan, anh chống Tây Sơn, anh định vào phương nam theo Nguyễn Ánh, trấn thủ
Nghệ An bắt nhốt anh là phải rồi. Nhưng sao anh chỉ ở trong tù chưa hơn trăm
ngày đã được tha? Chắc anh đã van xin, đập đầu kêu oan, đã viết cam kết trung
thành với tân triều? – Anh nghĩ tôi là một người như thế sao? Đó là
quyền của anh.Tôi chẳng làm gì cả - Anh làm gì ở trong tù ai mà biết được.
Tôi biết chắc một điều: anh có làm thơ. Không sẵn giấy bút nhưng thơ
nó ở trong đầu anh. Ai vào tù cũng ham làm thơ, nhiều khi chỉ là vè để gửi tâm
sự: nào nhớ vợ nhớ con, nào ân hận đã không ở nhà để phụng dưỡng cha mẹ, có kẻ
[9] làm thơ thế sự, có kẻ làm thơ kể khổ, có kẻ làm thơ dặn con về
mai sau , cũng không thiếu những bài thơ mà kẻ viết coi như di ngôn muốn nhắn gửi
cho hậu thế. Có kẻ nói về ngày ra khỏi ngục thất sẽ vẫy vùng phá tan tất cả những
nhà tù trên thế gian này. .. Ôi thôi thơ trong tù thì vô số kể. Anh mà ở trong
tù lâu hẳn có nhiều thỏ để lại cho hậu thế. Thật đáng tiếc. Khi anh bước chân
ra khỏi nhà tù chắc anh biết vì sao anh được tha. - Tôi chẳng biết
gì cả cho tới khi về nhà mới hay: anh Nguyễn Nễ đã nói chuyện với tướng Tây Sơn
tên là Nguyễn Thuận, họ từng là ban với nhau. Tên phán quan phá lên cười một
cách khả ố: họ cùng phe với nhau mà, thế còn ông anh vợ lúc đó ở đâu ? Làm sao
tôi biết ông ấy ở đâu ...Thế anh không tức giận vì bị bắt giam sao ? Ở trong
nhà giam có lúc tôi thấy ở trong hay ở ngoài cũng thế thôi. Tôi chẳng muốn nghĩ
ngợi gì. Tôi buông tôi trôi đi chẳng thắc mắc là mình sẽ trôi tới
đâu. Tôi ngoái cổ nhìn lại đời mình, tôi chỉ thấy tôi bị đẩy tới không ngừng và
tôi đã chẳng hề chủ động quyết định hay tham dự gì. Thật là khốn khổ phải không?. Phán quan đứng thẳng người hai tay dơ lên trời: Anh kêu khốn khổ mà tôi thì
không thấy, cả đời anh chỉ đi học, làm quan, đọc sách, làm thơ, khi chết
thì nhắm mắt ở kinh đô nhưng xương cốt được đưa về táng ở quê
nhà. Vậy còn đòi gì nữa? Tôi thấy anh tham quá. Bây giờ anh có muốn sống lại
và trở về quê hương không? Không. Không. Trở về đó làm gì? Phán quan gật gật
đầu: tôi biết trước điều anh nói. Anh đã từng viết: Hồn ơi! hồn ơi! Đông, Tây, Nam, Bắc không có nơi nào nương tựa đâu! Lên trời ,xuống đất đều
không được, Về đất Yên, đất Dĩnh mà làm gì? Anh đã chẳng viết thế để gửi cho
hương hồn người đã nhảy xuống sông Mịch La đó sao? Anh còn bảo: Họ không để lộ
vuốt nanh sừng và nọc độc. Nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường. Nghĩa là
sao? Chẳng lẽ anh đã trải nghiệm như thế nơi cõi trần? Anh không muốn trở lại
quê hương cũng có nghĩa anh không muốn trở lại cõi trần, không muốn trở lại làm
người? Vậy anh muốn đi đâu? Tôi phải thú thật với anh: tôi không thể hiểu được
anh.
5/7/2011
Dương Nghiễm Mậu
Nguồn: Trích tự truyện Nguyễn Du
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Ngày đốn cây vũ sữa
Ngày đốn cây vũ sữa
1. Ngày đốn cây vũ sữa
Bên kia bờ sông của quận lỵ là một xóm nhỏ, những căn nhà
thưa rải rác trên những khoảng đất trống không đều, có khoảng đất được canh
tác, có khoảng bỏ cỏ hoang, những cây ăn trái và ít gốc dừa nước rải rác theo với
mép sông nước ròng, có mấy con kinh nhỏ đưa nước vào sâu trong xóm. Trong khu
xóm có một ngôi nhà ngói cũ, ba gian, một sân gạch nay đã hư nát, ngôi nhà ở
phía ngoài đường liên tỉnh để tới đầu cầu đưa vào thị trấn. Trong khoảng vườn rộng
của ngôi nhà có trồng một cây hoàng lan lớn. Ngôi nhà có một khoảng mái bị đạn
nay được vá lại bằng một tấm tôn sáng bóng. Cách với ngôi nhà không xa, bám vào
con đường liên tỉnh có một ngôi trường học nay bỏ hoang với mái ngói sụp đổ và
là nơi những toán quân ngang qua vẫn coi chừng bằng cách nổ những loạt đạn bâng
quơ vào trong những tường gạch đã cũ vì mưa nắng và um tùm những cỏ dại.
Một người đàn ông đứng tuổi đạp chiếc xe đạp cũ vào thẳng
trong sân ngôi nhà, trời đã chiều, toán dân vệ từ đồn nơi đầu cầu đi hàng một dọc
theo con đường khởi đầu chuyến kích đêm ngoài vòng đai bảo vệ huyện lỵ. Người
đàn ông chậm chạp ngừng xe lại trước cửa nhà, nhẹ nhàng bước xuống rồi nhấc chiếc
xe lên hiên, đẩy cửa bằng bánh xe trước vào trong căn nhà đầy bóng tối. Tiếng
người đàn bà:
- Ai đó?
- Không có, tôi đây, sao bà không đốt đèn lên một chút...
Tiếng bước chân nặng nhọc từ trong nhà vọng ra. Người đàn ông
lúi húi mở dây chiếc bao đèo phía sau chiếc xe. Người đàn bà già yếu, da xanh đứng
tựa nơi cửa vào nhà trong:
- Thằng hai nó gửi cho bà ký bôm, thằng nhỏ mới sinh thật ngộ,
nó đen khoẻ như cha nó vậy, đôi mắt tròn quay dễ thương hết sức, thằng hai nói
sẽ đón bà lên ở với bọn nó, nó la tôi quá trời, bọn nó đâu có hiểu gì...
Người đàn bà lặng lẽ đón lấy những trái bôm tím ngon lành,
hơi thở mệt nhọc, người đàn ông bật hộp quẹt châm lửa vào ngọn đèn huê kỳ nhỏ để
trên bàn thờ, ánh sáng vàng úa lan ra căn nhà trống:
- Bà ăn gì chưa.
- Ông ăn cơm với bọn nó rồi há.
- Ừa, ăn cơm sớm, thằng hai còn bận vào trại, tội nghiệp con
vợ, người làm không có, trông vào con gái lớn một chút, cái hôm nó sinh may nhờ
có hàng xóm người ta giúp cho không thì đẻ ra nhà, rồi ngày ngày thằng hai phải
về mà bới cơm cho vợ, bọn nhỏ thì không có ai coi hết, mình mà ở trên đó được
thì đỡ cho bọn nhỏ, thật cực hết sức...
- Tội nghiệp...
Người đàn bà nói buông thõng, người đàn ông cầm chiếc mũ vải
đập đập trên tay rồi móc lên chiếc đinh đóng nơi tường mé gần chiếc bàn lớn dài
bằng gỗ đã cũ. Người đàn bà đi ra ngồi xuống ghế:
- Ông có nói chuyện hồi hôm cho thằng hai nó biết không?
- Có...
- Nó nói sao?
- Nó nói mình lên trên đó ở với bọn nó.
- Thế còn nhà cửa, còn thằng tư...
- Thì tôi cũng nói vậy, nhưng nó nói nhà cửa mà làm gì, còn
người còn của, chuyện thằng tư thì... coi như nó chết rồi.
- Chết rồi, nó rủa em nó như vậy được sao, đằng nào thì cũng
là em nó, tôi thương nó...
Giọng nói chùng thấp nhợt nhạt, tiếng thở dài của người đàn
ông. Thấp thoáng ngoài cửa bóng ngọn dừa lay động mơ hồ.
- Thằng hai nói, chuyện ở trong quận người ta hỏi mình, làm rộn
mình một chút là chuyện không thể tránh được, mình ở ngay chẳng hơi đâu mà sợ,
nhưng tôi nói, tôi lo cho thằng tư, hồi này đã lâu rồi không thấy nó về, chắc
là khó khăn, bà thấy đó, tối đến lính họ nằm ngoài đường lộ, tối không còn nghe
thấy chó sủa, không biết hồi này nó thế nào, tôi lo nó chết bờ chết bụi mất
xác...
- Thời buổi loạn lạc...
Người đàn bà đi vào nhà trong, người đàn ông ngồi im một lúc
rồi lấy ra hộp thuốc vấn hút, ngụm khói đục trắng lờ lững không muốn tan. Nghe
từ xa, ngoài sân có tiếng gà gọi nhau lên chuồng. Đêm đang xuống...
Người đàn bà lấy chiếc tô lớn múc cháo từ trong chiếc soong
nhôm ra, màu gạo đỏ lờ, ngọn đèn nhỏ leo lét trên mặt chiếc bàn cũ đã đen lại,
gian nhà rộng mênh mông mịt mù trong ánh sáng nhờ nhờ đau yếu... Người đàn ông
cài cửa nhà ngoài trở vào nằm trên bộ ngựa lớn nơi góc phòng. Tiếng nhai của
người đàn bà chậm chạp rời rã.
- Thế bà có tính lên trên đó với thằng hai không?
Không khí im lặng kéo dài, tiếng con muỗi bay quấn vào gần
vành tai khó chịu. Người đàn bà ngừng lại, nhìn vào ngọn đèn. Chiếc bóng thủy
tinh có những bọt không đều nhau, phía trên khói đã bám đen thành một vòng đều.
Người đàn ông bắt tay phải lên trán che hết ánh sáng trên đôi mắt vẫn còn mở lớn
không động đậy:
- Tùy bà, tôi sao cũng được, thật tôi cũng không còn ruột gan
nào mà nghĩ, bà tính coi...
Người đàn bà theo dõi mấy con muỗi cỏ đang bay quanh ngọn
đèn, có lúc chúng đạp vào bóng đèn nóng loạng quạng một lúc rồi lại tiếp tục
bay vòng quanh...
Người đàn ông kéo chiếc ghế dài lùi xa chiếc bàn một chút, rồi
ngồi xuống, người thanh niên bận quần màu lục sẫm cắm cúi đọc tờ giấy bỏ trên
bàn lúc lâu mới ngửng lên người đàn ông trước mặt, tóc cắt cao không chải, có
những ngọn tóc dựng đứng, hai bên tóc mai những sợi bạc, nước da xám, những vết
nhăn, đôi mắt kèm nhèm, chiếc áo bà ba đen đã cũ, chiếc khăn ca rô vắt trên vai
nhàu nhượi, hai bàn tay khẳng khiu bỏ trên mặt bàn và cái nhìn lơ đãng:
- Bác còn cậu con đi theo giải phóng phải không?
- Dạ, nó là thằng tư, thằng con trai út của tôi.
- Anh ấy đi hồi nào vậy?
- Có hơn hai năm, hồi quận chưa có.
- Lâu nay có về nhà không?
- Dạ không.
- Bác cứ nói thật đi, không sao đâu, tôi muốn bác nói anh ấy
nên về chiêu hồi đi, về làm ăn không sao cả...
- Dạ lúc trước nó về tôi có nói, nhưng không được, vợ chồng
tôi coi nó cũng như chết rồi...
- Sao bà con lối xóm nói mới đây anh ấy có về thu thuế mà,
tôi hỏi thật bác, nếu anh áy có trốn ở trong nhà thì bác không nên giấu chúng
tôi...
- Chết, đâu có, lúc trước cũng có đôi lần nó về, về ban đêm
chốc lát rồi đi, khổ lắm, nó về thì chỉ thấy xin tiền bạc mà vợ chồng tôi thì
có gì nữa, ruộng vườn bỏ cả, vợ chồng tôi cũng tính lên hẳn trên quận ở với thằng
hai trên đó, nó làm việc trên quận, chắc ông biết...
- Dạ, chúng tôi có biết bác có người con cả làm việc ở trên.
- Hồi trước nó xuýt chết vậy đó ông, trước đây nó về thăm
tôi, vừa ra khỏi nhà thì mấy ông du kích ập vào bắt nói nó làm mật thám cho đế
quốc, mấy ông ấy cũng bắt chúng tôi phải kêu nó về với nhân dân, với giải
phóng... Vợ chồng tôi thì già, sinh con ra lớn lên bọn nó làm gì thì làm chúng
tôi nào có biết, ông nghĩ coi, rồi sau đó tôi được biết giải phóng kết án tử
hình nó, từ đó tôi đâu có dám cho nó về, ông tính... (đó là những khuôn mặt dữ
dằn, tiếng nói quen thuộc , quần áo nhem nhuốc, bất chợt có mặt và mất đi thật
nhanh trong đêm tối chỉ để lại những tiếng chó sủa trong đêm thanh vắng, kẻ bị
bắt được nói cho đi học tập, hoặc được mang ra ngoài vườn sau và một mũi dao
thích vào bụng hoặc một tràng đạn nổ vào ngực, con ông Năm trong xóm được mời
đi học tập, hai hôm sau thấy xác nổi trôi táp vô bờ sông hai tay bị trói giật
sau lưng...).
- Bác nên khuyên anh ấy về, không thì e khó sống được nếu còn
quanh quất ở đây, bác biết tên xã ủy không, hắn bị hạ rồi, hôm đó bọn tôi nhanh
thì con bác cũng bị hạ, may thoát. Bác biết chúng tôi về đây để giữ cho làng ấp
được yên, bác coi hồi này đâu có bị phá rối, thu thuế, thu thóc như trước.
- Dạ, cũng nhờ ơn mấy ông...
- Mong bác ráng khuyên anh ấy, nếu không được khi nào anh ấy
về bác mật báo cho chúng tôi.
- Dạ, nhưng tôi chắc nó cũng chết rồi.
- Không đâu anh ấy còn sống, người ta còn nhận được mặt anh ấy
mà, bác không nên che chở cho đứa con hư ấy nữa. Và bác cũng đừng tiếp tế cho họ,
nếu không bác cũng liên lụy, chúng tôi biết bác là người làm ăn lương thiện,
chúng tôi cũng biết con lớn của bác mà.
- Dạ cám ơn mấy ông hiểu dùm cho vợ chồng tôi.
Người thanh niên mở xấp giấy lấy ra một bức hình đưa về phía
người đàn ông:
- Bác có nhận thấy mặt con trai bác không, đó, anh ta vác khẩu
súng nơi vai, người đứng giữa là tên xã ủy chúng tôi mới hạ được, còn tên này nữa,
nó là bí thư xã, nó đã bắn mấy người ở trong xã, chúng tôi đang tìm hắn, bác nhận
mặt rõ chưa, nếu gặp hắn thì bác báo ngay cho chúng tôi và đừng bao giờ chứa hắn,
hắn đã giết người.
Dạ... (thằng tư mặc đồ bà ba đen, đầu trần, vai khoác khẩu
súng ngắn gọn, nó đang tươi cười bá vai tên bí thư, tên giết người, sao hình hồi
nào mà trông nó khoẻ và trẻ quá, sau nầy nó gầy đi nhiều mà có thấy nó mang
súng như vậy bao giờ đâu).
Người đàn ông ra khỏi nhà hội đồng lúc mặt trời đã đứng bóng.
Nhấc chiếc xe đạp quay đầu ra ngoài rồi nhẹ nhàng leo lên và đạp ra con đường đất
để ra con đường liên tỉnh. Khi chiếc xe vào đến sân, ngừng lại dưới hiên để nhấc
chiếc xe vào nhà, người đàn ông nhận thấy hai chân hơi run và ù nơi hai mang
tai, những giọt mồ hôi chảy ròng xuống cổ. Buổi trưa im vắng và nồng...
Người cha ngồi hút những hơi thuốc đầy, nhìn lơ đãng vào khoảng
không. Người con ăn, nhai vội vã, bàn ăn chỉ còn một mình người con với những
bát chén ngổng ngang của những người đã xong bữa.
- Thôi ba đừng nghĩ gì cả coi như không có thằng tư... Nào
đâu mọi người không nghĩ đến nó.
- Nhưng đằng nào thì nó cũng là em mày...
- Vậy bây giờ bảo con phải làm sao? Thời buổi mà anh em phải
bịt mặt mà giết nhau. Hồi về nhà may mà con không bị bắt, nếu không thì ba
tính... Bây giờ con muốn ba lên ở luôn trên này với bọn con, thế là xong, nhà cửa
thì nhờ bà con ở dưới vậy...
- Nhưng má con không muốn đi, bà ấy thương nó...
Người con bỏ chén bát đứng lên khỏi bàn ăn. Người cha vẫn ngồì
im nhìn lơ đãng trên mặt bàn. Người con đi xuống nhà mang lên hai ly nước trà,
một ly cầm nơi tay, một ly để trước mặt người cha. (Khi đi làm trở về người nhà
đưa cho một lá thư, nét chữ quen của người em ruột: Mặt trận đã tuyên án xử
anh, mong anh hồi tâm trở về thì sẽ được khoan dung, nếu không thì em cũng
không thể cứu được anh. Cùng với phong thư có kèm theo một trái lựu đạn đã thối)...
- Con nghĩ chắc thằng tư cũng không còn ở trong vùng nữa, bây
giờ đâu có dễ gì mà lọt được trở lại vùng bình định, ba má có ở lại cũng không
giúp được gì cho nó đâu, mà ba má thì già rồi, mình lên trên này khi nào yên hẳn
thì về, nhà cửa ruộng vườn còn đó chứ ai lấy đi được mà lo.
- Thôi được rồi, để rồi ba thu xếp, nhhưng con có cách nào gọi
nó về được không?
- Cách nào, biết nó ở đâu mà tìm, mà gặp nó nói nó chịu về
không, thì ba má cũng đã nói với nó rồi. Nhà mình ba má được hai đứa, giá yên
bình thì con cũng ở nhà làm ăn chứ có sao, nào đâu phải con xung phong đi lính,
lệnh đi thì đi, cũng may là con chưa phải cầm súng mà đi kiếm nó, nó có số phần
của nó... Con chỉ lo nó quanh quẩn đâu đó...
Người cha uống một ngụm nước, đứng lên rời khỏi bàn ăn tới ngả
lưng xuống chiếc ghế vải để ở bên cạnh tường. Người con vặn máy thu thanh, tiếng
hát vang lên đầy căn nhà rộng... Người con ngồi xuống chiếc ghế thấp cầm lấy tờ
báo đọc. Đứa trẻ sáu tuổi từ trong nhà chạy ra lăn vào lòng người con. Người
con bỏ tờ báo xuống:
- Thôi mà, làm nũng gì đây nữa, lại chơi với nội đi, thôi mai
theo nội về vườn mà ăn trái cây, mùa này có vú sữa rồi đó.
Đứa trẻ nằm im mở mắt nhìn nghiêng tới ông nội nó đang trầm
ngâm hút thuốc. Người con vuốt tay lên đầu đứa trẻ... Người đàn bà từ trong nhà
đi ra:
- Ba vào trong giường nghỉ trưa cho khoẻ.
- Thôi ba nằm ngoài này cũng được, chút ba về rồi.
- Mai ba lên?
- Ừa để xem đã, còn nhà cửa ở dưới...
- Hay để mai con xuống đón ba má luôn thể, mình kiếm một chuyến
xe lam, còn đồ đạc lếch thếch, má thì yếu...
- Con khỏi lo, con đi về rồi ai coi bọn nhỏ, ba khoẻ mà lo
chi.
Người đàn bà bế đứa nhỏ dỗ nó đi ngủ, người đàn ông vuốt tay
lên má nựng nó giọng ngọt ngào. Đứa nhỏ bị nhột cười khích khích khi người đàn
bà bế nó vào nhà trong. Không khí căn nhà trở lại im vắng.
Buổi chiều người đàn ông đạp chiếc xe chậm chạp vượt qua cây
cầu, chiếc xe không chạy thẳng, vòng xuống phía dưới, gần với bờ sông, chiếc xe
chạy chậm chạp, người đàn ông chú ý tới những băng vải viết chữ căng ngang, những
tờ truyền đơn rải bay trên đường đi, và những bích chương màu dán nơi những
thân cây bờ tường gần nơi hội đồng xã, nơi đó một vài người qua lại. Người đàn
ông ghé lại nhà một người quen, khoảng sân đất rộng, ngôi nhà tôn thấp. Một người
đàn bà từ trong nhà đi ra:
- Chú lại chơi.
- Anh có nhà không thím?
- Nhà tôi xuống dưới xóm, người ta tìm thấy xác vợ ông hội đồng
hồi trưa, thật tội nghiệp...
- Ở đâu vậy?
- Ở ấp bên, nhà của ông gì đó, trong vườn, dưới một cái hố,
trời ơi, nhà tôi nói trông mà phát khiếp vậy đó chú, họ cho ngồi xuống rồi đập
đầu cho vỡ và đậy lên trên mấy miếng gạch xi măng, sao chết đã lâu mà chưa gì hết,
còn chân thì xơ ra và quần thì bị rách lên tận thắt lưng, thật là tội...
- Sao mà tìm được vậy?
- Nghe đâu có người hồi chánh ở đâu đó nghe chuyện biết được
nên chỉ cho quận, quận liền theo đó mà tìm. (Trong đêm tối một tốp người vào
nhà gọi cửa bắt đi, bà ta không chịu đi, họ bắt đi, hai người mỗi người giữ một
tay kéo đi, mặc tiếng kêu khóc vang lên cả ấp không ai dám mở cửa ra ngoài, rồi
mất tích...).
- May mà còn tìm được xác, ông bà ấy từ xưa tới nay ăn ở cũng
đường hoàng, có gì đâu, chẳng biết có thù oán gì với ai không? Ông bà ấy chỉ
còn có một người con đâu ở trên Sài gòn.
Người đàn ông như nhớ ra mình vẫn còn đứng dưới sân với chiếc
xe đạp, ông ta từ từ đẩy chiếc xe vào gần nhà dựa vào tường rồi bước lên hiên:
- Tôi tính sang nhờ anh chị coi giúp cho cái nhà, tôi đưa bà ấy
lên trên với thằng hai.
- Bao giờ chú đi.
- Thủng thẳng ít bữa, đồ đạc thì cũng không có gì, nhưng cái
nhà thì phải ráng giữ cho nay mai yên ổn thì về có chỗ mà ở, thằng hai nó nói
quá chứ tôi không muốn đi.
- Dạ.
Người đàn ông đứng im ngó nhìn những ngọn dừa xanh vượt lên bầu
rời cao, buổi chiều êm ả không có gió. Một chiếc máy bay xuất hiện ở trên cao.
Lúc sau người đàn ông xuống hiên đi vòng quanh khoảng sân ngó lên những ngọn
cây ăn trái, những luống rau trồng ngoài vườn, khi trời đã sẫm người đàn ông đạp
xe trở ra con lộ về nơi ngôi nhà mái ngói. Bóng tối xuống chậm...
Khu vực ngoài thị trấn lúc trước, có một thời rất đông dân
cư, đời sống khá sung túc, vườn tược sau thời gian chiến tranh canh tác trở lại,
những ruộng bỏ hoang bắt đầu những vụ lúa mới, nhưng thời gian ấy kéo dài không
lâu, chiến tranh trở lại, có lúc khu vực như hoàn toàn chịu quyền kiểm soát của
thế lực mới, dân chúng không chịu được chiến tranh kéo sát bên mình một cách
thường trực nên bỏ đi làm ăn xa tùy theo phương tiện và hoàn cảnh cho phép, tuy
nhiên có một số người chỉ biết ruộng vườn thì buộc phải giữ lấy cuộc sống vẫn
có, có người đã dời gia đình ra ở nơi những căn nhà làm bằng đất ngoài đồng trống
để tránh tai hoạ. Chậm rải theo thời gian, số người sống mỗi lúc một hao mòn, số
người đi xa cũng nhiều thêm, những trẻ nhỏ tha thẩn ngoài ruộng bùn với những
bàn tay chai cứng, trong căn nhà tối chật hẹp chỉ còn những người già cả...
Thôn xóm mang theo khuôn mặt buồn hiu. Có lúc người ta dửng dưng không còn xúc
động với những cái chết. Những cuộc hành quân mở ra với từng đoàn xe nối nhau
trên con đường liên tỉnh thỉnh thoảng xáo trộn đời sống bình thường của dân
chúng, những trẻ nhỏ đứng ra dọc bên đường vẫy tay những người lính lạ... Dần dần
an ninh được vãn hồi, dân chúng lại làm ăn, một đôi người ở xa trở về thăm lại
nhà cũ, và đã có một hai chuyến xe lam chạy nối khu vực với quận lỵ ở trong, và
những phiên chợ bắt đầu đông hơn xưa... Nhưng ban đêm tới vẫn là những đe doạ
không chừng, có những tiếng súng đánh thức người dân đang ngủ với nỗi lo âu bức
rức thường trực...
Buổi sáng bắt đầu với vẻ nhạt nhoà, người chồng ra sân đứng
nhìn toán nghĩa quân đi kích trở về vẻ chậm chạp ngái ngủ mang theo ba lô, ít
bó rau, ít trái cây, họ đi dọc theo mép con lộ về phía cây cầu, bóng chiếc trực
thăng, đang bay vòng quanh ở phía nam, tiếng động nghe xa rời. Chiếc xe bò chở
lá dừa chậm chạp lăn bánh với tiếng kêu khô khan và ngắn. Một người đàn bà gánh
rau đang đi xuống phía nhà hội đồng. Nắng sáng trong nhảy nhót trên những cành
lá xanh. Người chồng thở dài ngồi xuống nhìn cây vú sữa trụi lá giơ những cành
khô lên trên trời... Mấy tháng trước, hai vợ chồng già chợt ngỡ ngàng nhìn nhau
khi thấy những cành lá trên hầu hết những cây ăn trái trong vườn bỗng vàng và đổ
xuống không đúng mùa. Người ta nói bị ảnh hưởng thuốc khai quang từ vùng trong
theo gió trở ra. Sau đó, mùa mưa trở lại, cây cối phần lớn hồi phục với vẻ èo oặt,
chỉ có cây vú sữa lá không ra, mỗi ngày người chồng ra bấm vào vỏ cây thăm dò
và sau chót thì người chồng lắc đầu nói với người vợ: nó khô rồi...
Người chồng đi vào nhà mang ra cây rựa lớn và bắt đầu đốn cây
vú sữa, thân cây cũng không lấy gì làm lớn, người vợ từ trong nhà đi ra, ngồi
xuống hiên mát nhìn người chồng bổ từng lát chốc chốc ngừng lại nghỉ:
- Ông còn đốn làm gì nữa, khô rồi, mặc sức, hơi đâu...
- Trông cái cây khô tôi khó chịu, đốn nó đi cho những cây
chung quanh nó lớn, thế là nhà mình không còn cây vú sữa nào nữa, tôi còn tiếc
cái cây năm trước bị bão...
- Để mình trồng mấy cây khác, thứ này không chịu được thuốc
khai quang, chỉ một chút cũng khó sống... Nhưng trồng rồi có được ăn trái
không?
- Mình không ăn thì con cháu nó hưởng, bà thì thật...
- Thế ông tính bao giờ mình lên với thằng hai...
- Bây giờ bà giục tôi, thì để vài bữa nữa, sao tôi cứ thấy bứt
rứt không yên...
Người đàn ông tiếp tục đốn cây vú sữa, mỗi lần chiếc rựa ăn
vào thân cây, cây vú sữa khô lại rung lên, một vài cành nhỏ mục rụng xuống lần
đất ẩm... Người đàn bà cầm chổi quét khoảng hiên nhỏ hẹp, con gà mái quanh quẩn
dưới chân chạy theo sau người đàn bà vẻ quấn quýt. Nắng còn bỏ lại khoảng mát lớn
trên chiếc sân vuông vức. Liên tiếp những nhát rựa chặt vào thân cây, cho tới
khi đã mệt người đàn ông nhận thấy chỉ mới được nửa thân cây. Ông ta dùng hai
tay cố sức rung nhưng thấy vẫn còn chắc, ông ta bỏ vào lấy nước uống và ngồi
nơi hiên vấn thuốc hút. Người vợ đứng ngoài sân:
- Ông viết thư cho thằng tư ra sao?
- Tôi gửi cho nó một ít tiền, nói nó về, tôi cũng gửi cho nó
một giấy thông hành nữa, tôi đã hỏi kỹ người ta rồi, có một thằng bạn nó cũng mới
bỏ ngoài ấy về trình diện đây...
- Chết, rồi nếu người đưa thư ấy không kín...
- Người tôi gửi tin cẩn lắm, bà khỏi lo, nhưng thật tôi không
hy vọng, nó là thằng cứng đầu...
- Tôi lo cho nó...
Người đàn bà quay mặt đi, không khí rời rã, người đàn ông nghỉ
ngơi một lúc rồi ra dốn tiếp cây vú sữa, lúc cây khô ngã xuống thì bóng mát
trên sân cũng đã thu hẹp lại. Một người đàn bà từ ngoài hớt hải đi vào, nhìn
người đàn ông:
- Bác ơi, bác đi theo cháu coi...
Người đàn ông ngó lên, nhăn mày:
- Gì vậy cháu?
- Bác đi theo cháu coi xem có phải thật không, người ta vớt
được một xác chết, có người nói trông như anh tư nhà bác...
Người đàn ông đứng bật dậy, người đàn bà từ trong nhà đi ra.
Người đàn bà đứng dưới sân nói:
- Có lẽ người ta nhìn lầm...
- Thằng tư...
Người đàn ông vội vã đi xuống sân ra phía cổng; người đàn bà
đi theo, người đàn ông quay trở vào lấy chiếc xe đạp ra hiên, nhưng lại dựa chiếc
xe vào tường rồi vội vã đi:
- Bà ở nhà, tôi ra coi, thằng tư...
Người đàn bà ngồi xuống hiên nhà ôm mặt khóc. Người đàn ông vừa
đi vừa chạy, người đàn bà theo sau tức tưởi. Đám đông tụ lại nơi bờ sông, gần
nơi nhà hội đồng, toán nghĩa quân lố nhố ở bên, người đàn ông rẽ đám đông vào
trong, một xác chết ướt sũng nằm trên bờ cỏ, tờ giấy báo phủ lên mặt, bộ quần
áo đen ướt nhẹp, bàn chân cứng chỉ lên trời đã chương. Người đàn ông cầm tờ báo
bỏ ra. Đầu tóc bù xù, miệng há lớn phơi ra hàm răng trắng hếu, dấu đạn khoan thủng
một miếng nơi bả vai bên trái gần với cổ. Người đàn ông đậy vội tờ báo lại. Người
đàn bà đứng sau, đám người im lặng, người đàn bà nói nhỏ:
- Phải anh tư không?
- Thằng tư nhà tôi...
- Trời ơi, tội nghiệp...
Người đàn ông không nói, mặt bình thản chậm chạp quay ra đi
trở lại con đường về nhà...
30/3/1969
Dương Nghiễm Mậu
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Tiếng nói
Tiếng nói 1. Hắn chết đêm hôm trước. Mãi đến buổi sáng hôm sau người ta mới biết. Hắn cố ngoi từ giường đến cửa sổ kẹp đầu vào khe hở giữa h...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Nguyễn Phan Hách và bài thơ "Làng quan họ" Chúng ta thường nghe ca khúc “Làng quan họ quê tôi”, với hình ảnh, ca từ giàu...