Frédéric Chopin (1810-1849)
Nhạc sĩ người Đức
Mendelssohn từng thốt lên: "Chopin là cả một lò lửa. Ông nung chảy tất cả
những gì mà cuộc sống ban cho. Và ông ấy rút ra từ đó kho báu hết sức quý
giá". Những vũ khúc thôn dã của quê mẹ Ba Lan, đã thấm vào Chopin làm nên
một thiên tài âm nhạc thuần khiết, đôn hậu, mãnh liệt mà da diết. Ông được coi
là nhà thơ của cây đàn piano với những bản polonaise, marzuka, etude... bất hủ.
Frédéric Chopin (1810-1849)
|
Ảnh chụp năm
1849 bởi Bisson
|
Frédéric Chopin sinh ra ở Zelazowa Wola, Ba Lan ngày 22 tháng 2 năm 1810. Mặc
dù sinh ra ở Ba Lan, là con trai của một người Ba Lan, nhưng quê nhà thiêng
liêng của ông luôn là Pháp. Thật sự thì đó chưa bao giờ chỉ đơn thuần là đất
nước đã nuôi dưỡng ông, bởi vì mặc dù thực tế là trong một thời gian dài Chopin
đã được công nhận là hậu duệ của một gia đình Ba Lan đã từng chuyển đến Paris,
nhưng một số tài liệu lại chứng minh rằng gia đình ông bắt nguồn từ vùng Loire
thuộc nước pháp và giấy khai sinh của bố ông được chứng nhận sinh ngày 15 tháng
4 năm 1771 tại một ngôi làng ở Marainville gần Nancy. Ông đã rời đến Warsaw vào
năm 1787 nơi mà ông cưới bà Tekla-Justyna Krzyzanowska vào ngày mùng 2 tháng 6
năm 1806. Frédéric là một trong người con của họ.
Chopin từ bé đã được hưởng một sự giáo dục đầy đủ và thoải mái. Bố của ông, một người đàn ông thông minh, đã rất nhanh chóng trở thành gia sư dạy tiếng Pháp ở các gia đình giàu có của thủ đô Ba Lan. Sau đó, cũng lại ở Wasaw, ông đã trở thành một giáo viên tiếng Pháp tại trường tiểu học Lyceum. Khi đó, với một khă năng tài chính vững vàng, ông đã biến căn hộ rộng lớn của mình thành một pension (tiếng Pháp có nghĩa là khách sạn nhỏ) cho những học sinh ở Lyceum, phần đông trong số họ đến từ những gia đình Ba Lan khá giả hơn.
Tính cách của Chopin đã được thường xuyên rèn đúc bởi lối sống văn hoá và lịch sự của gia đình ông. Ở một đứa trẻ thông minh và chuyên cần như ông, bố Chopin đã sớm nhận ra rằng Chopin được định sẵn để trở thành một nhạc sỹ. Và cậu bé Chopin đã nhanh chóng chứng tỏ được điều đó bằng kỹ năng chơi đàn piano của mình (dưới sự chỉ bảo của chị ông) từ lúc bốn tuổi. Sau đó, ông được gửi đến học một giáo viên có trình độ người Bohemia để học nhạc. Tài năng của ông với tư cách một nhà soạn nhạc đã sớm được chứng minh. Bản Polonaise giọng Sol thứ đầu tiên của ông được viết năm 1817, dù chưa phải là một thành quả lớn, nhưng thực sự là một thành tích vượt bậc với một đứa trẻ mới 7 tuổi. Và Chopin được nhắc đến trên tạp chí văn học của Ba Lan tháng 1 năm 1818 như sau: “Chúng ta không thể lặng thinh làm ngơ bản Polonaise viết cho đàn piano của Chopin, một đứa trẻ 7 tuổi con trai ông Nicolas Chopin, giáo viên dạy ngôn ngữ và văn học Pháp”. Sau khi hoàn thành xong khóa học piano và tham gia một loạt các buổi biểu diễn tại các phòng diễn của giới quý tộc ở Warsaw và vùng xung quanh, Chopin minh chứng nhiều hơn nữa khả năng sáng tác của mình vào năm 1821 với bản Polonaise tiếp theo, lần này là bản giọng La giáng thứ, như một món quà cho người thầy của mình. Thực tế đó là một cách lịch thiệp để tạm biệt người thầy đầu tiên, bởi vì sau khi tốt nghiệp trường Lyceum với bản Rondo giọng Rê thứ được công bố năm 1825,
Chopin được chiêu sinh vào nhạc viện Warsaw, nơi anh học sáng tác ba năm tiếp theo dưới hướng dẫn thấu đáo của Jozef K.Elsner. Kỹ thuật chơi piano bậc thầy của Chopin đã được định hình, với những sáng tác đột phá với thời kỳ này, gồm các bản Biến tấu trên một chủ đề của vở opera Don Giovanni, Op.2 cho piano và dàn nhạc (1827), bản Nocturne giọng Mi thứ, Op.72 số 1 (1827), bản Polonaise giọng Rê thứ,Op.71 số 1 (1827) và bản Rondeau à la Mazur, Op.5 (1827).
Trong lúc ấy, Chopin cũng làm nên tên tuổi của mình như một nghệ sỹ trình diễn piano. Kết thúc khoá học tại nhạc viện vào năm 1829, Chopin bắt tay vào hàng loạt các buổi trình diễn đã mang Chopin không chỉ vòng quanh Ba Lan mà còn tới cả Vienna, nơi mà kỹ thuật phi thường của ông đã không gây được tác động mà lẽ ra nó đã đạt được do độ lớn các phòng hoà nhạc ở đây. Tuy nhiên, ở đây anh đã có những quen biết hữu ích, những người sẽ giới thiệu cho Chopin đời sống âm nhạc của thành phố, bao gồm Schuppanzigh, người đã đóng một vai trò quan trọng trong viêc làm cho những bản tứ tấu của Beethoven được biết đến ở Vienna, chủ xuất bản Haslinger, người đã in bản Variations, Op.2 của ông năm 1820, cùng Stein và Graff, những thợ làm đàn piano nổi tiếng. Anh cũng có thể nghe các vở opera của Rossini và Meyerbeer.
Trở về Warsaw năm 1830, Chopin đã chơi bản Concerto giọng Fa thứ, Op.21, bản concerto đầu tiên sáng tác năm 1829 và bản Concerto giọng Mi thứ, Op.11 (1830) tại nhà hát quốc gia, nhưng chỉ thu được một chút thành công. Báo chí đã thực sự làm ngơ với sự kiện này, dù sao điều đó không đáng ngạc nhiên lắm, có thể bởi ảnh hưởng của các vấn đề chính trị thời bấy giờ.
Chopin rời Ba Lan ngày 2 – 11 – 1830 bắt đầu cho một tour học tập tại châu Âu, có lẽ cũng vì Italy như một điểm đến lý tưởng với ông. Nhưng lúc ấy, ông không thể biết rằng ông có thể sẽ không bao giờ trở lại quê hương yêu dấu của mình một lần nữa. Điểm dừng chân đầu tiên của ông là Vienna, nơi ông chỉ có một buổi hoà nhạc khá là không thành công. Sau đó, với những làn sóng náo động của cuộc Cách mạng lan từ Pháp đến Bỉ, Italy và Ba Lan, ông đã quyết định rằng London sẽ là nơi lý tưởng nhất để sống. Trên đường đi, ông được biết rằng quân đội Nga đã chiếm Ba Lan và khống chế chính phủ quốc gia từ ngày 5 – 9 – 1831. Ông sống tại Paris cho tới cuối tháng 9, và mặc dù mục đích cuối cùng của ông luôn là đến được London, ông đã quyết định ở lại đây để rồi đạt được những thành công ngoài sức tưởng tượng với sự giàu có lạ thường và khả năng khuấy động đời sống âm nhạc của thủ đô nước Pháp. Người nhạc sỹ trẻ tuổi có học thức và thanh lịch, người mang sắc mặt xanh xao và một vẻ vô cùng sầu muộn đã ngay lập tức được Paris sang trọng chấp nhận. Buổi trình diễn đầu tiên của ông tại Salle Pleyel vào ngày 26 - 2 – 1832 gồm bản Concerto đầu tiên, một khúc biến tấu từ chủ đề Mozart và trong số những tiểu khúc ngắn hơn, có một Grand Polonaise cho 6 đàn piano được viết bởi Kalkbrenner, trong dịp này, do chính tác giả trình diễn cùng Mendelssohn, Chopin và các nhạc công piano khác. Tuy nhiên, một nhà phê bình âm nhạc có mặt trong buổi trình diễn hôm đó đã có bài viết chê bai khả năng chơi nhạc của Chopin, quả quyết rằng kỹ năng của ông trở nên quá mờ nhạt để trình diễn trong một khán phòng rộng. Kết quả là, Chopin không bao giờ có được sự công nhận, như ông xứng đáng, là một nghệ sỹ dương cầm bậc thầy, mặc dù thỉnh thoảng ông có chơi trong những buổi công diễn được tổ chức cho việc từ thiện hay bởi các nhạc sỹ khác.
Ông may mắn được gặp ngài nam tước de Rothschild tại một trong những buổi trình diễn. Họ nhanh chóng trở thành bạn bè, và một quý tộc có thể mở rộng cửa của giới thượng lưu Paris cho một nhạc sỹ trẻ. Những bài giảng dạy của Chopin ngay lập tức được yêu cầu và trả lương hậu hĩ. Các bà chủ bữa tiệc của giới thượng lưu ganh nhau để có ông trong phòng khách của họ, và những buổi nói chuyện lỗi lạc của ông đã quyến rũ ngay cả những người sành điệu nhất. Cuối cùng, ông tìm được một lớp thính giả có thể đánh giá đúng giá trị của ông.
Điều đó cũng giúp âm nhạc của ông dễ dàng được xuất bản, gồm cả những bản nhạc ông đã viết trước đây. Ba bản Nocturne, Op.9, được viết ở Ba Lan trong những năm 1828 – 1830, 12 Etude Op.10 (1829) đề tặng Liszt và bản Concerto số 2 đều được xuât bản ở Paris thời kỳ này. Những etude Op.10 là đặc biệt quan trọng vì trong các gam được chia nhỏ, Chopin đã mở rộng kỹ thuật và nguồn tài nguyên đáng quý của piano ở thời điểm mà nhạc cụ này đã trải qua một số thay đổi quan trọng, đáng kể nhất là sự thay đổi các khung từ gỗ sang kim loại. Điều đó đã làm cơ cấu nhạc cụ được cải thiện và đem đến cho nhạc cụ cả một tầm âm sắc mới và âm lượng cần thiết để trình diễn trong một khán phòng rộng. Chiếc piano đã chiếm ưu thế trong bối cảnh âm nhạc thời Chopin và ông là nghệ sỹ dương cầm của tầng lớp thượng lưu quyền lực nhất ở Paris, kết giao bằng hữu với rất nhiều tên tuổi lớn như Balzac, Heine, Liszt và Ferdinand Hiller, người là nguyên nhân để ông đã làm cuộc hành trình tới Aix-la-Chapelle tháng 5 năm 1834.
Những năm sau, người ta thấy ông ở Leipzig, nơi mà ông gặp nữ bá tước Maria Wodzinska, người mà ông đã đề tặng bản Waltz in A flat major (L’adieu) hòa nhã sau khi chuyện tình của họ kết thúc. Ông cũng đã gặp lại Mendelssonhn, gặp Clara và Robert Schumann những người mà với sự nhiệt thành thường lệ của mình đã đặt cho ông nghệ danh Chopin - cao quý. Trở lại Paris vào tháng 12 năm 1836, ông gặp George Sand, người phụ nữ đã làm thay đổi cuộc đời ông. Có học thức và tao nhã cũng như hấp tấp và thất thường, George Sand, quả phụ của nam tước Dudevant đã áp dụng một ảnh hưởng ngay lập tức đối với một nhạc sỹ trẻ và họ đã ở lại bên nhau kể cả khi đang yêu hay khi tình yêu đã cạn, cho đến tận năm 1847. Đó là mười năm mà Chopin đã đạt đến đỉnh cao của sáng tạo với tư cách một nhạc sỹ, đã sáng tác những kiệt tác như như những Ballade số 3 và số 4 (1841 và 1842), những Nocture, Op.48 (1841 – 1842), ba Polonaise Opp.44, 53 và 61 (1840 – 1846), Scherzo, Op.54 (1843 – 1844), Fantasia giọng Fa thứ, Op.49 (1841) và bản Berceuse, Op.57 (1843).
Cùng George Sand, ông đã sống cuộc sống ẩn dật ở Valdemosa – Majorca. Ông đã dành mùa đông 1838 để viết những kiệt tác đã được xếp cùng với những sáng tác vĩ đại khác cho đàn piano. Chúng cũng bao gồm Ballade só 2, Op.38 đề tặng Schumann năm 1840, Mazurkas, Op.33 và Op.41, Nocturnes, Op.37, Polonaise, Op. 40, và hơn hết là tập 24 Préludes, Op.28. Sau khi chia tay với George Sand, Chopin đã nhầm khi nghĩ rằng ông có thể lấy lại sự thanh thản cho mình, sau những nỗi đau của cuộc sống, bằng việc làm thầy giáo dạy piano ở một gia đình thượng lưu Paris. Nhưng ông chưa sẵn sáng đáp ứng những yêu cầu cho bài học và sức khoẻ của Chopin tồi đi nhanh chóng. Thu nhập của Chopin thấp dần đi và như vậy thật khó để sống ở thủ đô nước Pháp, nơi mà giá cả ngày càng đắt đỏ vì những bất ổn xã hội. Ông quyết định trình diễn ở Salle Pleyle vào 16 tháng 2 năm 1848, nhưng nỗ lực này khiến ông yếu đi nhiều. Ông ốm, và như ông đã thú nhận trong một bức thư ... tôi dường như chưa bao giờ chơi tồi đến thế. Dù có sự rộng lượng của bạn bè và người hâm mộ, khán thính giả vẫn rất nhanh nhận ra sự mong manh trong tiếng đàn của ông. Hôm đó đã trở thành buổi diễn cuối cùng của ông ở Pháp, và thực tế cũng là lời chào tạm biệt Paris hoa lệ của Chopin.
Qua khỏi những cuộc nổi dậy bạo động năm 1848 và với sự cải thiện nhỏ về sức khoẻ, Chopin quyết định rời Paris tới London, phần nào bởi sự nài nỉ của một trong các học trò của ông. Một buổi trình diễn vào ngày 20 tháng 4 năm 1848 là một thành công hân hoan, và ông quyết định ở lại Anh 7 tháng, tổ chức thêm 9 buổi diễn, lần cuối vào 16 tháng 11 để quyên góp tiền ủng hộ những người tị nạn Ba Lan. Tuy nhiên, Chopin bị mệt và yếu hơn vì những chuyến đi và khí hậu của London không phù hợp với ông. Ông rời London vào 23 tháng 11 năm 1848 và quay lại với Paris yêu quý của mình, nơi mà ông đã có thêm một vài năm bất hạnh ở đây. Ông dừng sáng tác và không có đủ sức khỏe lẫn sự hăng say để ngồi bên phím đàn. Nhạc cụ đã gắn bó với phần đời tươi đẹp nhất của ông, giờ đây không còn hấp dẫn ông thêm được nữa, và ông cũng thôi niềm khát khao được lướt tay trên những phím đàn, dù lòng ông luôn tràn ngập nỗi nhớ thương quê hương Ba Lan.
Ông ra đi vào sáng sớm ngày 17 tháng 10 năm 1849 trong ngôi nhà của ông tại số 12 Place Vendime Paris, trong vòng tay của người chị Louise và nữ bá tước Potocka.
Chopin từ bé đã được hưởng một sự giáo dục đầy đủ và thoải mái. Bố của ông, một người đàn ông thông minh, đã rất nhanh chóng trở thành gia sư dạy tiếng Pháp ở các gia đình giàu có của thủ đô Ba Lan. Sau đó, cũng lại ở Wasaw, ông đã trở thành một giáo viên tiếng Pháp tại trường tiểu học Lyceum. Khi đó, với một khă năng tài chính vững vàng, ông đã biến căn hộ rộng lớn của mình thành một pension (tiếng Pháp có nghĩa là khách sạn nhỏ) cho những học sinh ở Lyceum, phần đông trong số họ đến từ những gia đình Ba Lan khá giả hơn.
Tính cách của Chopin đã được thường xuyên rèn đúc bởi lối sống văn hoá và lịch sự của gia đình ông. Ở một đứa trẻ thông minh và chuyên cần như ông, bố Chopin đã sớm nhận ra rằng Chopin được định sẵn để trở thành một nhạc sỹ. Và cậu bé Chopin đã nhanh chóng chứng tỏ được điều đó bằng kỹ năng chơi đàn piano của mình (dưới sự chỉ bảo của chị ông) từ lúc bốn tuổi. Sau đó, ông được gửi đến học một giáo viên có trình độ người Bohemia để học nhạc. Tài năng của ông với tư cách một nhà soạn nhạc đã sớm được chứng minh. Bản Polonaise giọng Sol thứ đầu tiên của ông được viết năm 1817, dù chưa phải là một thành quả lớn, nhưng thực sự là một thành tích vượt bậc với một đứa trẻ mới 7 tuổi. Và Chopin được nhắc đến trên tạp chí văn học của Ba Lan tháng 1 năm 1818 như sau: “Chúng ta không thể lặng thinh làm ngơ bản Polonaise viết cho đàn piano của Chopin, một đứa trẻ 7 tuổi con trai ông Nicolas Chopin, giáo viên dạy ngôn ngữ và văn học Pháp”. Sau khi hoàn thành xong khóa học piano và tham gia một loạt các buổi biểu diễn tại các phòng diễn của giới quý tộc ở Warsaw và vùng xung quanh, Chopin minh chứng nhiều hơn nữa khả năng sáng tác của mình vào năm 1821 với bản Polonaise tiếp theo, lần này là bản giọng La giáng thứ, như một món quà cho người thầy của mình. Thực tế đó là một cách lịch thiệp để tạm biệt người thầy đầu tiên, bởi vì sau khi tốt nghiệp trường Lyceum với bản Rondo giọng Rê thứ được công bố năm 1825,
Chopin được chiêu sinh vào nhạc viện Warsaw, nơi anh học sáng tác ba năm tiếp theo dưới hướng dẫn thấu đáo của Jozef K.Elsner. Kỹ thuật chơi piano bậc thầy của Chopin đã được định hình, với những sáng tác đột phá với thời kỳ này, gồm các bản Biến tấu trên một chủ đề của vở opera Don Giovanni, Op.2 cho piano và dàn nhạc (1827), bản Nocturne giọng Mi thứ, Op.72 số 1 (1827), bản Polonaise giọng Rê thứ,Op.71 số 1 (1827) và bản Rondeau à la Mazur, Op.5 (1827).
Trong lúc ấy, Chopin cũng làm nên tên tuổi của mình như một nghệ sỹ trình diễn piano. Kết thúc khoá học tại nhạc viện vào năm 1829, Chopin bắt tay vào hàng loạt các buổi trình diễn đã mang Chopin không chỉ vòng quanh Ba Lan mà còn tới cả Vienna, nơi mà kỹ thuật phi thường của ông đã không gây được tác động mà lẽ ra nó đã đạt được do độ lớn các phòng hoà nhạc ở đây. Tuy nhiên, ở đây anh đã có những quen biết hữu ích, những người sẽ giới thiệu cho Chopin đời sống âm nhạc của thành phố, bao gồm Schuppanzigh, người đã đóng một vai trò quan trọng trong viêc làm cho những bản tứ tấu của Beethoven được biết đến ở Vienna, chủ xuất bản Haslinger, người đã in bản Variations, Op.2 của ông năm 1820, cùng Stein và Graff, những thợ làm đàn piano nổi tiếng. Anh cũng có thể nghe các vở opera của Rossini và Meyerbeer.
Trở về Warsaw năm 1830, Chopin đã chơi bản Concerto giọng Fa thứ, Op.21, bản concerto đầu tiên sáng tác năm 1829 và bản Concerto giọng Mi thứ, Op.11 (1830) tại nhà hát quốc gia, nhưng chỉ thu được một chút thành công. Báo chí đã thực sự làm ngơ với sự kiện này, dù sao điều đó không đáng ngạc nhiên lắm, có thể bởi ảnh hưởng của các vấn đề chính trị thời bấy giờ.
Chopin rời Ba Lan ngày 2 – 11 – 1830 bắt đầu cho một tour học tập tại châu Âu, có lẽ cũng vì Italy như một điểm đến lý tưởng với ông. Nhưng lúc ấy, ông không thể biết rằng ông có thể sẽ không bao giờ trở lại quê hương yêu dấu của mình một lần nữa. Điểm dừng chân đầu tiên của ông là Vienna, nơi ông chỉ có một buổi hoà nhạc khá là không thành công. Sau đó, với những làn sóng náo động của cuộc Cách mạng lan từ Pháp đến Bỉ, Italy và Ba Lan, ông đã quyết định rằng London sẽ là nơi lý tưởng nhất để sống. Trên đường đi, ông được biết rằng quân đội Nga đã chiếm Ba Lan và khống chế chính phủ quốc gia từ ngày 5 – 9 – 1831. Ông sống tại Paris cho tới cuối tháng 9, và mặc dù mục đích cuối cùng của ông luôn là đến được London, ông đã quyết định ở lại đây để rồi đạt được những thành công ngoài sức tưởng tượng với sự giàu có lạ thường và khả năng khuấy động đời sống âm nhạc của thủ đô nước Pháp. Người nhạc sỹ trẻ tuổi có học thức và thanh lịch, người mang sắc mặt xanh xao và một vẻ vô cùng sầu muộn đã ngay lập tức được Paris sang trọng chấp nhận. Buổi trình diễn đầu tiên của ông tại Salle Pleyel vào ngày 26 - 2 – 1832 gồm bản Concerto đầu tiên, một khúc biến tấu từ chủ đề Mozart và trong số những tiểu khúc ngắn hơn, có một Grand Polonaise cho 6 đàn piano được viết bởi Kalkbrenner, trong dịp này, do chính tác giả trình diễn cùng Mendelssohn, Chopin và các nhạc công piano khác. Tuy nhiên, một nhà phê bình âm nhạc có mặt trong buổi trình diễn hôm đó đã có bài viết chê bai khả năng chơi nhạc của Chopin, quả quyết rằng kỹ năng của ông trở nên quá mờ nhạt để trình diễn trong một khán phòng rộng. Kết quả là, Chopin không bao giờ có được sự công nhận, như ông xứng đáng, là một nghệ sỹ dương cầm bậc thầy, mặc dù thỉnh thoảng ông có chơi trong những buổi công diễn được tổ chức cho việc từ thiện hay bởi các nhạc sỹ khác.
Ông may mắn được gặp ngài nam tước de Rothschild tại một trong những buổi trình diễn. Họ nhanh chóng trở thành bạn bè, và một quý tộc có thể mở rộng cửa của giới thượng lưu Paris cho một nhạc sỹ trẻ. Những bài giảng dạy của Chopin ngay lập tức được yêu cầu và trả lương hậu hĩ. Các bà chủ bữa tiệc của giới thượng lưu ganh nhau để có ông trong phòng khách của họ, và những buổi nói chuyện lỗi lạc của ông đã quyến rũ ngay cả những người sành điệu nhất. Cuối cùng, ông tìm được một lớp thính giả có thể đánh giá đúng giá trị của ông.
Điều đó cũng giúp âm nhạc của ông dễ dàng được xuất bản, gồm cả những bản nhạc ông đã viết trước đây. Ba bản Nocturne, Op.9, được viết ở Ba Lan trong những năm 1828 – 1830, 12 Etude Op.10 (1829) đề tặng Liszt và bản Concerto số 2 đều được xuât bản ở Paris thời kỳ này. Những etude Op.10 là đặc biệt quan trọng vì trong các gam được chia nhỏ, Chopin đã mở rộng kỹ thuật và nguồn tài nguyên đáng quý của piano ở thời điểm mà nhạc cụ này đã trải qua một số thay đổi quan trọng, đáng kể nhất là sự thay đổi các khung từ gỗ sang kim loại. Điều đó đã làm cơ cấu nhạc cụ được cải thiện và đem đến cho nhạc cụ cả một tầm âm sắc mới và âm lượng cần thiết để trình diễn trong một khán phòng rộng. Chiếc piano đã chiếm ưu thế trong bối cảnh âm nhạc thời Chopin và ông là nghệ sỹ dương cầm của tầng lớp thượng lưu quyền lực nhất ở Paris, kết giao bằng hữu với rất nhiều tên tuổi lớn như Balzac, Heine, Liszt và Ferdinand Hiller, người là nguyên nhân để ông đã làm cuộc hành trình tới Aix-la-Chapelle tháng 5 năm 1834.
Những năm sau, người ta thấy ông ở Leipzig, nơi mà ông gặp nữ bá tước Maria Wodzinska, người mà ông đã đề tặng bản Waltz in A flat major (L’adieu) hòa nhã sau khi chuyện tình của họ kết thúc. Ông cũng đã gặp lại Mendelssonhn, gặp Clara và Robert Schumann những người mà với sự nhiệt thành thường lệ của mình đã đặt cho ông nghệ danh Chopin - cao quý. Trở lại Paris vào tháng 12 năm 1836, ông gặp George Sand, người phụ nữ đã làm thay đổi cuộc đời ông. Có học thức và tao nhã cũng như hấp tấp và thất thường, George Sand, quả phụ của nam tước Dudevant đã áp dụng một ảnh hưởng ngay lập tức đối với một nhạc sỹ trẻ và họ đã ở lại bên nhau kể cả khi đang yêu hay khi tình yêu đã cạn, cho đến tận năm 1847. Đó là mười năm mà Chopin đã đạt đến đỉnh cao của sáng tạo với tư cách một nhạc sỹ, đã sáng tác những kiệt tác như như những Ballade số 3 và số 4 (1841 và 1842), những Nocture, Op.48 (1841 – 1842), ba Polonaise Opp.44, 53 và 61 (1840 – 1846), Scherzo, Op.54 (1843 – 1844), Fantasia giọng Fa thứ, Op.49 (1841) và bản Berceuse, Op.57 (1843).
Cùng George Sand, ông đã sống cuộc sống ẩn dật ở Valdemosa – Majorca. Ông đã dành mùa đông 1838 để viết những kiệt tác đã được xếp cùng với những sáng tác vĩ đại khác cho đàn piano. Chúng cũng bao gồm Ballade só 2, Op.38 đề tặng Schumann năm 1840, Mazurkas, Op.33 và Op.41, Nocturnes, Op.37, Polonaise, Op. 40, và hơn hết là tập 24 Préludes, Op.28. Sau khi chia tay với George Sand, Chopin đã nhầm khi nghĩ rằng ông có thể lấy lại sự thanh thản cho mình, sau những nỗi đau của cuộc sống, bằng việc làm thầy giáo dạy piano ở một gia đình thượng lưu Paris. Nhưng ông chưa sẵn sáng đáp ứng những yêu cầu cho bài học và sức khoẻ của Chopin tồi đi nhanh chóng. Thu nhập của Chopin thấp dần đi và như vậy thật khó để sống ở thủ đô nước Pháp, nơi mà giá cả ngày càng đắt đỏ vì những bất ổn xã hội. Ông quyết định trình diễn ở Salle Pleyle vào 16 tháng 2 năm 1848, nhưng nỗ lực này khiến ông yếu đi nhiều. Ông ốm, và như ông đã thú nhận trong một bức thư ... tôi dường như chưa bao giờ chơi tồi đến thế. Dù có sự rộng lượng của bạn bè và người hâm mộ, khán thính giả vẫn rất nhanh nhận ra sự mong manh trong tiếng đàn của ông. Hôm đó đã trở thành buổi diễn cuối cùng của ông ở Pháp, và thực tế cũng là lời chào tạm biệt Paris hoa lệ của Chopin.
Qua khỏi những cuộc nổi dậy bạo động năm 1848 và với sự cải thiện nhỏ về sức khoẻ, Chopin quyết định rời Paris tới London, phần nào bởi sự nài nỉ của một trong các học trò của ông. Một buổi trình diễn vào ngày 20 tháng 4 năm 1848 là một thành công hân hoan, và ông quyết định ở lại Anh 7 tháng, tổ chức thêm 9 buổi diễn, lần cuối vào 16 tháng 11 để quyên góp tiền ủng hộ những người tị nạn Ba Lan. Tuy nhiên, Chopin bị mệt và yếu hơn vì những chuyến đi và khí hậu của London không phù hợp với ông. Ông rời London vào 23 tháng 11 năm 1848 và quay lại với Paris yêu quý của mình, nơi mà ông đã có thêm một vài năm bất hạnh ở đây. Ông dừng sáng tác và không có đủ sức khỏe lẫn sự hăng say để ngồi bên phím đàn. Nhạc cụ đã gắn bó với phần đời tươi đẹp nhất của ông, giờ đây không còn hấp dẫn ông thêm được nữa, và ông cũng thôi niềm khát khao được lướt tay trên những phím đàn, dù lòng ông luôn tràn ngập nỗi nhớ thương quê hương Ba Lan.
Ông ra đi vào sáng sớm ngày 17 tháng 10 năm 1849 trong ngôi nhà của ông tại số 12 Place Vendime Paris, trong vòng tay của người chị Louise và nữ bá tước Potocka.
Trần Hoài (nhaccodien.info) tổng hợp
Chopin - Âm nhạc như
bánh mì và muối
H.HƯƠNG
GIANG
Fryderyk Chopin
(1810-1849) là một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử văn hóa của
quốc gia Ba Lan và của toàn thế giới. Ông là nhà soạn nhạc xuất sắc, là pianist
hàng đầu, là gương mặt đại diện cho cả một thời kì Lãng mạn đầy màu sắc và được
mệnh danh là nhà thơ của cây đàn piano.
Ông
thuộc nhóm những nhà soạn nhạc thích tự chơi đàn và những bản nhạc của ông
thường đòi hỏi người chơi đàn phải có một kỹ thuật hoàn hảo với trình độ bậc
thầy.
Nằm
dưới gia tài đồ sộ các tác phẩm piano mà Chopin để lại, ta có thể thấy dấu ấn
nghệ thuật đậm nét trữ tình, sự nhạy cảm tuyệt vời và khả năng dệt nên những
bức tranh với những họa tiết âm nhạc dân gian của xứ sở Ba Lan. Fryderyk Chopin
là một nghệ sĩ có khả năng "nhận diện" được dòng máu dân tộc đang
chảy trong huyết quản của mình. Ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc
thành hình vẻ đẹp của âm nhạc và đất nước Ba Lan trên bản đồ quốc tế.
Năm
2010 chứng kiến sinh nhật lần thứ 200 của Chopin và những dấu ấn
thiên tài lỗi lạc ấy. Nhưng điều đặc biệt là, đó cũng là sinh nhật dài nhất mà
người ta từng biết. Cho đến tận ngày nay, vấn đề ngày sinh chính thức của
Fryderyk Chopin vẫn còn đang gây tranh cãi. Đó có thể là ngày 22/2, hoặc ngày
1/3/1810. Không muốn thất kính với người con ưu tú của đất nước, các tổ chức
văn hóa tại Ba Lan đã tổ chức lễ kỉ niệm sinh nhật dài nhất của Chopin từ trước
tới giờ - kéo dài 1 tuần lễ.
Bắt đầu
từ ngày 22/2 đến ngày 1/3, trên khắp đất nước Ba Lan, mọi người dân đều có thể
thường thức âm nhạc của Chopin cả ngày cũng như đêm, không ngừng nghỉ.
Chopin
là niềm vinh quang của đất nước Ba Lan và xứ sở băng tuyết ấy hết sức tự hào về
ông. Hơn 50 cuộc thi lớn nhỏ (dành cho mọi lứa tuổi, đặc biệt cho cả trẻ em) về
tìm hiểu cuộc đời, các tác phẩm và biểu diễn âm nhạc của Chopin đã bắt đầu từ
cuối năm 2009. Cuộc thi đồ họa và poster về Chopin cũng đã khởi động từ rất
lâu. Các cuộc thi viết luận, sân khấu, nghệ thuật thị giác cũng được tham gia
vào lễ kỉ niệm trọng đại này.
Một trong ba nhân tố quan trọng
nhất nằm trong các họat động kỉ niệm ngày sinh nhật Chopin là loạt chương trình
hòa nhạc mang tên Special Birthday Concerts,được tổ chức bởi Viện Fryderyk Chopin tại Warsaw. Loạt
những buổi hòa nhạc này được bắt đầu từ ngày 22/2 và kéo dài hết ngày 1/3.
Để kỉ
niệm sinh nhật lần thứ 200 của nhà soạn nhạc, thủ đô Warsaw đã quy tụ được
những pianist hàng đầu trên thế giới - "tinh hoa của những tinh hoa"
- bao gồm: Daniel Barenboim (nghệ sĩ piano và chỉ huy gốc Argentina), Piotr
Anderszewski (pianist người Ba Lan - Hungary), Leif Ove Andsnes (Na-Uy), Rafał
Blechacz (tài năng trẻ người Ba Lan - chơi mở màn sự kiện), Đặng Thái Sơn (Việt
Nam - giải nhất cuộc thi Chopin quốc tế 1980), Evgeny Kissin (từng được coi là
thần đồng piano người Nga), Garrick Ohlsson (người Mỹ, giải nhất cuộc thi piano
quốc tế Chopin 1970), Janusz Olejniczak (Ba Lan), Murray Perahia (Mỹ), Ivo Pogorelić
(pianist người Croatia - đối thủ nặng kí trong cuộc thi Chopin quốc tế cùng năm
với Đặng Thái Sơn - với lối chơi đàn phá cách) và Lý Vân Địch (Trung Quốc -
pianist trẻ nhất dành giải thưởng Chopin quốc tế năm 2000 khi anh 18 tuổi).
Ngoài
ra hàng chục buổi hòa nhạc Chopin được tổ chức bởi các tổ chức văn hóa Ba Lan
đã theo tên gọi của ông đi khắp mọi miền thế giới. Dường như Chopin đang ở khắp
mọi nơi. Rất nhiều nước thành lập những ủy ban đặc biệt để kỉ niệm năm 2010 -
còn được gọi là năm Chopin. Có cả một danh sách các ủy ban danh dự của nhiều
nước trên thế giới. Tại Pháp - đất nước của văn thơ, âm nhạc và nghệ thuật - có
cả ủy ban danh dự và ủy ban về nghệ thuật Chopin. Tại Nga, Đức, Trung Quốc,
Nhật Bản, Anh, Đan Mạnh, Canada, Thụy Điển... - những đất nước giàu truyền
thống âm nhạc dân gian và cổ điển - đều có những ủy ban riêng. Tại quê hương Ba
Lan, mỗi tỉnh thành đều có ủy ban kỉ niệm.
Âm nhạc
của Chopin được ví như tiếng nói chung cho hàng triệu con người từ các quốc gia
khác nhau, những người cần âm nhạc như họ cần bánh mì và muối. Có lẽ ít nhà
soạn nhạc nào được yêu mến và ngưỡng mộ nhiều như Chopin trên khắp mọi miền.
Những lời cảm ơn, thăm hỏi, yêu thương cùng những bông hoa tươi thắm chưa bao
giờ vắng dù hơn 100 năm đã trôi qua tại Nhà thờ Holy Cross, Warsaw, nơi lưu giữ
trái tim người con vĩ đại của Ba Lan, hay tại nghĩa trang Père Lachaise, nước
Pháp, nơi nhà soạn nhạc thiên tài yên nghỉ.
Augustyn
Bloch - nhà soạn nhạc người Ba Lan thuộc thế hệ sau này, đã nói về Chopin như
một biểu tượng: một biểu tượng của thành công và nỗi đau, một biểu tượng của
hân hoan và đau khổ, và cuối cùng, biểu tượng của sự mất mát quê hương, không
bao giờ có thể nhìn lại được - nhưng đồng thời niềm hy vọng cũng không ngừng
cháy về một ngày được trở lại Ba Lan.
Bắt
đầu khởi hành đi Ý từ năm 20 tuổi, trong cuộc hành trình lưu lạc qua hầu hết
các quốc gia châu Âu với điểm dừng cuối cùng tại Pháp, Chopin đã là sợi
dây gắn kết trái tim mọi con người.
Ảnh: chopin2010.pl
Và những
người con ưu tú về âm nhạc và nghệ thuật của các dân tộc khác nhau đều nói về
Chopin với lòng ngưỡng mộ.
"Nếu cần một mô tả tinh tế
trang hoàng, ông ấy sẽ là những bông hoa rực rỡ nhiều màu sắc. Nếu là về khả
năng và kỹ thuật, ông ấy giống như một con chim sẻ đang bay".
Ferdinand Hiller
"Bạn có thể yêu
những người con Ba Lan chỉ bởi một thứ mà họ có -
Chopin!"
Leo Tolstoy
"Tâm hồn trong âm nhạc của
Chopin - giai điệu - là một điều gì đó không thể giả tạo, tính toán hay đồ hình
cấu trúc, nó sinh ra từ cuộc sống và cảm xúc của thiên tài - và điều đó mang
cho sức mạnh".
Dmitri Shostakovich
"... thật phi thường để
có được 2 khả năng của thiên tài cùng hội tụ trong một con người như
Chopin: một bậc thầy về giai điệu và một thiên tài của hòa âm".
Nikolai Rimsky-Korsakov
"Chopin là một thiên
tài của cây đàn piano, đó là lý do tại sao từng nốt nhạc của ông đều gần
gũi với con người".
Anton Rubinstein
* Video: Chương trình TV Project đang chuẩn bị
làm một bộ phim tài liệu mang tên "Frederick", giới thiệu đất nước Ba
Lan đương đại qua con mắt của Chopin 200 năm sau khi nhà soạn nhạc lần đầu tiên
nhìn thấy nó. Ba Lan sẽ là một đất nước hiện đại, tươi tắn, trẻ trung và năng
động - theo lời các tác giả của dự án. Bộ phim do George Szkamruk và
Peter Slawinski viết kịch bản và đạo diễn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét