Con chốc mào nhớ tổ
Nguồn: Internet
Ông Giáo, bà Giáo đều vào hạng “người cao tuổi”. Ông Giáo nghỉ
việc từ nhiều năm trước, không được hưởng một món phụ cấp nào, phải tự xoay xở
kiếm sống, mà trông cũng có vẻ nhàn nhã nhờ trời cho sáng trí và khéo tay. Bà
Giáo lưu dung chưa đủ năm, không có “lương hưu”, mỗi tháng nhận khoản tiền “mất
sức” ban đầu hơn trăm, sau dần dần được tăng lên.
Ông Giáo không có sự đam mê nào ngoài việc mày mò tìm hiểu những chuyện xưa
tích cũ xảy ra trên vùng đất quê hương, những giai thoại vui của tổ tiên, vào
cái thời cụ nội về trước, dòng họ ông có nhiều người sống rất thoải mái, rất
ngang tàng.
Bà Giáo thì thích chăm sóc mấy chậu hoa, nuôi năm bảy con cá cảnh và vài ba con
chim: con sáo hiền lành như một cô gái quê, đôi chào mào suốt ngày ríu rít.
Ở quê ông Giáo người ta gọi chúng là chim chốc mào. Trẻ con
hát: Cà cưỡng bay cao. Chốc mào bay thấp. Con cu đương ấp. Chốc mỏ về trời.
Nghe tiếng thầy mời. Về ăn thịt chuột… Hồi 1945-1946 thấy Vệ quốc đoàn đội
ca-lô người ta nói: “Bộ đội đội mũ chốc mào…”
Xóm quê ông Giáo nằm giữa lòng thung lũng vùng cao nguyên. Nhà ông cất nơi góc
một đám thổ, phía trước là ruộng sình rồi ruộng gò, phía sau là đám thổ cao
hơn, tiếp đến chân đồi. Đám thổ cao thường rắc đỗ, rắc bắp, nơi bìa có hàng chuối
và mấy dây bí ngô bò lan dưới đất, mấy bụi ớt xiêm, ớt hiểm. Chốc mào thường tụ
về lúc đỗ ra hoa, bí ra hoa. Chúng sà thấp xuống, bay chập chờn, vừa rỉa hoa vừa
gọi nhau. Chúng rất thích ăn nhị hoa bí ngô và ớt chín mọng đỏ.
Lũ trẻ bạn thường gài chốc mào bằng bẫy cò-ke, loại bẫy chân cao, mồi nhử là
cái bông bí nở vàng, ở giữa là nhị đực đầy phấn hoặc chùm ớt chín thật tươi buộc
ghép lại. Chim bị dính nơi chân nên luôn luôn còn sống. Có khi chỉ bị dính mấy
ngón, nếu nó biết duỗi ra là có thể vuột được, bay lên vượt thoát, nhưng do
quán tính chim cứ bấu chặt lại để chịu chết. Chúng cũng gài chim giẽ bằng bẫy cạm
nơi bờ ruộng. Con giẽ gù lông lốm đốm như gà sao, khi ngả xế gió nồm lên, gáy
re re rồi băng bờ chạy qua đám ruộng khác, chui đầu vào cạm!
Vài đứa bạn nuôi chim sáo. Sáo bắt từ trong bộng cây, lúc mới mọc lông măng, lớn
lên sống quen bên chủ, chủ đi thì bay theo đậu trên vai. Lúc xa một chút, chủ gọi:
“cú-ráo cú-ráo”, sáo đáp lại rồi quay về. Ra gò rộng, chủ giày đạp lên ngọn cỏ
cho lũ cào cào con bay lên, bắt lấy, đem về ngắt bỏ phần đầu và chân, cho sáo
ăn.
Phần lớn dân quê chỉ nhìn ngắm chim trời. Lúc cày vỡ đất, cả bầy… sáo đen, sáo
sậu, sáo trắng, sáo ngà… không thiếu loại nào, xuống ăn theo đường cày, đậu
trên lưng trâu, lưng bò. Mùa rắc thì chim đất, mùa trái cây thì chim gầm ghì,
chim xanh… lúc nào cũng từng bầy. Chim đất (cu cườm) khi bay theo bầy không gáy
như lúc bay lẻ. Chim gầm ghì đôi cánh màu bạc lấp lánh dưới nắng. Chim xanh kêu
“rõ-chẽo rõ-chẽo”. Chim ngựa có lông ức đỏ tía, kêu “hun-hút hun-hút”…
Trong sân nhà con chim sâu lích chích trên ngọn cam, con chim nghệ cánh vàng
tươi điểm mấy vết đen láo liên nghiêng ngó trên cành bạc lá bìa vườn, con chim
khách quẹt quẹt trước cổng ngõ, con chim chìa vôi lanh chanh, con chim chèo bẻo
trên ngọn măng vòi gió đưa lắc lư. Người và chim chóc gần gũi quá, bắt nhốt
chúng lại làm chi!
Bà Giáo dân đồng bằng, không có những hồi ức đó nên thích nuôi vài con chim
trong lồng. Đôi chốc mào, con lớn đã hơi già, thường vừa rỉa lông vừa kêu những
tiếng nho nhỏ nghe có phần buồn bã. Con nhỏ hơn người bà con đem cho lúc nó vừa
đủ lông, bây giờ mũ và lưng đen tuyền, đuôi cũng đen, bụng trắng, phía dưới
đuôi màu đỏ hồng.
Hai chiếc lồng khi treo gần, đôi chim trông thấy nhau, chúng không kêu hót. Đem
một lồng để cách khuất, không cho chúng thấy nhau… nhất là lúc nắng mai vừa lên
rực rỡ, đôi chim kêu hót inh ỏi. Chúng cũng kêu hót lúc trời mờ sáng, thay cho
tiếng gà lảnh lói một thời, giục giã mọi người thức dậy. Nhưng từ khi con chốc
mào lớn bị chuột lẻn vào cắn chết con chốc mào nhỏ không kêu hót nhiều.
Một buổi sáng bà Giáo thay thức ăn và nước cho chốc mào nhỏ quên đóng cửa lồng.
Con chim vụt bay ra ngoài. Khi người nhà phát giác, nó đang đậu trên cây chanh
kiểng đầy những trái bằng đầu ngón tay út chín đỏ. Con chốc mào nhìn ngắm rồi
khẽ lấy mỏ rứt một trái, trái nữa, rồi trái nữa. Nhiều ngày tháng chỉ ăn thực
phẩm khô không làm con chim quên mất bản năng. Nó ăn một cách say sưa, xong bay
lên ngọn cây bơ, lại bay qua ngọn cây mận. Hai cây đứng ở hai đầu sân, cách
nhau một tầm bay ngắn. Người nhà bà Giáo lén rình theo con chốc mào nhưng không
dám động mạnh, sợ nó bay mất. Cuối cùng nó ẩn vào đám lá mơ xanh mướt và khuất
dạng. Bà Giáo trách con chim “dại quá!”. Có những con chim “khôn” sẩy ra vẫn nhớ
lồng quay về.
Ông Giáo thì nhẩm tính những cây trồng trong xóm. Nhà này sang nhà kia có khá
nhiều cây, con chốc mào có thể theo những cây ấy bay tới đồi Tháp. Từ đây nó có
điều kiện nhập bầy. Ông Giáo nhìn cây trà mi trước sân, có những nhánh cháng ba
che bởi lớp lá sum suê. Thật là nơi làm tổ tiện lợi cho chốc mào. Lúc ở thôn
quê, ra gò, ra rẫy, ông thường bắt gặp những tổ chim nơi các bụi cây như thế.
Chiếc tổ tròn trịa, xinh xinh bên trong có một hai quả trứng bé bỏng hoặc vài
con chim non vừa nở, mắt nhắm kín, miệng há to.
Hết buổi chiều hôm sau, lúc vừa sâm sẩm, con chốc mào xuất hiện. Chiếc lồng trống
không còn treo chỗ cũ, nó đáp dưới cây mè mái nhà rồi đáp vào cửa sổ. Bà Giáo
lùa nó vào nhà, đóng cửa, bắt được. Bà nói chuyện với con chim, hỏi nó đã đi những
nơi nào, đã trông thấy những gì, bay có mỏi cánh không…
Ông Giáo nhớ lại ngôi nhà tranh ở xóm Đá. Bên kia mấy đám ruộng là một dải gò
dài, nhiều cây thấp. Mỗi ngày, lúc sẩm sẩm chốc mào bay về từng bầy, vừa bay vừa
kêu, tiếng đồng thanh nghe xao xác buồn buồn. Chúng bay hơi cao lên rồi sà xuống
hơi thấp, tấp vào một chòm cây, hạ cánh. Rồi vụt bay ra, xao xác, thấp cao. Ba
bốn lần như vậy, chúng mới tìm được nơi vừa ý để đậu. Hết bầy này đến bầy khác.
Khi bầy cuối cùng không còn xao xác nữa thì những bóng cây nhòa vào nền trời.
Chân trời xám sẫm rồi tối hẳn, vài ba ngôi sao hiện ra.
Những lúc này, ông Giáo (là một cậu bé) thường ngồi nơi bậc thềm, nhìn ngắm những
bầy chim trong dáng bay chập chờn như kết lại thành một mảng, nghe tiếng xao
xác xa xa mơ hồ, có lúc bặt hẳn. Cảm thấy đầu óc thật nhẹ nhàng, đến lâng lâng.
Trong nhà, mẹ ông đang thắp đèn. Ở thôn quê gọi giây phút này là lúc “đỏ đèn”.
Bà Giáo để ý thấy con chốc mào biếng ăn, thỉnh thoảng mới kêu hót, có phần rỉ rả,
chậm buồn. Bà nghĩ, chắc nó mệt mỏi sau một ngày sổ lồng bay xa, lại hỏi nó về
cuộc hành trình bụi đời bằng giọng mến thương như bà nói với cháu.
Buổi sáng ấy… Ông Giáo vẫn dậy sớm ra sân khi tiếng loa đài truyền thanh vang
lên. Không thấy con chốc mào động tĩnh gì, ông ghé mắt nhìn. Nó nằm nghiêng dưới
sàn lồng, hai chân co lại. Con chim đã chết. Ông để cho dòng trí tưởng miên
man…
Con chốc mào bị người ta bắt lúc còn quá nhỏ. Nó chưa có ý niệm về bầy, về tổ.
Tổ của nó sau này là chiếc lồng đẹp ở nhà bà Giáo và bầy của nó là con chốc mào
lớn mỗi ngày cùng kêu hót. Khi đem cách xa nhau nó thấy lạc bầy, nhớ bầy, hốt
hoảng kêu lên thành những tiếng hót lanh lảnh làm vui lòng người.
Trong cái ngày gọi là đi bụi đời bữa nọ, nó đã được biết khá xa. Từ cây chanh
kiểng, cây mận, cây bơ trong sân qua hàng cây ven con đường hẻm, mấy nhà vườn gần
bờ sông và trên đồi Tháp. Nó đã thấy bầu trời cao thế nào, xanh thế nào, mây
bay ra sao, nắng ấm và rực rỡ, những cánh bướm nhởn nhơ… nó đã nhìn rõ mênh
mông đồng lúa trải vàng, rồi mặt trời đỏ chói trên đỉnh núi xa… Nhưng nó không
biết cái thi vị tuyệt vời của con chim trời sau một ngày đi ăn là xao xác về tổ
buổi chiều. Nó chỉ biết chiếc lồng sơn màu lục nhạt khi treo dưới cây chuỗi ngọc
sân sau, khi móc nơi mái hiên nhà trước. Nó quay về lồng là quay về tổ.
Và lại mất trời mây, mất đồi cây, mất đồng lúa chợt thoáng sau một ngày tung
cánh tự do. Con chốc mào chỉ còn lại tiếng kêu ri rỉ bi thương. Nó bỏ ăn, bỏ uống,
không buồn nhảy vào lon tắm, đập cánh cho nước tung tóe. Nó ngẩn ngơ từ khi nhớ
tổ về lồng.
Ông Giáo hạ chiếc lồng xuống. Nơi miệng con chim chốc mào có một vệt máu đã
khô. Màu máu sẫm hơn vùng lông đỏ quanh mắt con chim đang nhắm lại như bình yên
giấc ngủ.
15/11/2025
Trần Huiền Ân
Nguồn: https://tranthinguyetmai.wordpress.com/
Theo https://www.tongphuochiep.com/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét