Đối với đa số, Bùi
Giáng là một nhà thơ điên. Không nhắc đến bọn tục, bọn tỉnh, bọn khôn suốt cả
đời chẳng một giây nào thèm “thơ” đến tuyệt vọng, nói ngay những người quí ông
– nhìn được ông như một thiên tài, thiên tài tự huỷ ghê gớm nhất của thi ca Việt
Nam hiện đại – nhiều khi cũng né tránh, chẳng dám bước hẳn vào cõi thơ ông,
hoặc có bước vào thì cũng theo cái lối “chân trong chân ngoài”, “mắt trước mắt
sau”, cười cợt vui đùa hay nghiêm trọng lố bịch, tưởng như thế là làm thuận ý,
vui lòng nhà thơ – người bầy trận nghiêm trọng và ta nên chiều người.
Chính thái độ của
những kẻ yêu ông, những kẻ ghét ông chẳng đáng nói, càng khiến ông phát “bẳn”,
càng khiến ông phát “điên” (điên tiết), càng khiến nhà thơ thêm lạc lõng, “một
mình một cõi”, càng đẩy ông tới chốn hoang vu bờ bãi, chơi với mọi, với beo,
với gấu, với châu chấu, chuồn chuồn.
Không. Bùi Giáng không
điên. Ông là một nhà thơ sáng suốt, cực kỳ. Ông là một nhà thơ “ngộ”. Đừng hiểu
chữ “ngộ” trong cái nghĩa đơn giản của đạo giáo, Bùi Giáng sẽ nhăn mặt nổi
quạu, ông có thể sẽ tông cửa chạy tuốt xuống Biên Hoà ngay lập tức. Hãy để cho
tiếng ấy “phiêu bồng” từ Nam chí Bắc qua mọi nghĩa có thể có: (ngộ dại, giả
ngộ, ngộ quá ta, ngồ ngộ, ngộ không, ngộ nhận, ngộ độc…)
Từ buổi đầu Bùi Giáng
đã nói:
Tôi chấp thuận trăm
lần trong thổn thức
Tôi bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm
Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt
Tôi đui mù cho thoả dạ yêu em.
Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thuỷ
Qua những lần buồn tủi giữa đảo điên
Thân xương máu đã đành là uỷ mị
Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh.
Em đứng mũi chịu sào có vững
Bàn tay bưng đĩa muối có chấm gừng
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương.
Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn.
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay với kiễng chân cao.
(Phụng Hiến)(1)
Tôi bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm
Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt
Tôi đui mù cho thoả dạ yêu em.
Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thuỷ
Qua những lần buồn tủi giữa đảo điên
Thân xương máu đã đành là uỷ mị
Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh.
Em đứng mũi chịu sào có vững
Bàn tay bưng đĩa muối có chấm gừng
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương.
Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn.
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay với kiễng chân cao.
(Phụng Hiến)(1)
Bùi Giáng đó, Bùi
Giáng của Mưa Nguồn “bát ngát” mặc dù những “đảo điên” không
ngớt, còn nguyên vẹn đến giờ nếu chúng ta gặp ông đúng lúc.
Muốn gặp Bùi Giáng hãy
ngao du theo dấu chân ông để lại, hãy đánh mất mình trong cuộc Lữ, hãy
chịu cuồng si để sáng suốt. Nghĩa là hãy “thơ mộng” như ông.
Chẳng khó khăn lắm
đâu.
Hầu như ông đã mở sẵn
những cửa mời gọi kẻ đồng điệu.
“Thơ là cái gì không
thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa
rào bằng lời thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát
động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài
việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là: muốn bàn
tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác. Người xưa am
hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chứ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về
thơ. Người đời nay trái lại, họ buộc phải luận thơ có mạch lạc luận lý, không
được “bốc đồng” vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghị
vậy”.
“Thơ tôi làm (…) trong
mấy cuốn thơ của tôi chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác.
Đi vào giữa trung tâm
bão dông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ
gẫm với châu chấu, chuồn chuồn, đem phó thác thảm hoạ trần gian cho chuồn chuồn
mang trên hai cánh tay mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm bay về Sương Hy Lạp, ghé
Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng rộng, làm mục
tử chăn trâu. Làm mục tử không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng,
khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi
cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi
thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm
bao thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao…”.
“Hãy để yên cho tôi
điên tôi dại. Đừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi. Tôi
không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là tôi không
còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa
là tôi chết hai ba lần trong trận sống… Người yêu đừng bén mảng đến, bạn bè hãy
đi xa. Để tôi một mình tha hồ tôi điên tôi dại. Ai có đến gần thì hãy thử điên
dại cho như tôi…”.
“… Ông Whitman ôi. Tại
hạ làm thơ nửa phần giống thơ ông, nửa phần giống thơ ông Dylan Thomas, nhưng
giống theo một thể thái bê bối đười ươi, chứ không có được cái phong độ tiên
thiên cốt cách. Vậy bây giờ tôi cố gắng làm một bài thơ rất mực cốt cách tiên
thiên để tặng ông chơi một trận. Tuy nhiên càng hì hục bắt chước tiên thiên
càng lộ ra cái nết na đười ươi phong thói. Vậy tôi xin ngậm ngùi dừng bút,
chẳng dám ký tên dưới tờ thư cay đắng.”
Không có ai có thể nói
về thơ Bùi Giáng hơn Bùi Giáng, bởi chẳng ai ở đây đã sống thảm hoạ trần gian
thu trong thảm hoạ thơ hơn ông.
“Chán chường thi ca mà
cứ làm thơ hoài ấy là đạo vậy”.
Xin chào nhau giữa con
đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.
Đó là mở phơi hào hứng
một thời – như Whitman, “kẻ rỡn như ông già bơi đua cùng lũ trẻ và chịu thua
lũ trẻ”.
Đường sông bóng đổ cơ
trần
Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua
Ghì môi cơn mộng la đà
Tiêu giao suốt cõi mù sa trên rừng
Nửa vời trăng rộng mông lung
Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô.
Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua
Ghì môi cơn mộng la đà
Tiêu giao suốt cõi mù sa trên rừng
Nửa vời trăng rộng mông lung
Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô.
Đây là phiêu bồng “thơ
dại nhất và sầu u nhất” – như Dylan Thomas.
Whitman kẻ mở, Dylan
Thomas kẻ đóng, một chân trời. Kẻ say với “lá cỏ”, với “phố thị”, với “ta”; kẻ
say với cơn chết, giọt sầu, với huyễn hoặc.
Nhưng còn chúng ta?
Chúng ta nghĩ gì về thơ ông?
Đừng có nghĩ, hãy
buông mặc theo ông, như ông từng buông mặc trong trận đồ kẻ trước. Ông luôn luôn
nhắc bảo nơi ông là những bóng vang ai khác. Và ta hãy là bóng vang của ông.
Hãy để ông nghĩ cho
chúng ta về những gì chúng ta có thể nghĩ tới và cả những gì chúng ta không thể
nghĩ tới.
“Chúng ta quen thói
ngong ngóng chạy theo đuổi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên
không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam
là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ.”
“Cái thói học đòi vá
víu thông thái đã âm thầm giết chết mất máu me thân thể chúng ta. Hết chạy theo
đuổi ông Camus, tới chạy theo đít bà Simone Weil, rồi xô ùa chạy theo giò cẳng
ông Krishnamurti… Đó chính là cái cõi của lai rai thượng thừa, của bê bối tối
hậu. Tới bao giờ mới chịu đi về giũ áo đười ươi? Hỡi những thằng trung niên thi
sĩ, và hỡi những đứa chẳng thi sĩ trung niên…”.
“Nghĩ cũng dị kỳ thật.
Người Việt Nam vốn là người thơ mộng thi sĩ nhất thế giới (chỉ riêng cái màu da
vàng Việt Nam thôi cũng đã thơ mộng hơn mọi màu da đen hay trắng) thì người
Việt Nam lại chẳng bao giờ đọc thơ Việt Nam, lại luôn luôn trút hết cõi lòng
thơ mộng của mình cho những thứ sách vở hổ lốn tạp pí lù ở đâu đâu. Lại chạy đi
si mê những da trắng Marilyn, những da đen Phi Châu chiêm bao bờ cỏ. Làm bao
nhiêu câu thơ thơ mộng lại đem gán hết cho châu chấu chuồn chuồn. Ẩn ngữ gì mà
đoạn trường ra như thế”.
“Những bài thơ chuồn
chuồn châu chấu của ông quả thật là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng
như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lạnh ở Trung
Việt, vào những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn
bay lượn cuối ngõ, đầu xuân, thật là tha thướt. Đôi phen cái tiết điệu riêng
biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa, mặc dù ở phồn hoa không bao
giờ có chuồn chuồn bay vòng múa lượn”.
Chúng ta hãy chịu chói
lọi trong tan nát giữa trận đồ của Bùi Giáng. Mọi điều Bùi Giáng đều nói, chẳng
bao giờ hết, nhưng chẳng thể ngậm miệng, nên chúng ta cứ việc ngậm miệng, si mê
và chúng ta sẽ được nghe. Nghe bát ngát, nghe phiêu bồng, nghe tới cõi im ông
trốn lảng, lượn vòng.
Đừng tưởng Bùi Giáng
điên, cũng đừng tưởng Bùi Giáng rỡn, mặc dầu có lần ông tuyên bố là ông thích
bày “cuộc vui”.
Bùi Giáng là một nhà
thơ trầm trọng:
“… Như Lai rỡn từ bi,
Jesus Christ rỡn bác ái, Sophocles rỡn trang nhã, Thâm trầm kỳ nguyệt, Euripide
rỡn ẩn ẩn hiện hiện, Ngoạ Long Sinh rỡn u rùng, Kim Dung rỡn bất tuyệt, Hồ
Dzếnh rỡn nên thơ chân thiết, Tú Mỡ rỡn như đười ươi, Shakespeare rỡn như
Phượng Hoàng, Nietzsche rỡn tan tành xương máu, Gide rỡn lúc giật lúc buông lúc
chùng lúc thẳng, Tô Mạn Thù rỡn não nùng đốt cháy máu tim.”
Còn Bùi Giáng?
“Nhe răng cười trong
bóng tối… Không bao giờ bắt chuồn chuồn và cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn
chuồn… Không thiết chi đọc sách mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài… Suốt năm khắc
khoải loay hoay mà tự cho mình thanh thoát phiêu bồng… Chán chường thi ca mà cứ
làm thơ hoài, đêm tối trần gian đau đớn vô cùng mà vẫn bảo rằng trần gian lộng
lẫy… chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống canh…”.
Rỡn trầm trọng là Bùi
Giáng, rỡn đầy thảm hoạ, rỡn khắp mặt thế giới như Tôn Ngộ Không – Ngộ Không
nhảy trên bàn tay của Quan Âm (Quan Âm biến thành Phùng Khánh, Trì Hải,
Marilyn, Brigitte, Kim Cương, ba cô mọi bên bờ Phi Châu…) chỉ vì“Người tư
tưởng không còn dám viết gì về tư tưởng nữa.”.
Bởi rỡn trầm trọng
nên:
“Chúng ta phải để
cho thơ Xuân Diệu rúc vào trong tuỷ xương mình. Vì y đủ thói bông lông thắm
thiết của con người thượng đạt. Y trẻ dại, y lăng nhăng, y nói tới nỗi đời rồi
y xoá đa đoan dâu biển. Y hồn nhiên giũ áo, nắm lấy cung cầm Tăng Điểm đánh lên
giữa mùa Xuân…”.
Nói vậy nhưng Bùi
Giáng chẳng bao giờ là Xuân Diệu. “Tây Phương, Đông Phương cổ kim không có một
nguồn thơ sánh kịp”. Cứ chịu khó theo ông “Đi Vào Cõi Thơ”, đi vào “Thi Ca Tư
Tưởng” mà nghe ông bình thơ, mà nghe ông “Ngàn Thu Rớt Hột” nghe “Sa Mạc Trường
Ca”.
Và hãy nhớ lời dặn dò
này:
“Đi vào cõi tư tưởng,
chúng ta luôn luôn phải lưu ý tới cái lối ăn nói nghịch lý của người tư tưởng.
Họ nói một đường để ta suy ra một ngả.”
Sở dĩ Bùi Giáng trầm
trọng, bởi nơi ông cả cái kiếp hoạ của thơ đang diễn: hồn thơ đang bị vây khổn.
Bị vây khổn bởi “tư tưởng”, bởi “văn”. Thơ muốn bay thoát, chấp chới như những
cánh chuồn chuồn giữa trời. Nhưng đâu là tổ chuồn chuồn đây? Nào ai biết. Bùi
Giáng cố muốn biết, cố săn đuổi tới cùng.
Nhưng chuồn chuồn báo
hiệu trời sắp mưa. Một trận mưa nguồn thuở cũ, Bùi Giáng mơ màng chăng? Ông Bùi
Giáng ơi, Tang Phượng đâu? Trang Phượng đâu? Sau trận mưa nguồn kiếm nàng giáp
cúng trận đồ ông chẳng thấy. Chỉ thấy trở đi trở lại hoài đây đó hai câu của Hồ
Dzếnh:
Thơ về nắng sáng lừng
bay
Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra.
Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra.
Đến đây coi như tạm
đủ, nói thêm đến bao nhiêu nữa rồi cũng vẫn là tạm. Tạm với Bùi Giáng. Tạm với
chúng ta. Tạm hết.
Chỉ mong một lúc nào
bạn “ngộ” cõi thơ kia.
“Đi Vào Cõi Thơ”. Thế
nghĩa là? Có một cõi và một cuộc đi, cuộc đi có nhiều thể thái. Có thể đi theo
lối chu du của ông Khổng Tử. Có thể đi theo lối ngồi yên không rục rịch suốt
bao nhiêu diên trường tuế nguyệt dưới một gốc cây bồ đề theo lối Như Lai. Cũng
có thể đi theo lối anh lùa bò vào đồi sim trái chín…”.
“Đi như vậy dù sao thì
dù, cũng là trong ý hướng mở cõi ra chơi. Không ai buộc ai phải theo ý riêng
độc đoán của ai.”
“Anh lùa bò vào đồi
sim trái chín? Một mặt anh lưu tâm đến trái chiếu cố cho những con bò, đừng để
chúng lạc lối vào sâu trong rú rậm rồi mất lối trở ra… Anh thong dong ngồi
xuống một gốc cây sim. Anh có thể chọn một gốc cây sim già, hoặc sim trẻ, hoặc
một cây sim sử lịch nào vốn đã từng chứng giám một u tình của một Hoàng hậu
Phèdre xưa kia.”
“Rồi anh dần dần mở
cõi. Đã gọi là mở cõi thì chẳng nên khép miền. Nghĩa là… tránh cái lối bưng
bít…”
“Đó là điều kiện cần
và đủ, không ai buộc ai phải đi qua miên bạc bình sinh.”
“Ta ngồi dưới gốc cây
sim, lắng tai nghe bò đương gặm cỏ, thong dong đưa tay với một cành, hái một
trái chín ăn chơi.”
“Bỗng dưng? Bỗng dưng
nảy ra một sự tình kỳ bí: bàn tay ta vừa chạm với một trái sim riêng rẽ, thì
suốt dãy rừng, toàn thể ngàn sim lục bỗng chấn động vang lừng. Đó là bí quyết
lạ lùng. Một bí quyết bất khả truyền”.
Thanh Tâm Tuyền
(*) Bài đăng trên Văn, số đặc biệt về Bùi Giáng, Sài
Gòn tháng 5/1973.
Thanh Tâm Tuyền (1936 – 2006): Một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của văn học miền Nam trước 1975, quê Hà Đông, sinh tại Vinh
(1) Các đoạn trích dẫn rút từ Mưa Nguồn, Đi Vào Cõi Thơ, Thi Ca Tư Tưởng, Mùa Thu Trong Thi Ca.
Thanh Tâm Tuyền (1936 – 2006): Một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của văn học miền Nam trước 1975, quê Hà Đông, sinh tại Vinh
(1) Các đoạn trích dẫn rút từ Mưa Nguồn, Đi Vào Cõi Thơ, Thi Ca Tư Tưởng, Mùa Thu Trong Thi Ca.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét