NHỮNG NGẢ ĐƯỜNG SÁNG TẠO CỦA TAGORE
“Trong yếu tính của
mình, con người không phải là kẻ nô lệ cho chính mình, hay cho thế giới; con
người là một Tình Nhân”.
Tagore viết thế trong
chương mở đầu của tác phẩm triết lý Sadhama (Thực hiện cuộc
đời). Đối với thi hào Ấn Độ ấy, sự sáng tạo thơ ca, nghệ thuật, triết lý, khoa
học… không đủ để thỏa mãn chính mình mà cốt yếu là để cho tâm thức con người
bao trùm lấy vũ trụ trong cuộc ôm ấp trọn vẹn tựa như vòng tay nồng ấm của một
người tình.
Tôi khát khao tìm thấy
ngôi nhà của mình
Ở mọi nơi trong thế giới này trước khi từ biệt nó.
Ở mọi nơi trong thế giới này trước khi từ biệt nó.
Đó là câu thơ có thể
tóm thâu tư tưởng của Tagore về cuộc sống. Suốt đời, nhà thơ khát vọng con
người và thế giới sống trong một tương quan tình yêu.
Con người không thể là
kẻ xa lạ mãi mãi trong trần gian và vũ trụ của mình.
Toàn bộ tác phẩm và
cuộc đời của Tagore là khúc trường ca oanh liệt cho cuộc tìm ra ngôi nhà của
mình ở khắp nơi trong vũ trụ.
Biểu tượng ngôi nhà
của Tagore không phải là an nghỉ mà là tình yêu.
Một nhân vật của
Tagore là nàng Chitra đã nói:
Ta du tử trên đường
trần rộng lớn
Áo quần lấm bẩn và bàn chân ứa máu chông gai
Áo quần lấm bẩn và bàn chân ứa máu chông gai
Ai chẳng là “du tử”
trong đời? Nhưng con đường mà Tagore đi thật là huyền diệu. Dọc bước chân trầm
tĩnh như bước bồ câu ấy, biết bao làn điệu linh thiêng đã ngân lên, biết bao
vần thơ đã hóa thành ánh sáng và biết bao màu sắc cầu vồng đã vẽ nên tranh?
Ở quê hương mình,
Tagore là Gurudeva (bậc thánh sư), là bậc thầy vĩ đại trong
mọi nghệ thuật: âm nhạc, thơ ca, sân khấu, hội họa… một cầu vồng của trí tuệ.
Đối với toàn nhân
loại, Tagore là người ca hát của tình yêu, là một trong những người chủ hôn cho
chén rượu giao bôi của hai nền văn hóa Đông – Tây.
Hai ngàn bài hát, ba
ngàn bức họa, vô số bài thơ và truyện ngắn, những tác phẩm triết lý sâu thẳm,
những hoạt động giáo dục tiên phong… tất cả được sáng tạo bởi một con người duy
nhất Rabindranath Tagore, một hóa thân của huyền thoại.
Hóa thân ấy đã sống và
sáng tạo ra sao?
Bông hoa dại
“Nó sẽ mang tên là Rabindra (mặt
trời) bởi vì sau này, cũng như mặt trời, nó sẽ đi khắp thế gian và chiếu diệu
thế gian”.
Người cha của
Rabindranath Tagore đã chào mừng đứa con thứ mười bốn của mình ra đời bằng lời
tiên tri ấy.
Người cha, đó là bậc
“đại thánh”, theo lời xưng tụng của nhân dân Ấn Độ: Maharshi. Đấy là con người
đã từng lên Hy Mã Lạp Sơn với ý định ẩn tu suốt đời. Nhưng rồi một hôm, khi
đang bước đi trên núi, Mahashi ngắm nhìn một ngọn thác và bất chợt hiểu ra định
mệnh của dòng nước kia. Ở đỉnh cao này, nước mới trong sáng và đẹp làm sao, còn
khi đổ xuống đồng, nước lấm bẩn, vẩn bùn và ngầu đục. Nhưng nước vẫn sẳn lòng
quên đi niềm kiêu kỳ chói sáng của mình để làm cho đất được phong nhiêu, đó mới
là điều đáng kể. Thế là Mahashi từ bỏ ẩn tu, rời đỉnh non cao đi xuống với con
người.
Ba năm sau, vào ngày 7
tháng 5 năm 1861, một đứa con trai của bậc đại thánh ấy ra đời, mang tên là
Rabindranath Tagore.
Mong ước con trai mình
sẽ đi giữa thế gian như một mặt trời của Mahashi dường như đã tác động vào
định mệnh của Tagore. Rồi thế giới sẽ được những vần thơ ánh sáng của Tagore
chiếu rọi
Người Trung Quốc sẽ
gọi Tagore là “Mặt trời Ấn Độ” và người Ba Tư gọi nhà thơ là “Vì sao vĩ đại
nhất trên bầu trời phương Đông”.
Mahashi mất vào năm
1905, không kịp nghe những lời ca ngợi ấy nhưng sinh thời, ông thấu hiểu thiên
tài của Rabi (tên rút gọn của Rabindranath).
Trong gia đình của
Mahashi, hầu như các con trai lẫn con gái đều lỗi lạc.
Người con đầu lòng
giỏi cả thơ ca, triết lý và toán học. Đấy là một nhà hiền triết mà sóc nhảy
nhót trong lòng và chim chóc đậu trên tay. Người thứ hai là học giả Sankrit và
là một cây bút sáng chói trong cả tiếng Bengali lẫn tiếng Anh. Người thứ năm
nổi danh trong cả thơ ca lẫn nghệ thuật. Một người chị của Tagore là nhà tiểu
thuyết đầu tiên của nền văn học Bengal… Kể hết những gì mà đám anh em tài hoa
ấy, gia đình thiên tài ấy đã làm cho văn hóa Bengal và Ấn Độ, sẽ mất rất nhiều
thời giờ.
Nhưng là đứa con trong
một gia đình đông đảo như thế, Tagore sống trong sự chăm sóc của các gia nhân
nhiều hơn là cha mẹ. Các nô bộc chung quanh Tagore trở thành một thế giới mà
sau này ông miêu tả là Servocracy (Công quốc nô bộc).
Cậu bé Rabi được họ kể
cho nghe truyền kỳ về hoàng tử Rama và các truyện thần tiên…, nuôi dưỡng cậu
trong những giấc mộng và bài ca dân gian.
Rabi không thích tới
trường, nhất là những trường thuộc địa kiểu Anh. Nhưng không phải là cậu lười
nhác và tối tăm. Cậu viết bài thơ đầu tiên vào năm lên tám. Từ đó, cậu giữ một
cuốn sổ tay xanh để chép thơ mình. Trong một bài thơ cậu diễn tả một người bơi
theo hoa sen và những làn sóng do chính đôi cánh tay mình làm nên đã đẩy hoa
sen mãi mãi trôi khỏi tầm với. Các bạn cậu lắng nghe, thích thú. Những người
lớn ngạc nhiên và tin, chắc cậu bé có tài năng phi thường.
Năm mười một tuổi,
Rabi bước vào cuộc phiêu lưu thiêng liêng đầu tiên trong cuộc đời. Cậu theo cha
lên Hy Mã Lạp Sơn.
Trên đường, Maharshi
đọc cho con trai nghe các trang sách từ văn chương Sanskrit, Bengali và Anh
quốc. Hằng đêm, dưới bầu trời lộng lẫy “những chùm hoa tinh tú”, Rabi học hỏi
về thiên văn và học yêu vũ trụ. Họ đến chân núi vào tháng tư khi hoa mùa xuân
nở rộ. Sau đó trên đỉnh núi thiêng, họ sống trong một ngôi lều. Cậu bé cầm gậy
lang tháng khắp các đỉnh cao. Mỗi ngày, dậy thật sớm, Rabi được cha dạy các bài
học Sanskrit và nghe cha đọc tụng các vần thơ Upanishad.
Có thể nói, sau bốn
tháng sống trên ngọn núi thiêng với cha, trở về Calcutta, Rabi không còn là một
cậu bé thơ ngây. Nhưng dẫu sao đi nữa:
Những bước chân tôi
nghe trong trò chơi thơ dại
Vẫn vang âm hoài trong nhạc thế gian bay.
Những tiếng rì rầm
Nhốt mình trong dáng đá
Mang chứa nỗi u sầu
Của ý tình lạc mất
Vẫn vang âm hoài trong nhạc thế gian bay.
Những tiếng rì rầm
Nhốt mình trong dáng đá
Mang chứa nỗi u sầu
Của ý tình lạc mất
Dù vậy Rabi vẫn còn là
một thiếu niên. Hay đúng hơn, đó là một thần đồng đã dịch toàn thể bi kịch
Macbeth của Shakespeare ra thơ Bengali. Cậu cũng sáng tác bài thơ dài đầu tiên
là Khát vọng (Abhilash) vào lúc tuổi mười hai, đăng trong tờ báo
của gia đình.
Đến năm mười bốn tuổi,
Rabi quyết định từ bỏ trường học (cũng vào khoảng ấy, Saroyan bỏ học tự nguyện
để tự do và sáng tác).
Rabi diễn tả trường
học thời đó như là một “tổng hợp của bệnh thất và ngục thất”.
Tuy thế không có chàng
tuôi trẻ nào say mê nữ thần trí tuệ Saraswati như Rabi. Có điều l2 chàng biết
được những phương cách riêng để giao cảm với vị nữ thần rực rỡ và khó chinh
phục ấy.
Và bầu không khí trong
nhà thì tràn ngập tinh thần sáng tạo. Một bầu không khí như cấu tạo bằng nhạc
trong ngôi nhà Jorasanko ở Calcutta, nơi Tagore mở mắt chào đời. Ở đấy, các anh
em Tagore cùng nhau soạn kịch và tự mình diễn xuất. Ở đấy, tài năng nảy nở như
cỏ cây…
Trong một lễ hội Hindu
Mela tổ chức hàng năm, Rabi mười bốn tuổi đọc một bài thơ ái quốc. Bài thơ được
đăng trong tuần san Amrita Bazar.
Đó cũng là năm mẹ
Tagore qua đời, là năm cậu bé sáng tác bài trường ca dài hơn 1.600 hàng mang
tên Bông hoa dại(Banaphul).
Bài trường ca kể về cô
gái mồ côi Kamala sống trên Hy Mã Lạp Sơn. Một lữ khách đã đưa nàng ra khỏi núi
rừng và lấy làm vợ. Nhưng nàng không quen sống giữa xã hội, chỉ thương nhớ núi
rừng của mình. Nàng yêu một nhà thơ trẻ, và anh ta bị chồng nàng hạ sát. Nàng
trở lại núi rừng, nhưng bong hoa dại đã một lần lìa cành không thể hồi sinh
giữa thiên nhiên được nữa. Kamala lao từ đỉnh núi tuyết xuống dòng sông.
Bài ca u sầu của nhà
thơ tuổi mười bốn ấy được in trong tạp chí Mầm kiến thức (Gyanankur).
Hai năm sau các anh
của Tagore sáng lập tạp chí văn học Bharati. Tagore viết càng nhiều: truyện
ngắn, tiểu thuyết, kịch, trường ca, thơ, các bản dịch, bài nghiên cứu văn học
phương Tây như Petrarch và Laura, Dante, Goethe, Chatterton…
Trên tạp chí ấy, Rabi
còn đùa nghịch bịa ra một tác giả cổ điển. Bắt chước giọng thơ tôn giáo thời
trung cổ, Rabi viết một số bài thơ rồi gán cho một tác giả tưởng tượng là Bhanu
Singh (tên cùng ý nghĩa với Rabindranath: Chúa tể mặt trời).
Nhiều người đọc tưởng
thật, một học giả Bengali là Nishikanta tin chắc Bhanu Singh là nhà thơ tài ba
thế kỷ XV, ca ngợi những vần thơ trữ tình ấy trong luận án tiến sĩ của mình!
Đó là trò đùa giản dị
của cậu bé bỏ học đối với học giả kinh viện của xứ sở mình.
Nhưng các học giả thì
ít có tinh thần trào lộng như nhà thơ. Nhiều năm sau, kể cả sau khi Tagore đoạt
giải Nobel văn chương, nhà thơ thường bị các vị thông thái bản xứ chê là viết
tiếng Bengali (tiếng mẹ đẻ của Tagore) đầy lỗi!
Trong khi chờ đợi sang
nước Anh học luật, Tagore bắt đầu soạn một số bản nhạc. Sau này, nhạc Tagore
phổ biến ở xứ Bengali đến mức người ta hát những bài ca trữ tình ấy trong mọi
dịp, mọi nơi. Với hơn hai ngàn bài hát trong cuộc đời sáng tạo đa dạng của ình,
Tagore đáng được gọi là một nhà soạn nhạc lớn. Chính ông tin rằng những bài hát
của mình sau này sẽ còn lại sau khi người ta đã quên thơ ông.
Trước khi đi, Rabi đến
Bombay sống với gia đình một bác sĩ quen biết để làm quen với phong cách phương
Tây ở đó. Người có nhiệm vụ hướng dẫn Tagore thích nghi với lối sống Âu Tây là
con gái của bác sĩ, nàng Annapurna. Chàng trai thì hát cho cô gái nghe các bài
ca của mình. Nàng nói: “Nhà thơ ơi, tôi cảm thấy rằng nếu như tôi đang nằm chờ
chết thì các bài ca của anh sẽ gọi tôi trở lại với đời”.
Sau này, Tagore thường
nhắc đến cô gái ấy với một tình cảm vô cùng dịu dàng, trìu mến.
Nhận xét của Annapurna
đáng cho ta lưu ý vì dường như nói lên được yếu tính của thơ Tagore: một lòng
yêu đời vô hạn.
Ở Ấn Độ, chưa có nhà
thơ nào gắn bó cuộc đời bằng một tình yêu nồng nàn, đắm say đến thế – Tagore là
người tình của trần gian, người tình của vũ trụ, người tình của cuộc đời.
Thiên tài của Valmiki
Năm mười bảy tuổi,
Tagore đáp tàu sang Anh theo người anh thứ hai của mình.
Tagore chỉ lưu lại Anh
hơn một năm, đã có lệnh của gia đình gọi về vì e ngại một chàng trai tuổi trẻ
như Tagore có thể bị các tiểu thư Anh quá tự do lôi cuốn.
Nhà thơ vừa cảm thấy
“ánh sáng của quê hương, bầu trời của quê hương thầm lặng gọi về” vừa cảm thấy
lưu luyến:
Một hôm nào hiu quạnh
Trên một bờ sông xa
Ta nhìn vầng dương lặn
Về phương Tây nắng tà
Và phong ba trí nhớ
Sẽ quét ngang tim mình
Ánh chớp còn để lộ
Một gương mặt ta quen…
… tiếng lời ai ứa lệ
Phải xa rồi sao anh?
Trên một bờ sông xa
Ta nhìn vầng dương lặn
Về phương Tây nắng tà
Và phong ba trí nhớ
Sẽ quét ngang tim mình
Ánh chớp còn để lộ
Một gương mặt ta quen…
… tiếng lời ai ứa lệ
Phải xa rồi sao anh?
Có thể đấy là những
tình cảm gửi cho một cô gái người Anh đã dạy cho Tagore những bài ca Anh Quốc
và Ái Nhĩ Lan.
Vậy là đầu năm 1880,
Tagore trở lại quê hương vẫn còn trẻ tuổi và tay trắng, không có học vị gì, chỉ
mang về một bi ca mang tên Trái tim tan vỡ (Bhagna Hriday) dài
hơn bốn ngàn hàng. Tác phẩm khi ấn hành đã gây xúc động cho nhiều người đến nỗi
Tagore nói: “sự kỳ lạ là không chỉ tôi mười tám tuổi mà mọi người quanh tôi
bỗng dưng mười tám như tôi”.
Ngay sau đó, Tagore
sáng tác vở nhạc kịch đầu tay: Thiên tài của Valmiki (Valmiki
Pratibha). Đề tài dựa trên truyền kì về nhà thơ sử thi Valkimi, tác giả của
Ramayana, từng là một tướng cướp. Trong vở nhạc kịch của Tagore, Valkimi hồi
tâm khi nghe tiếng kêu đau thương của cô gái bị thủ hạ của ông đem đi tế thần.
Valkimi cứu cô gái, giải tán lâu la, lang thang đi tìm con đường chân chính của
mình. Nữ thần Saraswati ban cho ông tài năng ca hát và nói: “Âm nhạc của từ ái
từng làm dịu trái tim sắt đá trong ngươi từ đây sẽ trở thành âm nhạc của nhân
tâm trong tiếng hát của ngươi và nó sẽ làm êm dịu muôn trái tim trên đời. Giọng
ngươi sẽ vang từ miền đất này sang miền đất khác và nhiều nhà thơ sẽ vang âm lại
những bài hát của ngươi”.
Với tác phẩm này,
Tagore đã đưa âm nhạc Ấn Độ thoát ra khỏi ngõ cụt của thị hiếu thấp kém bằng
những nét nhạc mới mẽ, giàu chất thơ.
Chính Tagore lên sân
khấu đóng vai Valkimi.
Tập thơ Khúc
ca ban chiều (Sandhya Sangeet) ấn hành hai năm sau đó là tác phẩm đầu
tiên mang dấu ấn rõ rệt của thiên tài thơ Tagore.
Câu chuyện sau đây cho
thấy tập thơ đã gây được một thanh danh như thế nào vào lúc ấy.
Trong một tiệc cưới,
văn hào Chatterjee, tác giả bài quốc ca Ấn Độ đương thời, được chủ nhân tặng
hoa. Chatterjee lấy vòng hoa ra khỏi cổ mình choàng cho Tagore rồi nói với chủ
nhân:
“Vòng hoa này đáng
được trao cho cậu ấy. Bạn đã đọc Khúc ca ban chiều” của cậy ấy
chưa?”
Khúc ca gửi tới bóng
chiều là bài đầu tiên trong tập thơ. Bóng chiều được hình dung như một người
đàn bà huyền ảo, tóc vờn bay và gương mặt cúi nhìn mặt đất:
Nàng tự hát điều gì
Với riêng mình lặng lẽ
Tôi vẫn hằng nghe hát
Mỗi ngày trong đê mê
Ý nghĩa và giai điệu
Cứ rời tôi bay đi.
Tôi vẫn hằng nghe hát
Ôi tà huy, tà huy…
Với riêng mình lặng lẽ
Tôi vẫn hằng nghe hát
Mỗi ngày trong đê mê
Ý nghĩa và giai điệu
Cứ rời tôi bay đi.
Tôi vẫn hằng nghe hát
Ôi tà huy, tà huy…
Tập thơ ấy khởi đầu
cho nhiều tác phẩm nổi tiếng khác của Tagore, như vở kịch thơ Sự trả
thù của tự nhiên về sau dịch sang tiếng Anh mang tên Sanyasi (Thầy tu
khô hạnh) với lời đề từ đầy ý nghĩa:
Xin đưa tôi từ hư vô
Trở về cùng thực tại
Trở về cùng thực tại
Năm “từ hư vô trở về
cùng thực tại”, Tagore hai mươi mốt tuổi. Và cuộc trở về đó đánh dấu bằng việc
Tagore nghe theo quyết định của gia đình, làm lễ kết hôn với một cô gái
mười tuổi. Cô dâu bé nhỏ là con một người làm công cho đồn điền của gia đình Tagore,
cô ta không đẹp cũng không có học thức. Nhưng rồi theo thời gian, cô trở nên
người vợ tận tụy mà Tagore hết sức yêu thương.
Ba năm sau, tập thơ Sắc
nhọn và mòn tù ra đời cất lên tiếng hát nồng nàn về tình yêu và thực
tại, nỗi say đắm cuộc đời có mùi hương nhục thể:
Tôi không muốn chết
giữa trần gian diễm lệ
Chỉ muốn làm một con người
Bước đi trong nhân thế
Với rộ nắng mặt trời, đơm sắc muôn hoa xui trái tim tình ái hát ca…
Chỉ muốn làm một con người
Bước đi trong nhân thế
Với rộ nắng mặt trời, đơm sắc muôn hoa xui trái tim tình ái hát ca…
Nhà thơ ca ngợi vẻ
huyền bí của thân xác người phụ nữ và những hành động ái ân: “Mỗi trái tim tình
yêu muốn tan vào nhục thể”. Bộ ngực của người đàn bà được mô tả trong tập thơ
như đôi búp hoa của khát vọng, căng nở trong gió thanh xuân.
Nhưng tất cả những gì
Tagore đã làm trong thời tuổi trẻ này chỉ mới là bước đầu. Đó là bước đầu của
một thiên tài tương xứng với Valkimi mà theo truyền thuyết là kẻ đã sáng tạo
nên bộ sử thi vĩ đại Ramayana. Có thể Valkimi chỉ là một cái tên huyền thoại.
Nhưng ở Tagore huyền thoại đã hóa thân thành một con người mà tiếng thơ sẽ
“vang từ miền đất này sang miền đất khác”.
Con thuyền vàng
Đầy tình yêu đối với
cuộc sống, Tagore tung ngòi bút hạ bệ thánh thần trong vở kịch thơ Lễ
máu (Visarjan) soạn vào năm ông hai mươi tám tuổi. Tác phẩm tôn vinh
con người và tình yêu.
Đối với ai còn trách
Tagore “thần bí” thì hãy để họ xem bài thơ “phản thần” dữ dội này. Đây là sự
đối đầu của sức mạnh tình yêu và uy quyền tôn giáo.
Qua nhân vật Govinda,
Tagore cay đắng nhận định: “Khi dính dáng đến thánh thần, con người mất hết
tình nhân đạo”.
Và qua một nhân vật
khác, Tagore còn xác quyết:
“Có cần chi thần thánh
trong cái thế giới bé nhỏ này của chúng ta? Chúng ta cứ dũng cảm vô thần bước
lại gần nhau”.
Những năm sau đó, sau
khi viếng thăm nước Anh lần thứ 2 trở về, Tagore hoàn thành nhiều tác phẩm lớn:
Kịch Chitra, các tập thơ Con thuyền vàng, Hiến dâng và viết nhiều truyện ngắn
xuất sắc.
Chitra được xem là một
trong những vở kịch toàn bích của Tagore, một tác phẩm óng ánh chất thơ và từng
câu như thấm đẫm mùi hương mùa xuân thể hiện tình yêu của công chúa Chitra với
người anh hùng lừng danh Arjuna.
Con thuyền vàng (Sonar Tari) là tập thơ gây nên nhiều
sóng gió tranh luận ở Bengal. Các nhà phê bình không đồng ý với nhau về ý nghĩa
của thi ảnh Con Thuyền Vàng.
Một ngày mưa, nhà thơ
ngồi trầm ngâm bên cánh đồng của mình nhìn ra bờ sông. Chàng thấy con thuyền
vàng xuất hiện và lướt đến gần. Nhà thơ chất lên thuyền mùa gặt hái của mình.
Thuyền lại ra đi, không biết về đâu. Chỉ còn lại bên bờ sông nhà thơ cô đơn.
Đó là nội dung bài thơ
đầu của tập thơ.
Theo chính Tagore thì
con thuyền vàng tượng trưng cho cuộc đời. Mùa màng là các thành quả mà chúng ta
đạt được và dòng sông là thời gian vô tận.
Cuối tác phẩm, Thuyền
vàng lại tái hiện, ghé rước nhà thơ ra đi. Cầm lái là nàng thơ, là người tình
huyền ảo. Anh hỏi nàng đưa anh đi đâu? Không nói gì, nàng đưa tay chỉ về phía
chân trời xa xôi, nơi vầng dương đang chìm khuất mà đôi môi dường như phảng
phất nụ cười.
Tác phẩm còn có nhiều
bài thơ đẹp khác về trái đất, biển cả, cá đẹp, trò chơi thơ ấu, giấc mơ thanh
xuân…
Hiến dâng (Naivedya) là tập thơ vĩ đại mở đầu cuộc
sáng tạo mênh mông bát ngát của Tagore ở đầu thế kỷ hai mươi.
Năm 1901 cũng là năm
có ý nghĩa lớn lao trong cuộc đời Tagore. Bốn mươi tuổi, sự chín muồi của tài
năng. Sự phát triển tâm linh. Sự tự do của hồn thơ. Sự hoàn thiện bản ngã như
một con người. Sự hóa thân thành một nhà giáo dục, một nhà tiên tri của xứ sở.
Hiến dâng là chùm thơ gồm một trăm bài, bộc lộ một
đời sống tâm linh thâm trầm, được xếp vào loại thơ tâm linh có giá trị bậc nhất
của văn chương nhân loại. Nhiều bài thơ trong tập này về sau được chuyển sang
tiếng Anh trong tập Gitanjali.
Tác phẩm đề tặng cho
người cha già 83 tuổi. Từ lâu rồi, Maharshi đã hiểu rõ thiên hướng và tài năng
của đứa con mang tên mặt trời. Nhiều năm trước, ông đã từng nói: “Nếu người cai
trị xứ sở này là người thuộc về dân tộc và hiểu rõ ngôn ngữ dân tộc thì hắn đã
tặng thưởng cho nhà thơ trẻ này”. Thay cho người cai trị đó, Tagore có một
người cha vô song.
Năm ấy, Tagore bắt đầu
một hoạt động mới: lập trường học. Một người từng chán ghét trường học đến mức
coi đó là ngục thất cộng với bệnh thất giờ đây quyết định dựng trường!
Nhưng đó là một ngôi
trường rất… Tagore. Nó được dựng lên ở Santiniketan (xứ sở bình yên) cách
Calcutta 100 dặm.
Các bài học diễn ra
giữa trời, dưới các bóng cây. Ở đó, học sinh tìm hiểu thiên nhiên, âm nhạc,
nghệ thuật, khoa học… bằng niềm hứng khởi của chính mình, bình đẳng và tự do.
Tagore biên soạn sách
giáo khoa, bỏ tiền túi ra để trang trải chi phí…
Tất cả những việc làm
trên chứng tỏ Tagore không chỉ là nhà tư tưởng viễn mơ, mà còn là một con người
hành động.
Trên cánh cửa của
trường, Tagore khắc hàng chữ:
Không thần tượng nào
được tôn thờ ở nơi này và không có niềm tin nào bị coi rẻ ở đây
Mấy năm tiếp theo đó,
Tagore trải qua những tháng ngày tang tóc. Các người thân lần lượt qua đời:
Người vợ thân yêu, đứa con gái mười ba tuổi, người cha khả kính, đứa con trai
út.
Nhưng Tagore vẫn không
ngừng làm việc, sáng tạo. Tập thơ “Đứa trẻ” (Sisu) là tiền thân của tập Trăng
non bằng tiếng Anh sau này. Đó là những vần thơ tuyệt vời về thế giới tươi sáng
của trẻ thơ.
Kế đó là cuốn tiểu
thuyết Gora được xem là sử thi của Ấn Độ hiện đại.
Gora là một thanh niên
mồ côi từ bé, gốc người Ái Nhĩ Lan. Câu chuyện về anh dẫn ta vào mê cung của xã
hội Ấn Độ và đưa tâm hồn ta vươn tới ánh nhân bản của thế giới. Khi chưa rõ
nguồn gốc của mình, Gora nhiệt thành tin theo chế độ đẳng cấp. Dần dần anh ta
nhận ra cuộc sống như một biển cả nhân gian dung hợp mọi dòng máu và đẳng cấp.
Vị thần mới của anh là “Tự do”: “vị thần ấy không đóng cửa đền của mình với ai,
với bất kì đẳng cấp nào”.
Đó cũng là vị thần của
Tagore, vị thần vượt lên trên mọi tôn giáo. Vị thần ấy là con người, chúng sinh
duy nhất trong vũ trụ này có năng lực quyết định, nghĩa là có năng lực tự do.
Niềm tin ấy cũng được
Tagore thể hiện trong một bài ca về Ấn Độ viết trong thời gian này:
Nơi đất đứng của mình
Tôi dang rộng cánh tay
Xin chào con người
Hình ảnh thiêng liêng ấy
Và ca ngợi vinh quang của Người
Bằng điệu nhạc thiêng liêng
Điệu đời lồng lộng…
Tôi dang rộng cánh tay
Xin chào con người
Hình ảnh thiêng liêng ấy
Và ca ngợi vinh quang của Người
Bằng điệu nhạc thiêng liêng
Điệu đời lồng lộng…
Khi quay sang viết
truyện ngắn, Tagore lập tức là một nghệ sĩ bậc thầy trong những cuộc tự sự cô
đọng này. Nhiều truyện ngắn dựa vào các hoài niệm khi sống trong một chiếc nhà
thuyền trên dòng sông Padma. Những bậc bến tắm bên sông cũ kỹ phủ rêu đi vào
tác phẩm của Tagore như một kẻ dẫn chuyện, kể cho ta nghe về những bàn chân đã
lướt qua chúng, nhất là bàn chân của một cô gái tuyệt vọng trong tình yêu đã lao
mình xuống nước.
Truyện ngắn của Tagore
về các cô gái trẻ và trẻ em thường buồn nhưng rất đẹp, chứa đựng những tình cảm
dịu dàng nhất của tác giả.
Vào năm 1911, sau bao
nhiêu nỗi đau buồn, Tagore hoàn thành tập thơ nổi tiếng nhất của ông: Thơ
dâng (Gitanjali)
Tác phẩm gồm 157 bài
thơ mà hơn 50 bài sẽ được đưa vào tập Gitanjali bằng tiếng Anh do chính Tagore
dịch.
Năm mươi năm trong
cuộc đời Tagore được đánh dấu bằng kỳ công đó.
Cánh thiên nga
Qua tuổi ngũ tuần,
Tagore ra ngoài Ấn Độ, bước vào thế giới như một thi hào, trở thành nhà thơ thế
giới (Visva – Kavi), một trong những cánh thiên nga đẹp nhất của thơ ca nhân
loại.
Đầu năm 1912, Tagore
chuẩn bị đi Anh lần thứ ba. Vì bệnh bất ngờ, phải tạm hoãn chuyến đi, lui về bờ
sông Padma yêu dấu của mình. Chính ở đây Tagore bắt đầu dịch một số bài thơ
trong tập Gitanjali sang tiếng Anh.
Sau khi cuốn sổ tay đã
đầy ắp các bài thơ dịch, Tagore đáp tàu đi Anh vào giữa năm. Một họa sĩ quen
biết với Tagore ở London đọc được bản thảo ấy, chuyền cho Yeats, thi hào Ái Nhĩ
Lan. Yeats mang tập thơ bên mình, đọc nó với một niềm xúc động vô biên.
Rồi tập thơ Gitanjali
được xuất bản ở London, gồm có 103 bài bằng tiếng Anh.
Gitanjali chinh phục
thế giới phương Tây hầu như lập tức. Họ cảm thấy một cõi thơ mới lạ mở cánh cửa
huyền ảo của nó ra trước mắt mình. Dường như, giọng thơ Tagore đến với họ từ
một vòm trời rực rỡ nào đó, tuôn trào như một dòng suối thiêng:
Nếu em không nói lời
nào, ta sẽ chất đầy niềm im lặng ấy vào trái tim mình mà cam lòng chịu đựng. Ta
sẽ im lìm chờ đợi như bóng đêm kia đầy sao canh giấc, như bóng đêm kia ẩn nhẩn
cúi đầu.
Ban mai thế nào cũng đến, bóng tối sẽ tan đi, và tiếng em sẽ là những dòng suối vàng, xé vòm trời, rực rỡ trào tuôn.
Rồi lời em vỗ cánh thành ca khúc bay lên từ mọi tổ chim ta. Và giai điệu em sẽ thành hoa bừng nở, phủ cánh rừng chồi biếc lộc xanh ta.
Ban mai thế nào cũng đến, bóng tối sẽ tan đi, và tiếng em sẽ là những dòng suối vàng, xé vòm trời, rực rỡ trào tuôn.
Rồi lời em vỗ cánh thành ca khúc bay lên từ mọi tổ chim ta. Và giai điệu em sẽ thành hoa bừng nở, phủ cánh rừng chồi biếc lộc xanh ta.
Cùng đọc thơ Tagore
với Yeats, nhà thơ Mỹ nổi tiếng Ezra Pound cho rằng: “Chúng tôi đã bất ngờ tìm
thấy Hy lạp mới của mình… Khi rời Tagore, tôi cảm thấy dường như mình là một
tên man rợ mặc da thú và cầm chùy đá vậy”.
Khi Gitanjali ấn hành
ở Anh thì Tagore đã sang Mỹ. Tác phẩm Sadhana (Thực hiện cuộc
đời) viết bằng tiếng Anh đã được hình thành ở Mỹ. Đấy là cuốn sách thể hiện tập
trung tư tưởng triết lý của Tagore về vũ trụ, bản ngã, tình yêu, hành động, cái
đẹp, vô biên… Những đề tài mà nhà thơ nói chuyện tại đại học Harvard vào đầu
năm 1913.
Trong năm đó, ở
London, các tập thơ Người giữ vườn, Trăng non và các vở kịch Phòng
bưu điện, Chitra của Tagore lần lượt được ấn hành hoặc trình diễn, tất
nhiên bằng tiếng Anh.
Vào cuối năm, sau khi
đã trở về với xứ sở Bình Yên của mình, Tagore nghe tin tập thơ Gitanjali được
giải Nobel văn chương. Những người reo mừng đầu tiên là đám trẻ ở Santiniketan.
Các em tự hào vì Gurudeva (bậc thánh sư) của các em được cả thế giới biết
tiếng.
Giải Nobel văn chương
đầu tiên được trao cho người châu Á xác nhận rằng tâm hồn Đông phương đang sống
chứ không đang nằm ngủ trong các viện bảo tàng và các cổ thư.
Thư ký của Ủy ban
Nobel tường trình rằng: “Không có nhà thơ ở châu Âu nào kể từ cái chết của
Goethe vào năm 1823 có thể sánh được với Tagore về nhân cách cao cả, về sự vĩ
đại tự nhiên, về sự thanh thoát hài hòa”.
Trước nay ở quê nhà
Belgan, tuy nổi tiếng là thế, Tagore vẫn thường bị chỉ trích một cách kì lạ.
Trong một thời gian dài, nhiều “học giả Ấn Độ” (đám pundit) thường đem các
trang văn của Tagore ra mà bảo với học sinh: “Hãy viết lại cho đúng tiếng
Belgali”.
Khó mà tưởng tượng
được rằng ngay cả sau khi Tagore đoạt giải Nobel văn chương, Đại học Calcutta
trong kì thi tuyển vào năm 1914 vẫn còn ra đề cho thí sinh bằng cách yêu cầu
các em: “hãy viết lại cho đúng và trong sáng tiếng Belgali” từ một trang văn
của Tagore mà họ cho là quá ư tồi tệ!
Như vậy, Tagore bị chê
là dốt văn, cần được các học sinh nhà trường “uốn nắn” lại. Xem thế, đủ biết
việc học văn ở nhà trường xưa nay nguy hiểm ra sao.
Trong khi khói lửa lan
tràn khắp châu Âu, Tagore cảm thấy vô cùng bất an, đau khổ. Bất kỳ chiến tranh
xảy ra ở đâu, lồng ngực nhân loại vẫn tổn thương. Với những mối cảm xúc tràn
ngập, Tagore đã viết nên tập thơ Cánh thiên nga (Balaka) vào
năm 1916.
Tuy nhiên, đó không
chỉ là những cảm nghĩ về chiến tranh, cho dù:
Tiếng hát của tử thần
đã chiếm lĩnh những con đường đi về nơi đất nước.
Tagore cho biết:
“Những cảm xúc như một đàn thiên nga bay ùa về, và cũng giống như chim, những
cảm xúc từ tâm tư nhà thơ bay về Cõi Xa, chưa ai biết với một niềm háo hức miệt
mài khó tả… Tiếng vỗ cánh của chim không chỉ khuấy động một đêm trường tịch
mịch mà còn thức dậy trong tôi tiếng lời của Vô tận – đó là ý nghĩa thực sự”…
Cánh bay ấy là tiếng
gọi vĩnh cửu vẫn hằng vang lên trong lòng vũ trụ bởi vì nó tượng trưng cho sự
vận động không ngừng của đời sống. Đó là niềm khát vọng của tâm linh hóa làm
thiên nga bay vào vũ trụ.
Toàn thể tập thơ ca
hát về sự hồi sinh liên tục của đời sống. Đó là nhạc điệu của toàn thế giới:
Trên biển trời linh
thiêng, ngọn triều của ánh sáng và đêm tối chảy trôi, náo nức, phập phồng.
Và dọc theo đường đi, những cánh hoa hành hương âm thầm tiến bước, luôn luôn huyên náo sắc màu.
Và dòng đời cuồn cuộn lao tới trước trong những dòng thác lớn lao cho dù âm nhạc của chết choc vẫn rung reng nơi chiếc vòng đeo tay của nó.
Và dọc theo đường đi, những cánh hoa hành hương âm thầm tiến bước, luôn luôn huyên náo sắc màu.
Và dòng đời cuồn cuộn lao tới trước trong những dòng thác lớn lao cho dù âm nhạc của chết choc vẫn rung reng nơi chiếc vòng đeo tay của nó.
Cánh thiên nga là một tiếng hát hung vĩ và bi tráng như
định mệnh của chính nhân loại.
Ở tác phẩm này và
Gitanjali cũng như ở nhiều tập thơ khác của Tagore, ta thấy sức mạnh huyền diệu
của một thi pháp rất phù hợp với tâm linh Ấn Độ. Đó có thể gọi là “thi pháp vũ
trụ” do không gian của nó là những hình ảnh bát ngát: tổ trời, chùm hoa tinh
tú, bình minh tình ái của mùa xuân, những đám mây giông tố, các vực thẳm không
cùng… và do thời gian của nó là vĩnh hằng, là vô tận mà “những dấu chân của
hàng triệu năm” cũng chỉ là khoảnh khắc…
Tác phẩm như đẩy bật
ta ra khỏi những khung cửa nhỏ hẹp để bước ra ngoài thế giới, để trở thành một,
với sự vô hạn của nó.
Tiểu thuyết quan trọng
của Tagore trong thời kì này mang một cái tên đầy ý nghĩa Ngôi nhà và
thế giới (Ghare Beire) viết dưới hình thức nhật kí của ba nhân vật
chính phản ánh những năm tháng phong ba của thập niên đầu thế kỷ.
Năm 1916 trong khi
chiến tranh lan tỏa châu Âu, Tagore lê tàu đi Nhật. Ba tháng lưu lại tại xứ sở
hoa đào, của những vần thơ haiku đã đem lại cho Tagore những cảm giác êm dịu.
Sự cô đọng của thơ Phù
tang có thể đã ảnh hương tới Tagore khi ông viết những vần thơ gọi là “những
cánh chim bay lạc”hay “những con đom đóm”:
Cánh bướm kia không
đếm tháng đếm năm
Chỉ đếm phù du khoảnh khắc
Vẫn sống đủ thời gian.
Chỉ đếm phù du khoảnh khắc
Vẫn sống đủ thời gian.
Vào năm 1919 ở
Amritsar, phong trào nông dân bị đàn áp dã man. Hàng ngàn người bị thương, mấy
trăm người bị thảm sát. Tagore lập tức viết thư cho chính quyền Anh, trả lại
tước hiệp sĩ mà họ đã phong cho ông, buộc tội họ đã hành động man rợ “không đâu
bằng trong lịch sử của những chính quyền văn minh”.
Tiếng nói ấy đủ quyền
lực để hồi phục danh dự và lòng tự trọng cho dân tộc Ấn Độ và cho thấy Tagore
không phải là loại triết gia bàn giấy. Đấy là một tinh thần hiệp sĩ thực sự,
không cần ai phong tặng.
Nhiều lần, Tagore đã
diễn thuyết, tổ chức mít tinh chống thực dân Anh, sáng tác những bài ca ái quốc
làm cả nước xúc động. Một bài hát của ông sau này sẽ là Quốc ca của Ấn Độ. Cả
quốc ca của Bangladesh cũng là tác phẩm của ông.
Thế mà, từng có nhiều
người Ấn Độ buộc tội Tagore thân châu Âu. Mấy năm sau đó, cả thánh Gandhi cũng
kêu gọi: “Mọi người phải quay xa kéo sợi. Hãy để Tagore cũng quay xa kéo sợi
như người khác. Hãy để ông đốt cháy Âu phục của mình đi…”
Gandhi và Tagore là
hai vĩ nhân được dân tộc Ấn Độ tôn xưng là thánh. Họ luôn tương kính và cảm
phục nhau. Nhưng giữa họ có khá nhiều bất đồng. Chẳng hạn Tagore không chấp
nhận việc Gandhi kêu gọi nhân dân Ấn Độ quay về với guồng tơ.
Đối với Tagore, chống
thực dân không phải là chống văn minh châu Âu. Với nhà thơ, Đông và Tây “chỉ là
hai bán cầu của trí não nhân loại. Nếu một bên bị bất toại thì toàn thân thể sẽ
bị thoái hóa”.
Tuy vậy, cả hai đều
yêu mến nhau vì mỗi người trong họ đều là biểu tượng cho nhân cách cao quý và
tâm linh vĩ đại của Ấn Độ.
Hai năm sau, Tagore
lại ra nước ngoài như một đặc sứ tư tưởng theo lời mời của Cộng hòa Peru. Do
lâm bệnh, Tagore dừng lại ở Buenos Aires. Và ở đó, nhà thơ gặp người phụ nữ
Argentina tài năng và duyên dáng. Nàng đưa ông về một biệt thự xinh đẹp trên bờ
biển Plate. Đó là nữ sĩ Victoria Ocampo.
Hai tháng trên bờ sông
ấy, Tagore sống những ngày nắng đẹp và sự chăm sóc êm đềm của Ocampo. Sau này
ông viết nhiều thơ cho nàng, in trong tập Puravi.
Mỉm cười nàng bước đến
Mang hoa của niềm vui
Tôi chẳng còn chi khác
Chỉ còn nguyên trái sầu…
Mang hoa của niềm vui
Tôi chẳng còn chi khác
Chỉ còn nguyên trái sầu…
Đầu năm 1927, Tagore
dựng vở kịch “sự tôn thờ của nàng vũ nữ” trên sân khấu của
Calcutta, dùng toàn nữ diễn viên, đi ngược lại truyền thống sân khấu chỉ dùng
diễn viên nam. Việc làm táo bạo này thay đôi hăn bộ mặt sân khấu. Kể từ đó, sân
khấu Ấn Độ bắt đầu tràn ngập các nàng vũ nữ xinh tươi.
Trong thập kỷ 20,
Tagore trở thành vị sứ giả hành hương của hòa bình trên thế giới. Nhà thơ đi
Anh, Pháp, Thụy Điển, Mỹ, Đức, Áo, Tiệp Khắc, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên Xô… để
nêu cao tinh thần hòa bình và tình yêu.
Năm 1928, Tagore bắt
đầu thể nghiệm một cuộc sáng tạo mới trong đời: vẽ tranh.
Trong hội họa cũng như
trong các bộ môn nghệ thuật khác, Tagore không dựa vào các bài học ở trường lớp
nào. Bao giờ ông cũng sáng tạo với tinh thần tự do. Ngòi bút của ông tung hoành
hào phóng thế nào thì cây cọ của ông bây giờ cũng thế. Chỉ tuân theo một vận
động bí ẩn: nhịp điệu. Vũ trụ có nhịp điệu của mình. Và mỗi người phải biết nắm
bắt nhịp điệu trong nghệ thuật và cuộc sống.
Tagore vẽ và vẽ. Trong
vòng 13 năm cuối đời, hoàn thành gần 3.000 bức tranh! Đồng thời trong 13 năm
đó, ấn hành hơn 80 tác phẩm văn chương. Một sức sáng tạo phi thường với một ông
lão trong tuổi thất tuần:
“Bình minh cuộc đời
tôi vẫn hằng tràn ngập các làn điệu linh thiêng thì xin hoàng hôn cuộc sống
được chiếu diệu bằng toàn bộ màu sắc cầu vồng”.
Chính nàng Ocampo
duyên dáng và thông minh đã đến Paris tổ chức cuộc triển lãm tranh cho Tagore.
Cái mới mẽ độc đáo, sự giản dị và tinh tế trong đường nét của tranh Tagore làm
giới phê bình sửng sốt. Các trí tuệ bậc nhất của Pháp như là Paul Valery và
Andre Guide ca ngợi rằng hội họa của Tagore thuộc về tương lai: “Khi con người
văn hóa sau này trở nên tinh tế hơn, họ sẽ nhận ra đầy đủ giá trị của những bức
tranh này”.
Sau đó, tranh Tagore
lướt qua London, Berlin, Newyork, Matxcova như thể trong một cuộc rước lễ huyền
ảo.
Và năm sau, khi đi Ba
Tư, Tagore được người Ba Tư xưng tụng là “vì sao vĩ đại nhất của bầu trời
phương Đông”.
Trở về Ấn Độ, nghe tin
Gandhi tuyệt thực trong ngục thất Yerevada, Tagore vào thăm. Vị thánh của dân
tộc ấy ngưng tuyệt thực, đón Tagore và nói: “cuộc tuyệt thực nhân danh Thượng
Đế, nay xin ngừng lại nhân danh ngài, trước sự có mặt của Gurudeva”
Người Ấn Độ vẫn gọi
Gandhi là Mahatma và Tagore là Gurudeva. Đấy là những danh hiệu của bậc thánh.
Nhân sinh nhật của
Gandhi vào năm 1936, Tagore soạn vở kịch múa Nàng Syama. Và
như thường lệ, Tagore có mặt trên sân khấu ở Calcutta.
Tagore là một vị thánh
có thể nhảy múa hồn nhiên. Điều ấy làm cho nhiều người kinh ngạc.
Với Tagore, nhảy múa
cũng thiêng liêng như bất kỳ cuộc sáng tạo nào vì niềm vui của nhân loại.
Năm 1940, Gandhi đến
xứ sở Bình Yên thăm viếng Tagore. Đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai vĩ nhân.
Gandhi nói: “Tôi gọi cuộc viếng thăm này là một cuộc hành hương… Tôi đã tiếp
nhận lời chúc phúc của Gurudeva và lòng ngập tràn hạnh phúc”.
Cuối năm đó, Tagore
lâm bệnh. Ông diễn tả tâm trạng của mình trước cuộc đời bao la vô tận:
Thế gian này tôi hiểu
chẳng bao nhiêu…
Trong khi nằm bệnh,
Tagore giữ một chùm hoa dại trên giường và mời người khác nhìn ngắm nó. Khi
dưỡng bệnh bên hồ Balaton ở Hungary vào năm 1926, Tagore từng nói với chiếc cây
tự tay mình trồng:
Ta không còn nữa cây
ơi
Thì xin lá mới xuân đời thay ta
Nhắn giùm lữ khách đi qua
Rằng: thi nhân ấy đã là tình nhân
Thì xin lá mới xuân đời thay ta
Nhắn giùm lữ khách đi qua
Rằng: thi nhân ấy đã là tình nhân
Tagore qua đời ngày
7/8/1941 nơi ngôi nhà cũ mà ông mở mắt chào đời vào 80 năm trước. Đó là ngày
trăng rằm của tháng Sravana, tháng của những cơn mưa mát lành thường bay qua
những vầng thơ yêu đời của Tagore.
Những cơn mưa ấy,
những bông hoa dại sẽ không còn nghe Tagore ca hát nữa.
Chỉ còn trái tim chúng
ta sẽ ngân mãi những vần thơ bất tuyệt.
Những ràng buộc phàm
nhân không còn nữa
Vũ trụ bao la nhận thi sĩ vào lòng…
Vũ trụ bao la nhận thi sĩ vào lòng…
Và như thế, cuộc đời
tìm kiếm ngôi nhà trong vũ trụ của Tagore đã thành tựu. Vũ trụ đón vào lòng nó
một vì sao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét