Cảm nhận thơ Tâm Hướng - Lê Đình Ngân
Đỗ Tư Nhơn
Thắp nén tâm hương
tưởng nhớ Thầy, nhà thơ đã 42 năm xa đời
Tâm Hướng là bút hiệu của thầy Lê Đình Ngân
(1916-1971), một trong những thầy giáo dạy trường Nguyễn Hoàng từ những ngày
đầu tiên tại khu vực vườn hoa cạnh bờ sông Thạch
Hãn. Quách Tấn, Yến Lan tiêu biểu cho nhóm thơ Bình
Định và Trường thơ Loạn sau này (bớt Quách Tấn nhưng có thêm Bích Khê, Hoàng
Diệp, Quỳnh Dao, Xuân Khai). Theo Quách Tấn, lúc thi sĩ họ Hàn bệnh nặng đã có
những người bạn thơ ở gần thường lui tới thăm Tử như Lê Đình Ngân, Hoàng Tùng
Ngâm, Bửu Đáo, Trần Kiên Mỹ (Đôi nét về Hàn Mặc Tử). Cũng như Hàn Mặc Tử và các
thi hữu trong Thái Dương văn đoàn, Lê Đình Ngân đi từ thơ Đường đến thơ Mới, từ
chủ nghĩa cổ điển sang chủ nghĩa lãng mạn…
Vẻ đẹp thơ Đường của
Tâm Hướng
Quay lại với thi ca Việt Nam thời trung đại
(khoảng thế kỷ XI đến cuối XIX) chúng ta gặp thơ của các thiền sư, nho sĩ,
vua quan… Tất cả đều mang những đặc điểm chung của chủ nghĩa cổ điển: từ
quan niệm sáng tác (văn chuyên chở đạo lý, thơ để nói lên chí hướng), đến cách
tư duy nghệ thuật thiên về sự mẫu mực ước lệ. Về thể loại thì chú trọng niêm
luật chặt chẽ, ngôn ngữ trang nhã, ưa dùng điển tích. Dân tộc chúng ta đã tắm
gội trong dòng sông văn học cổ điển phong phú sâu sắc biết bao! Từ đó đã hình
thành những nhân cách cao đẹp trong sách sử, để lại những bài học làm người cho
muôn đời noi theo.
Bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật có nhan đề
là Xuân đạo lý được gia đình thầy gởi đến Hương Quê Nhà - Xuân Kỷ Sửu
2009 có thể xem tiêu biểu cho thơ cổ điển Tâm Hướng sáng tác trong buổi giao
thời (thập niên 30-40/thế kỷ XX) mang vẻ đẹp của thơ ca Việt Nam, khơi gợi
những dư hưởng của quá khứ:
Chẳng rượu, chẳng cờ,
cũng chẳng hoa
Xuân
về ta có thú riêng ta.
Dăm ba pho sách, dăm
ba bạn,
Một ít vần thơ, một ít
trà.
Người kiếm mai vàng
mừng tết đến
Ta trồng cỏ biếc dưỡng
tâm già.
Gió xuân có biết mà
thăm hỏi,
Đã có chim vườn cất
tiếng ca.
Trước tiên, đến với nhân vật trữ tình trong
bài thơ: “Ta” (ta có, ta trồng). Trong tập sách lý luận văn học Những thế
giới nghệ thuật thơ. Tiến sĩ Trần Đình Sử cho biết là thơ cổ điển với nhân vật
xưng “Ta” đã thể hiện tính chất phi cá thể, một con người tự tôn, tự túc, tự
đắc dù trong nghịch cảnh. Từ quan niệm triết lý Đông phương, với mô hình vũ
trụ: Thiên - Địa - Nhân, trong đó con người là tiểu vũ trụ hòa trong đại vũ
trụ. Bởi thế nhà thơ tìm thú vui trong ngày tết khác với nhân gian, không cần
đến những cái rất thiết thực nhằm tạo khung cảnh, mang lại hương vị mùa xuân,
bằng hình thức điệp từ “chẳng”, “chẳng”, “cũng chẳng”, tạo nên sự từ chối dứt
khoát: Chẳng rượu, chẳng cờ, cũng chẳng hoa.
Con người này đã “tri túc” (biết đủ) và “quả
dục” (ít ham muốn) nên luôn cảm thấy bằng lòng an lạc trong cuộc sống hằng
ngày.
Dăm ba pho sách, dăm
ba bạn,
Một ít vần thơ, một ít
trà.
Pho sách quý, bạn tri âm, vần thơ tuyệt tác
cùng hương trà tuy thanh đạm nhưng thật quá đỗi đầy đủ, một cách thưởng
thức thanh cao, tao nhã của người quân tử và thi nhân. Đi xa hơn nữa,
trong hai câu luận của bài thơ, Tâm Hướng muốn gởi vào đây quan niệm nhân sinh
của thế hệ nhà Nho thấm nhuần tư tưởng.
Người kiếm mai vàng
mừng tết đến,
Ta trồng cỏ biếc dưỡng tâm già.
Ta trồng cỏ biếc dưỡng tâm già.
Thiên nhiên ở đây tuy có: “mai vàng / cỏ biếc”
nhưng mang tính ước lệ. Bởi tác giả xem thiên nhiên như tấm gương để soi
ngắm mình, để tu dưỡng tâm tính. Hình ảnh nhà đạo học Chu Đôn Di đời Tống bỗng
hiện về nơi câu thơ tiêu sái của Tâm Hướng, bởi người xưa đã để cỏ mọc đầy
trước cửa nhà học của mình như một sở thích, như một liệu pháp cho tâm hồn.
Để khép lại một cách nhẹ nhàng bài Xuân đạo lý, hãy nghe lời tự tình tự nhủ cùng nụ cười hiền triết:
Gió xuân có biết mà
thăm hỏi,
Đã có chim vườn cất
tiếng ca.
Trở lên trên, ngoài nhóm từ “dăm ba, một ít”, nhà thơ vận dụng điệp từ “chẳng”
ba lần để phủ định những nhu cầu, sau đó thi sĩ họ Lê dùng đến ba từ “có”
trong số năm mươi sáu từ của bài thất ngôn bát cú. Chúng ta biết
rằng thơ Đường vốn chuộng tính súc tích, ít lời nhiều ý, ý ở ngoài lời. Điều
này có phải do sự dễ dãi trong diễn đạt chăng? Người đọc không nên quá chú ý
đến từ ngữ mà quên đi giọng điệu toàn bài toát lên nội dung lạc quan. Tác
giả tự cảm thấy hạnh phúc, an lạc trong lời khẳng định: ta có thú riêng ta -
gió xuân có biết - đã có chim vườn... Không có gì trọn vẹn hơn khi thiên nhiên
cùng bạn quý, với sách hiếm, thơ hay ít trà cho nhà thơ, nhà giáo đón xuân!
Tất cả hệ thống ngôn ngữ, nhân vật trữ tình,
thiên nhiên, giọng điệu, ngắt nhịp, đối ngẫu trong bài thơ trên đã đạt đến sự
hòa điệu nhịp nhàng và mẫu mực tạo nên vẻ đẹp tương ứng giữa hình thức và nội
dung, thể hiện quan niệm “Thơ nói lên chí hướng”. Bài thơ Đường luật của Tâm
Hướng đã cho người đọc nghe lại giọng nói tiếng cười trong trẻo nhẹ nhàng của
cha ông xưa từng sống, sáng tác với tâm thức “Vong bần lạc đạo” (Vui với đạo
quên cảnh nghèo) mà ta từng đọc qua thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến:
Ta
dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người
khôn người đến chốn lao xao.
(Thú nhàn - Nguyễn Bỉnh
Khiêm)
Hay:
Đầu
trò tiếp khách trầu không có,
Bác
đến chơi đây, ta với ta.
(Bác đến chơi nhà - Nguyễn Khuyến)
Vẻ
đẹp thơ Mới của Lê Đình Ngân
Bước
vào căn vườn thơ Mới - thơ lãng mạn, cơn gió phương Tây thổi về đây những
sắc màu, hình ảnh, giai điệu mới mẻ, với nhân vật trữ tình hoàn toàn đổi khác.
Đó là sự bừng tỉnh của ý thức cá nhân, cái Tôi cá nhân làm chủ cảm xúc, bộc lộ
chân thành thế giới nội tâm khát khao giao cảm với cuộc đời. Tạo nên vẻ đẹp của
sự giải phóng cá thể ra khỏi những ràng buộc xưa cũ.
Hưởng
ứng phong trào thơ Mới, Lê Đình Ngân cho đăng thơ trên tờ Tiểu thuyết Thứ Bảy
và một số tạp chí cùng thời. Từ đây nhân vật trữ tình mạnh mẻ xưng TÔI. Nói
năng, kể lể khóc cười không còn ngại ngùng e ấp, không ẩn nấp vào thiên nhiên.
Hãy cùng đọc bài thơ “Tương tư » để cảm nhận sự chuyển mình từ cái TA
trong thơ Cổ điển sang cái TÔI trong thơ Mới:
Hôm nay tôi lại nhớ
người rồi
Người
ở bên tôi vẫn nhớ người
Tôi
đã tương tư mấy kiếp rồi.
Nhân
vật xưng: "Tôi - Người" chuyển thành "Anh - Em" để từ đây
nhà thơ mở rộng lòng mình cùng trí tưởng tượng vốn là tố chất của chủ nghĩa
lãng mạn, nhằm tỏ bày nỗi nhớ thương cùng những phương cách tìm cho thấy được
đối tượng yêu thương dù bao ngăn trở của ngoại giới. Chủ thể bày tỏ những
trạng huống sâu kín như: nhớ em / muốn chết/ thức/mộng/đau xót...
cho tới cử chỉ, hành động: anh kiếm lời em/ anh dệt hình em /anh cố hôn em
trong kẽ lá. Chưa bao giờ chúng ta thấy người thơ tha thiết si tình đến thế,
nhưng tất cả đều vô vọng, trống không như trong bài Thu nhớ.
Ban đầu:
Ban đầu:
Thu về - gió lá cũng
theo về,
đã nhớ em rồi, nhớ quá
đi.
Anh muốn chết dần cùng
phượng đỏ,
trên cành rướm máu quả
tim si.
Và:
Anh kiếm lời em trong
nắng mới
Nắng tàn - nghe
vẳng lá vàng rơi
Anh dệt hình em trong
tưởng tượng
Bóng chiều che khuất
mắt em cười.
Cuối cùng:
Anh cố hôn em trong kẽ
lá
Gió vàng thổi
héo cả đôi môi.
Tình yêu nồng nàn đắm đuối si mê trong thơ họ
Lê khiến chúng ta liên tưởng đến Xuân Diệu, vì có sức cuốn hút người đọc trẻ.
Tuy nhiên ở Xuân Diệu mang tính nhục cảm và vội vã vồ vập hơn “Em vui đi,
răng nở ánh trăng rằm” / “Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự” / “Mau
với chứ vội vàng lên với chứ!”. (Giục giã - Xuân Diệu).
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ lãng mạn Lê
Đình Ngân không còn ước lệ trừu tượng mà gần gũi, sinh động theo cảm xúc nhà
thơ. Đó là dòng sông, con đường, hàng cây, giếng nước, đồng lúa quê nhà được
nhìn ngắm bằng con mắt và tâm hồn chất chứa tình yêu gắn bó của người con
xa xứ mong muốn trở về:
Sông nũng nịu chảy
theo hàng cây mát,
Đường quanh co ôm sát
bóng tre xanh.
Và:
Đây hồ sen thoang
thoảng gió đưa hương,
Bên bến nước trăng
vàng thường tắm bóng.
Đây giếng ngọc - nơi
trăng thường hay ngủ,
Những đêm sương sợ
lạnh, chẳng về trời
Đã mươi bận, lòng buồn
và gối mỏi,
Tôi trở về nghe lại lá
tre reo.
(Làng tôi)
Một bức tranh thiên nhiên khác gồm: trời -
trăng / mưa - gió / núi - sông / bóng cây - mặt thành / gạch - rêu xanh… Ở đây
từng cặp có sự tương giao, hô ứng lẫn nhau phù hợp với tâm hồn nhà thơ lãng
mạn:
Trong mưa trời bỗng
vén màn,
Cười qua giọt lệ trăng
ngàn lên cao.
Núi chào sông khẽ cúi
đầu,
Gío đưa mộng đẹp qua
hàng mi xanh.
Bóng cây ngã xuống mặt
thành
Gạch xưa lên tiếng,
rêu xanh ngẩng đầu.
Tay trong tay sắp giải
sầu
Nụ cười vĩnh viễn nhạt
màu thời gian.
(Trăng trong
mưa)
Tương tự trong nét bút mô tả vẻ đẹp của nông
thôn thật ấn tượng và thơ mộng, ta thử gặp Hàn Mặc Tử và Anh Thơ với gam màu
tươi sáng:
Trong làn nắng ửng,
khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm
tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà
áo biếc,
Trên giàn thiên lý
bóng xuân sang.
(Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử)
Hay:
Hoa mướp rụng từng đóa
vàng rải rác,
Lũ chuồn chuồn nhớ
nắng ngẩn ngơ bay.
(Bức
tranh quê - Anh Thơ)
Một phương diện nữa của thi pháp thơ lãng mạn
tạo ra sự khác biệt với thơ cổ điển là ở giọng điệu.
Nếu thơ cổ điển thuộc loại trữ tình điệu ngâm,
chú trọng hệ thống âm thanh bằng - trắc trong từng câu, thì thơ mới thuộc
loại trữ tình điệu nói, điệu kể nên tự do về âm thanh, thêm vào đó là
dùng nhiều hô ngữ như: Ô. hay! Ôi chao! Người ơi!
Chao ôi! Ly biệt chẳng
nhìn nhau,
Chẳng hẹn hò nhau được
nửa câu.
(Nắng xuân)
Và:
Mưa vàng! Mưa vàng!
Mưa trong trăng
Cách sông cách núi có
mưa chăng?
Chao ôi! trời vẫn bình
yên quá
Chỉ lệ người vừa nhỏ
xuống khăn.
(Lệ ngọc)
Hoặc:
Bến của lòng tôi mở
suốt ngày
Người ơi! hãy ghé một
vài giây.
Người gần - gần quá mà
xa quá ,
Ôi! Chẳng bao giờ dám
hé môi!
(Tương tư)
Như đã trình bày ở trên, nhân vật trữ tình thơ
mới - thơ lãng mạn muốn thể hiện cái Tôi cá nhân, phơi bày phần sâu xa nhất của
tâm hồn nên phải nói, kể lể bằng mọi cung bậc, mọi cách thức khi thì thủ thỉ,
nỉ non, khi van lơn, khi khóc thương, gầm thét. Bài thơ Cảm xúc của Xuân Diệu và bài Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ như bản tuyên ngôn chung của thơ lãng mạn về quan
niệm sáng tác, quan niệm sống được hoàn toàn giải phóng ra khỏi ràng
buộc:
Là
thi sĩ nghĩa là ru với gió,
Mơ
theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
(Xuân Diệu)
Cùng với:
Tôi
là khách bộ hành phiêu lãng
Đường
trần gian xuôi ngược để vui chơi.
(Thế Lữ)
Bước
song hành cùng thơ mới giai đoạn 1932-1945, thơ Lê Đình Ngân đã góp vào dàn hợp
xướng đa thanh của thời đại bằng giọng điệu trữ tình trong trẻo yêu thương
trong thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn, có sức mạnh rung động tâm hồn người đọc
cho đến bây giờ… Tuy chưa được xếp vào chỗ ngồi tiêu biểu trong Thi nhân Việt
Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân, nhưng Lê Đình Ngân cũng khiến chúng ta tự hào
về lớp trí thức tân học Quảng Trị thời bấy giờ đã vươn mình đón nhận tinh hoa
mới làm giàu thêm cho văn học Việt Nam.
Nhu
cầu thẩm mỹ tuy thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào vốn liếng văn hóa của
người đọc, nhưng những bài thơ hay, thường vượt qua năm tháng trở về tình tự
với nhân gian. Từ thơ Đường mang hương vị cổ điển đến thơ Mới - thơ lãng mạn,
Lê Đình Ngân đã đi qua hai phạm trù của cái Đẹp, hai khuôn mặt của Nàng Thơ.
Giờ đây, chúng ta đã có được độ lùi cần thiết để thưởng thức các trào lưu, chủ
nghĩa văn học trong quá khứ, bỏ đi cái nhìn cực đoan một phía, cảm nhận đầy đủ
vẻ đẹp thi ca. Giữa cuộc sống hiện đại tiện nghi và bề bộn, nghe nhiều, đọc
nhiều, bỗng nhiên chúng ta thèm một bài thơ kiệm lời, ý tứ thâm trầm, tỏa ra
chất Đạo nhẹ nhàng vui tươi như để gặp lại ông cha ta ngày xưa... Có khi hứng
khởi cùng bằng hữu xướng họa mừng thọ thi huynh thi hữu, hay khi tự gẫm đời
mình trong bộ áo dài khăn đóng của ngôn ngữ và thi luật. Ở một thời điểm nào đó
lòng ta muốn giao cảm với cuộc đời rộng lớn, hướng ngoại hơn, tâm hồn trở nên
ưa thích những câu thơ Mới «mơ theo trăng và vơ vẫn cùng mây”. Những lúc ấy thơ
Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Lê Đình Ngân… hiện về mời gọi người đọc tham dự hành
trình văn chương - cuộc viễn hành khám phá thế giới tâm linh sống động diệu kì
của thi nhân và của mỗi chúng ta.
Quảng
Trị - Hạ vàng 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét