FREUD ĐÃ THỰC SỰ NÓI GÌ
Một người sáng đi ra
định bắt tay vào một công việc quan trọng. Ra ngõ gặp gái liền quay về, hôm ấy
không đi nữa. Đúng là mê tín. Một người thứ hai cũng ra đi, lỡ chân bước hụt
tam cấp suýt ngã. Cho là điềm gở cũng không chịu đi nữa. Một nhà “khoa học” cười
là mê tín. Nhưng nếu hỏi Freud ông sẽ bảo người này làm đúng. Vì lỡ chân suýt
ngã không phải là điềm gở mà biểu hiện một vướng mắc trong tâm tư, cho biết là
người kia chưa thực sự sẵn sàng hào hứng bắt tay vào công việc định làm. Sự
kiện “lỡ chân” ấy là biểu hiện của vô thức. Freud không phải người đầu tiên nêu
lên khái niệm vô thức nhưng là người đầu tiên bày ra cái “thuật” để thăm dò tìm
hiểu vô thức và từ đó để chữa những bệnh rối nhiễu tâm lý.
Thuật phân tâm
Sigmund Freud (1856 –
1939) xuất thân là một bác sĩ sinh ra và lớn lên ở Viên, thủ đô nước Áo vào
cuối thế kỷ XIX là một nước lớn ở Tây Âu. Là một bác sĩ xuất sắc, Freud đã tiếp
nhận sâu sắc những phương pháp cơ bản của y học Âu châu vào cuối thế kỷ XIX với
2 bộ phận chủ yếu: một bên là lâm sàng kỹ lưỡng rồi vận dụng những phương tiện
vật lý học nghiên cứu thể chất con người, tạo nên một nền y khoa sinh học, phát
hiện những thực tổn và căn nguyên của các bệnh tật. Mỗi một giả thuyết đều phải
được chứng minh thông qua thực nghiệm. Tốt nghiệp y khoa, Freud vào công tác ở
một phòng thí nghiệm sinh lý thần kinh và đã có những công trình đáng kể về mặt
này. Nhưng theo Freud ghi lại trong hồi ức thì cần phải tìm một nghề có thù lao
khá hơn là làm phòng thí nghiệm, nên phải chuyển sang nghề chữa bệnh và ông đã
đi vào chuyên khoa các bệnh gọi là thần kinh. Vào thời ấy, mặc dù giải phẫu
sinh lý thần kinh và bộ não đã có những thành tựu đáng kể, ngành y vẫn vấp phải
một loại hiện tượng tâm lý, dù hết sức tìm tòi cũng không thể nào phát hiện
được tổn thương thực thể, bệnh không để lại một dấu tích thể chất nào cả, thật
là những bệnh “vô tích sự”.
Đặc biệt là một chứng
bệnh khá phổ biến, với một loại triệu chứng xuất hiện từng cơn, hiện ra, biến
mất, đột xuất không hiểu vì đâu. Cứ như là bệnh nhân đóng kịch vậy, bỗng nhiên
liệt chân không đi được, mù không thấy, câm tịt không nói nữa, rồi một lúc nào
đó bệnh lại biến mất. Y học gọi đó là hystêri. Các bác sĩ thời ấy, người thì
nhún vai bĩu môi bảo là bệnh tưởng tượng, chẳng cần quan tâm đến, người thì cho
rằng thế nào rồi vật lý học tiến lên sẽ tìm ra tổn thương ở hệ thần kinh, nhất
là ở não, người thì cho rằng phải tìm nguyên nhân không phải trong thể chất mà
trong cái “tâm”. Nhưng lý luận thế nào thì chưa rõ, bệnh nhân và gia đình vẫn
đòi hỏi được chăm chữa. Bắt đầu, Freud dùng phương pháp thôi miên được thông
dụng thời ấy. Kết quả nhiều khi ngoạn mục, có những bệnh nhân bại liệt hàng
tháng, mù câm, đau bụng, đau đầu, nhức xương kinh niên, sau thôi miên “thầy”
chỉ cần bảo: đứng dậy mà đi, nói đi, bệnh của anh hết rồi, là lành bệnh. Freud
và ông bạn chí thân là Bruer vận dụng thôi miên bắt đầu nổi tiếng. Nhưng dần
thấy rõ kết quả thôi miên không được lâu dài và sau một thời gian, hết chứng
này lại xuất hiện những hiện tượng khó hiểu. Trong bệnh hystêri có những ca
bệnh nhân tưởng tượng là mình có thai, bụng phình lên và tâm tư thay đổi đúng
như một người thai nghén. Một hôm, một phụ nữ xinh đẹp xông vào phòng khám của
bác sĩ Breuer bảo: tôi sắp sinh con của ông đấy. Breuer hoảng hốt vì đã có có
vợ con, phải bỏ trốn khỏi thành phố Viên mấy tuần sau đó, bỏ luôn cả nghề chữa
bệnh thần kinh. Freud vẫn tiếp tục, rồi phát hiện ra là những người hystêri như
vậy có những nét tâm lý đặc biệt và khác với người bình thường, có những hành
vi, những lời nói hình như bị ai xui khiến không làm chủ được.
Bình thường trong cuộc
sống hàng ngày, phải đối phó với thế giới vật chất và phản ứng của những người
khác trong một nền văn hóa xã hội nhất định, cho nên mọi hành vi đều phải có ý
thức để thích nghi với thực tế. Làm việc gì thường có ý định, có ý nghĩa, tức
là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, có lý lẽ phù hợp với lý lẽ thông thường của
xã hội. Nhưng cũng có biết bao hành vi vô lý, vô nghĩa, làm như con người bị
“ma quỷ” nào thúc ép hay cấm đoán. Điển hình nhất là những giấc mộng diễn ra
bất kể thời gian, không gian nào với những câu chuyện vô lý nhất. Freud dần dần
nhận ra những triệu chứng của nhiều bệnh nhân, cùng với giấc mộng, những hành
vi lỡ tay, lỡ lời đều là những hiện tượng rất gần gũi nhau và phỏng đoán từ
những hiện tượng này đều có đường dẫn đến những cấu trúc và cơ chế của vô thức.
Muốn hiểu phân tâm
học, bước đầu tiên là phải hiểu cái thuật phân tâm là phương pháp cơ bản để
nhìn vào vô thức và chữa trị bệnh nhân. Và muốn phê phán phân tâm học không thể
bắt nguồn từ triết lý, từ hệ tư tưởng mà từ sự đối chiếu kết quả chẩn đoán và
chữa trị các rối nhiễu tâm lý.
Luận thuyết phân tâm
học
Với cái vốn học vấn đồ
sộ của bản thân, Freud không thể bằng lòng với kinh nghiệm chữa bệnh thuần túy.
Từ những kinh nghiệm cụ thể, Freud đã kiến tạo ra một hệ thống những khái niệm
cơ bản để lý giải những phức tạp của tâm lý học. Hệ thống ấy gọi là
métapsychologie, có người dịch là siêu tâm lý học. Thực chất đây không có gì là
siêu nhiên cả, đây là một luận thuyết trong nhiều luận thuyết khác của tâm lý
học. Bài tựa này không đi sâu vào những khái niệm sẽ được trình bày trong sách,
chỉ nêu lên ý nghĩa của một vài từ. Luận thuyết Freud mang tính thứ nhất là
topique. Topos là vị trí, khu trú, có ý xem cái tâm của con người được chia ra
thành những khu riêng biệt với nhân cách con người có những ngôi riêng biệt với
những vị trí riêng biệt. Luận điểm cơ bản thứ hai mang tên là dynamique, có ý
nói là mọi hành vi hiện tượng tâm lý đều phải có một nguồn năng lượng mới thể
hiện ra được và cái tâm thường xuyên ở vào tình trạng động với một xu thế
chuyển động nhất định. Luận điểm thứ ba ông gọi là économique tức kinh tế, ở
đây phải hiểu theo nghĩa là nguồn năng lượng nói trên được phân phối như thế
nào, đầu tư vào đâu.
Cái lực thúc đẩy tâm
lý học thường gọi là bản năng (instinct) và nhận ra hai bản năng cơ bản: bản
năng bảo vệ sự tồn tại của cá thể và bản năng bảo đảm sự tái sinh sản nòi
giống. Lúc đầu Freud cũng chấp nhận hai bản năng này, nhưng sau nhiều năm tiếp
xúc với thực tiễn và nghiền ngẫm, ông đã đi đến kết luận là có hai bản năng
(ông gọi là xung năng – tiếng Pháp: pulsion – tiếng Anh: drive – tiếng Đức:
Triebe): một là Eros vừa là tính dục vừa là xung năng sống, hai là Thanatos tức
là xung năng chết. Ông cho rằng sinh ra là ngay từ đầu con người đã mang trong
mình bản chất cái chết, chứ không phải trong con người chỉ có bản năng tự bảo
tồn để sống mãi. Luận thuyết này đã gây ra những tranh cãi hết sức sôi nổi, đến
nay vẫn chưa ngã ngũ.
Một điều đáng chú ý là
Freud từ những hiện tượng bệnh lý của người lớn đã vạch ra cả một quá trình
phát triển tâm lý suốt thời bé và nhấn mạnh những gì đã xảy ra vào thời tấm bé
có ảnh hưởng quyết định đến cả cuộc đời của một con người. Freud chỉ quan sát
con của ông một vài lần và chỉ nghiên cứu một ca bệnh trẻ em, thế mà những khái
niệm và luận điểm ông nêu lên về sự phát triển tâm lý ở tuổi bé phần lớn sau
này được những học giả chuyên về trẻ em công nhận là đúng. Ngày nay, giở bất kỳ
một quyển sách khoa tâm lý nào, của bất kỳ nước nào (quyển Tâm lý học
Trung Quốc chúng tôi mới nhận được năm 1996) cũng thấy trình bày những
khái niệm Freud đã đưa ra. Học tập nghiên cứu tâm lý, nhất là tâm lý trẻ em
không thể không biết đến phân tâm học.
Nỗi khổ ông Freud
Trên kia có nhắc đến
việc ông Freud thời trẻ đã buộc phải chuyển làm nghề chữa bệnh để bảo đảm cuộc
sống. Thực ra ngày nay theo hồi ký của ông và nhiều tình tiết trong cuộc đời
riêng mà những đồ đệ đã sưu tầm ra thì câu chuyện lại khác. Vả lại cũng là quy luật
chung, những nhà tâm lý học sâu sắc bao giờ cũng là những người đã trải qua
nhiều nỗi gian truân vướng mắc về tâm tư, rồi vì sự thôi thúc tìm hiểu cho được
nỗi khổ của mình tiến tới hiểu thấu nỗi khổ của người, từ suy bụng ta ra bụng
người rồi trông người lại ngẫm đến ta, hai quá trình cảm nghĩ ấy tác động lẫn
nhau suốt đời. Sau khi nghiên cứu nhiều ca bệnh nhân và đề xuất được phương
pháp phân tâm, ông đã vận dụng phương pháp cho bản thân tiến hành một quá trình
tự phân tâm.
Freud sinh ra trong
một gia đình Do Thái khá phức tạp. Bố lấy ba đời vợ. Vợ thứ ba sinh ra Sigmund,
thua chồng 20 tuổi, Sigmund lớn lên gần những người anh chị ngang tuổi với mẹ.
Học rất thông minh, năm nào cũng đứng đầu lớp, đẹp trai nhưng thường xuyên bị
ám ảnh là đau tim, vẫn tin rằng mình sẽ chết sớm và trải qua nhiều cơn suy
nhược thần kinh. Lại thêm rất sợ đi tàu, mặt dù tàu hỏa châu Âu thời ấy đã đi
nhanh và đầy đủ tiện nghi. Ông cũng mắc một triệu chứng rất lạ: hai lần muốn
đến thăm Rô ma – một thành phố cổ kính vào bậc nhất của châu Âu với không biết
bao nhiêu di tích lịch sử và công trình kiến trúc nổi tiếng, một nơi mà bất kỳ
một học giả Âu châu nào cũng phải đến thăm ít nhất một lần, nhưng cứ đi đến cửa
thành phố là Sigmund lại quay lại, không hiểu có một lực nào giữ chân ông lại.
Ông rất muốn đến Rô-ma để nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật, nhưng không thể
nào vào được. Sau khi tự phân tâm , ông nhớ lại một ký ức thời bé.
Thời ấy giáo hội Công
giáo ngự trị ở nước Áo thúc đẩy phong trào bải đạo Do Thái. Ông bố của cậu bé Sigmund
một lần kể cho con nghe: hôm bố đang đi trên vỉa hè gặp một ông lớn người Công
giáo bảo: “Thằng Do Thái kia tránh ra cho tao đi. Bố chần chừ, thì nó chụp lấy
mũ của bố ném ra lòng đường”. Cậu bé hỏi: “Rồi bố làm gì?” – “Bố cúi đầu lượm
mũ rồi lẳng lặng chuồn đi”. Từ đó trong lòng cậu bé Sigmund đầy căm thù với đạo
Công giáo, sau khi lớn quên đi. Cũng thời bé học lịch sử, Freud có một lần rất
say mê chuyện tướng Annibal người Carthage, một thành phố bên kia Địa Trung Hải
đã nhiều lần bị quân Roma đốt trụi thành phố để trả thù cho quê hương. Cứ mỗi
lần sắp vào cửa thành Roma, trong thâm tâm Freud lại nổi lên ý đồ đốt trụi cả
thành phố. Từ sau khi nhận thức được như vậy, ông mới thanh thản vào thăm Roma
và ông cũng cho biết từ đó hết sợ đau tim và những cơn suy nhược thần kinh. Ông
còn nói thêm, từ đó ông có óc thực tế hơn; trước đó vì là người Do Thái cho nên
mặc dù về khoa học đã nổi tiếng vẫn không được phong giáo sư Đại học, lương
thường thấp, sống rất cơ cực. Có một bà quí tộc, bệnh nhân của ông bảo ông rằng
bà có thể can thiệp với Bộ trưởng Bộ Giáo dục (và đút lót bằng cách tặng một
bức tranh quí) để ông được làm giáo sư, hưởng lương cao. Lúc đầu ông không
chịu, nhưng sau giải tỏa mặc cảm kia, ông chấp nhận và năm 46 tuổi ông được
phong giáo sư Đại học, được sinh sống đàng hoàng để tiếp tục nghiên cứu.
67 tuổi, ông bị ung
thư xương hàm, phải cắt một khúc cho hàm giả thay thế, rồi bệnh tái phát nhiều
lần, trong 16 năm trời phải mổ cắt trên 30 lần. Nhưng trong những năm ấy ông
vẫn tiếp tục viết nhiều bài và sách, rà đi rà lại những giả thuyết và luận điểm
ông đã đưa ra trước kia. Năm 1938 Hitler chiếm đóng nước Áo, bắt tất cả người
Do Thái dồn vào trại tập trung để hủy diệt. Cả gia đình ông trốn sang Luân Đôn,
được các giới khoa học Anh và nhà nước Anh đón tiếp nồng hậu. Năm 1939 ông mất
ở Luân Đôn, thọ 83 tuổi.
Tính chất khoa học của
thuyết Freud
Từ phân tâm
học được Freud nêu ra năm 1896 nay đã hơn 100 năm. Trong 100 năm ấy, ở
nhiều nước diễn ra những tranh luận gay gắt hoặc về toàn bộ luận thuyết, hoặc
về điểm này điểm nọ, đến nay vẫn chưa ngả ngũ. Có thể nói trong khoảng 50-60
năm đầu, cuộc tranh luận gần như “tôn giáo chiến”. Có nhiều người đã dọa bắt
ông Freud bỏ tù, có người lên án cho rằng Freud là kẻ tội phạm lớn nhất đối với
nền văn minh Âu châu. Trong nhiều thập kỷ, một số người mác xít lên án mãnh
liệt; phát xít Đức đốt sách của ông. Rồi từ khoảng năm 1960 cuộc tranh luận vẫn
tiếp tục nhưng đỡ gay gắt hơn. Trước đó rõ ràng có hai phe “tín đồ” đối lập:
một bên là tín đồ của Freud cho rằng phân tâm học là chìa khóa vạn năng giải
quyết tất cả các vấn đề nhân sinh và xã hội, một bên chỉ cần nghe đến Freud hay
phân tâm học, nhiều khi không cần đọc tác phẩm của ông vẫn phê phán phản bác
kịch liệt. Đó là thời xã hội châu Âu trong giai đoạn công nghiệp hóa bước đầu
của nó vẫn nghiêm ngặt bảo vệ những cấm kỵ về tình dục và đạo Ki tô (ít nhất
cũng bề ngoài và trong sách vở) lại càng như vậy. Đó cũng là thời mà một số học
thuyết mới về tâm lý ra đời với những phương pháp trị liệu riêng, trường phái
nào cũng tự xem là đã tìm ra chân lý gạt bỏ những trường phái khác.
Phân tâm học đã đụng
đến hai vấn đề xưa nay vẫn gây nên những mối xúc động to lớn: tính dục và cái
chết. Trong xã hội xưa tỉ lệ tử vong rất cao, trẻ con chết nhiều, người lớn
chết sớm, trong cuộc sống hằng ngày thường vẫn bắt gặp cái chết. Sống ở nông
thôn, khi chết cũng ở ngay trong làng xóm. Đến thời đại công nghiệp hóa, tỉ lệ
tử vong trẻ em và người lớn giảm rất nhiều, mồ mả người chết đưa xa thành phố,
thờ cúng tổ tiên ở châu Âu bị loại bỏ từ lâu vì theo đạo Kitô, người sống ít
khi có dịp gặp mặt với cái chết, không muốn nghĩ đến cái chết. Hơn nữa, người
ta cảm tưởng như khoa học đẩy lùi cái chết, thế mà Freud lại nêu lên cái bản
năng chết.
Từ sau 1960, sau nhiều
thập kỷ nghiên cứu tâm lý và vận dụng các phương pháp tâm lý trị liệu khác
nhau, hầu hết học giả các nước đều đi đến nhận định cái tâm của con người cũng
sâu thẳm và mênh mông không kém vũ trụ vật chất. Mỗi học thuyết nếu được xây dựng
một cách nghiêm túc sẽ có khả năng soi sáng một mặt nào đó của tâm lý con người
và không thể có một học thuyết nào làm bá chủ tất cả, trở thành “chính thống”.
Thực ra, đây là một nhận định ngày nay đã được chấp nhận cho tất cả các ngành
khoa học và nhất là khoa học nhân văn.
Bản thân Freud đã từng
tiến hành nghiên cứu theo một qui trình chung cho các môn khoa học; xuất phát
từ sự quan sát thực tiễn ở đây là lâm sàng, đề xuất giả thuyết, tìm cách chứng
nghiệm, rồi năm này qua năm khác, có khi 10, 15 năm sau lại hoặc thay đổi, hoặc
từ bỏ những khái niệm và luận điểm mình đã đưa ra, cho đến cuối đời ông vẫn
tiếp tục kiểm tra lại học thuyết của ông. Và ông đã từng viết là luôn luôn sẵn
sàng từ bỏ những gì mà không được thực tiễn chứng nhận. Ông thường xem những
luận điểm của ông chỉ có tính cách tạm thời, và ông tiên đoán một ngày nào đó
những tiến bộ kỳ diệu của sinh học sẽ làm cho học thuyết của ông sụp đổ như một
lâu đài bằng giấy. Các đồ đệ chân chính của ông sau này vẫn tiếp tục truyền
thống ấy và đã hoặc bổ sung, hoặc phủ nhận một số điểm mà ông tổ nêu ra. Đó đây
vẫn có một vài tín đồ kiểu xưa của Freud hoặc một số người cuồng tín chống
Freud.
Quyển sách này được
xây dựng với tinh thần tiếp nhận có phê phán và phải nói cả với lòng hâm mộ đối
với một con người được xem như là một nhà tư tưởng vĩ đại (chứ không phải một
ông thánh) loài người.
Có thể tiếp nhận phần
nào đó trong cái thuật phân tâm những gì có thể vận dụng được trong hoàn cảnh
nước ta. Còn muốn phê phán về lý luận, thì không chỉ lấy hệ tư tưởng để phán
xét, mà phải thực hiện một cách nghiêm túc kết hợp lâm sàng trị liệu, điều tra
xã hội. Xuất phát từ đó mà đi đến kết luận.
Tiếp nhận, phê phán
phân tâm học
Đã qua rồi thời kỳ đấu
tranh gay gắt giữa hai phe giáo điều, một bên là giáo điều phân tâm học gồm
những người cho rằng những phát kiến của Freud là chân lý tuyệt đối, một bên
cho là không những sai lầm mà còn phi lý nữa phải gạt bỏ hoàn toàn. Trong một
thời gian khá dài, có đến gần nửa thế kỷ, những hội Phân tâm học hoạt động như
những giáo phái, khai trừ những hội viên bị kết án là sai lệch và ngược lại bị
một số người xem là tà đạo. Điển hình là trường hợp của Vilhem Reich vào những
năm 30, một hội viên Phân tâm học Đức đồng thời là đảng viên Đảng cộng sản Đức.
Ông Reich đề xuất ý kiến là có thể kết hợp hai học thuyết của Marx và Freud để
lý giải các vấn đề xã hội và con người. Kết quả là Reich bị cả hai bên khai
trừ.
Ngày nay đại đa số học
giả nghĩ rằng:
- Freud đã có thiên
tài phát hiện ra nhiều vấn đề mới, đề xuất một số khái niệm tâm lý giúp hiểu
sâu về con người, và bất kỳ ai quan tâm đến con người đều phải nắm được.
- Mặt khác, trong lúc
chuyển sang suy luận và vận dụng vào thực tiễn, Freud và các đồ đệ về sau đã có
nhiều kết luận và cách làm khó chấp nhận về khoa học.
Ở đây chúng ta không
bản đến những vấn đề xã hội và triết lý mà Freud đã đề cập mà chỉ đứng về góc
độ tâm lý học. Đặc biệt những nhà tâm bệnh học (thường gọi là tâm thần học) là
những người chuyên theo dõi lâm sàng và chăm chữa những tâm bệnh đã có những
nhận định có thể nói là chặt chẽ nhất đối với phân tâm học, vì một mặt họ vận
dụng một số khái niệm và phương pháp của Freud để chữa bệnh, đồng thời lại đối
chiếu phân tâm học với thực tiễn và lý luận của tâm bệnh học. Phải nói tâm bệnh
học, nhất là của người lớn, có hai đặc điểm:
- Một là bắt nguồn từ
y học, vận dụng những khái niệm cơ bản và phương pháp luận của y học thực
nghiệm.
- Hai là thường tiếp
xúc với những bệnh loạn tâm hoặc những rối loạn hành vi nghiêm trọng, chống
đối, quấy phá xã hội hơn là chứng nhiễu tâm (névroses).
Trong y học bao giờ
cũng phải tìm cho ra cơ sở vật chất thương tổn gây ra bệnh chứng, nếu không thì
chưa thể nói đến khoa học. Chưa tìm ra thì phải nghĩ ra đủ cách dựa vào những
phát minh vật lý, hóa học để phát hiện ra cho được vết tích của bệnh chứng. Y
học không phủ nhận vai trò của những yếu tố tâm lý, nhưng không chấp nhận quan
điểm tâm lý thuần túy chỉ biết đến những cơ cấu và cơ chế tâm lý, bỏ quên mất
sinh lý. Freud xuất thân là một bác sĩ chuyên về thần kinh, đã có những công
trình về thần kinh học tiến hành đúng theo phương pháp y học; và về lý thuyết
ông cũng khẳng định sinh học là chỗ dựa quan trọng của tâm lý học. Ông không
cho rằng tâm lý học là một lĩnh vực độc lập với những qui luật riêng. Điều ấy
là đúng, song về sau, gần như bản thân ông và nhiều đồ đệ trong lúc xây dựng
học thuyết không hề đặt quan hệ với sinh học.
Phương pháp y học là
thực nghiệm, mỗi một điều suy luận là phải được chứng nghiệm, hoặc qua thống
kê, hoặc qua thực nghiệm. Đề xuất khái niệm, xây dựng học thuyết bao giờ cũng
phải được bản thân và nhiều người khác kiểm tra và chứng nghiệm.
Nhiều nhà tâm bệnh học
cho đây là điểm yếu nhất của phân tâm học làm cho học thuyết này giống như một
triết lý siêu hình hay thuộc về văn học hơn là khoa học. Đặc biệt phân tâm học
được số đông hưởng ứng, say mê tiếp nhận một cách mù quáng chính là do tính
không khoa học đó.
Những đòi hỏi về tính
khoa học là xác đáng, và đích thị nhiều nhà phân tâm học đã tỏ ra là thiếu tính
khoa họ, những sản phẩm của họ mang nhiều tính hư cấu không thuyết phục, mặc dù
nhiều khi đọc thấy thú vị. Ở đây cũng phải nói lên một vấn đề quan trọng là
tính khoa học trong tâm lý cũng như những môn khoa học khác về con người, có
nhất thiết phải vận dụng những phương pháp thực nghiệm như trong sinh học không
? Hay tâm lý học khó mà thoát khỏi ảnh hưởng trực tiếp của triết học và văn
học? Dù sao đã gọi là tâm lý học thì nhất thiết phải cố gắng vận dụng tối đa
phương pháp thực nghiệm.
Thí dụ như giải đáp
một câu hỏi: Trong xã hội Việt Nam có mặc Odeipe hay không? Không thể nói chung
chung xã hội của ta khác với xã hội phương Tây thời Freud mà bảo là không có.
Đó chỉ là một kiểu suy luận thiếu tính khoa học. Thực ra, muốn trả lời câu hỏi
như thế phân tâm phải nhiều năm vận dụng phương pháp của Freud, quan sát theo
dõi nhiều ca rồi mới kết luận được có hay không có. Cũng như không thể dùng con
mắt bình thường mà kết luận có vi khuẩn này vi khuẩn kia mà không vận dụng kính
hiển vi và những phương pháp cấy nuôi hay miễn dịch học.
Để cụ thể hóa những
nhận xét khái quát nói trên, chúng tôi xin trình bày ý kiến của một nhóm tâm
bệnh học người Anh qua quyển sách “Tâm bệnh học lâm sàng”. (Clinical
Psychiatry).
Freud đã tìm cách giải
thoát khỏi những điểm khó khăn nhất của tất cả những ai muốn đưa tâm bệnh học
vào khuôn khổ của y học cổ điển. Freud là một nhà thần kinh học của thế kỷ 19
cho nên học thuyết của ông có hai tính chất:
- Tính máy móc tức là
muốn đi thẳng từ nguyên nhân đến kết quả với con đường nhân quả đơn tuyến một
chiều,
- Tính nhị nguyên đối
lập với Tâm và Thể.
Bệnh án gốc của Freud
là một ca hystêri được chữa bằng thôi miên. Trong một buổi thôi miên, bệnh nhân
sống lại một sự cố từ thời bé, đã quên từ lâu, sống lại với cảm xúc sôi động và
sau đó chứng bệnh đã giảm hẳn. Từ đó Freud đề xuất ra quan niệm vô thức, khái niệm
trấn áp và luận điểm cho rằng những cảm xúc bị trấn áp từ xa xưa có thể tác
động đến cách đối phó những sự kiện hiện tại. Đối với thời ấy, những quan điểm
mang tính cách mạng ấy là một tiến bộ lớn. Ngày nay dưới hình thức này hay hình
thức khác những điều ấy được đa số công nhận. Những trường phái tâm bệnh học
khác nhau đã chú trọng đến sự mô tả những rối nhiễu tâm lý, tác động qua lại
giữa nhân cách của con người và môi trường xã hội. Quá trình triển khai học
thuyết dẫn đến chủ nghĩa tâm lý thuần túy, bỏ qua những yếu tố thực thể và cơ
địa rồi chỉ tập trung vào những chứng nhiễu tâm, đặc biệt hystêri và tâm trạng
lo hãi. Có những phát hiện thiên tài, nhưng tư biện không có gì kìm hãm, kiểm
nghiệm. Lúc đầu Freud còn tìm cách lấy lâm sàng làm cơ sở cho học thuyết nhưng
về sau không hề thấy ông lo việc chứng nghiệm ấy nữa. Kết quả cuối cùng là một
hệ thống lý luận phức tạp, hầu như không liên quan gì đến sinh lý và thần kinh
học, và cũng ít liên quan đến những dự kiến lâm sàng ban đầu. Có những đồ đệ có
óc biệt phái đòi hỏi học thuyết phải được chấp nhận toàn bộ hoặc phủ nhận,
không thể cải biên một tí nào! Một thái độ chính thống cứng nhắc như vậy không
phù hợp với khoa học. Phân tâm học đã xâm nhập rộng rãi trong dư luận, làm cho
những người không chuyên môn viết về các đề tài này thường đồng nhất phân tâm
học với tâm bệnh học. Các trường phái ở Mỹ đã hào hứng nắm lấy và xem như có
nhiệm vụ xuất trở lại cho châu Âu mà họ coi là lạc hậu. Trái lại ở châu Âu, sau
cao trào của những năm sau đại chiến thứ nhất, thời mà từ ngữ văn học của giới
trí thức châu Âu đầy rẫy phân tâm học, thì nay phổ biến dưới hình thức thô sơ
mặc dầu vấp phải sự phản bác mạnh mẽ của nhiều học giả.
Như Gruhle phê phán cơ
sở lý giải của phân tâm học, vì trong nhiều trường hợp không chứng minh được
đúng sai chỗ nào. Ông xem học thuyết ấy như một kiểu chơi hấp dẫn gắn với văn
thơ, huyền thoại, phương thuật, không thể xếp vào khoa học được. Điều ấy càng
rõ trong học thuyết của Jung hoàn toàn thờ ơ với tính khoa học và quan tâm
nhiều hơn đến nhưng mê tín của Á Đông. Ông cho rằng bề ngoài duy lý của học
thuyết Freud khoác cái áo khoa học, và có lẽ đó là phương pháp chữa bệnh bằng
niềm tin hữu hiệu nhất ngày nay. Gruhle căn dặn chớ vội vàng kết luận với những
cách làm và tín ngưỡng khác nhau. Jaspers cũng không thể tìm ra một tiêu chuẩn
nào để phân định đúng sai trong cách biện giải thao thao của phân tâm học,
trong đó điều gì cũng có thể đưa ra để nói ngược lại. Đôi khi Freud xem bệnh
tật như một tội lỗi, đó là thái độ phản y học, trái với đạo lý ngành y. Trong
một vài tác phẩm ông thấy rõ xu hướng cuồng tín, nắm lấy cách chăm chữa để áp
đặt quyền hành lên tâm trí người khác. Jaspers phản đối mạnh mẽ tính hẹp hòi
của các Hội và Trường phái phân tâm học đòi hỏi người nào muốn hành nghề phải
qua một quá trình được một ông thầy phân tích cặn kẽ. Đấy là một kiểu hy sinh
tự do tư tưởng giống như cách tu luyện của đạo Giáo. Jaspers nghĩ rằng như vậy
khó mà phù hợp với không khí tự do của văn hóa phương Tây.
Ngay trong các đồ đệ,
cũng có nhiều người đòi hỏi thái độ khoa học hơn, tránh kiểu tư biện không có
chứng nghiệm, vượt qua chính thống.
Trên đây là những phê
phán. Vì Freud và đồ đệ đề xuất nhiều quan điểm mới quan trọng, ảnh hưởng sâu
sắc đến nhiều lĩnh vực, nên chúng ta cần phân tích kỹ hơn những luận điểm quan
trọng nhất.
Học thuyết Freud cơ
bản dựa trên khái niệm vô thức. Điều này chứng tỏ không chỉ trong những trường
hợp bệnh lý mà trong cả rất nhiều lĩnh vực tâm lý bình thường, kể cả những hình
vi cao cấp như sáng tác nghệ thuật. Freud phân biệt hữu thức và vô thức, tiềm
thức. Những gì trong tiềm thức nếu tập trung chú ý có thể biến thành hữu thức,
còn khó làm như vậy với những điều vô thức, vì ở đây hình như có sức mạnh ngăn
cản, trấn áp cảm nghĩ không chuyển sang hữu thức được. Điều này không rõ ràng,
phân biệt giữa tiềm thức và vô thức khó mà xác định, giả thuyết về một sức
mạnh, một cái lực trấn áp không có cở sở. Theo Freud, mọi hoạt động tâm trí đều
bắt đầu trong vô thức và tùy theo tương quan lực lượng giữa những lực thôi thúc
và ngăn cản mà xuất hiện. Kiểu suy luận cộng trừ như vậy khó mà chấp nhận, nhất
là khi nói đến những hiện tượng vô thức, Freud dùng hình tượng những cảm nghĩ
vô thức rảo quanh ngoài cửa, tìm cách lọt vào vòng hữu thức. Nhưng người gác
cửa chỉ cho lọt vào những gì không có vẻ nguy hại. Những gì không thể chấp nhận
buộc phải ngụy trang, thay đổi hình dạng hoặc thừa lúc ông gác cửa lơ là ngủ
quên, đó là những giấc mộng hoặc bất lực như trong trường hợp bệnh ly. Phân tâm
học thường dùng nhiều hình tượng như vậy rồi xây dựng học thuyết ngày càng phức
tạp hoặc lắt léo, ngày càng xa vời những khái niệm cơ bản của tâm lý học và
thần kinh học. Cái tôi, cái siêu tôi, ông gác cửa được mô tả
như là diễn viên trong vở kịch chứ không phải như những chức năng hay quá
trình.
Vô thức được quan niệm
như một bộ phận có vị trí trong không gian. Kể ra cũng có thể coi nó tương ứng
với quan điểm sinh lý về sự thống hợp của các chức năng thần kinh từ tủy sống
đến đồi thị và hữu thức là do hoạt động của vỏ não. Quan điểm của phân tâm học
cho rằng có thể, với những biện pháp nhất định, tạo ra những mối liên hệ trực
tiếp giữa hoạt động của vỏ não và của vùng dưới vỏ. Đó là một giả thuyết lý
giải được hiện tượng vô thức trở thành hữu thức, có thể chấp nhận nhưng cần
được chứng nghiệm.
Phần quan trọng trong
học thuyết Freud nói về những hình thức ngụy trang và tượng trưng, thông qua đó
những cảm nghĩ vô thức biểu hiện ra ngoài. Chính những cảm nghĩ vô thức là phần
quan trọng nhất với xung lực mạnh nhất trong tâm trí con người và hoạt động của
vô thức diễn biến theo những qui luật khác hẳn với hữu thức. Đó là đóng góp
quan trọng nhất, lâu dài nhất của Freud cho tâm lý học. Sau Freud, không thể
tìm lý giải con người với những hiện tượng bên ngoài và những cách biện giải
hợp lý. Không thể chối cãi được là con người thường bị những động cơ bản thân
không nhận thức được thôi thúc, dẫn đến những hành vi phá hoại những gì mà con
người cho là có giá trị nhất. Không thể chối cãi được là muốn đánh giá nhân
cách một con người thì nên phân tích kỹ hành vi, hơn là dựa vào cách người ấy
tự đánh giá một cách có ý thức. Song, chấp nhận quan điểm ấy không phải là chấp
nhận toàn bộ những huyền thoại của phân tâm học.
Về bản năng, Freud cho
là xuất phát từ những kích thích bên trong. Cuối cùng Freud chấp nhận có hai
loại bản năng: tính dục và bản năng chết, một bên dẫn đến những hành vi giúp
cho cá nhân hoặc chủng loại tồn tại, một bên dẫn đến phá hoại bản thân. Đáng
chú ý là cách đặt ra hai vế đối lập và qua đó dễ dàng lý giải bất kỳ hiện tượng
nào, không khác gì cách suy nghĩ siêu hình ngày xưa như đối lập cái thiện, cái
ác. Đây là một khái niệm phi sinh học, nhưng kết quả nghiên cứu của nhiều nhà
nhân chủng học cho thấy không thể lý giải chiến tranh với một bản năng chết.
Sinh học với quan điểm tiến hóa cho thấy các bản năng khác nhau từ chủng loại
này sang chủng loại khác và thông thường là để đáp ứng nhu cầu sinh sống, nhưng
cũng có lúc tồn tại lúc không còn phù hợp nữa. Không thể tách rời bản năng bảo
tồn với bản năng phá hoại. Dựa vào một ý kiến phân biệt hai bản năng chung
chung như vậy không giúp ích gì trong việc lý giải mọi hành vi phức tạp của con
người.
Một phần quan trọng
của học thuyết nói về sự phát triển tính dục từ thời tấm bé đến tuổi trưởng
thành với tất cả những sai lệch, hẫng hụt phải trải qua. Freud đi ngược hẳn
quan niệm truyền thống khi ông khẳng định tính dục xuất hiện ngay lúc mới sinh
ra, và từ đầu không liên quan gì với chức năng sinh dục. Tính dục ở đây có
những khoái cảm xuất phát từ một số bộ phận của cơ thể gọi là những bộ phận kích
dục. Căn nguyên của những nhiễu chứng ở người lớn phải tìm trong những sự thoái
lùi về những giai đoạn phát triển tính dục trong thời thơ ấu. Có nhất thiết
khoái cảm xuất phát từ miệng thuộc về tính dục không? Tại sao khoái cảm ăn uống
đáp ứng nhu cầu sinh sống lại nhất thiết thuộc về tính dục? Thật là khiên cưỡng
khi cho rằng cảm giác dễ chịu sau khi đi đại tiểu tiện, cảm giác từ hoạt động
cơ bắp, trò chơi ở trẻ em và mọi hoạt động văn hóa khác đều phụ thuộc vào tính
dục.
Những gì Freud nói về
mặc cảm Odipe ngày nay còn đứng vững. Đối tượng ham muốn của trẻ em đầu tiên là
vú mẹ, dù cho gọi sự ham muốn ấy là thuộc về bản năng tính dục hay bản năng ăn
uống. Do vậy trẻ em yêu mẹ và người mẹ cung cấp cho em bé mọi sự thỏa mãn. Còn
cho rằng sự phát triển tình cảm của trẻ em rất khác nhau khi được bú mẹ hay
uống sữa, khi được một hay nhiều người chăm sóc sẽ rất khác nhau là một khẳng
định chưa được chứng nghiệm chính xác.
Vai trò của người bố
chỉ xuất hiện về sau. Đặc biệt đối với con trai, bố xuất hiện như là một đối
thủ tranh giành tình yêu của người mẹ. Phân tâm học cho rằng những mối quan hệ
tình cảm trong nội bộ gia đình là cội nguồn của sự yêu ghét, ganh tỵ, hằn thù
của con người về sau. Từ đó giải thích những chứng nhiễu tâm khác nhau, với
những khái niệm ngụy trang và tượng trưng của những quan hệ tình cảm thời bé.
Hẳn rằng những mối quan hệ đó cho đến Freud chưa được nghiên cứu và người ta
không thấy hết là chúng bị những bản năng tình cảm thô lậu chi phối, chứ không
chỉ có tình yêu sáng sủa chi phối. Nhưng không chỉ vì vậy mà khuếch đại tác
động của quan hệ tình cảm thời bé đến cuộc sống vào tuổi trưởng thành. Những
mối quan hệ ấy diễn ra dưới nhiều hình dạng từ gia đình này sang gia đình khác,
từ xã hội này sang xã hội khác mà không thấy ảnh hưởng sâu sắc lâu dài đến tình
cảm người lớn.
Freud không đả động
đến những bản chất tác động tâm lý của trẻ em, cũng không nói đến sự thành thục
dần dần của hệ thần kinh làm cho trẻ em rất khác với người lớn và không thể
quan niệm như Freud là cơ chế tâm lý đều giống nhau ở người lớn và trẻ em.
Việc Freud phân biệt cái
ấy, cái tôi và cái siêu tôi, mặc dù mang tính vật thể hóa, tức biến
những quá trình chức năng thành vật thể, vẫn có phần đúng và là những phát hiện
đáng kể. Rõ ràng là nhiều hành vi, mục tiêu, những nét tính tình thường do
những yếu tố vô thức chi phối, kể cả những cấm đoán mà mỗi người đặt ra cho
mình. Nhưng không thể xem đấy là toàn bộ tâm lý con người, và học thuyết Freud
nếu đi quá xa sẽ dẫn đến sùng bái tính phi lý. Lý trí luôn luôn vẫn giữ vai trò
giúp cho nhận thức thực tế và tác động đến hành vi.
Kể ra chức năng của cái
siêu tôi cũng có thể quan niệm theo thuyết của Pavlov như một loại
phản xạ có điều kiện, trong đó những phản xạ sinh ra vào thời sớm nhất và sâu
sắc nhất thì bị dìm vào vô thức. Điều kiện xã hội là khá phức tạp nên không lạ
gì sinh ra mâu thuẫn giữa những phản xạ có điều kiện và những nhu cầu bản năng,
giữa những phản xạ ấy với những đòi hỏi của lý trí.
Khi Freud lý giải
những bệnh chứng nhiễu tâm như là xung đột giữa cái ấy và cái
tôi và loạn tâm như khi cái tôi bị cái ấy trấn
áp, thực ra chỉ là cách giải quyết thuần túy bằng ngôn ngữ không có cơ sở thực
nghiệm nào cả.
Khó mà chấp nhận
thuyết Freud trong toàn bộ của nó vì mang tính chất duy tâm lý và duy tính dục,
tức là giải thích mọi sự việc bằng tâm lý và tính dục. Toàn bộ sự phát triển
tâm lý chỉ gắn liền với kinh nghiệm thời bé, không đếm xỉa gì đến những sự khác
biệt giữa các cá nhân về di truyền, và trong lĩnh vực tâm bệnh học nó không kể
đến những yếu tố thực thể. Học thuyết được xây dựng trên cơ sở lâm sàng với
những bệnh nhân hystêri cho nên khi vận dụng vào những chứng bệnh ngoài hystêri
thì các lý giải thường là khiên cưỡng. Về phương pháp luận, hễ thấy điều gì có
khả năng chấp nhận là đã thỏa mãn và không hề tìm cách chứng nghiệm, phản bác.
Một luận điểm chưa được chứng nghiệm thì đã đề ra một luận điểm mới. Lý luận
không dùng để dự đoán sự việc, mà chỉ để giải thích những gì quan sát được.
Khó mà thấy được học
thuyết này tự nó trở thành một bộ phận quan trọng của khoa học, hay là còn phải
trải qua một sự định hướng mới, khác cơ bản là biết tự phê bình và có óc nghi
vấn khoa học. Nếu không, thì nó giống như những tín điều tôn giáo hơn là một hệ
thống khoa học, trong đó từng khâu một được chứng nghiệm kỹ càng. Chính vì thiếu
tính khoa học đó mà nó trở thành hấp dẫn đối với những nhà tâm lý học nghiệp
dư, nhà văn, nhà báo mà không tranh thủ được những thầy thuốc chuyên thần kinh
học hay tâm bệnh học đã có một kinh nghiệm lâm sàng phong phú.
Các tác giả phê phán
Freud về việc lạm dụng những từ ngữ nói về tình dục của người lớn vào tâm lý
trẻ em. Như tính trẻ em nhiều khi hành hạ súc vật, phá phách đồ đạc thì gọi đó
là ác dâm (sadisme). Trẻ em chơi với một vài bộ phận trong cơ thể thì gọi đó là
ái kỷ (narcissisme). Lúc trẻ em tự hào khoe cái chim của mình thì gọi là chứng
phô bày (exhibitionisme), tất cả những từ ngữ ấy ở người lớn đều mang tính bệnh
lý. Hẳn rằng đấy là một phát hiện quan trọng và Freud đã dũng cảm xé toạc cái
màn đạo đức giả của xã hội, nhưng sai lầm, khi đồng nhất tâm lý trẻ em với
người lớn.
Dù sao không thể xem
nhẹ công lao của Freud. Trong một lĩnh vực trước kia không hề ai biết gì, Freud
đã mang lại ánh sáng, óc hiện thực và một kỹ thuật thăm dò các động cơ có hiệu
lực. Tâm bệnh học không thể có một tiến bộ nếu không có Freud. Nhưng cũng khó
mà hy vọng những đồ đệ của ông phát huy được những điều cơ bản. Tâm lý học được
vận dụng trong phương pháp trị liệu nhóm nhưng không thể thu hẹp trị liệu này
trong khuôn khổ phân tâm học. Còn vận dụng để lý giải những chứng bệnh tâm thể
thì điều này đã bị nhiều người phản bác. Những trang phê phán Freud trình bày ở
trên kia được viết chung với sự phê phán một số học thuyết khác. Các tác giả
quyển Clinical Psychiatry chủ trương dùng một phương pháp tiếp
cận nhiều mặt, không chấp nhận độc quyền của bất kỳ học thuyết nào. Họ cho rằng
mọi học thuyết có phần đúng khi nêu lên một mặt hay một khía cạnh nào đó, còn
bao giờ cũng sai khi có tham vọng lý giải toàn bộ cuộc sống của con người.
Chúng ta trình bày một
cách khái quát học thuyết Freud từ những khái niệm cơ bản ban đầu đến những
bước phát triển về sau, nhất là tâm lý trẻ em. Chúng ta cũng đã nêu lên những
điểm phê phán chủ yếu của một số học giả. Theo chúng tôi tổng hợp lại, có thể
nhận xét như sau:
- Freud cũng đề ra một
phương pháp phân tích đồng thời trị liệu tâm lý, đặc biệt trong những chứng
nhiễu tâm mà ít hay nhiều trường phái nào cũng đều vận dụng.
- Chúng ta không bàn
đến những điểm mà Freud đã nêu ra ngoài lĩnh vực tâm lý học. Điểm mà nhiều
người tập trung phê phán Freud và đồ đệ xa rời khoa học thực nghiệm. Ta không
bàn đến xu hướng giáo điều của những tác giả thiếu nghiêm túc, cái gì cũng giải
thích được với một số khái niệm cơ bản chỉ cần sắp xếp lại theo một kiểu suy
luận siêu hình, không cần chứng nghiệm.
- Freud và những đồ đệ
nhiều lúc cũng nhấn mạnh về sự cần thiết cải biên lý luận, mỗi khi gặp những sự
kiện không ăn khớp với những quan niệm đã nêu ra. Nhưng tư duy của Freud thường
vận động theo kiểu trực giác phát hiện, từ một số sự kiện nào đó, bỗng lúc nào đó
nảy ra một số khái niệm và quan điểm giúp cho lý giải những quá trình phức tạp.
Đáng lẽ, sau mỗi lần như vậy cần kiểm nghiệm kỹ lưỡng và đợi cho nhiều người
khác cùng kiểm nghiệm, rồi mới chuyển qua những khái niệm mới. Tư duy suy luận
siêu hình lấn áp tư duy thực nghiệm, một bên nhảy từ phát hiện này sang phát
hiện khác, tiến tới xây dựng hệ thống hoàn chỉnh; một bên đi từng bước nhỏ, gỡ
từng khâu một, thận trọng nối khâu này với khâu khác, vạch ra một phương hướng
đi mới, không có tham vọng xây dựng những hệ thống hoàn chỉnh.
Trong một ngành như
tâm lý học đòi hỏi tiếp cận con người một cách tổng hợp thì làm theo kiểu tâm
lý học thực nghiệm phân tích từng điểm, đi từng bước là ít hấp dẫn; những học
giả các trường phái này cho rằng phải đành vậy, đi từng bước, phải bắt đầu với
những điều đơn giản nhất, vô vị và thường phải thú nhận là điều này chưa thể
biết được. Trái lại, tư duy theo kiểu phân tâm học gây cảm tưởng là đi sâu,
nhằm đúng vào những gì cơ bản nhất của con người như nắm được những chìa khóa có
tính quyết định, giúp cho soi sáng vào những ngõ ngách thầm kín nhất; kết hợp
được hai lối tư duy ấy không phải dễ.
Phải chăng nên quan
niệm cái mà Freud gọi là métapsychologie tức là một luận
thuyết tâm lý được kiến tạo trên cơ sở một số phát hiện cụ thể với những khái
niệm như là cái ấy, cái tôi, cái siêu tôi, và những mặc cảm
này khác cùng với một loại cơ chế như phóng chiếu, chuyển di v.v… tất cả những
điều ấy gộp lại thành một cái mà ngày này gọi là một mô hình do trí tuệ con
người vẽ ra để tìm hiểu và tìm cách tác động lên sự vật. Trong mọi mô hình ấy
có những cơ cấu (structure) và những cơ chế (mécanisme) phức tạp tác động chằng
chịt lẫn nhau, luôn luôn biến động. Không thể vận dụng ở đây kiểu tư duy máy
móc đi từ một nguyên nhân thẳng tới hậu quả, theo một đơn tuyến. Ở đây, nhiều
căn nguyên tác động lẫn nhau và khó mà nói bắt đầu từ đâu cũng như điều gì là
chủ yếu nhất. Mà cũng không phải chỉ có một mô hình độc nhất, có thể vẽ ra
nhiều mô hình khác nhau, cho nên không thể nào vận dụng chỉ một học thuyết. Tâm
lý học không thể thu gọn lại thành những thủ thuật, chỉ cần nắm được một chỉ
báo nào, như tướng mặt, chỉ tay, một vài câu hỏi đơn giản rồi đoán được tính
tình, tiến độ một con người, kể cả kết quả những test đã được chuẩn hóa cũng
không cho phép kết luận. Không thể dựa trên một vài khái niệm để có những kết
luận tổng quát. Nhận xét, chẩn đoán, chăm chữa, lý luận về tâm lý học bao giờ
cũng phải dựa trên sự tổng hợp, đúc kết của nhiều quan sát, thử nghiệm, theo
dõi, đối chiếu, thử nghiệm. Tâm lý học khác với khoa học tự nhiên, nhưng phải
được nghiên cứu chặt chẽ; không phải là văn, triết lý nhưng phải có linh động
và chiều sâu của văn chương và đạo lý.
Tạm kết thúc cuộc
tranh luận về Freud
Freud đã đưa ra rất
nhiều ý kiến trong nhiều lĩnh vực; thêm vào đó là nhiều ý kiến của các đồ đệ.
Chắc rằng cuộc tranh luận còn chưa hết. Không còn ai bảo vệ toàn bộ học thuyết
phân tâm và hình thức nguyên thủy về trị liệu, nhưng cũng không thể phủ nhận
ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết ấy đến tư tưởng chung của thời đại, đặc biệt
về tâm lý học, tâm lý trị liệu.
Vấn đề cốt lõi là chấp
nhận hay không ý của Freud cho rằng tính dục được biểu hiện rõ nét ngay từ tấm
bé, không đợi đến tuổi dậy thì và do đó trong quan hệ bố mẹ và con, sắc thái
tình dục đóng một vị trí quan trọng, tác động sâu sắc đến sự hình thành nhân
cách bình thường hay khác thường.
Ở Việt Nam có hay
không mặc cảm Odipe? Không thể chỉ tranh luận về quan điểm là đã có thể trả lời
câu hỏi ấy, mà phải quan sát, điều tra có hệ thống.
Xin lấy một đoạn trong
“Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng kể lại thời bé gặp lại mẹ sau một thời gian
xa cách khá lâu:
“Tôi ngồi trên đệm
xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác bao
lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở
khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả hơi thơm tho lạ thường. Phải bé lại và lăn
vào lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của mẹ để bàn tay người
mẹ vuốt ve từ trên trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng thì mới thấy người mẹ
có một êm dịu vô cùng”.
Bảo rằng những cảm
giác như vậy có gì “bậy bạ”, chắc không ai nghĩ vậy.
Nhưng phủ nhận hoàn
toàn sắc thái tình dục thì có phù hợp với thực không? Nhiều tiểu thuyết nói đến
cảm giác của bao nhiêu người tìm lại trong quan hệ với người yêu hơi ấm, hình
ảnh của người mẹ.
Đây là một đề tài tâm
lý học của ta cần được nghiên cứu trong cuộc sống bình thường, cũng như trong
những trường hợp bệnh lý.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét