NĂM CON HỔ ĐỌC HỔ NHỚ RỪNG CỦA THẾ
LỮ
(Lời con hổ ở vườn bách thú)
THẾ LỮ
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Năm CON HỔ đọc thơ NHỚ RỪNG
Bài viết của VŨ QUẦN PHƯƠNG
Bài thơ mượn lời một con hổ ở vườn Bách thú. Đề tài đầy kịch tính. Cảnh ngộ
là một thân tù hèn mọn, bất lực, hồn vía là một chúa sơn lâm. Ông chúa này đã
hết thời đập phá hung dữ, đòi tự do. Ông đã thấm thía sự bất lực và ý thức
được tình thế của mình, cam chịu cảnh gậm nhấm một khối căm hờn, nằm dài
trông ngày tháng qua, mặc cho thân thế bị tụt xuống ngang với các loài hèn
kém. Nhìn bề ngoài, người ta có thể nói con hổ này đã được thuần hóa, chịu
ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bên vô tư lự. Nhưng đây chỉ
là bề ngoài thôi, còn thế giới bên trong của mãnh thú, tội nghiệp thay, vẫn
ngùn ngụt lửa. Bút pháp lãng mạn của Thế Lữ có dịp tung hoành, có dịp chứng tỏ
sức diễn đạt phong phú của thơ mới khi dựng lại khung cảnh kì vĩ trong mộng
tưởng của chúa sơn lâm.
Mối bi kịch thân ở nơi tù, hồn ở giang sơn cũ đã tạo nên chất men ngưỡng mộ
đối với hoài niệm. Qua tâm linh của loài hổ, rừng núi hiện lên trong vẻ kì vĩ
đắm say. Kì vĩ vì thâm nghiêm bóng cả cây già; kì vĩ vì dữ dội oai hùng với
các từ gào, hét, thét, dữ dội; kỳ vĩ vì hoang vu bí ẩn: hang tối, thảo hoa
không tên tuổi, riêng phần bí mật...
Trong cảnh núi rừng kỳ vĩ đó hiện lên hình ảnh oai linh của chúa sơn lâm.
Trọng tâm của bức tranh rừng này là con hổ. Nhưng trước khi để hổ hiện ra,
Thế Lữ đã dựng cảnh để gợi không khí oai hùng, kinh sợ. Vào đúng lúc tiếng
gào thét của thiên nhiên đang ở đỉnh cao dữ dội, chúa sơn lâm xuất hiện. Đầu
tiên chỉ thấy bàn chân, một bước chân dõng dạc, đường hoàng. Câu thơ như đoạn
phim cận cảnh quay chi tiết, thu hút sự chú ý của khán giả. Sau bàn chân là
tấm thân, xuất hiện rất từ tốn nên càng oai hùng, to lớn. Chiều dài của tấm
lưng trải ra theo câu thơ, một sự mềm mại tích chứa sức mạnh:
Lượn tấm thân sư sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai, cỏ sắc
Cách miêu tả từng động tác, lại là những động tác có chọn lựa của bàn chân,
tấm thân và ánh mắt đã thể hiện được sức chế ngự của mãnh thú trước phông
cảnh. Mấy câu thơ sau đã hoàn tất nốt bức chân dung chúa sơn lâm. Cái oai của
chúa rừng còn chế ngự cả cảnh vật nơi chúa đã đi qua, khiến cho mọi vật đều
im hơi. Câu nói kiêu hãnh của loài hổ không có gì quá đáng:
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
Chỉ một đoạn thơ này đã đủ nói cái quá khứ oai hùng, giang sơn nhất
khoảnh của chúa rừng. Thế Lữ còn dư sức bút, một đoạn nữa cũng chủ ý ấy,
nhưng chi tiết lấy từ sinh hoạt của ác thú. Óc tưởng tượng của nhà thơ tiên
phong trong phong trào Thơ mới thật phong phú, từ chi tiết thực của đời thú,
ông đã dựng được chân dung tâm hồn của vị chúa tể. Có bốn cảnh: đêm trăng -
ngày mưa - sáng xanh - chiều đỏ. Bức tứ bình này (Thế Lữ cũng là họa sĩ đã
từng học cao đẳng mĩ thuật) ít chi tiết, nhưng nét đậm rõ, màu lên từng mảng
lớn, trong cảnh có cả âm thanh khi tưng bừng tươi sáng, khi câm lặng bí ẩn.
Bút pháp tả cảnh ở đây hiếm thấy trong thơ Việt Nam. Vẫn là tả tập tính của
thú, nhưng sức gợi của câu thơ rộng xa, giúp người đọc thấy cái hồn của cảnh
và "tâm trạng" con thú.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Sự im lặng thiêng liêng có chút ghê rợn nhưng thật kì ảo quyến rũ: bên bờ
suối trăng một mãnh thú uống nước, rình mồi.
Tác giả nâng uy quyền của chúa rừng bằng cách đối diện với thiên nhiên, tạo
hóa trong cả bốn bức tranh đó - đối diện với trăng, với mưa, với bình minh,
với hoàng hôn. Và ở cả bốn khung cảnh, con hổ đều ở thế chế ngự - chú ý các
động từ tả hoạt động của hổ trong bốn cảnh:
say mồi, đứng uống
lặng ngắm giang sơn
đợi mặt trời chết, để chiếm lấy...
Đẹp nhất, dữ dôi, bi tráng nhất là cảnh hoàng hôn. Bức tranh rực rỡ trong gam
đỏ: đỏ của máu lênh láng, đỏ của mặt trời gay gắt. Tác giả dùng chữ mảnh để
gọi mặt trời, tưởng như mặt trời cũng bé đi trong mắt nhìn loài hổ. Không khí
chết chóc bao trùm, gợi lên do máu lênh láng, do giây phút hấp hối gay gắt
của mặt trời. Chỉ ít phút nữa vũ trụ sẽ chết lặng, ngự trị trong bóng tối,
chỉ còn có oai linh của hổ. Đấy là điểm cao trào nhất của quyền lực, gần như
sự bất tử. Từ trên đỉnh cao huy hoàng của hồi tưởng, hổ đã sực tỉnh cái thân
tù:
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!
Lời than có sức lay động và ngân vang do sự tương phản ấy. Hùm thiêng khi
đã sa cơ... Bản thân sự hồi tưởng này đã cụ thể hóa cảnh ngộ của thực tại: gậm
một khối căm hờn trong cũi sắt. Mỗi lần hồi tưởng là một lần ý thức thêm sự
bất lực, là một lần gậm nhấm thất bại.
Nhiều người đã bình luận về ý nghĩa xã hội của bài thơ: “Hổ trong cũi sắt nhớ
tự do là biểu tượng cho tình cảm của người dân Việt mất nước. Bài thơ có ý
nghĩa thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí tự tôn dân tộc một cách kín đáo...”. Đại
ý thế. Nghe cũng có lí. Tuy nhiên, nếu chỉ thấy ý nghĩa đó, chúng ta chưa
thấy hết những điều bài thơ muốn nói và cũng rất nên đề phòng trường hợp khi
đi vào ý nghĩa xã hội, ta dễ sa vào bình tán mà tách dần khỏi hình tượng thẩm
mĩ vốn có của bài thơ. Theo tôi, nếu căn cứ vào văn bản bài thơ, hổ nhớ rừng
không chỉ là nhớ tự do, mà còn là nhớ đến, mơ đến cái cao cả, cái chân thực,
cái tự nhiên. Tới đây, chúng ta gặp thuộc tính của chủ nghĩa lãng mạn: vươn
tới cái phi thường, cao hơn cuộc sống hàng ngày buồn tẻ, đơn điệu, tầm
thường, giả tạo: hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng. Xuân Diệu thuở ấy
từng mơ ước:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Thế Lữ cũng thường say đắm những cảnh siêu phàm, những tương phản rất xa nhau
của thiên nhiên:
Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ
Nét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay
Thơ Thế Lữ, do vậy nhiều lần đắm vào cảnh tiên. Niềm khát khao của con hổ
nhớ rừng là khát khao trở về với cái kì vĩ, siêu phàm vĩ đại, không chung
sống được với cái tầm thường, thấp kém, giả tạo. Vả lại, siêu phàm cũng dễ
đồng nghĩa với cô đơn. Hãy đọc Xuân Diệu:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
(...) Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!
(Hi-mã-lạp-sơn)
Nỗi lòng của Hi-mã-lap-son trong thơ Xuân Diệu cũng tựa như nỗi lòng con hổ
trong cũi sắt của Thế Lữ, nó thuộc về bản chất của chủ nghĩa lãng mạn. Nếu
quá nhấn mạnh vào những ý nghĩa hiện thực xã hội, e sẽ làm hẹp đi chất nhân
bản của bài thơ và cũng làm mờ đi quy luật thẩm mĩ của chủ nghĩa lãng mạn.
Nếu coi thân phận của dân tộc ta dưới thời Pháp thuộc như thân phận của hổ
trong cũi theo văn bản bài thơ này, (như nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ từng viết:
vận vào những cái “thời oanh liệt” đầy những chiến công chói lọi của Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,Lê Lợi, QuangTrung thì lại càng thấy hùng tráng và
tự hào. Càng nhớ đến thời oanh liệt càng thấy uất ức phải bị tù hãm, xung
quanh toàn là những cái tầm thường, nhỏ nhen , ngang trái của người dân mất
nước, và nhiều nhà nghiên cứu đã có lý khi xếp nó (tức bài Nhớ rừng-VQP) vào
xu hướng lãng mạn cách mạng rất hiếm hoi trước cách mạng tháng Tám ) e sẽ khó
giải thích tính thống nhất của hình tượng. Hổ tượng trưng cho lòng yêu tự do
thì sao chính hổ lại đầy tham vọng thống trị khắc nghiêt và tàn bạo cả muôn
loài: Trong hang tối mắt thần khi đã quắc / Là khiến cho mọi vật đều im hơi /
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài. Dân tộc ta đâu có như thế! Thực chất, bài
thơ này là tuyên ngôn của chủ nghĩa lãng mạn, không chấp nhận cái tầm thường
để đòi cái phi thường. Không nên ghép ý nghĩa chính trị vào chủ đề bài thơ
này.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét