Một diễn ngôn về cái ác
Đọc gia đình có bốn chị em gái
của
Phạm Thị Bích Thủy
Năm 1957, triết gia, tiểu thuyết gia, nhà phê
bình người Pháp Georges Bataille xuất bản một cuốn sách có tựa đề là Văn học và
cái ác, nghiên cứu khảo sát tác phẩm của 8 nhà văn nổi danh là Emily Bronte,
Baudelaire, Michelet, William Blake, Sade, Proust, Kafka, Genet. Tác phẩm của
các nhà văn này, nhiều người trong số họ được xem như những đại văn hào, viết về
một chủ đề chung: Cái Ác.
Văn học và Cái Ác.
Không phải chờ đến Georges Bataille người ta mới biết đến sự tồn tại của phạm trù “cái ác” trong văn học. Trong lịch sử văn học thế giới, chủ đề “cái ác” đã luôn tồn tại và song hành cùng văn chương. Với nhiều người luôn tôn sùng tính “chân, thiện, mĩ”, coi đó như chức năng chủ đạo của văn chương thì dòng văn học viết về cái ác là phi đạo đức, cổ súy người ta làm điều ác, vi phạm những điều cấm kị. Ấy vậy nhưng trớ trêu thay, văn học viết về cái ác đã không ít lần chiếm lĩnh những đỉnh cao chói lọi với những tác phẩm sống mãi cùng thời gian. Shakespeare với Hamlet, Emily Bronte với Đỉnh gió hú, Dostoyevsky với Tội ác và hình phạt…là những ví dụ.
Trong văn chương Việt Nam, dẫu hiếm hoi, không phải không từng
có những tác phẩm viết về cái ác. Chí Phèo của Nam Cao là một điển
hình. Cái ác trong Chí Phèo là cái ác cổ điển, trực diện, máu me, người thực hiện
hành vi vừa đâm người trước bàn dân thiên hạ vừa gào tướng “Ai cho tao lương
thiện?”. Chứng kiến cái ác trong truyện của Nam Cao không thấy ghê sợ mà chỉ thấy
thương cảm cho phận người.
Gần hơn, năm 1993, truyện ngắn Bi kịch nhỏ của Lê
Minh Khuê ra đời gây rúng động văn đàn. Câu chuyện nhỏ xinh về một người đàn
ông đã rũ bỏ người vợ bụng mang dạ chửa để tìm sự an toàn cho bản thân trong những
con sóng dữ thời cuộc, đã âm thầm trả thù bằng cái chết của hàng ngàn thanh
niên dưới bom Mỹ…Kết cấu nhân quả trong Bi kịch nhỏ, dẫu có hơi khiên cưỡng,
cho thấy cái ác phải trả giá. Cùng với cái ác – một vụ cưỡng hiếp – trong tiểu
thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, truyện ngắn Bi kịch nhỏ của
Lê Minh Khuê góp thêm tiếng nói rụt rè của văn chương hậu chiến đề cập tới cái
ác vẫn lẩn quất tồn tại trong thời chiến, khi mà sự hào hùng, đẹp đẽ luôn được
tô đậm, bao trùm. Những cái ác trong tác phẩm của Lê Minh Khuê, Bảo Ninh khiến
cho người ta bắt đầu có cảm giác ghê sợ trước những hậu quả tàn nhẫn – không chỉ
về thể chất mà đặc biệt đau đớn về tinh thần – do nó gây ra.
Gần hơn chút nữa là những tiểu thuyết của Tạ Duy Anh viết về
chủ đề “cái ác” như là một trong những gương mặt ngày càng dị hợm của đời sống
đương đại. “Cái ác” tràn ngập trong những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, lấp
ló trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, âm thầm hiểm ác trong
truyện ngắn Sợi dây của Nguyễn Thị Thu Huệ. Rồi nó trở thành “cái ác
bình thường”, dửng dưng, vô cảm, trơ lỳ trong tiểu thuyết Một ví dụ xoàng của
Nguyễn Bình Phương…
Những tác phẩm nối tiếp viết về “cái ác” như thế, dẫu cách
quãng, là những hổi chuông cảnh báo thưa thớt về một hiện trạng của đời sống xã
hội đương đại Việt Nam, khi cái ác trên hành trình lên ngôi mà không gặp phải lực
cản hữu hiệu nào.
Những vụ cướp!
Tiểu thuyết Gia đình có bốn chị em gái của Phạm Thị
Bích Thủy mới ra đời là tiếng chuông mới nhất trong dòng văn học viết về “cái
ác” ở nước ta.
Câu chuyện xoay quanh các mối quan hệ giữa 4 chị em gái trong
một gia đình, Thương, Ái, An, Yên, những cái tên được tác giả cố tình chọn đặt
với tinh thần giễu nhại bởi suốt 627 trang của cuốn tiểu thuyết, không hề có một
giọt tình thương cũng như chẳng có khoảnh khắc an yên nào trong đời sống các
nhân vật. Tất cả lộn nhào, hằn học, nghiệt ngã, rên rỉ giữa vòng xoáy biến động
dữ dội trong đời sống một gia đình Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI.
Nếu truyện ngắn của Lê Minh Khuê kể về một bi kịch nhỏ trong
gia đình thì Gia đình có bốn chị em gái của Phạm Thị Bích Thủy kể về tấn bi kịch
lớn, với quy mô khổng lồ, trong toàn xã hội. Tấn bi kịch ngoài xã hội đó dội
vào trong đời sống từng gia đình của mỗi thành viên, để cuối cùng dẫn tới thảm
kịch.
Gia đình có bốn chị em gái kể về những vụ cướp, nhưng không
phải cướp ngân hàng. Nó nói về việc cướp đi cơ hội làm việc, thăng tiến, cống
hiến, hưởng thụ của nhiều, vô cùng nhiều người mà trong nhiều trường hợp, “nạn
nhân” cũng không hề biết là mình đã bị cướp! Thời thế đổi thay, cái ác, theo
nghĩa nguyên thủy của nó, không đơn giản tồn tại ở những dạng thức cũ kỹ nữa mà
giờ đây, biến hình dưới những lớp vỏ mới. Việc cướp đi cơ hội của người khác
trong cuộc sống, nếu không thể gọi tên là “cái ác” thì ít nhất, với quy mô kinh
khủng như trong Gia đình có bốn chị em gái, nó mang mùi vị của cái ác. Mùi vị ấy
có thể vô hình, không màu, không mùi như thuốc đánh bả chuột, khó đo đếm, là ảo,
nhưng hệ lụy mà nó mang đến là thật! Là những gằn hắt có thật, vụ sát nhân có
thật, án tử hình có thật mà các nhân vật trong gia đình của cuốn tiểu thuyết đã
choàng lên cuộc đời nhau.
Nếu tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của
Nguyễn Khắc Trường, với những chi tiết kiểu “chi bộ họ ta” chỉ mới khắc họa những
cuộc đấu đá liên miên nhằm đưa người trong dòng họ vào các vị trí quan quyền bổng
lộc trong phạm vi làng xã, ở vùng nông thôn thì trong Gia đình có bốn chị em
gái, quy trình ấy được dịch chuyển về bối cảnh thành phố, đô thị, công ty, viện
nghiên cứu nhà nước với quy mô khiếp đảm. Những âm mưu, thủ đoạn nhằm đưa người
thân quen họ hàng, những kẻ thi ba môn chưa đủ một điểm rưỡi(!), vào các vị trí
công quyền, trong bộ máy nhà nước, trong các dự án, công ty sân sau… được triển
khai trên diện rộng, trong tiếng nói cười hả hê nơi bàn tiệc, hay những cuộc
trò chuyện chú cháu nhỏ nhẹ, thân tình.
Dưới một dạng thức mới, dưới những tấm áo mới là truyền thống
bảo bọc trong gia đình, lo cho người thân, bạn bè, họ hàng, những người tham
gia vào cái quy trình “một người làm quan cả họ được nhờ” này xây dựng nên những
tổ mối khổng lồ, làm mục ruỗng đến tận gốc nền tảng xã hội. Một số tham gia với
toan tính rõ ràng, vừa để trục lợi, vừa bảo đảm an toàn cho mình, cho gia đình
mình; số khác tham gia một cách hồn nhiên, coi việc đạp lên người khác, chiếm
các vị trí ngon lành trong hệ thống như một hành động tự nhiên, “mình không làm
thì có người khác làm”.
Não trạng “đi tắt”
Trong 4 chị em gái thì ngoại trừ cô Yên em út cùng anh chồng
tên Sỹ giữ vai trò khá mờ nhạt như để điểm tô cho đủ một gia đình “tứ nữ”, xung
đột gay gắt nhất diễn ra một bên giữa cô chị cả tên Thương (cùng anh chồng đụt
tên Thân), hai đứa con trai Hùng Nhật, Hùng Đức, lười biếng, gian xảo; một bên
là gia đình vợ chồng cô em thứ hai tên Ái với anh chồng tên Thường, một người
có chức sắc, quyền lực, dẫu chỉ giới hạn trong một viện nghiên cứu vài ngàn người.
Thương và Ái từ nhỏ đã chành chọe nhau mà phần thua thiệt
luôn thuộc về cô chị Thương, người thường nhường nhịn cô em gái ghê gớm. Nhưng
khi lớn lên, mỗi người mỗi phận, lấy chồng, đẻ con, hai người theo những ngả rẽ
khác nhau trên đường đời nên số phận khác nhau, gia cảnh khác nhau. Mối xung khắc
dần được đẩy lên thành xung đột, chỉ dựa trên một lý do duy nhất: Thương cho rằng
cả đời mình đã nhường nhịn, lo cho em út thì giờ đây, các cô em đã có gia đình
khá giả, chồng có chức tước, quyền bính, bắt buộc phải có trách nhiệm và nghĩa
vụ lo cho hai thằng con trai mà Thương vẫn nghĩ là chúng giỏi giang, chăm chỉ;
chỉ vì không được các dì, các chú lo cho một chỗ làm tử tế nên cuộc đời của
chúng mới khốn khổ, vất vả…
Mâu thuẫn lên đỉnh điểm gay gắt giữa Thương với vợ chồng Ái,
cô em nanh nọc thuở nhỏ. Như một người có bệnh lý, Thương coi việc vợ chồng cô
em gái không lo xếp đặt vị trí công việc cho hai con trai mình tương đương với
tội ác, nguyền rủa họ phải bị trừng phạt. Trong suy nghĩ vô minh của Thương, việc
vợ chồng cô em gái sắp xếp vị trí công việc cho những anh em họ hàng khác mà
không thu xếp cho hai đứa con mình chẳng khác nào hành động cướp giật quyền lợi
của gia đình cô.
Cái não trạng “đi tắt” thịnh hành trong toàn xã hội dần thấm
vào trong đầu óc Thương rồi qua cô thẩm thấu vào đầu óc hai đứa con, khiến
chúng ngợp thở trước những phù hoa lóng lánh mà đám nhà giàu tắt giành giật được,
coi những người trung chính chăm chỉ chịu khó làm lụng là hâm, dở hơi. Cả
Thương và hai đứa con căm hận vợ chồng cô em gái Thương không phải vì muốn tìm
kiếm sự công bằng, phản đối hành động cướp giật, mà chủ yếu vì cô và hai đứa
con bị khước từ, không được trao cơ hội tham gia vào chuỗi hành động đó.
Một xã hội băng hoại
Trong một bầu khí quyển nơi mà cái ác tràn lan, được bình thường
hóa, xâm nhập vào mỗi gia đình như trong Gia đình có bốn chị em gái, điểm sáng
hiếm hoi trong tiểu thuyết là An, cô con gái thứ ba trong gia đình. Bị chồng bỏ
(hay bỏ chồng?), An là nhân vật duy nhất trong cuốn tiểu thuyết còn giữ lại được
tính thiện lương.
Tính cách ngay thẳng của An bị hầu hết những người xung quanh coi là dị thường, quái lạ và không có gì ngạc nhiên khi cô chỉ có thể làm việc với các công ty nước ngoài hay tổ chức quốc tế. Hết giờ làm, Anh cô đơn trong ngôi nhà có khoảnh sân râm mát, ngồi nghe bản Morgen, tìm chỗ an trú bình yên sau những nháo nhào bon chen ngoài xã hội.
An chính là điểm kết nối sang tuyến nhân vật thứ hai, bên
ngoài gia đình bốn chị em. Ở đó, vẫn là cái ác lan tràn dưới hình thức những
phi vụ bắt tay trục lợi chính sách, loại hình “kinh doanh” có lãi chỉ sau buôn
vua. Như một sự đương nhiên, vẫn đậm đặc cái tinh thần “con dòng cháu giống”,
“anh em gánh vác” để xây cái tổ mối xã hội với những mỗi quan hệ thân thuộc, họ
hàng. Nhưng ở tuyến nhân vật này, nó gớm ghê hơn, tinh vi hơn, tráo đổi tay
đôi, tay ba, tay tư và quan trọng là được cấp phép. Cái ác diễn ra dưới cái vỏ
êm mượt như nhung: đúng quy trình, chính tắc.
Gia đình có bốn chị em gái vẽ nên bức tranh sinh động về
một xã hội băng hoại, hoàn toàn thiếu vắng đạo đức. Cái ác gần như tuyệt đối thống
trị. Những kẻ nắm quyển lực để có thể tham nhũng, vơ vét tự diễn giải các định
đề triết học cao siêu với vẻ ngô nghê để biện hộ cho những hành vi bất lương.
Đám thanh niên phát rồ lên trước những tiện nghi vật chất, khoái trá thưởng thức
các clip nhạc chế hay những đoạn video nhảm nhí tràn lan trên mạng, coi đấy là
những tiêu chuẩn sống đáng để mơ ước.
Những người như Ái, như Yên, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, tự
coi là thành phần gia thế, trí thức, ấy nhưng buôn chuyện quanh đi quẩn lại vẫn
nhắc đi nhắc lại về cái đám “thi ba môn đại học không được một điểm rưỡi”.
Thương là cô giáo dạy cấp 3, dăm lần bảy bận lên nhà các em mình than thở chửi
bới, lần nào cũng giống hệt lần nào, không một sự thay đổi.
Sự sắp xếp lặp đi lặp lại có chủ ý của tác giả về các tình huống
truyện, các đoạn thoại cho thấy sự cằn cỗi về ngôn ngữ, sự cùn mòn ghê gớm
trong đời sống tinh thần của các nhân vật. Chớ có coi thường những gã trai cười
hi hí khoái trá khi xem những clip ca nhạc rẻ tiền thô thiển. Ngụp lặn trong
cái môi trường nhàm nhạt, trống rỗng về văn hóa như vậy, các nhân vật dường như
chỉ cách có một bước chân để đi tới chỗ phạm tội ác.
Những tương đồng với Anh em nhà Karamazov
Mà nói đến tình huống phạm tội trong tiểu thuyết Gia đình có
bốn chị em gái, không thể không nhắc đến một ngọn Thái sơn trong dòng văn học
viết về Cái Ác, cuốn tiểu thuyết trường thiên Anh em nhà Karamazov của
Dostoyevsky.
Mọi sự so sánh đều khập khiễng, đặc biệt khi Anh em nhà
Karamazov là một kiệt tác trong văn chương thế giới. Nhưng trong tương quan văn
bản của hai tác phẩm văn chương cùng có chỗ đứng bình đẳng dưới ánh mặt trời,
không khỏi có những so sánh nhất định.
Ngoài sự tương đồng bề ngoài giữa một bên là “nhà” có bốn anh em trai, một bên là “gia đình” có bốn chị em gái, còn có những điểm nào khác đáng chú ý?
Trong tiểu thuyết của Dos, đứa con hoang Smerdyakov giết cha
rồi tự tử; trong Gia đình có bốn chị em gái, cháu giết chú, sau bị điện giật
chết. Ở hai cuốn tiểu thuyết cùng có phiên tòa xử với đầy đủ chứng cớ để kết tội
thủ phạm nhưng thực chất kẻ thủ ác lại không phải là người đứng trước vành móng
ngựa.
Sự tương đồng lớn nhất nằm ở chỗ đứa con hoang Smerdyakov
trong Anh em nhà Karamazov là người trực tiếp cầm hung khí giết cha
nhưng “thủ phạm” dẫn đến hành động tội ác ấy là đứa con trai thứ hai Ivan với mớ
triết lý hư vô “trong một thế giới không có Thượng đế, mọi sự đều được phép” của
anh ta. Trong Gia đình có bốn chị em gái, Thương cũng không phải là người
trực tiếp xuống tay hạ độc giết người nhưng mớ suy nghĩ hằn học vô minh của cô
ta được bơm liên tục vào đầu hai đứa con suốt từ thuở ấu thơ đến khi trưởng
thành, về nghĩa vụ của các cô các chú phải giúp hai đứa con trai “đi tắt” trên
đường sự nghiệp, thực chất đã là nguyên nhân dẫn đến cái chết của em rể cô.
Và nếu Dostoyevsky, trong Anh em nhà Karamazov, đã đưa
ra cái định đề gớm ghê “Trong một gia đình những đứa con trai, có người con nào
mà trong ý nghĩ lại không có ý muốn giết cha!” thì trong Gia đình có bốn
chị em gái, Phạm Thị Thu Thủy, mặc dù không có một câu thoại hay dòng tự sự nào
trực tiếp nói ra, nhưng qua toàn bộ câu chuyện, đã trình hiện một định đề đáng
sợ: “Trong một gia đình có các chị em gái, sự tương tàn lẫn nhau dường như là
điều không tránh khỏi!”.
Đó là hai diễn ngôn đau đớn về Cái Ác.
Tiểu thuyết Gia đình có bốn chị em gái khép lại mà
không có ánh sáng le lói nào ở phía chân trời, không có những diễn ngôn sáo rỗng
về sự tất thắng của cái thiện như mẫu hình tiểu thuyết “người tốt việc tốt” phải
có. Đó là lý do khiến cho đọc xong cuốn sách dày và nặng này, chỉ còn lại cảm
giác nhức nhối, trống rỗng. Những Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Bảo Ninh, Tạ
Duy Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ hay Nguyễn Bình Phương, bằng những bước chân đi trước
dọ dẫm vào vương quốc của Cái Ác trong văn học đã giúp cho Phạm Thị Thu Thủy
không buộc phải truyền đi một thông điệp tươi sáng mang tính giáo điều ở phần kết
của cuốn tiểu thuyết.
Sau cuối, Cái Ác vẫn tồn tại, vẫn hoành hành trong bữa tiệc hân hoan của những kẻ vừa hoàn thành một phi vụ làm ăn. Đó mới chính là cuộc sống.
7/11/2024
Yên Ba
Theo https://vanvn.vn/
.gif)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét