Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2014

HÀ NỘI bốn mùa

HÀ NỘI BỐN MÙA

HÀ  NỘI  MÙA  XUÂN
Nguyễn Anh Tuấn
Mở đầu
Đối với rất nhiều người Việt Nam ở khắp đất nước và ở khắp các phương trời xa xôi, Hà Nội là nỗi niềm đau đáu nhớ thương…Và Hà Nội cũng đã trở nên gần gũi thân quen một cách lạ lùng đối với nhiều thế hệ người VN cũng như đối với không ít vị khách nước ngoài… Điều đó có thể lý giải bằng nhiều nguyên cớ- mà nguyên cớ trực tiếp nhất, và cũng sâu xa nhất, chính là bởi Hà Nội có bốn mùa thật rõ rệt và đặc sắc, mà người ta có thể cảm nhận được qua da thịt từng sự thay đổi nhỏ bé của hoa lá, mặt sông gương hồ, con đường lối ngõ, những gương mặt người…Và chúng góp phần tạo nên cái được gọi là Hồn sâu thẳm của Hà Nội.
Hà Nội có hoa phượng đỏ của đất cảng Hải Phòng, có ban trắng vùng núi rừng Tây Bắc, có mai vàng và nắng gió của phương Nam, có nét trầm tư mơ mộng của Huế… Nhưng Hà Nội lại có những vẻ đẹp riêng đến mê đắm hồn người, một Hà Nội cổ kính trầm tư và duyên dáng, một Hà Nội bốn mùa với những nét đẹp cuốn hút của thiên nhiên mà không đâu có – chúng gia nhập vào cái tầng văn hóa chiều sâu của một đô thành có ngàn năm tuổi …
Nguồn cảm hứng bốn mùa đã từng cuốn hút  những nhà thơ nhà văn, những nghệ sĩ lớn của thế giới – như nhạc sĩ thiên tài Nga Traicovki, nhạc sĩ Ý Vivanđi, nhà điêu khắc Pháp Rôđanh, đạo diễn điện ảnh Hàn Quốc Kimkiduk, v.v. Bộ phim Bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông Hà Nội này được làm ra theo sự gợi ý ban đầu của tác phẩm văn học thú vị: “Bốn mùa – Lịch thiên nhiên” của nhà văn Nga Prisvin. Đây là loại phim du ký về thiên nhiên Việt Nam- giữa lúc thiên nhiên đang bị thói ích kỷ và sự thiếu hiểu biết tàn phá, đang đứng trước nguy cơ bị hủy diệt… Thăng Long – Hà Nội với thăng trầm lịch sử, đất Kinh kỳ- Kẻ Chợ của ngàn năm văn hiến sẽ được nhìn nhận và cảm thụ thông qua Bốn Mùa của sinh học, bằng hình thức tùy bút điện ảnh...
MÙA XUÂN
Hà Nội bắt đầu chuyển mùa.
Đã hết hẳn những đợt gió mùa lạnh thấu xương. Tiết trời lúc này se se, dịu dịu. Mọi thứ như đang cựa mình sau một mùa đông giá rét, đang chuyển mình cho một mùa mới bắt đầu.
Trên các vệ đê, màu mướt xanh của cỏ đã thay thế cho hoa may vàng úa tím ngắt…
Mưa xuân đang về. Cả đất trời như bảng lảng một làn sương khói lững lờ, quấn quít ở từng góc phố hàng cây. Chúng ta chợt nhớ đến bài thơ “Mưa xuân” của thi sĩ chân quê Nguyễn Bính:
 Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy…
Phố mù sương và mù mịt mưa phùn, nhưng không lạnh lẽo như mùa đông vừa trôi qua, mà lại tạo ra cái cảm giác của một vị ngòn ngọt, là lạ đang vương vất đầy trong không gian buổi sớm đầu xuân… Là người con của Hà Nội hay chỉ là lữ khách từng một lần đến thủ đô, mỗi độ xuân sang, hầu như không ai có thể quên nổi sự ngọt ngào đó của mưa xuân cùng sự ấm áp lạ lùng khi những hạt mưa bụi mơn man trên má. Không ít người đã bất giác ngẩng đầu, nhẹ nín thở và ngửa hai lòng bàn tay ra để cho những hạt bụi mưa xuân thấm đẫm lòng mình khi đi dọc hồ Gươm, hồ Thiền Quang… Có một người con xa Hà Nội khi nhớ xuân đất Kinh kỳ đã viết những dòng như mộng mị: “Dường như Hà Nội đẹp lên nhờ những hạt mưa phùn. Mưa xuân lây phây bụi phấn, bàng bạc màn tơ, đỗ xuống mái tóc người mà không ướt, bảo cho những bàn tay tìm nhau, mách những mái đầu nhích lại trong tình yêu, trong nhung nhớ…” Và hình như một thi sĩ nghiệp dư nào đó đã nói hộ tâm trạng nhiều người: “mưa chẳng làm ướt tóc ai/ nhưng lại làm ướt trái tim khách bộ hành”… Đây cũng là thời khắc mà nhà văn Vũ Bằng người đất Hải Dương, ở tận phương Nam xa xôi, khi đất nước còn chia cắt, đã nhớ về “Tháng hai- tương tư hoa đào” trong cuốn sách “Thương nhớ mười hai” tràn ngập nhớ thương kỷ niệm của ông về đất Bắc, về Hà Nội…
Có lẽ, cả nghìn năm nay mưa xuân vẫn cứ thế, nhẹ nhàng và đằm thắm tạo nên một sắc hương đặc biệt cho mùa xuân Kinh thành.
Phải chăng chính trong khung cảnh sương mù lãng đãng đầu xuân đó, tại Phủ Tây Hồ đã diễn ra một giai thoại văn chương đẹp nhất của Thăng Long- Hà Nội ngàn tuổi- đó là cuộc  tao ngộ thơ văn nổi tiếng giữa Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan và công chúa Quỳnh Hoa- tức bà chúa Liễu Hạnh, một anh hùng văn hóa của Việt Nam, một trong tứ bất tử của thần điện VN? Điều đó lý giải vì sao những người đang yêu- đặc biệt là phụ nữ lại thích đến đây để cầu duyên, cầu những điều tốt đẹp cho bản thân và gia đình, nhất là trong dịp đầu xuân.
Nhớ về xuân Hà Nội,  thường chúng ta liên tưởng ngay đến những chồi non, lộc biếc, đến màu xanh man mác dịu dàng. Vì vậy, trong những ngày này- những ngày giáp tết, sẽ không ít người phải sững sờ thích thú khi bất ngờ được chiêm ngưỡng kiệt tác “Mùa thu vàng” của danh họa Nga Lê-vi-tan giữa trời xuân Thủ đô. Đó là vẻ đẹp của những cây lộc vừng mùa trút lá. Nhiều du khách lần đầu tới Hà Nội đã không khỏi ngỡ ngàng mê mẩn trong sắc vàng rực rỡ của màu nắng quyện trong màu lá đang trút “hơi thở” cuối cùng. Ai cũng muốn ghi lại cho riêng mình khoảnh khắc hiếm hoi tuyệt đẹp này. Theo một thống kê chưa đầy đủ, đã có tới hơn vạn cuộn phim màu đã được “đốt” quanh cây lộc vừng này bởi các tay máy ảnh chuyên nghiệp và nghiệp dư. Cây lộc vừng trút lá rồi sẽ lại mọc lên bao nhành lá non rồi sắc hoa đỏ ti ti rực rỡ, tô điểm cho bức tranh Hồ Gươm thêm sinh động và bắt đầu cho việc hình thành nên một lẵng hoa lớn tuyệt đẹp giữa lòng thành phố- như hình ảnh ví von của một nhà thơ Hy Lạp đương đại khi đến Hà Nội…
Rời Hồ Gươm, chúng ta hãy lang thang trên vài dãy phố có những cây bằng lăng với cành đen thui, trơ trụi, khô khốc, nhưng trên đó xuất hiện những chiếc lá nhỏ xíu màu đỏ cam tựa những bó hoa lửa chào đón xuân về…
Mùa xuân Hà Nội cũng là mùa của muôn loài hoa đua sắc. Những ngày giáp tết, mở cửa ra là thấy hoa tràn ngập phố phường. Và có lẽ, ở tại Hà Nội, hơn ở bất kỳ thời điểm nào khác, mùa xuân có sự giao cảm lạ lùng giữa hoa và người…
Trong khoảnh khắc giao mùa khi xuân đến, ta hãy đắm mình vào những phiên chợ đông vui nhộn nhịp để hoà vào những khuôn mặt người náo nức tràn trề hạnh phúc, với muôn loài hoa đẹp. Trong số các chợ hoa ở Hà Nội hiện nay, chợ hoa Hàng Lược được hình thành và tồn tại lâu nhất. Hình thành từ những năm 20 của thế kỷ trước, chợ hoa Hàng Lược nằm trên phố Hàng Lược và một số ngõ phố phụ cận. Chợ hoa Hàng Lược chỉ họp vào dịp tết hàng năm từ 23/12 âm lịch cho đến tận chiều tối ngày 30 tết. Xưa, chợ hoa này chỉ duy nhất bán hoa chơi tết, nhưng ngày nay Hoa chỉ là một mặt hàng trong vô số những hàng hoá phục vụ tết. Nhưng dường như hoa vẫn nổi trội hơn cả… Sau những ngày đông giá lạnh, mầu hồng thắm của hoa đào như sưởi ấm lòng người và vạn vật. Hoa mai được coi là cốt cách của người quân tử vượt qua cô đơn giá lạnh mà vẫn nguyên mầu trắng trong. Và hoa cúc. Cúc đại đoá, hồng tử kỳ, bạch khổng tước, cúc vạn thọ, cúc gấm, cúc áo, cúc ngũ sắc, cúc tóc tiên… Hoa cúc được xếp vào hàng tứ quí (tùng, cúc, trúc, mai.) Cúc đẹp bởi sự giản dị khiêm nhường, và cũng bởi cúc mang những đức tính tốt đẹp của đấng quân tử- nổi bật là sự kiên trinh vượt qua sương sa, gió lạnh. Ta hãy ghé qua làng hoa Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tựu. Lúc này, các luống hoa hồng, hoa cúc, hoa thủy tiên, hoa viôlét, hoa hướng dương, hoa bươm bướm v.v. đã làm sáng rực những thửa ruộng hoa.

Nhưng có thể nói, chơi đào mới là một nét đặc trưng nhất của người Hà Nội vào mùa xuân. Nhiều người cứ mua đào là phải lên đê Yên Phụ, qua Nghi Tàm, Quảng Bá rẽ xuống vườn đào Nhật Tân. Đi cả một quãng đê dài mấy cây số chỉ để ngắm đào, chìm vào một màu hồng bất tận… Đây là trung tâm của hoa đào, đã vào đây thì ai cũng như Từ Thức lọt vào động tiên, bị níu giữ bởi muôn ngàn sắc đào mà quên bẵng thời gian. Làng Nhật Tân có những vườn đào danh tiếng, tương truyền là nơi Lạc Thị đời Hồng Bàng sinh ra một bọc trứng nở thành bảy con rồng. Đình Nhật Tân thờ thánh Uy Linh Lang, nhân vật huyền thoại thường hiển linh những lúc nguy nan, cứu giúp nhân dân khỏi nạn lũ lụt… Sắc đào bích nơi này đã gợi lên một thế giới mơ mộng của tình yêu nguyên sơ và đằm thắm. Cành bích đào được trồng trên chính vùng đất Nhật Tân – dinh Lẫm xưa, nơi chuyên trồng đào tiến vua. Bây giờ, đất trồng đào trong đồng coi như đã hết, vài năm nữa, các công trình xây dựng sẽ chễm trệ trên đất dinh Lẫm. Và có thể, hoa đào cũng sẽ chỉ được nhắc tới trong truyền thuyết…
Nhưng hiện tại, người ta vẫn được thưởng thức hoa đào Nhật Tân. Những cây hoa đẹp đã được chọn từ sớm, thân đã đánh dấu. Người chơi công phu thì chọn đào từ trước đó cả tháng. Nào là thế phượng, thế rồng, nào là đủ lọc đủ tán… Còn kẻ mua hoa về cắm Tết cho đúng với khí xuân thì chỉ chăm chăm nhiều nụ nhiều lộc là được. Có nhà cầu kì chơi hoa đào từ sớm, qua Tết hết hoa, lại kiếm cành đào mới mà chơi cho đến tận rằm tháng Giêng. Vườn nhà nào nhiều cây thế đẹp thì đã được chọn hết, chỉ đợi đến ngày là được đưa lên ôtô rồi được chở đi khắp các phố phường. Ấy là những ngày rộn ràng nhất của cả cái Tết. Người người sắm Tết, đào quất vắt vẻo trên những chiếc yên xe, ngả nghiêng trên những thùng bán tải. Sau ngày 23, thế nào các công sở cũng đã trang hoàng xong, còn nhà riêng thì cũng phải đến 27, 28, thậm chí đến chiều 30 Tết, vẫn còn có nhiều người vội vã sắm nốt cành đào về trang hoàng nhà cửa đón xuân…
Chúng ta bắt gặp một đôi bạn trẻ ríu rít chọn đào. Một cành hoa ưng ý cho cả hai bên gia đình thật không dễ… Cành đào mới mua về được cắm trang trọng trong nhà, treo lên vài ba tấm thiệp mừng xuân mới. Bàn thờ gia tiên đã được dọn dẹp sạch sẽ và được cắm vài ba cành hoa xuân. Vẫn còn không ít gia đình tự gói và tự nấu bánh chưng. Bên một bếp lửa đặt giữa sân, bọn trẻ con háo hức quây quần quanh nồi bánh chưng đang sôi lục bục.
Hội Hoa Hà Nội được tổ chức tại bờ hồ Hoàn Kiếm dạo đầu năm 2010 đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong lòng người, từng huy động không biết bao làng hoa, vườn hoa khắp Hà Nội, với 60 loại hoa cắt cành, 80 loại hoa chậu, 30 loại cây lá màu tạo nền, hàng nghìn mét vuông cỏ… Biểu tượng Khuê Văn Các được làm từ 2.500 bông hoa cúc ở ngay đầu phố Đinh Tiên Hoàng…Một không gian của hoa trải dài với nhiều loài hoa từ sen, cúc, hồng, layơn, loa kèn, các loại phong lan để tạo nên những sắp đặt đại cảnh, tiểu cảnh làng lúa – làng hoa, trống hội Thăng Long, những nhịp cầu Long Biên…
Nhưng nhiều người Hà Nội yêu hoa- nhất là thế hệ trẻ bây giờ ít ai biết rằng: đầu xuân cũng là thời điểm của các bà các chị xưa kia của đất Kinh kỳ- Kẻ Chợ từ các làng hoa sáng sáng đi vào thành phố, cặm cụi tỏa bước chân tới mọi ngõ ngách phố phường, treo các gói hoa cúng bọc bằng lá chuối, lá sen ngoài các cửa nhà hoặc cửa chùa, và cuối tháng mới lấy tiền hoa một lượt… Cách bán hoa độc đáo này chỉ Hà Nội mới có, và trở thành một phong tục đẹp, tiếc thay đã bị ngắt quãng đến hơn nửa thế kỷ nay! Hy vọng trong những mùa xuân sắp tới, tục lệ đáng yêu này sẽ trở lại với người Hà Nội…
Dịp xuân về đất Hà Thành cũng là dịp mà trước đây, chưa xa lắm, người Hà Nội thường đi sắm những bức tranh dân gian Hàng Trống để trang trí cửa nhà và cầu may mắn. Trước hết là bộ tranh tứ bình “Bốn mùa” mà mở đầu là mùa xuân hứa hẹn mang lại nhiều Phúc- Lộc cho đại gia đình. Sau đó là các tranh gà, lợn, cá chép ôm trăng… và các loại tranh thờ như Ngũ Hổ, Độc hổ, ông Hoàng Mười, Bà chúa Thượng ngàn, v.v. Những gia đình nghèo thì tìm tranh Hương Chủ, để trên vách nhà trống trơn chỉ treo mỗi bức tranh vẽ đủ bàn thờ, hương án, hoa quả đón xuân… Sau nhiều năm vắng bóng, tranh Hàng Trống giờ đây lại lác đác xuất hiện ở chính phố Hàng Trống- nơi ra đời của dòng tranh độc đáo này, nhờ sự mải mê duy trì nghề nghiệp cổ truyền của nghệ nhân Lê Đình Liên- nghệ nhân cuối cùng của tranh Hàng Trống… Mùa xuân Canh Dần năm nay, nhiều người đã tìm về phố Hàng Trống để hỏi tranh Tứ bình Bốn mùa và tranh Ngũ hổ.
Mùa Xuân Hà Nội cũng là mùa của các lễ hội đầu năm, của giỗ vọng, lễ chùa… Sự thành kính của người cao tuổi bên hương khói như làm nổi bật thêm sự tươi vui của tuổi trẻ háo hức đón xuân, sắm tết… Nhưng hiện nay, ta có thể nhận thấy sự thành kính nghiêm trang ở rất nhiều người trẻ tuổi trong các đền miếu thờ những anh hùng dân tộc, những danh nhân văn hóa… Chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa được thực thi sâu rộng đã đem lại cho các Lễ hội mùa xuân Hà Nội những sắc màu mới mẻ cùng một số vấn đề xã hội nổi cộm, nhưng dù sao, Lễ hội – nhất là lễ hội xuân đã là sự gắn kết cộng đồng kỳ diệu, là bí quyết tinh thần nối giữa quá khứ và hiện tại. Có thể chiêm nghiệm điều này ở lễ hội Gò Đống Đa, lễ hội đền Hai Bà Trưng, lễ hội thờ bà Tấm làng Sủi- Phú Thị, lễ hội thờ thần Đồng Cổ làng Văn Trì…Trong các lễ hội xuân đó, bao gìơ cũng có múa Rồng, múa Lân, thể hiện rõ nét khát vọng mưa thuận gió hòa ngàn đời của người dân châu thổ Bắc Bộ, và bộc lộ cái tinh thần Thăng Long- tinh thần Rồng thăng lên của người dân Kinh Kỳ- Kẻ Chợ…
Mùa xuân cũng là mùa của các ông đồ xưa – nay viết thư pháp bên tường Văn Miếu, quanh các đình chùa miếu mạo Hà Nội… Mùa của những con rùa Hồ Gươm bò lên bãi cỏ đẻ trứng, mùa những đàn chim sâm cầm bay về Hồ Tây lặn ngụp…Thực ra, những con chim sâm cầm đầu tiên đã di cư từ phương Bắc giá lạnh về đây từ dạo cuối đông, và đến mùa xuân, chúng tạo ra cả một dàn đồng ca của vẻ đẹp thi vị từng tạo nền xúc cảm cho Bà Huyện Thanh Quan viết ra những áng văn chương long lanh hoài niệm…
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Hoàng Tuấn Đại vốn xuất thân là một phi công. Khi bay lượn trên thành phố nhìn xuống mặt nước Hồ Gươm lấp lánh, chắc ông không thể nghĩ rằng: sẽ có lúc mình được chụp những sinh linh bé bỏng đáng yêu ở con hồ lịch sử kia! Số phận run rủi thế nào đã cho ông cơ may chộp được những hình ảnh quý về cháu chắt của con rùa thần thoại- nhất là khi chúng bò lên mặt cỏ đẻ trứng mùa xuân…
“Người muôn năm cũ” là ông đồ già viết câu đối xuân bên hồ Tả Vọng xưa của thi sĩ Vũ Đình Liên tưởng không bao giờ trở lại nữa, thì những mùa xuân gần đây lại xuất hiện biết bao ông đồ mới giữa đất Hà Thành, cho thấy một nét tâm lý đáng yêu của người Hà Nội dù trải qua bao biến thiên thời cuộc vẫn không hề mất đi: vượt khỏi sự hiếu kỳ, đó là một tinh thần yêu chuộng văn hóa cội nguồn đã ăn vào máu thịt…
Và trong không khí Xuân Thủ đô, ở Ngày Hội Thơ được tổ chức hàng năm tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám, có lẽ người ta dễ tìm được sự hòa điệu giữa các thế hệ làm thơ và giữa các địa phương thơ ca? Còn những thể nghiệm thơ ca mạnh dạn tại đây có thể cũng sẽ dễ dàng tìm được sự đồng cảm hơn của người thưởng thức so với bất kỳ ở một thời điểm nào khác?
Trước khi trên vùng rừng núi Tây Bắc phủ ngập trắng hoa ban, thì ở Hà Nội, hoa ban đã vội nở sớm trên trục đường Bắc Sơn, đường Thanh Niên. Hoa ban được mang từ núi rừng Tây bắc về, vốn trắng muốt, tại thủ đô không hiểu sao lại nhuộm màu tim tím, và những cánh hoa ban trở nên đẹp lạ thường khi được hòa quyện cùng màu trắng tinh nguyên của tà áo dài người thiếu nữ Hà thành du xuân… Hoa ban gắn với một truyền thuyết buồn về tình yêu đôi lứa ở tận vùng cao xa xôi, về đây lại tìm được sự đồng cảm của nam thanh nữ tú Hà Thành, và đồng điệu với một loài hoa kỳ lạ của mùa xuân Hà Nội- đó là hoa Sưa… Truyền thuyết của người Hà Nội kể: có hai người cùng sinh vào tháng ba, cùng thích hoa Sưa và yêu nhau tha thiết… Nhưng họ ở cách xa nhau, nên cứ mỗi mùa xuân, trở về đây vẫn hẹn nhau ở một gốc Sưa già trong thành phố. Cho đến một ngày, người ta vô tình đốn gốc Sưa ấy đi, chàng trai và cô gái hoang mang tìm nhau theo từng gốc Sưa… Bước chân họ luôn lỡ nhịp, không thể gặp được nhau… Tình yêu xưa chỉ còn trong hoài niệm, nên có người cố tình đọc trệch đi, gọi là hoa Ngày Xưa, bộc lộ chút gì nuối tiếc, ngậm ngùi… Hoa Sưa tựa linh hồn cô gái kết tinh thành bạch ngọc, cứ mỗi độ xuân về lại nhớ tình lang là chàng trai Thăng Long Hà Nội, nên hiện ra mơ hồ thoáng một ít ngày ngắn ngủi rồi lại bay về với hư ảo… Trên những con phố dài của Hà Nội mùa này, trên đường Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, Hùng Vương, đường Ngọc Hà, Điện Biên Phủ, trong những công viên xanh đã thấy trắng cả một góc trời màu hoa Sưa như một lời hẹn ước thiêng liêng…. Hoa Sưa có một vẻ đặc biệt duyên dáng, trang nhã nhưng giản dị. Suốt cả năm, cây Sưa không có gì nổi bật, chỉ đến đợt hoa nở trắng muốt như những bông tuyết, như mây, thì khi đó mới khiến mọi người phải ngỡ ngàng. Sau những ngày hoa tách cánh trong đợt gió rét mưa phùn, Hoa Sưa chỉ đợi cơn mưa xuân đầu tiên là bừng tỉnh giấc. Chẳng có loài hoa nào lại cùng thay lá, đâm chồi, ra hoa và lụi tàn trong một mùa duy nhất như hoa Sưa- một loài hoa có mùa ngắn nhất trong năm. Nó có vẻ đẹp tươi tắn nhưng đồng thời lại chất chứa một cái gì đó thực e ấp, u hoài. Có một chàng trai người Hà Nội sau nhiều năm xa tổ quốc, quay về thăm đã viết những dòng đắm đuối về hoa Sưa:
Chỉ còn con đường hoa sưa đẹp như mơ
Muốn khóc dịu dàng cho thuở ấy bình yên
Cho con đường trải đầy hoa sưa, in dấu chân kỷ niệm …
Có người đã ví von một cách thú vị: Mùa xuân ở Hà Nội giống như một cô thiếu nữ xinh xắn. Đầu mùa, cô thiếu nữ ấy đẹp một cách tinh khôi, trong trẻo và căng tràn sức sống qua từng hơi thở của chồi non, của lộc biếc. Khi mùa xuân đi được nửa đường, là lúc Hà Nội chín mọng những hương, những hoa, những sắc thắm của cây lá, của nắng và của phố phường nhộn nhịp. Lúc ấy xuân đẹp mặn mà và quyến rũ. Quả vậy, Hà Nội cuối xuân là Hà Nội của mùa xuân chín, của nắng hồ Gươm sánh mật vàng óng ả như một thứ chất có khả năng kết dính cả không gian, đất trời và lịch sử… Hà Nội cuối mùa xuân, trên những lối đi đã phủ dày từng lớp lá màu đỏ phai của bàng quanh Hồ Gươm hay trong những con phố cổ nhỏ xinh. Rồi lá xà cừ, lá sấu, lá me, lá của những cây lâu năm trong công viên Thống Nhất, vườn Bách Thảo… Những lá vàng còn lại trên cành cũng rụng rơi lả tả, nhường lại mùa đâm chồi và sinh sôi của một lớp lá mới, búp bàng mới. Hà Nội bỗng mang vẻ mặn mà cuốn hút trong sự hòa quyện của nắng gió, trong sự pha trộn sắc màu của hoa, của lá cũ và lộc mới…mặc cho cái rét bất thần quay trở lại. Nhà văn Vũ Bằng trongThương nhớ mười hai đã viết về Tháng ba, rét nàng Bân như sau: là một cái rét thơ mộng, cái rét của một trời đầy hương và ngát hoa khiến người phụ nữ tự nhiên đẹp trội hẳn lên…và ông kể lại những kỷ niệm tuổi thơ đi trèo cây, hái bàng chín thơm phưng phức, ăn vào ngọt hơn cả cam hay táo…Một người Hà Nội- nhà thơ Nghiêm Huyền Vũ đã có những dòng tùy bút thú vị về Đường sấu Hà Nội, và ông miêu tả khá hay cái mùa sấu thay lá lần đầu trong năm tựa một con sông vàng lăn tăn sóng chảy luồn lách giữa hai hàng cổ thụ suốt từ đường Hùng Vương cho đến tận vườn hoa Hàng Đậu…
Khi mùa hoa bưởi bắt đầu ngát hương thì cũng là lúc trong những ngôi nhà hay vỉa hè ở phố Hàng Than, Hàng Điếu lại xuất hiện một màu trắng tinh khôi của những mẻ bột sắn dây. Trên hai con phố này, những người dân có một nghề chỉ sản xuất vào mùa hoa bưởi – nghề sản xuất bột sắn dây. Khi những mẻ bột trắng phau phơi khô chuẩn bị được đóng thành gói cũng lúc người ta gom thật nhiều hoa bưởi. Những bông hoa bưởi ngát hương được ướp vào những viên sắn dây như để ấp ủ mùi hương và lưu giữ đến tận những mùa sau. Muốn chọn hoa bưởi phải đợi sau những ngày mưa phùn, tiết trời khô ráo. Khi đó hoa mới không sợ bị ủng, mùi thơm mới nồng nàn và giữ được lâu hơn, khi đem ướp với bột sắn dây thì mới thật đậm đà. Từng ngụm nước sắn dây mát lạnh đậm đà hương hoa bưởi mang lại cảm giác mát lạnh, sảng khoái, bao mệt mỏi dường tan biến hết, chỉ còn mùi hoa bưởi nồng nàn quyến rũ.
Hà Nội vốn được mệnh danh là thành phố của sông hồ, và có một điều chắc chắn là: bốn mùa thiên nhiên được phản chiếu rõ rệt nhất, sinh động nhất qua những mặt hồ… Khi tả tiết đầu mùa xuân Hà Nội, chúng ta đã nói nhiều đến Hồ Hoàn Kiếm, hồ Bảy Mẫu, hồ Thiền Quang… Còn trong tiết cuối xuân, chúng ta cần dừng lại ở Hồ Tây… Hồ Tây là một đoạn của sông Nhĩ  (tức sông Cái, sông Hồng) còn sót lại sau khi đổi dòng chảy. Thiên nhiên đã sinh ra một con hồ sóng sánh mộng mơ, lãng đãng sương mù, chất chứa huyền thoại, con hồ mà vào mùa xuân lộng lẫy đến nỗi nhà nho Cao Bá Quát từng phải thốt lên “Tây Hồ chân cá thị Tây Thi”-  có nghĩa: Tây Hồ đích thực là nàng Tây Thi! Một bài ca dao cổ viết về cảnh vật Hồ Tây chắc chắn là được miêu tả lúc xuân sang: Gió đ­ưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ X­ương/  Mịt mù khói toả ngàn s­ương/  Nhịp chày Yên Thái mặt g­ương Tây Hồ
Mùa xuân quanh Hồ Tây cũng là mùa của nghề tằm tang, dệt vải, làm giấy…có từ hàng ngàn năm nay, và cùng với thiên nhiên đã tạo nên vẻ đẹp thi vị của tâm hồn người lao động dân dã từng làm rung động nhiều hồn thơ:  “Hỡi em seo giấy/ Em là thi nhân…” ( Thơ Chế Lan Viên)
Hồ Tây nhiều sắc màu, diễm lệ, trang trọng và sự sống của một góc thành Thăng Long xưa bên hồ vào cuối xuân đã được bộc lộ qua những câu văn thật đẹp trong bài phú Tụng Tây Hồ của danh sĩ Nguyễn Huy Lượng: “Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích dẫy lên dòng lẻo lẻo / Hình lượn lượn uốn vòng câu bạc, tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhò nhò/Dư­ nghìn mẫu n­ước trời lẫn sắc/ Trải bốn bên hoa cỏ chiều mùa“…
Rời Hồ Tây trong nắng chiều cuối xuân bảng lảng, vẳng tiếng chuông chùa khi xa khi gần, chúng ta không thể không nhớ đến câu thơ cổ có cả ngàn năm tuổi của đại thiền sư Mãn Giác trong bài kệ nổi tiếng: Cáo tật thị chúng(có bệnh bảo mọi người ) như sau: Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai-có nghĩa là: Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước nở nhành mai…
Xuân qua đi, một mùa khác của sự sống lớn lao và của tình người lại tiếp tục diễn ra trong vòng quay muôn thuở của vạn vật… Điều quan trọng nhất là đừng để đánh mất đi Tình người quý báu- cái điều duy nhất có thể đem lại vẻ đẹp trọn vẹn và hàm chứa ý nghĩa của mọi cảnh vật thiên nhiên bốn mùa… Chúng tôi xin được lấy hai câu ca dao cổ viết về Hoa, và về Người Hà Nội đã được cố nhà văn Băng Sơn khôi phục lại nguyên gốc để làm kết cho phần phim Mùa xuân Hà Nội:
Không thơm không phải hoa nhài

Không thanh lịch, không phải người Tràng An…

HÀ  NỘI  MÙA  HẠ

Trong một ngày giao mùa từ xuân sang hè, cố nhà văn Băng Sơn- người chuyên viết về Hà Nội đã có những dòng nói hộ tâm tư nhiều người như sau: ”Ta cảm nhận được thiên nhiên cũng như thời gian đang chầm chậm lướt qua bên ta như cánh buồm bình thản dong về chân trời, mang theo bí mật mà suốt đời ta tìm hiểu cũng không thể nào thấu được…Hà nội mến yêu ơi, đất nước kỳ vĩ ơi, ta muốn chắp tay cảm tạ, bởi lòng ta cũng đang dào dạt sang mùa…”
Mùa hè Hà Nội là mùa có “những cuộc chia ly màu đỏ” của bao người phụ nữ tiễn chồng ra nơi chiến tuyến… Đó cũng là mùa cá bột trên sông Nhị, mùa của những cuộc hộ đê hùng tráng, là thời điểm diễn ra những lần duyệt thủy chiến, xem rối nước của quan quân Lý – Trần trên hồ Tả Vọng- tức hồ Gươm, là mùa của những cánh buồm sải cánh trên sông Nhị – sông Tô tấp nập giao thương xuôi ngược giữa đất Kinh Kỳ Kẻ Chợ với các miền thượng nguồn hay hạ nguồn sông Cái…
Mùa hè Hà Nội có những loài cây loài hoa cùng những cảnh vật thiên nhiên đặc sắc mà vẻ đẹp của chúng khiến nhiều người muốn dậy thật sớm ra đường, hít hà bầu không khí trong lành và giơ máy ảnh tìm vài góc chụp để lưu lại cho mình những khoảnh khắc ban mai ngập nắng.Ta hãy nghe nhà văn Vũ Bằng khi sống ở đô thành Sài Gòn kể lại ấn tượng đầy thơ và họa về một sớm đầu hè Hà Nội trongThương nhớ mười hai nặng trĩu của ông: “Tháng tư yêu dấu có nóng có oi, có muỗi đốt, nhưng tất cả những cái đó có thấm vào đâu so với những buổi bình minh nạm vàng, mở mắt ra nhìn lên cao thì thấy mây bay thong thả như trời khảm bằng xà cừ, gió hây hây mát, mở cửa đi ra đường thì cảm thấy cả trời đất trong như là pha lê mà cái thân mình nhẹ tênh tênh như là có cánh…”
Lúc này, những tán bàng đã tắt đi các ngọn nến xanh để phủ lên tấm thảm lá dày đương chờ đón bản nhạc mùa hè của dàn đồng ca ve sầu lanh lảnh… Năm cây vông bên hồ Gươm lúc này cũng xòa ra những bó đuốc khổng lồ chói lọi khiến cho nước hồ đã xanh càng thêm xanh thăm thẳm… Những chùm hoa bằng lăng gọi hè tím ngát ngẩn ngơ nở dọc phố Thợ Nhuộm và chen vai rực rỡ cùng hoa phượng đương khoe sắc đỏ thắm bên hồ Gươm. Khi đó, bờ hồ Hoàn Kiếm tựa những bó đuốc cháy ngùn ngụt – như cách nói của một nhà thơ. Cũng may, làn nước xanh biếc hồ Lục Thủy xưa cùng với những nét  dịu dàng cổ kính của Tháp Rùa, Cầu Thê Húc, Đền Ngọc Sơn đã làm trung hòa bớt gam màu nóng gay gắt của hoa dưới ánh nắng chang chang. Hoa phượng chói lòa thì đã quá quen thuộc, bởi chúng gắn với học đường tuổi thơ- dù bên hồ Gươm chúng hiện ra thật rực rỡ và hòa hợp thật kỳ lạ với màu xanh của rêu phong… Còn Hoa bằng lăng thì ít quen thuộc hơn với ngay chính người Hà Nội. Những bông hoa cánh mỏng như lụa khẽ rung rinh dưới ánh nắng mặt trời. Trên cùng một cây mà hoa có tới hai màu: trắng và tím. Những bông hoa đầu cành phơn phớt trắng, dịu dàng, trinh bạch. Còn những bông hoa cuối cành lại mang màu tím biếc, thuỷ chung…
Truyền thuyết Hà thành kể: ngày xưa Ngọc Hoàng có mười hai nàng công chúa yêu, mỗi người một vẻ. Một hôm Ngọc Hoàng tuyên bố sẽ cho các con gái làm chúa của các loại hoa dưới nhân gian. Các cô đòi làm chúa của loài Hoa Hồng, hoa Mẫu Đơn, hoa Lan, hoa Huệ, v.v. Riêng cô công chúa Út xin được làm chúa loài hoa nào đó mang màu tím, vì cô rất yêu thích màu tím. Ngọc Hoàng cho nàng làm chúa loài hoa Bằng Lăng Tím.
Có chàng thư sinh nghèo, thấy loài hoa tím Bằng Lăng vừa xinh lại dịu dàng, liền đem về nhà trồng. Chàng thư sinh dần dần đem lòng yêu thương hoa. Nàng công chúa Út thì say mê văn tài của chàng thư sinh, xin Ngọc Hoàng được xuống dương gian làm vợ chàng. Ngọc Hoàng cương quyết từ chối. Công Chúa Út buồn phiền và khước từ tất cả những ai đến cầu hôn nàng. Nhưng loài hoa Bằng Lăng không phai nhạt màu tím đi, và chàng thư sinh vẫn một lòng si tình hoa. Bởi vậy người đời bảo hoa Bằng Lăng là loài hoa chung thủy, và sự ngây thơ của màu tím đã tượng trưng cho mối tình đầu…Truyền thuyết này quả đã làm rung động biết bao thế hệ học trò Hà thành tầng lớp tiểu tư sản – những người về sau còn yêu cả Màu tím hoa sim của thi sĩ Hữu Loan và cũng sẵn sàng gác bút nghiên lên đường theo Kháng chiến…
Còn hôm nay, tuổi teen Hà Nội đã nghĩ gì về truyền thuyết về hoa bằng lăng? Một cô gái vừa qua hết phổ thông trung học đang giai đoạn ôn thi đại học đã say sưa kể với chúng tôi về thú sưu tầm tìm hiểu hoa của mình.
Và hoa sấu! Không ít người trước khi xa Hà Nội vào thời điểm này đã đi lang thang dưới con đường có những tán sấu tỏa rộng như ôm trọn Hà Nội vào lòng, để rồi sẽ nhớ thương, vương vấn mãi cái mùi hương thoang thoảng đến say lòng kia…Đường Hà Nội trồng rất nhiều cây sấu, và mỗi khi hoa sấu nở, chỉ một làn gió thoảng qua là những “cơn mưa” hoa rắc xuống mặt đường – những cánh hoa li ti có màu trắng bàng bạc rụng trắng xóa một góc phố khiến Hà Nội đẹp đến nao lòng. Loài hoa bé nhỏ và mộc mạc này lại mang trong nó một vẻ đẹp kiêu sa, đài các mà chỉ những ai chịu khó quan sát kỹ và biết đồng cảm với thiên nhiên mới có thể nhận ra.
Rất nhiều du khách nước ngoài tới Việt Nam đều tỏ ra tò mò và thích thú với loài hoa nhỏ bé có màu trắng thanh cao và tinh khiết đến lạ kỳ này. Đợi cho lớp hoa tàn hết là những  quả sấu non bắt đầu nhú lên rồi già dần và rụng đầy vỉa hè. Quả sấu từ lúc còn non cho tới khi chín vàng ươm đều hấp dẫn đủ mọi lứa tuổi. Từng chùm sấu sai trĩu lấp ló sau tán lá che mát cả một khoảng sân, góc phố hay những con đường trước ánh nắng hè chói chang. Khi những cơn mưa đầu hạ xuất hiện và ve sầu râm ran khắp phố phường thì cũng là lúc ngoài chợ xuất hiện những trái sấu xanh xanh, nhỏ xinh. Những chùm sấu nhỏ, màu xanh và hơi xù xì đã làm thơm mát bát canh mùa hè của các gia đình bình dân, và tạo ra không ít món ăn đặc sắc. Với nhiều người dân miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng, những lọ sấu ngâm vào những ngày hè được xem như loại nước giải nhiệt không thể thiếu. Không phải là thứ nước uống cầu kì, tốn tiền, nó có mùi vị đặc biệt nhưng lại đơn giản trong cách chế biến. Chỉ cần một chút khéo léo, tỉ mỉ, ai cũng có thể tự tay chế biến một lọ sấu ngâm vàng thơm cho gia đình. Cốc nước nhỏ mà lại chất chứa nhiều hương vị ngọt ngào, sấu ngâm mang nét dân dã, giản dị như chính hồn quê Việt. Chả thế mà những kiều bào từ xa về nước, cứ đòi tìm bằng được vài quả sấu làm quà cho người thân phương xa- thứ quà chỉ Hà Nội mới có.
Mùa sấu đến, ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh những đứa trẻ tay cầm những chiếc sào dài, đầu ngẩng nhìn vào những tán lá rậm rạp – đó là những “chuyên gia đi hái sấu”. Và theo chân chúng là những đứa bé hơn cùng xóm cùng phố trốn mẹ đi bắt ve, nhặt mót từng trái sấu rụng dưới gốc cây- cái hình ảnh mà hầu hết những người lớn từng sống ở Hà Nội đều có thể tìm thấy mình trong đó và trở thành kỷ niệm đi theo suốt cuộc đời…
Một người từng sống và học tập ở nước Nga nhiều năm đã kể lại cái cảm giác khó tả khi được nhìn thấy lọ sấu dầm được bày bán ở một góc phố Mascơva.
Hè về, Hà Nội trở nên ồn ào và náo nhiệt hẳn. Khi những tia nắng đầu tiên lấp ló sau rặng cây, những cụ ông cụ bà đã rủ nhau đi tập dưỡng sinh, những người bán hàng tranh thủ bày hàng. Những bóng áo trắng học trò hối hả đến trường cho kịp buổi học. Ở một góc đường, ông lão xích lô tranh thủ ngả lưng trên chiếc xích lô đánh một giấc dưới tán cây rợp bóng. Đằng kia, mấy người bán hàng rong nằm dài trên ghế đá sau một ngày chồn chân rong ruổi khắp phố phường. Trong khi thiên hạ đổ xô đi hóng gió, đám con nít quanh quẩn chơi Ô ăn quan. Chúng là những đứa trẻ bán vé số dạo, đánh giày thuê, bán kẹo cao su cho khách du lịch, trên vai, trên tay chúng còn nặng trịch những món đồ nghề…Phải chăng, đó cũng là nguồn cảm hứng và nguyên mẫu cho danh họa Nguyễn Phan Chánh vẽ nên tác phẩm quan trọng nhất của ông và là niềm tự hào của nền hội họa Việt Nam hiện đại: tác phẩm Chơi ô ăn quan?
Còn đêm tới, hè Hà Nội cũng náo nhiệt không kém ban ngày. Nắng nóng khiến người ta ngủ muộn hơn và lao ra phố để hóng gió. Gần khuya, ngõ phố Hà Nội hè lại sinh động với sự ồn ào của những quán, những gánh hàng ăn đêm. Mấy người hối hả đạp xe về kia chắc chắn là các cô cậu sinh viên đi làm thêm tan ca làm muộn. Đã khuya, nhưng anh bạn trẻ sinh viên đang ướt đẫm mồ hôi này cũng không nỡ từ chối cuộc trò chuyện nhỏ với chúng tôi.
Cái nóng đã bắt đầu râm ran trong lòng Hà Thành từ đầu tháng 5, và từ đầu tháng 6 trở đi thì nắng bắt đầu đổ lửa, các đường nhựa bốc khói vì nắng nóng hầm hập, và thực may mắn, Hà Nội đã có khá nhiều đường cây xanh, vườn cây xanh. Ai qua Hà Nội vào mùa hè mà không từng một lần phải dừng chân dưới những tầng tán lá cổ thụ dọc đường hay trong công viên Bách Thảo, trong một ngôi đền để thở và ngắm nhìn những khoảng trời xanh xa tít sau vòm lá? Hà Nội hiện đại cũng là đất Kinh kỳ xưa lưu giữ rất nhiều di tích văn hóa lịch sử, rất nhiều đền chùa miếu mạo cổ – tại những nơi chốn tâm linh đó còn tồn tại  biết bao cây đa, cây đề, cây muỗm cổ thụ từng bất chấp gió mưa bão táp hàng thế kỷ- như cây trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trong đền Quan Thánh, đền Voi Phục, chùa Kim Liên, trong quần thể kiến trúc Tháp Bút – Đài Nghiên – Đền Ngọc Sơn,v.v. Và mùa hè dội lửa xuống đất Hà Thành dường cũng phải nể nang tạm dừng bước nương tay trước những tán cổ thụ linh thiêng đó, để nhường cho con người những khoảnh khắc thư thái, mát mẻ, yên bình…
Mùa hè Hà Nội có những cơn mưa rào vội vàng lúc đến cũng như lúc đi để lại trong lòng người đa cảm những xao động thầm kín giữa khoảng trời mênh mông nắng… Dẫu cho cái nắng nóng mùa hè khiến ta đổ mồ hôi thì cạnh đó, cảm giác được tản bộ trên những con đường lộng gió ban đêm và nhìn ngắm một Hà Nội không ngủ thật thú vị, và người ta đã yêu Hà Nội từ những khoảnh khắc bình dị như thế…
Nằm ngay trên con phố cùng tên, kem Tràng Tiền từ lâu nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong tâm thức người Hà Nội. Dù là người dân Hà Nội xưa đã từng sống hay những người chỉ mới lần đầu đến với mảnh đất Hà thành này đều bị cuốn hút bởi hương vị đặc biệt của những chiếc kem Tràng Tiền. Người đến ăn kem rất đa dạng, từ những cô cậu nhỏ tuổi, các bạn học sinh, sinh viên cho đến những người lớn tuổi, khách du lịch trong và ngoài nước, mọi người đều thích kem Tràng Tiền.
Và những thức ăn mùa hè ở Hà Nội có một đặc trưng khác hẳn mùa đông- không chỉ ở trong các cửa hàng có thương hiệu trên phố cổ như bún chả Hàng Mành, đậu phụ mắm tôm ngõ Phất Lộc, bánh cuốn cà cuống Hàng Gà, mà còn được bày đơn giản trên nhiều vỉa hè- như gánh cháo đậu xanh với đậu phụ cà muối, như bánh cuốn Thanh Trì hay xôi lúa làng Hoàng Mai, như bánh đa kê từ làng Xù Giạ, như cơm nắm muối vừng từ Lạc Đạo- Hải Dương v.v- những thứ ăn nguội mang lên các phố mỗi sáng…Những thứ quà bánh dân dã ấy cũng tạo nên nét riêng biệt của mùa hè Hà Nội và trở thành nỗi nhớ quay quắt của nhiều người khi xa phố phường Hà Nội…
Hè Hà Nội cũng là nguồn cảm hứng chủ đạo cho một tác phẩm điện ảnh độc đáo của đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng – bộ phim Mùa hè- chiều thẳng đứng.
Ta bắt gặp trong từng cảnh quay là những bức tranh đầy mầu sắc về Hà nội. Quán Cà-phê của nhân vật Liên khiến ta liên tưởng tới quán cà-phê “Lâm” nổi tiếng và những mảng tường tróc vôi nhiều mầu giống như những vệt sơn dầu của nhiều danh họa Việt nam một thời đã vẽ tranh để đổi lấy cà-phê… Góc nhìn khá hẹp tạo cảm giác như khi ta đi trong “36 phố phường” hay chen vào những khu nhà ống. Những khung cửa cũ kỹ, những chậu cây cảnh, những chiếc lọ hoa ở góc nhà trong làn ánh sáng nhẹ nhàng, những con người Hà Nội sống, vui đùa, yêu đương hờn giận, tưởng nhớ quá khứ và đối diện với nắng nóng cùng những nghiệt ngã của đời thường… Tất cả những điều quen thuộc như thể ta vẫn gặp hàng ngày giữa lòng Hà Nội trong những ngày hè. Bộ phim bắt đầu bằng ngày giỗ và cũng kết thúc bằng một ngày giỗ, có chút gì giống như vòng quay của bốn mùa, và của kiếp luân hồi. Nhà làm phim đã cung cấp cho người xem những ấn tượng để thâm nhập vào cái “chất người Hà nội” một cách giản dị và chính xác nhất, thông qua những đặc tính không thể trộn lẫn được của mùa hè Hà Nội…
Chúng ta lại quay về với hồ Tây…Hồ Tây trong những chiều hè mặt nước vàng rực sánh như mật ong và lóng lánh tựa những vẩy rồng, đưa người ta vào không khí đậm màu huyền thoại- những huyền thoại mà hồ Tây từng lưu giữ hàng ngàn năm qua về lịch sử hình thành hồ Tây, hình thành kinh đô Thăng Long. Chung quanh hồ có nhiều làng cổ truyền thống gắn với tên tuổi không ít danh nhân văn hóa lịch sử nổi tiếng: Làng Nghi Tàm, quê hương Bà Huyện Thanh Quan, có chùa Kim Liên với kiến trúc độc đáo; làng Nhật Tân có nghề trồng hoa đào nổi tiếng, tương truyền là nơi Lạc Thị đời Hồng Bàng sinh ra một bọc trứng nở thành bảy con rồng; làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng; làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh; làng Kẻ Bưởi có nghề làm giấy cổ truyền và đền Đồng Cổ là nơi bách quan hội thề thời Lý; làng Thụy Khuê có chùa Bà Đanh đặc sắc… Và đặc sắc nhất là đền Quán Thánh ở góc đường Thanh Niên – trấn phía Bắc của Kinh thành Thăng Long… Cái “hùng vĩ” của mùa hè Thăng Long- Hà Nội có lẽ đã được thể hiện khá rõ qua bài Tây Hồ phong cảnh phú của tác giả Ngô Thì Sĩ:
 Sóng in mầu lụa bạch, Đầm lạnh ngút mù tan.
Chùa Trấn Quốc sen tươi, hoa cao chục trượng ,
Bãi Nghi Tàm dâu tốt, lá trải trăm làn
Thuyền ngư phủ lướt mưa bay, bơi rẽ bờ rau lên, xuống,
Sáo mục đồng tung bóng xế, thổi ran lũng lúa mau, khoan…
Và chúng ta hãy đi lang thang trong những đầm sen quanh Hà Nội vào độ sen nở- nhất là những đầm sen Hồ Tây, nơi lưu giữ bao kỷ niệm từ thời thơ ấu của không ít người Hà Nội…Hãy rời xa chốc lát phố phường đông đúc, bụi bặm mùa nóng nực, để thả hồn với thiên nhiên trong lành thơm nức hương sen, để cho lòng mình lắng lại, thanh thản đến lạ kỳ trước một vùng hoa giống như huyền thoại…
Chẳng biết người dân xứ Kinh Kỳ có cái thú chơi sen tự bao giờ, và cách chơi sen cũng rất sành. Nhiều người không quản ngại công sức dậy sớm để đến tận đầm mua được những bông sen tươi mởn buổi sớm mang về cắm bình. Sen Hồ Tây được hái bán là những bông đã chúm chím nở để có thể nhìn thấy những lớp cánh bên trong và đài sen. Sen Hồ Tây nhiều lớp cánh hơn sen trồng ở các nơi khác, bông hoa khi nở ra rất to, vì vậy còn có tên là Sen Bách Diệp – tức Sen trăm cánh. Sen Hồ Tây mang về nhà cắm, qua một đêm, sáng hôm sau dậy thấy hoa nở bung, tròn to hơn cái bát tô canh, cánh hoa hồng rực, hương thơm ngát cả căn phòng.
Hè về, sen Tây Hồ như bao thế kỷ nay vẫn khoe sắc tỏa hương, và lắng đọng một góc hồn Thăng Long – Hà Nội… Bạn đừng bỏ qua bất kỳ cơ hội nào để có thể thưởng thức hương vị trà sen trong cảnh hồ sen tinh sương mát lạnh buổi sáng sớm …
Hoa sen tuy không phải là một trong “tứ quý” như tùng, mai, cúc trúc trong quan điểm mỹ học phương Đông, nhưng nó lại ẩn chứa trong mình một vẻ đẹp vừa dân dã, vừa quý phái, vừa nồng nàn vừa ý nhị hiếm có. Còn trong đời sống thường nhật, từ lâu sen cũng đã trở thành một vị thuốc nam chữa bệnh quý, và đi vào nghệ thuật ẩm thực tinh tế của người Tràng An thanh lịch. Hương sen lạ lùng từ trong nhuỵ của nó mà được gọi một cách dân dã là “gạo sen” -là nơi chứa hương thơm tinh túy của cả bông sen, được cầu kỳ ướp vào cánh chè để tạo ra trà sen- một trong những vẻ đẹp độc đáo của “Trà đạo Việt Nam”. Người Hà Nội từ xưa đã nổi tiếng với thói quen thưởng trà của mình. Rất cầu kì từ chế biến đến thưởng thức, người ta thường ướp trà mộc với hoa sen, hoa nhài, hoa cúc để thưởng thức hương vị thanh khiết của những bông hoa trong chén trà. Trong ba loại trà thường gặp đó, trà sen là thứ trà quý chỉ đem ra tiếp khách tri âm, hoặc dùng làm thứ quà biếu gói trọn hương vị đất Hà Thành. Loại trà này có thể để đến hàng năm tùy cách bảo quản. Đặc biệt nhất được biết đến là cách uống trà mộc được ướp trong bông sen tươi để giữa đồng – cách thưởng trà này đã được nhà văn Nguyễn Tuân tả lại tỉ mỉ trong  bài ký thú vị: “Chén trà trong sương sớm”.
Những chiều hè oi ả, khu đầm sen bát ngát ven Hồ Tây trở thành địa chỉ hấp dẫn một cách lạ lùng đối với khá nhiều người Hà Nội. Góc hồ này, xưa kia là cả một cánh đồng sen rộng mênh mông, và mãi đến những năm 80 của thế kỷ trước, hai đầm sen rộng còn viền lấy hai bên đường Đội Cấn. Mấy năm gần đây, sen Tây hồ chỉ còn lại ở khu vực xung quanh Công viên nước Hồ Tây thuộc phường Nhật Tân và khu đầm Trị thuộc phường Quảng An, song cứ vào độ trung tuần tháng 5 đến đầu tháng 9, một vùng sen hồng tỏa hương thơm mát và tinh khiết, xanh mát một màu lá sen dập rờn vẫn làm nên nét đẹp đặc trưng rất riêng, rất quyến rũ của Thăng Long – Hà Nội.
Chị Trần Thị Hà – người có hơn 10 năm gắn bó với nghề trồng sen, ướp trà sen ở ven Hồ Tây vừa hướng dẫn khách cách pha chế chè được ủ trong những bông sen vừa tâm sự. Chị Hà cho biết, Sen được trồng ở khu vực hồ Tây này là loại sen hương, cánh có màu hồng tươi và có hương thơm đậm đà nhất. Lớp cánh hoa bên ngoài của loại sen này lớn còn lớp cánh bên trong bé dần cho đến nhụy. Mỗi sáng ra ruộng sen hái sen,  chị thường để ý vài bông sen đang hé nụ, tỏa hương thơm ngát, đó là những bông sen phù hợp nhất dùng để ướp trà. Trà được đổ vào trong bông sen, rồi lấy lá sen buộc túm vào, sau đó sẽ được ướp hương ngay trên hồ sen trong suốt một ngày để hôm sau có thể ra lấy búp sen chứa đầy trà để thưởng thức. Hàng năm, cứ vào khoảng tháng 3, củ sen nảy mầm, lên lá, người trồng sen lại bắt đầu chuẩn bị cho một mùa hoa sen sắp đến. Với những chỗ sen đã bị hỏng, không lên cây được, người trồng phải khéo léo tách củ, trồng bổ sung với mật độ thích hợp. Những cơn mưa rào mát lành đầu tháng 3 chính là liều “thuốc kích thích” giúp sen đẻ nhánh, mọc rất nhanh. Muốn sen nhiều hoa, cuống dài, bông thắm, người trồng sen phải biết bón lượng phân vừa phải, bởi nếu bón quá nhiều, sen sẽ chỉ tốt lá mà lại ít hoa.
Vào mùa sen, mỗi sáng sớm, những người hái sen ở các đầm sen ven Hồ Tây bắt đầu đi thuyền hái hoa. Anh Nguyễn Trung – ông chủ của khu đầm rộng hơn 2 ha ở ven Hồ Tây cho biết: người hái sen trước hết phải đưa thuyền đi dọc mép đầm trước, rồi sau đó mới thả mình lạc giữa đầm sen. Công việc tưởng đơn giản song đòi hỏi kĩ thuật phối hợp ăn ý và khéo léo. Người hái sen mắt phải tinh, phát hiện nhanh những búp nở vừa đủ hay lấp ló giấu mình sau tấm lá. Cách hái bông sen cũng phải nhanh, bẻ đúng đoạn ngó non vừa và để sen rơi tự nhiên nhưng lại chính xác vào đúng mạn thuyền. Trồng sen ở các đầm ven Hồ Tây giờ đây vừa là nghề kiếm sống mà cũng là cái nghiệp, là niềm yêu thích của những người đã nhiều năm gắn bó với sen hương Tây hồ như chị Hà, anh Trung, họ đã vượt qua bao sóng gió của thị trường để hy vọng giữ lại cho Hà Nội một góc nhỏ rất đẹp, rất thi vị.
Có chị giáo viên cấp II thường lên ngắm sen, mua chục hoa, dăm ấm chè ướp hoa sen về đã tâm sự: “Lên đây, tôi thấy lòng nhẹ lại, yêu thành phố của mình hơn… Những bông sen tỏa hương thơm ngan ngát, dịu nhẹ ngay trong lòng thành phố là “đặc sản” của riêng Hà Nội mà không nơi nào có được…”  Gia đình  anh Vũ Anh Tuấn ở phố cổ Hàng Muối có nghề gia truyền ướp trà sen từ nhiều đời nay, và anh đã tận tình hướng dẫn chúng tôi cách ướp trà sen cũng như cách pha một ấm trà sen như thế nào là đúng kiểu- và phải chăng, đó cũng là một vẻ đẹp của tình người Hà Nội do hương sen thuần khiết đem lại?
Cũng vào mùa này, các bà nội trợ đảm đang còn có cơ hội thể hiện món chè long nhãn hạt sen. Hạt sen luộc chín được lồng vào cùi nhãn đã tách hột sau đó nấu trong nước đường giống như chè sen, tạo ra một món ăn đặc thù Hà Nội.
Nhà văn hóa lớn Nguyễn Văn Siêu, một người con của Hà Nội, cũng là người hiểu Hà Nội đến từng chân tơ kẽ tóc đã từng gợi ý rằng: nên gọi Hồ Tây là hồ Sen trong sáchPhương Đình văn loại của cụ: “… sau thời Lê Trung hưng, họ Trịnh vẫn đặt Hành cung ở Hồ Tây, lại trồng nhiều sen ở hồ này, nay vẫn còn, sao người ta không đặt tên cho Hồ Tây là Hồ Sen?”
Và trong mùa hè này, khi Hà Nội sắp bước sang nghìn tuổi, có một cuộc tranh luận thú vị đã diễn ra: nên lấy lòai hoa nào làm Quốc Hoa? Nhiều ý kiến đã nghiêng về đề xuất hợp tình hợp lý: nên lấy Hoa Sen làm Quốc Hoa, đồng thời cũng là một trong những biểu tượng quan trọng của Thăng Long- Hà Nội; giống như ngàn năm trước, vương triều độc lập tự chủ đầu tiên của nước ta là nhà Lý đã cho xây chùa Một Cột theo hình dáng của một đóa sen nở vươn lên trời xanh- biểu tượng cho vũ trụ nhất thể và sự hài hòa tuyệt diệu giữa Con người với Thiên nhiên… Đó cũng là một thông điệp lý thú của mùa hè Thăng Long- Hà Nội có khả năng đi xuyên qua không gian và thời gian…
HÀ  NỘI  MÙA  THU
Hà Nội ngàn năm tuổi lại bước vào Mùa Thu – mùa của những cảm hứng vô tận cho các tuyệt phẩm thơ ca, nhạc họa của những văn nghệ sĩ xưa nay sống trên đất Thăng Long- Hà Nội -  đó là sự thanh bình yên ả của cảnh vật, là nỗi chạnh lòng trước sự điêu tàn hoang phế của Kinh thành cũ, hay là sự biệt ly xa cách vời vợi… Nhưng mùa thu nơi đây cũng gợi nguồn cảm hứng lãng mạn cao cả về một cuộc đổi đời lớn lao trong thời hiện tại…
Mùa thu Hà Nội mang trong mình những dáng vẻ rất riêng biệt mà không đâu có. Thu về, Hà Nội khiến cho người ta say mê vì vẻ đẹp đến lạ lùng của nó trong từng góc phố… Theo quan niệm của người Hà Nội, mùa Thu là mùa đẹp nhất trong nămHà Nội vốn đẹp bởi sự trầm mặc và cảm giác bình yên. Và mùa thu lại  càng tô đậm thêm cảm giác đó…
Ai đi xa Hà Nội, đến mùa này lại nôn nao nỗi nhớ về cái sắc nắng như tơ từng sợi một thả xuống óng ánh, về khói sương lãng đãng mặt hồ, về những con phố trải vàng lao xao lá rụng, về một buổi sớm heo may với bầu không khí dìu dịu mát lành, về một khoảng trời xanh biếc cao vời vợi và mây trắng bồng bềnh như mơ… Tháp Rùa cổ kính rêu phong trong sương chiều phảng phất… Những cành liễu tha thướt buông rủ mang hình dáng người thiếu nữ soi bóng nước hồ thu trong như gương… Sóng nước hồ Tây mênh mang có vẻ đẹp thần thoại khi hoàng hôn đang dần buông… Bên bờ sông Hồng, từng chiếc lá tre tung mình trước khi phiêu du cùng sóng nước… Và khi những con phố nhỏ đã thưa thớt người lại qua, từng chùm đèn như lung linh hơn qua những vòm cây thơm ngát hương.
Theo cố nhà văn Băng Sơn, Mùa thu chính là mùa mà Hà Nội mang trên mình những nét yêu kiều diễm ảo và dịu dàng nhất…Lẫn trong lá vàng bay vàng rộm mặt đường và lẫn trong sương lam mơ hồ trên mặt sóng của thời tiết dìu dịu như tơ chăng, là những làn hương từ đâu đó lan tỏa vào không gian như từng sợi âm thanh của một cây vĩ cầm vô hình. Đó là làn hương của hoa dạ hợp nồng nàn trắng muốt; đó là hương sấu chín cuối mùa thoang thoảng đường Phan Đình Phùng; đó là hương ngọc lan vương vấn thoảng nhẹ từ các ngón tay tháp bút trắng ngà quyện với chút hanh hao của cái lạnh đầu thu trên những con đường rợp bóng cây. Có người đã quan sát một cách tinh tế cái háo hức của những bông hoa hải đường rung lên trước những ngọn gió heo may đầu tiên. Đó là loài hoa đặc biệt của thu Hà Nội. Đặc biệt không phải ở màu đỏ tươi đến nao lòng, sặc sỡ mà không chói lóa, cũng không phải ở màu xanh ngăn ngắt của lá, cũng không phải màu vàng óng ánh của nhụy hoa. Cái đặc biệt chính là thời gian mà bông hoa ngậm trong mình từ cuối xuân đầu hạ, phải trải qua nhiều nắng gió, chưng cất từ những tia nắng gay gắt của một mùa hè tới đầu thu mới có được vẻ đẹp ấy. Và hoa sữa. Những cây hoa sữa trổ hương sớm thường là những cây hoa sữa mới trồng, và được chính cái gió heo may đầu mùa giúp tỏa hương bay xa. Đã có biết bao bài thơ, bản nhạc, dòng văn đầy rung động của những người tài hoa ca ngợi hoa sữa Hà Nội. Nhiều người Hà Nội đi xa đã nhớ về hoa sữa, hoa hoàng lan, hoa ngọc lan để tưởng niệm thời hoa niên trong trẻo, thời học trò mơ mộng, tuổi yêu đương tinh khiết của mình. Nhất là, nếu đi trong đêm trăng đường Nguyễn Du, đường Trần Hưng Đạo, đường Bà Triệu hít thở mùi hoa sữa ngọt ngào đang trộn lẫn sương thu làm ướt tóc, không ít người đã phải nghẹn ngào ứa nước mắt vì cái vẻ đẹp nồng nàn và thanh khiết của Hà Nội. Và có người đã phải thốt lên: mùa thu bình yên và dịu dàng quá! Khi đó, người ta cũng dễ dàng mở lòng với chính mình, với những người xung quanh – dịu dàng như chính không gian thu Hà Nội. Và trong đêm sâu lắng của thu Hà Nội, bên hương hoa hải đường, hoa hoàng lan, hoa dạ lan hương, hoa sữa, người ta trở nên dễ cảm thông để hiểu nhau hơn…Người ta sẽ có cảm giác không gian và thời gian như ngưng đọng, tiết thu dịu nhẹ khiến có thể trút hết mọi ưu phiền, lo lắng của cuộc sống bộn bề…Có lẽ cũng trong không gian và thời gian này, ở một căn phòng nhỏ Hà thành, khi ngắm hình vẽ con nai trên ống bút, thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết nên bài Tiếng thu tuyệt tác, một trong những bài thơ hay nhất của thi ca tiền chiến:
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Người ta vẫn nói, mùa thu là mùa của những hoài niệm, và như lời một bài hát: “Hà Nội mùa thu tràn nỗi nhớ….”
Một người con Hà Nội khi xa đã tâm sự: “Mình chỉ muốn khóc mỗi độ thu về . Làm sao cầm lòng được khi nhìn vạt nắng vàng nghiêng qua thảm cỏ làm dát vàng cả những gì nhỏ bé nhất, làm lung linh cả những hạt phù du trôi nổi trong không khí… Cái tĩnh lặng và không trung đưa bạn về miền hoang sơ nhất của loài người …”
Một người sống ở nơi chỉ có hai mùa mưa nắng trong năm đã viết những dòng thật xúc động: “Người phương Nam như tôi đã được tặng một món quà tuyệt đẹp của phương Bắc, của Hà Nội. Khẽ khàng, mỏng manh trong hơi sương sớm, se se trong cơn gió nhẹ đem hương mùa bảng lảng qua các con phố… Mùa thu Hà Nội như một thứ men ngọt ngào, nhấp từng giọt, từng giọt để say hồi nào không biết, và cứ muốn say mãi…”
Có người còn khẳng định rằng: “Hà Nội mùa thu như một bức tranh nghệ thuật mà trên đấy người ta có thể nhìn thấy tất cả mọi góc cạnh của cuộc sống. Và dường như mùa thu đã đẩy lùi tất cả những lo toan bộn bề của cuộc sống, để lại một cái gì đó trong sáng như kim cương…”
Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn- một người Hà Nội đã có một bài thơ giản dị và miêu tả được Hà Nội mùa thu một cách chuẩn xác, như một cuốn phim tài liệu, và nói hộ được tâm tư của nhiều người:
 Một vài quán nước ánh đèn xanh
Kê ghế ra hiên đón gió lành
Vài bác về hưu ngồi đàm đạo
Thoáng nhìn như cảnh ở trong tranh…
Buổi tối mùa thu êm dịu quá
Hoa sữa thơm ngào ngạt khắp đường
Đã bao mùa đến rồi đi mất
Vẫn ngỡ ngàng mùa thu quê hương.
Tháng Tám mùa thu cũng là mùa của những ngày hội Non sông náo nức lòng người, thời gian của những sự kiện trọng đại bậc nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại diễn ra tại Thủ đô: đó là Cách mạng Tháng Tám thành công, rồi Lễ tuyên ngôn Độc lập cùng sự ra đời của Nhà Nước Dân chủ nhân dân đầu tiên- trước sự chứng kiến của quốc dân đồng bào và của nắng gió Ba Đình lồng lộng…
Người Thăng Long- Kẻ Chợ từ ngàn năm qua thưởng thức hương vị mùa Thu với nhiều cách khác nhau, song có nét chung nhất là ấm cúng, nhẹ nhàng và đằm thắm; hồn dân tộc trong những nghi thức tế lễ thì vẫn được giữ gìn và phát huy.
Sử sách còn ghi lại những nghi lễ cổ diễn ra vào mùa Thu trên đất Thăng Long xưa mang đậm dấu ấn Á đông và nét cổ truyền của dân tộc Việt.
Vào ngày ngâu tháng Bảy, trẻ em đất Hà thành được mặc quần áo mới và được vui chơi thoả thích. Đây còn gọi là Tết Trung nguyên, hay Rằm tháng Bảy. Thực chất của tết này là một lễ tiết gốc từ Phật giáo. Vào Rằm tháng Bảy, người ta mở hội Vu Lan bồn, lấy việc cúng tế này nhằm vào mục đích là siêu độ cho các vong nhân. Đức Phật dạy rằng: các quan ở âm phủ xét xử những vong nhân lúc sống ở dương thế, nếu ở lành thì phong thưởng, ở ác thì bắt tội. Nhưng cả ác lẫn lành, hôm Rằm tháng Bảy đều tha cho đi chơi cả. Cho nên tục truyền theo chữ gọi là xá tội vong nhân. Vì thế vào ngày Rằm tháng Bảy ở kinh thành Thăng Long thời xưa, các tù nhân được ra khỏi trại giam, đi chơi phố xá. Còn trong dân gian, nhà nào cũng làm cỗ cúng tổ tiên bằng những đồ lễ như các thứ rau quả, bánh trái đựng vào lá sen và cũng lấy lá sen đậy lên, dùng giấy xanh đỏ làm hình nhân, đồ mã để dâng cúng tổ tiên. Còn trong hiện tại, ngày Rằm tháng bảy chủ yếu được hiểu như là ngày của mùa báo hiếu đối với cha mẹ. Trong các chùa lớn nhỏ ở Hà Nội- nhất là ở chùa Quán Sứ, lễ Rằm tháng bảy được tổ chức trang nghiêm và sinh động, thu hút không chỉ phật tử tăng ni mà cả đông đảo người dân các tầng lớp.
Tết Trung thu còn gọi là Rằm Tháng Tám, tức là tết Trông trăng. Dân gian có câu “Muốn ăn lúa tháng năm trông trăng rằm tháng tám”- nghĩa là nhìn trăng mờ tỏ, trong đục mà nhà nông tiên đoán sự được mùa hay mất mùa. Về sau, tết này trở thành tết của trẻ con. Sách xưa có ghi rằng: có con cá chép vàng thành tinh, cứ đến Tết Trung thu thì nó hiện thành người đi dỗ đàn bà trẻ con. Vua sai dân nhà nào cũng phải làm đèn cá bằng giấy treo ở cửa nhà để nó trông thấy, nếu thấy giống nó thì nó đi, không đến nữa, để dân được yên ổn. Từ đó về sau, cứ đến Rằm tháng Tám người ta lại bồi giấy làm voi, ngựa, rồng, kỳ lân, sư tử…và các thứ đèn cá cho trẻ con rước chơi. Do vậy, tục này cũng gọi là Tết Trẻ con. Đây là sự biến thể của một nghi lễ nông nghiệp cổ truyền mang mầu sắc thần thoại. Trong Tết Trung thu, nhà nào cũng ăn bánh trông  trăng: bánh dẻo mặt trăng tròn, bánh nướng thập cẩm cũng tròn, nên gọi là tết Trăng, tết Âm, cũng tức là tết Đàn bà. Mấy năm gần đây, Hà Nội đã tổ chức Trung thu trong phố cổ một cách long trọng và đầy hấp dẫn, thu hút trẻ em khắp các quận nội ngoại thành…
Hình như mùa thu mới là lúc những trái quả ở nội ngoại thành Hà Nội phô diễn hết cái sắc vị được tích tụ bằng nắng gió và tinh túy đất trời qua suốt cả mùa xuân, mùa hạ. Đây đó thấp thoáng bóng người phụ nữ quẩy đôi gánh chung chiêng, bên trong lấp ló những quả thị vàng mượt, những quả ổi tỏa mùi thơm thôn dã, bình dị … Lúc này cũng là lúc, nắng mùa thu đang vẩy những đốm trứng cuốc vào trái chuối tiêu, đang làm cho những quả hồng đỏ như môi mọng, na xanh biếc, bưởi vàng mơ, nhãn nâu đậm đà…, và đặc biệt làm cho quả sấu vàng ươm, chua ngọt- một lọai quả chỉ có ở Hà Nội, một loại quả len lỏi từ nhà hàng đặc sản đến bữa ăn đạm bạc bình dân, hấp dẫn từ quí cô quí bà đài các đến em bé bán rong trên hè phố.
Và nói đến mùa thu Hà Nội là phải nhắc đến cốm làng Vòng… Mỗi lần Hồ Gươm lăn tăn ánh vàng nắng thu, thì phố phường Hà Nội lại thấy xuất hiện cái bóng dáng của người gánh đôi thúng cốm Vòng tiến vào theo đường cửa ô Cầu Giấy. Đôi quang gánh nhẹ như gánh mây chỉ có nắm rơm xanh mướt, chiếc lá sen hồ Tây to đùng đậy hững hờ. Nếu nói rằng: cốm là một món ăn đặc trưng của nghệ thuật ẩm thực đất Hà Thành, thì làng Vòng chính là cái nôi của món ăn đặc trưng này. Nhiều người đã cảm nhận được một điều: mùa thu Hà Nội như trong hơn, tinh khiết hơn, nhờ hương thơm từ những lò cốm làng Vòng… Những hạt cốm xanh ngọc trong đến nõn nà mang hương trời khí đất, cả hồn quê và huyền thọai làng được bọc bằng lá sen phảng phất hương thơm thóat tục, bên ngòai buộc thêm một vài sợi rơm không quá chặt, không quá lỏng – trở thành một món quà dân dã mà quý của người Tràng An – Hà Nội. Dù bán ít bán nhiều, những mẻ cốm làng Vòng bao giờ cũng ngon đặc biệt, không pha tạp. Hạt cốm mềm, dịu dàng một vị ngọt tinh khiết thường được ăn kèm với chuối trứng cuốc. Người Hà Nội thường nhâm nhi từng hạt cốm để cảm hết hương vị trời, đất, đồng quê và nắng gió trong hạt cốm. Rất nhiều người xa xứ khi thăm lại Hà Nội đều muốn hít hà hương cốm để tận hưởng cảm giác trở về đất mẹ… Cốm còn được làm thành bánh chằng lên một múi lạt chữ thập nhuộm đỏ cánh sen để gửi đến ngõ nhà người yêu, để đặt trên bàn tiệc cưới, đám hỏi…Có câu chuyện kể về lai lịch cốm Vòng: từ rất lâu, vào một năm giáp hạt đói kém, một gia đình ở làng Vòng thuộc phường Dịch Vọng – quận Cầu Giấy bây giờ, vì đói quá nên phải lấy một nắm lúa nếp non rang lên để ăn tạm, thì thấy có hương vị thơm ngon lạ lùng. Nhà nọ truyền tai nhà kia, và cốm Vòng ra đời từ đó. Các nhà văn Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng đều có những trang viết thật hay về cốm làng Vòng…
Tháng chín là tháng mà nhà văn Vũ Bằng trong Thương nhớ mười hai đã phải tự hỏi: ”làm sao đến tháng chín, có nhiều cái thú ý nhị thần tiên thế nhỉ?” Trước cảnh nhà trai đem hồng đỏ chói chang và cốm xanh biêng biếc đến sêu tết nhà gái, nhà văn đã ngẩn ngơ: ”Nhìn những mâm hồng và cốm tốt đôi, ai cũng cảm thấy lòng mình nở hoa và kính sợ tổ tiên ta hơn lên một chút, vì sao các cụ lại có thể lựa chọn tài đến thế trong việc chơi màu sắc, đồng thời lại đem cho nhân duyên của trai gái một ý nghĩa đậm đà đến thế…” Và không ai miêu tả hấp dẫn hơn nhà văn Vũ Bằng cái thú săn chim ngói, và tục lệ cúng món chim ngói hầm cùng cơm mới gạo Tám Cói ở đất Bắc – Hà Nội trong tháng cuối mùa thu…
Đó cũng là tháng của những cơn mưa bóng mây… Mưa bóng mây không chỉ là một hiện tượng thời tiết quen thuộc của mùa thu, mà còn đi vào tâm hồn của người Hà Nội như một sắc thái của tình cảm:
Khoảng trời em mưa thưa bóng mây
Mưa khó hiểu như tình ta buổi ấy
Cơn mưa giận, cơn mưa thương biết mấy
Nhớ nhung gì cho ướt áo người xa…
( Thơ Quang Huy)
Nhưng cơn mưa bóng mây đa tình đó cũng còn được gọi là mưa rươi.
Rươi là thực phẩm làm ra món chả rươi – món ăn của “một thiên nhiên chuyển mùa, đẹp đến não nùng, mê đến xôn xao trong dạ”, một món ăn mà người Hà Nội vốn sành ăn mê nhất– như nhà văn Băng Sơn từng khẳng định! Sinh thời, nhà văn Nguyễn Tuân vào cữ rươi này thế nào cũng phải có mặt ở cái quán rươi ám khói ở phố Huế, nhón hai ngón tay nâng chiếc chả rươi lên… Mùa rươi, cứ chiều chiều lại có những phụ nữ bán rươi rong rao vang khắp phố phường những lời hối thúc, mời gọi. Một cô gánh rươi đi trước, bà đứng tuổi đi sau tay cầm một cái bát đong rươi, tay kia xách chiếc liễn nước để nhúng tay…Rươi nấu cùng củ cải, hoặc cùi gấc xanh, khế mọng vàng, và không thể thiếu món đầu vị là vỏ quýt vàng ươm! Cứ tầm tháng chín, tháng mười, khi đêm về, dọc vỉa hè Hà Nội có những cô bán hàng nhanh tay đảo những hạt dẻ trên ánh than hồng. Có hai loại là hạt dẻ to và hạt dẻ nhỏ. Mỗi loại có một vị thơm đặc trưng rất thú vị, và đều là thứ hạt dân dã, mộc mạc – thứ hạt dù được chế biến thế nào cũng vẫn giữ nguyên được hương vị đặc trưng của nó… Nó là món quà dành cho nhau của mọi lứa tuổi trong tiết trời thu se lạnh đêm vắng, khi mà người ta cảm thấy cần hơn hơi ấm của người thân. Đôi tình nhân, người cha, người mẹ, người chị…dừng xe mua hạt dẻ dù đã muộn… Đây cũng là món quà vặt rất được các bạn sinh viên xa nhà ưa chuộng vì vị thơm ngon và giá cả vừa phải…
Thu Hà Nội còn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, nhạc họa từ xa xưa tới hôm nay.
Bài thơ Nôm Mùa thu của Ngô Chi Lan trongHồng Đức quốc âm thi tập dành trọn cho việc tả cảnh thu của kinh thành Thăng Long
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa…
Trong phần phim Mùa xuân Hà Nội, chúng ta đã có dịp nói qua về Bà Huyện Thanh Quan khi dừng trước những con chim sâm cầm Hồ Tây lặn ngụp. Chính bà đã có công trong việc phá bỏ lệ tiến cống chim sâm cầm, trả lại cho Hồ Tây một vẻ đẹp  hiếm có của thiên nhiên Thăng Long- Hà Nội. Bà Huyện Thanh Quan còn là một nhà thơ người Long thành chính gốc mà lịch sử văn học cổ – trung đại Việt nam buộc phải nhắc đến. Thơ của bà là thơ mùa thu và chiều tà, và hầu hết đều mang một giá trị nghệ thuật đặc sắc. Bà đã nhiều lần Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu… Thời gian mùa thu tượng trưng cho sự tàn tạ, và sự tàn tạ đó lại gắn với một không gian đổ nát, hiu quạnh là kinh đô Thăng Long- lúc bấy giờ lại trở thành cố đô. Mặc dù trĩu buồn về những cảnh tượng đó, nhưng thi nhân vẫn thấy được vẻ đẹp của sự tiêu vong:
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Tâm trạng này cũng giống như của các nhạc sĩ Hà thành như Văn Cao, Cung Tiến, Zoãn Mẫn trong những bài hát Tàn thu, Hương xưa, Biệt ly – đặc biệt là của thi sĩ nổi danh Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu – người huyện Ba Vì Hà Nội trong bài thơ Cảm thu tiễn thu:
Lá sen tàn tạ trong đầm
Lặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Nhưng đó là những mùa thu đã xa…Trong những mùa thu nay của Hà Nội, nhà thơ đã nghe được hương cốm mới và trong vắt nói cười thiết tha ( Thơ Nguyễn Đình Thi). Những ngươì nghệ sĩ của thời đại mới đã cảm nhận được trong mùa thu Hà Nội không chỉ vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên mà còn cả cái sức sống vươn lên của một dân tộc sau khi  Rũ bùn đứng dậy sáng lòa …
Cố nhạc sỹ tài hoa Trịnh Công Sơn, bằng sự rung động của một tình yêu hết sức tinh tế đã miêu tả thu Hà Nội trong hiện tại thật gợi cảm, và nói hộ nhiều người từng yêu mùa thu Hà Nội qua giọng hát của ca sĩ Cẩm Vân:
Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ,
Nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu.
Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội,
Mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió,
Mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ,
Cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua.
Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi.
Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời… 

HÀ  NỘI  MÙA  ĐÔNG

Trong một thiên tuỳ bút đặc sắc viết về mùa đông Hà Nội, cố nhà văn Băng Sơn đã viết những dòng giống như lời trăng trối cho đời:“Phải cảm ơn ai đây, trái đất, vũ trụ hay thượng đế, ông trời và tổ tiên đã chọn nơi này cho ta có một đất nước quê hương mỗi năm có bốn mùa rõ rệt, nhất là Hà Nội, nắng thì thật nắng, thu thì thật thu, và mùa đông là niềm trữ tình đầy hoài niệm… Ta đang ăn mùa đông, uống mùa đông, ta giơ tay ra nhận lá thư từ trời gửi về màu đỏ lá bàng hay màu vàng cây cơm nguội, lá thư là tín sứ, là nhịp đàn thăng hoa trong không gian tìm người tri âm tri kỷ… Mùa đông Hà Nội, đến một cột đèn cũng thành kỷ niệm đời người, một tiếng rao khuya cũng rền vang tâm tưởng…”
Mùa Đông- mùa của nỗi buồn tuyệt vọng trong cuộc đời cũ, mùa dễ gợi lên sự chiêm nghiệm về những điều tàn tạ …Chúng ta hãy nhớ lại các nhạc phẩm bất hủ thời tiền chiến, như Đêm Đông, Con thuyền không bến… cùng những bức tranh Phố của danh họa Bùi Xuân Phái… Đó là mùa sương mù phủ dày đặc trên mặt nước hồ Tây- lý do để hồ được mang tên hồ Dâm Đàm, tức hồ mù sương- và cũng là một nguyên cớ để những kẻ xấu tạo dựng nên một vụ án đã vấy bùn lên thanh danh của bậc công thần ái quốc Lê Văn Thịnh trong suốt chín trăm năm…
Có ai đó đã viết: đông về, những mái nhà cổ như tựa trên vai của sự giá lạnh mà trầm ngâm suy nghĩ…Hà Nội mùa đông là Hà Nội nhớ về những ngày xưa- khi Hà Nội còn vắng lắm. Và cho đến hôm nay, khi mùa đông đến, Hà Nội vẫn có vẻ gì trầm lắng, suy tư như một người hoài cổ… Nhà thơ Lưu Trọng Lư từng nói hộ nhiều người cái khắc khoải trong những ngày và những đêm kỳ lạ của mùa đông Hà thành cũ:
Yêu hết một mùa đông
Nhìn nhau mà chẳng nói…
Dẫu buồn, nhưng đó phải chăng cũng là một sắc thái của mùa để góp phần tạo nên cái mà chúng ta vẫn gọi trân trọng là Hồn phố, Hồn sâu Hà Nội?
Người Hà Nội đã quen với khí hậu bốn mùa, cho nên khi mùa đông trở về chỉ như gặp lại bạn cũ… Những cơn gió mùa đông bắc đột ngột tràn về, lùa vào trong da thịt cái không khí tê tái lạnh run người. Những đàn chim đang mải miết bay về phương nam tìm gió ấm. Hà Nội vào đông, ban ngày nắng ấm nhè nhẹ và trời se se lạnh như không khí khô mát của mùa thu. Rồi phố giăng lạnh trong những làn mưa phùn kèm theo gió bấc thổi như găm kim vào da thịt. Mưa không đủ làm ướt áo người đi đường, chỉ bám trên mi mắt, trên tóc như sương nhưng khiến người ta thêm lạnh và càng mong sớm trở về với sự đoàn tụ ấm áp gia đình bên nồi cơm thơm tỏa khói- như nhà văn Vũ Bằng từng ao ước trong thiên tùy bút Tháng mười- nhớ gió bấc mưa phùn… Gió đầu mùa mới về, nhưng chẳng lâu nữa, phố xá sẽ lạnh hơn, cảnh vật trở nên sầu muộn hơn với bầu trời nặng màu chì trôi lang thang cùng gió bấc ào ạt… Lúc này, rặng liễu vẫn còn duyên dáng xanh mướt trong cái lạnh đầu mùa, hững hờ rủ sát mặt nước Hồ Gươm giờ đã trở nên bình lặng hơn và đang lặng lẽ soi bóng Tháp Rùa cổ kính cùng những cành cây trụi lá… Những bông hoa điệp còn vương lại, những chùm quả bàng chín vàng ửng treo lủng lẳng trên cành ở phố Quán Thánh, Tràng Thi, những cành cây cơm nguội ở Bờ Hồ và Lý Thường Kiệt rung rinh trong gió, như có vẻ như không muốn rời đi, chúng làm dịu bớt cái màu xám của mùa đông và đem lại cảm giác ấm áp trong cái lạnh của gió mưa khi đông về ngập phố phường…
Lập đông, Hà Nội có những điều thi vị được tạo nên bởi những gam màu và hương vị say đắm là lạ, gợi cho những người con xa Hà Nội một nỗi nhớ thật khó tả. Có người đã miêu tả một cách văn vẻ nhưng khá chính xác: không ồn ào náo nhiệt như mùa Hè, không nồng nàn say đắm như mùa Thu, không tươi trẻ đầy sức sống như mùa Xuân, mùa Đông Hà Nội mang chút lạnh lùng nghiêm nghị nhưng cũng không kém phần duyên dáng như người thiếu nữ Hà Nội.
Cái lạnh kèm sương muối làm cây cối úa héo. Những hàng cây xanh bên đường ngày nào giờ đang rũ cành trút lá, vẽ lên giữa màn mây xám xịt những cành khẳng khiu tựa bức tranh thủy mặc. Cây bàng mà mới hôm nào trẻ con thường hái quả vào độ giữa thu, bây giờ trơ trọi thân với cành, chỉ còn lại một chiếc lá đỏ ối sắp rụng. Những lá me vàng rơi  lả tả trên vai áo khách bộ hành. Những con đường vắng, lá khô trút ngập trên bước đi… Tiếng chim hót vui tai thường ngày khi chúng ta dạo bước mỗi sớm mai không còn nữa. Buổi sớm tinh sương Hà thành trở nên vắng vẻ hơn bao giờ hết. Những người phải ra đường sớm thường phải chịu cái lạnh buốt của gió và mưa khắp các con phố. Sau đó, trời hửng dần. Đường khô lại trong cái rét ngọt khô khan của gió hanh. Mùa đông ở Hà Nội, mặt trời thức dậy muộn hơn. Nhưng khi đó dường như nắng cũng dịu dàng hơn, tinh khiết hơn trong những công viên, hay ở những ban công mà giọt sương đêm còn đọng lại trên những cánh hoa… Nhiều người đều có nhận xét chung: dù lạnh lẽo, nhưng gió sớm mai chưa nhuốm bụi đường lại mang trong mình cái hương vị trong trẻo, ngọt ngào rất kỳ lạ. Sương và khói của trời đất lúc này như hoà quyện nhau tạo một cảm giác lung linh, mờ ảo đối với ngay cả những người ít có tâm hồn lãng mạn nhất… Nhiều bức ảnh đẹp chụp về Hà Nội- đặc biệt là về hồ Gươm vào mùa này đều có sức gợi sâu xa, và đều mang dáng dấp của những bức tranh lụa của các họa sĩ Việt Nam bậc thầy.
Còn khi đêm xuống, mùa đông lại tạo cho Hà Nội một sắc màu và hương vị lạ lùng…Ai đó đã từng nói thật chí lý: hương đêm Hà Nội là bản giao hưởng của hoa, của gió, của sương, của đèn đường mờ tỏ và của tâm hồn con người khi yên tĩnh – nhất là trong những đêm đông…
Mùa đông Hà Nội vốn nổi tiếng với những quán vắng, những con đường mưa bụi, và chúng đã đi vào nhiều tác phẩm thơ ca, nhạc họa, nhiếp ảnh rung động lòng người:
…Hà Nội mùa này chiều không buông nắng
Phố vắng nghiêng nghiêng cành cây khô
Quán cóc liêu xiêu một câu thơ
Hồ Tây, Hồ Tây tím mờ…
Những người trẻ tuổi Hà Nội dường như luôn luôn đợi chờ cái lạnh đích thực của mùa đông để được phô diễn quần áo. Người Hà Nội tinh tế trong cách lựa chọn trang phục, những màu sắc của khăn áo đã làm cho cái lạnh của mùa đông mang một phong vị rất riêng, và phá đi cái ấn tượng xám xịt bởi không gian thiếu ánh nắng mặt trời…
Gió lạnh đầu mùa, các quán cà phê và các quán trà nóng dường như đông hơn mọi khi. Cái lạnh dường như thúc giục đôi chân đi tìm chốn xưa bạn cũ, để náu mình bên một ấm trà sen bay hơi còn thoang thoảng hương mùa hạ… Chúng ta hãy chọn một quán cà phê giản dị trong ngõ phố cổ, xoa hai bàn tay vào nhau để xua bớt giá lạnh, ngắm từng giọt cà phê rơi và liên tưởng tới cái nắng chan hòa thiêu đốt của miền Trung trung bộ…
Và ở một qúan trà nóng vỉa hè này, khi xuýt xoa nhấp từng ngụm trà nóng hổi, chúng ta hãy ngắm nhìn không khí Hà Nội đón Mùa lễ giáng sinh trong giá lạnh- cái không khí đã trở nên quen thuộc tự bao giờ khiến ai cũng phải ấm lòng! Phía trong nhà thờ Lớn thu hút rất đông người tới. Trên các đường phố, không khí đón Giáng sinh rộn ràng.Với không ít người trẻ tuổi, Giáng sinh là dịp vui vẻ gặp mặt, hội hè hay tặng quà cho những người yêu quý. Càng về khuya, đường phố càng đông hơn. Dòng người vẫn đổ về các nhà thờ của thành phố. Trời càng về đêm càng giá lạnh, làm cho đêm Giáng sinh thật gần gũi. Trên những phố lớn và tại những trung tâm vui chơi, mua sắm, vẫn có nhiều gia đình tìm đến chụp ảnh lưu niệm với ông già tuyết và cây thông khổng lồ.
Thời khắc chuông ngân từ phố Nhà Chung đồng vọng cùng nhịp chuông nhà thờ Cửa Bắc, nhà thờ Hàm Long… cũng là lúc những tràng pháo tay nổi lên cùng những lời chúc tụng. Nhiều người tranh thủ thời khắc đặc biệt này bắt đầu nhắn những dòng tin yêu thương tới cho bạn bè, người thân với những lời tốt đẹp nhất và luôn cầu chúc cho một năm mới hạnh phúc, thành đạt và yên lành.
Mùa đông Hà Nội hôm thì rét buốt đến tê người, hôm thì ấm hơn, nhưng vẫn lạnh vượt quá sức chịu đựng của không ít người già và trẻ em. Tuy thế lại có những người yêu mùa đông cuồng nhiệt. Đó là những  chàng trai cô gái rất trẻ được biết trên Sapa lạnh tới 1 độ C, có băng tuyết, thế là rủ nhau đi du lịch- giữa ngày Hà Nội lạnh tới 5 độ C. Đi khám phá mùa đông ở nơi khác để thêm hiểu và thêm yêu mùa đông Hà Nội, đó quả là một nét tâm lý thật đặc biệt và cũng thật đáng yêu của thanh niên Hà Nội thời A- còng !
Những đôi tình nhân cũng là đối tượng rất yêu mùa đông Hà Nội.. Đêm đông Hà Nội dường như càng lung linh hơn và toả ra cái ấm áp từ những ngọn đèn cao áp, từ những đôi lứa say đắm bên nhau dưới những hàng ghế đá ven bờ hồ Gươm, hồ Thiền Quang, hồ Tây, hồ Thủ Lệ, sân vận động Mỹ Đình…
Thật có lý khi khẳng định:  thời tiết lạnh nhất chính là lúc mùa đông Hà Nội quyến rũ nhất… Có người đã tâm sự rằng rất thích lang thang qua những con phố vắng Hà thành để tận hưởng cái thú của người lãng tử “đêm đông lê gót phong trần tha phương”- như lời của một bài hát quen thuộc. Và có không ít người còn quả quyết: không ra thăm Hà Nội vào mùa đông, nghĩa là còn chưa biết gì về Hà Nội.
Một người xa Hà Nội nhiều năm đã nhớ lại và định nghĩa như sau về mùa đông Hà thành:
Bốn mùa trong năm, không mùa nào có nhiều tên gọi như mùa đông: Mùa khói, mùa của nỗi nhớ, mùa ấm áp – lạ thế, cái lạnh mới khiến người ta nhận ra sự ấm áp, đó còn là mùa cưới, mùa yêu, mùa kỷ niệm. Vậy nên người ta còn gọi mùa đông là mùa của cảm xúc…
Một cậu học trò mơ mộng sống ngay giữa thủ đô lại viết về mùa đông như một người dày dặn trường đời:
 Mùa đông Hà Nội thanh bình, tĩnh lặng, không ồn ào, réo rắt – chỉ một màu đơn giản – màu trầm mặc của thời gian phủ theo năm tháng, đưa Hà nội trở lại những ngày xưa êm đềm…
Một Việt kiều xa tổ quốc khi nhớ về mùa đông Hà Nội đã ngậm ngùi:
Tôi sẽ về với tách cà- phê bên hồ ngồi nhìn lá phượng úa rơi theo gió. Những con đường không có nắng, những hàng cây rụng lá, những góc phố, ngôi nhà trầm mình trong tiết trời ảm đạm…nhớ những hạt mưa lạnh thấu xương, nhớ chén trà nóng bên quán cóc ven đường, nhớ cô bạn cũ khi còn tay trong tay nồng ấm… Hình ảnh đó không nơi phồn hoa nào thay thế được…
Một người Hà Nội sống ở Sài gòn, khi đông về đã nhớ nhung:
Giữa Sài Gòn những  ngày tháng Mười hai, tôi lại nhớ Hà Nội đến cồn cào – chỉ bởi một điều rất đỗi giản đơn: Tháng Mười hai Hà Nội thực sự bắt đầu lạnh- cái lạnh nhắc nhớ cho lòng người thêm phần gần gụi và biết yêu thương nhau nhiều hơn… Chẳng phải vô lý khi nói rằng, đây là mùa của tình yêu, của hạnh phúc gia đình.
Ở Hà nội mùa đông, thành phố đi ngủ sớm. Nhưng đó cũng là lúc các bếp lửa di động của gánh hàng ăn đêm trên nhiều con đường bắt đầu hoạt động. Vẳng trong đêm khuya vài tiếng rao lảnh lót, những người bán bánh dạo còn chưa về khi thúng hàng chưa bán hết… Mùa này, người Hà Nội vẫn thường rủ nhau ăn quà vặt bằng những món ăn rất đặc trưng: ốc luộc, sắn hấp dừa , quẩy nóng, ngô nướng, nộm, bánh trôi tàu, chân gà nướng. v.v – những món quà vặt dân dã vừa rẻ lại vừa hợp với cái lạnh của không khí mùa đông Hà Nội.
Song, một bát phở nóng hay bát bún ốc cay xè vẫn là lựa chọn số một của người Hà Nội vào mỗi buổi sáng hay ban đêm lạnh giá. Và Phở Hà Nội mới thực sự là đặc sản, là món ẩm thực đặc biệt- đặc biệt từ nguyên liệu, cách chế biến, cách bán rao cho tới cách thưởng thức, khiến nhiều du khách nước ngoài ngạc nhiên thú vị và say mê… Phở là một món ăn không thể thiếu cho dù tiết trời đông hay hè, nhưng có lẽ, vào mùa đông người ta mới cảm nhận được hết hương vị của nó. Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết về Phở Hà Nội như sau: “Mùa nắng ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt thắm tươi lại…” Một bát phở nóng thơm ngon cần tới cách chế biến rất cầu kì. Nhà văn Vũ Bằng trong Món ngon Hà Nội đã miêu tả: “Nếu là gánh phở ngon thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh, ớt với hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa”. Những người lớn tuổi chắc không ai có thể quên những gánh phở rong trên đường phố và tiếng rao của người bán đêm, chúng tạo nên ký ức sâu thẳm của đời người…
Đó là nói qua về văn hóa ẩm thực tinh tế của người Hà Nội mùa đông. Còn sự sành điệu trong thưởng thức nghệ thuật-  nhất là thưởng thức hoa của người Hà Nội thì chắc chẳng đâu sánh bằng!
Trong phần phim Mùa xuân Hà Nội, chúng tôi đã có dịp nói nhiề
u về thú chơi hoa, cũng như cung cách chơi hoa của người Hà Nội. Còn bây giờ, vào đêm cuối năm, chúng tôi muốn đưa khán giả tới thăm một chợ hoa đêm- nơi cung cấp hoa chủ yếu cho thành phố, để mong hiểu thêm về mùa đông bình dị đất Hà Thành, và để có dịp được sống với những con người quen “ăn nửa bữa, ngủ nửa giấc” như bao đời nay: đó là chợ hoa Tứ Liên- Quảng An – quận Tây Hồ nằm ở một bãi trống đê sông Hồng, một chợ hoa tấp nập họp gần suốt đêm, vào tất cả các ngày trong năm bất kể mưa gió – chỉ trừ đêm Giao thừa. Hoa được mang đến từ các làng quanh nội thành Hà Nội: Ngọc Hà, Đại Yên, Tây Tựu, Quảng Bá, Nghi Tàm, Gia Lâm… và từ các nơi xa: Đông Anh, Sóc Sơn, Mê Linh, v.v. – những làng hoa nổi tiếng từ hàng trăm năm nay đủ sức cung cấp hoa tươi cho cả Hà Nội và góp vào đời sống văn hoá, đời sống tâm linh của Hà Nội những nét riêng biệt. Đủ các loại hoa trong chợ hoa này để phục vụ từ giới bình dân tới lớp quý tộc, thỏa mãn được tất cả mọi khiếu thưởng thức hoa và tất cả những nhu cầu của đời sống tinh thần…Tại đây, dường như cả người bán hoa lẫn người mua hoa đều quên đi cái giá lạnh đêm đông để sống với sinh mệnh của hoa tươi- cái sinh mệnh sẽ làm cả thành phố bừng sáng và rực rỡ trong buổi sớm mai…
Như thế là, mùa đông Hà Nội không chỉ gợi lên sự yên tĩnh thẳm sâu, mùa đông Hà Nội còn bộc lộ một sự sống náo nhiệt, lam lũ và khỏe khoắn của những người lao động góp phần đem lại vẻ đẹp cho Thủ đô…
Và trong khi sống với chợ hoa đêm Hà Nội, chúng ta không thể không nhớ tới một khu chợ đặc biệt giờ đã trở thành kỷ niệm khó phai mờ của người Hà Nội, đó là chợ Âm phủ- tức là Chợ 19 tháng 12- nằm ở quận Hoàn Kiếm (thuộc Liên khu I cũ). Cái tên “nghĩa địa Âm phủ” do dân gian đặt ra không phải ngẫu nhiên, khi bên cạnh nó sừng sững Tòa án thực dân và nhà tù Hỏa Lò. Từ đêm 19-12 mùa đông năm 1946, khi cả Thủ đô trở thành một pháo đài chống trả lại âm mưu thôn tính Hà Nội trong vòng 24 giờ của bọn xâm lược Pháp, khu nghĩa địa Âm phủ cũng biến thành một chiến hào thực sự. Những nấm mộ vô danh và hữu danh cũng biến thành nơi đặt ụ súng, chỗ kê bàn tủ đồ đạc làm vật chướng ngại ngăn xe thiết giáp địch của các chiến sĩ cảm tử Vệ quốc đoàn.
Cuộc chiến đấu dũng cảm và không cân sức kéo dài được gần hai tháng thì Trung đoàn Thủ đô rút đi qua gầm cầu Long Biên, để gần 10 năm sau trở về với lá cờ chiến thắng tiếp quản Thủ đô… Suốt thời gian thành phố bị địch chiếm đóng, cái nghĩa địa nhỏ ấy có tên là “Mồ nạn nhân chiến tranh.” Sau ngày Giải phóng thủ đô, nó được đổi thành: “ Mồ liệt sĩ và nhân dân Hà nội đã hy sinh trong ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946”. Theo quy hoạch mới, nghĩa trang Lý Thường Kiệt được bốc đi để phố ấy bỏ không một thời gian. Rồi một cái chợ dần dần hình thành. Từ chỗ chỉ là một “chợ tạm, chợ rau xanh”, khu chợ đó trở thành một Chợ bề thế, có tên tuổi. Nhưng khu chợ vẫn mang nhiều nét dân dã đáng yêu, vẫn là một chợ dân sinh phục vụ đông đảo các tầng lớp nhân dân thành phố. Điều đặc biệt nhất là, ở khu chợ này, những ” đặc sản bốn mùa” của nội ngoại thành Hà Nội bao giờ cũng có đủ. Và dường như có một cái gì thiêng liêng, huyền bí từ những âm hồn liệt sĩ đã thầm bảo ban dẫn dắt người buôn bán luôn luôn hành động theo cái thiện, cái đẹp của đạo lý – bất chấp những biến thiên thời cuộc và sự báo nháo đời thường… Khu chợ nay đã trở thành dĩ vãng, song những giá trị tinh thần chúng để lại sẽ mãi mãi còn làm ấm áp lòng người…
“Đây lắng hồn núi sông ngàn năm…” Sự bất tử của sông núi không chỉ bởi vòng quay không thay đổi của bốn mùa, mà còn bởi mồ hôi xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam đã đổ xuống đất này…
Để chia tay mùa đông Hà Nội, chúng ta hãy đến với cái Tết cổ truyền dân tộc khi mùa xuân tới, trong vòng quay tuần hoàn của Đất – Trời…
Nhà văn Vũ Bằng khi ở phương Nam xa xôi đã nhớ về Tháng chạp nhớ ơi chợ Tết trong tác phẩm Thương nhớ mười hai độc đáo của mình, ông  kể lại những kỷ niệm tuổi thơ mùa đông miền Bắc, mùa đông Hà Nội, trong đó có chuyện mua sắm, tranh dành những bức tranh gà lợn Đông Hồ, Hàng Trống, chuyện chuẩn bị lễ cúng tiễn ông Táo lúc giáp Tết nguyên đán- một tục lệ có xuất xứ từ một truyền thuyết dân gian Việt Nam cảm động. Với tục tiễn Táo quân lên thiên đình, Vũ Bằng đã có một khái quát xã hội mà cho đến hôm nay càng thấy rõ tính thời sự sâu sắc, thấm thía như sau: “bếp của ông Táo là tượng trưng cho gia đình, cái bếp là đơn vị nhỏ nhất của xã hội. Cái gia đình ấy, cái đơn vị ấy đồng nhất từ Bắc vào Nam cho nên không có kẻ nào chia rẽ được Nam với Bắc…”
Cùng với lễ tiễn Ông Táo, những hoạt động mua sắm, dọn dẹp, trang hoàng chuẩn bị cho Tết Âm lịch của người Hà Nội đã vô tình công bố với Thiên nhiên bốn mùa sự say sưa và kính cẩn chờ đón một mùa Xuân mới sắp sang…
Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn





·         Trang tiếng Anh(114)
·         Triết lý Việt (16)
·         Video & PPS (1 968)
·         Văn (442)
·         Văn Hóa (3 302)
·         Y tế (123)
·         ĐCN (17)
·         Đường thi (20)


·         5,849,701 lượt đọc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà thơ ...