Thân phận, quê hương và tình yêu trong ca khúc
Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn – chỉ cần một cái tên, không kèm theo chức danh hay một
lời chú giải nào cả, thì công chúng của hơn hai thập niên cuối thế kỷ XX, từ
già đến trẻ, từ trí thức đến người lao động bình thường… hầu như ai cũng biết
ông là ai.
Những chữ nghiêng là lời bài hát, trả lời phỏng vấn hay tự bạch
của Trịnh Công Sơn.
Ông là ai? Giới văn
nghệ sĩ thân ái gọi ông là: Người thơ ca (Văn Cao), Người tình lãng du của
nhiều thế hệ (Hoàng Phủ Ngọc Tường), Thiền sư du ca (Đỗ Minh Tuấn), Ông hoàng
tình ca (Nguyễn Trọng Tạo), Thi sĩ của âm nhạc, hay Nhạc sĩ của thi ca. Còn ông
trả lời theo cách riêng: “Tôi chỉ là tên hát rong đi qua miền đất này để hát
lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo…” Chẳng phải vô cớ nhiều
nhà thơ đã gọi Trịnh Công Sơn là thi sĩ. Ca từ trong nhiều bài hát của ông tách
rời khỏi giai điệu vẫn đẹp như một bài thơ.
Riêng điều đó đã cho thấy
vị trí ca từ đặc biệt đến mức nào trong nhạc Trịnh. Nổi lên trong nội dung lời
ca của Trịnh Công Sơn là các chủ đề: thân phận – quê hương – tình yêu. Ranh
giới giữa các chủ đề không phải lúc nào cũng phân định rõ ràng. Trong quê hương
có Em, trong tình yêu Em có tình yêu xứ sở. Trong tình yêu cho riêng Em, cũng
như trong tình yêu nhân thế luôn có Tôi, gắn liền với thân phận Tôi, thân phận
một đời người, và đôi khi thân phận một đất nước. Thân phận Cái làm cho ca khúc
Trịnh Công Sơn độc đáo khác thường trước hết là nhờ nhân vật “Tôi”.
Cái Tôi xuyên suốt mọi
chủ đề và hình ảnh Tôi hiện lên trọn vẹn nhất trong những bài hát nói về thân
phận, về kiếp luân hồi và giải thoát bản ngã. Tôi là ai? Đã hơn một lần nhân
vật Tôi ấy lặng lẽ nhìn lại mình. Phải trả giá bằng những năm tháng trẻ thơ đầy
ảo tưởng, ngày nay không còn be tôi mới chợt nhìn ra tôi, thấy tôi như chiếc
bóng phai mờ, như vết mực nhòe, như hòn đá nặng tình cờ rớt xuống mịt mùng, và
tôi cứ trôi trong cuộc đời… không chờ ai. Trời cao đất rộng Một mình tôi đi Một
mình tôi đi Đời như vô tận Một mình tôi về Một mình tôi về với tôi (Lặng lẽ nơi
này) Hết âm thầm gõ buồn gót chân hành hương bóng đổ một mình, tôi lại khép cửa
quỳ bên vết thương, nhốt mình trong căn gác đìu hiu, soi bóng mình giữa tường
trắng lặng câm, rồi một hôm chợt thấy hoang vu quanh mình mà thốt lên: Ô hay
mình vẫn cô liêu! Hiu quạnh, lạnh lùng, im vắng, tịch lặng, băng giá, xa lạ, xa
vắng, lặng câm, hư vô, hun hút, lẻ loi, âm u, lạnh lẽo, bơ vơ, lạc loài…
Bao nhiêu tính từ kiểu
đó cứ chồng chéo, vây bủa lấy thân phận Tôi, đan kết thành một tấm lưới vô hình
khổng lồ có tên là Cô đơn. Nhiều người đã nói đến màu sắc của triết lý Phật
giáo và triết học hiện sinh trong ca từ Trịnh Công Sơn. Chẳng phải ông đã từng
thừa nhận: “Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những
ca khúc của mình” đó sao. Nhưng đây là một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai
cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru con của mẹ. Chẳng phải ông
đã cho rằng: Hiện sinh chân chính đâu phải xấu, và bậc thượng thừa của hiện
sinh chính là ông Phật. Nhưng hoàn toàn không phải kiểu hiện sinh sống gấp và
phản kháng bằng nổi loạn đập phá mà là một sự phản kháng tiềm tàng trong suy
nghĩ để được sống bình tĩnh trong từng sát na, thức tỉnh và ơn đời.
Một phát hiện của nhà
thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường: nỗi đau phận người được nhà Phật gói lại trong bốn từ
sinh – lão – bệnh – tử đều có mặt trong lời ca của Trịnh Công Sơn. Đúng vậy.
Chẳng mấy khó khăn để lượm nhặt đủ bốn chữ của nhà Phật trong lời ca của “vị
thiền sư” này. Chữ sinh ẩn náu trong cây non trên núi đầu thai, lẩn khuất trong
tiếng khóc cười của bào thai. Chữ sinh nằm trong hạt bụi vươn hình hài lớn dậy,
cất lên tiếng khóc ban đầu đề báo tin buồn mẹ cho mang nặng kiếp người. Vừa
sinh ra, con người đã lập tức khởi đầu một quá trình lão hóa. Từng tuổi xuân đã
già, để chợt một chiều tóc trắng như vôi và chấp nhận có một bạc đầu tôi đi,
tôi đi. Chữ lão chập chờn trên lau trắng trong tay, trên tóc người dòng sông
xưa ấy đã phai. Chữ lão được viết trên chiếc lá thu phai, trên mặt trăng đã
già, trên cuộc đời đã phủ rêu phong. Đời người là một nỗi đau triền miên, với
những cơn đau chưa dài và những cơn đau lên đầy.
Những cơn đau dài, đau
vùi ấy đã khắc sâu trăm vết thương sầu cho một con tim tật nguyền, một thân thể
mệt nhoài, gối chân mê mỏi. Chữ bệnh như ám vào tấm thân đau muốn nằm, vào từng
chiều lên hấp hối. Dấu chấm cho một kiếp rong chơi trên cõi tạm là cái chết.
Cái chết không khoác áo choàng đen, mang bộ mặt khủng bố bên lưỡi hái lạnh
lùng. Với Trịnh Công Sơn, cái chết quen thuộc như một chốn trở về nghỉ ngơi sau
chuyến đi hoang tạm bợ: Tôi nay ở trọ trần gian Trăm năm về chốn xa xăm cuối
trời. (Ở trọ) Nhiều người nhận thấy Trịnh Công Sơn hay “nói dại miệng” về
chuyện “nằm xuống”. Cứ như thể biết trăm năm chỉ ở đậu ngàn năm nên ông sốt ruột
còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây, còn bao lâu cho thiên thu xuống
trên thân này. L
uôn quan tâm đến cái
ngày thân xác không còn chẳng phải vì chán sống, trái lại, ông nghĩ đến cái
chết nhiều là vì quá yêu cuộc sống. Mà cái chết lại rất gần gũi sự sống, ngay
trong xuân thì ông đã thấy bóng trăm năm rồi. Chữ tử cứ treo lơ lửng trong giấc
ngủ, để giật mình tỉnh ra lại nói gở: Thí dụ bây giờ tôi phải đi, tôi phải đi
chia ly cùng đời sống. Ông muốn nhìn nhận cái ngày về nơi cuối trời làm mây
trôi đó một cách bình tĩnh, không sợ hãi, không ân hận. Cũng tự nhiên như lá úa
trên cao rụng đầy, cái việc cho trăm năm vào chết một ngày được đón nhận bằng
một thái độ bình thản lòng không buồn mấy, hệt như một giấc mơ tôi thấy tôi qua
đời mà thôi. Giải thoát khỏi nỗi sợ chết bằng cách chuẩn bị trước cho mình một
cái chết nhẹ nhàng không thắc mắc gì cả, một cái chết như vậy cũng giống như
cái sống. Để ý nghĩa sự sống vượt qua cột mốc của cái chết, để một đời người
nối dài tới cõi hư vô, còn có cách gì hơn sống trọn vẹn cho hiện tại, sống với
một tấm lòng. Đó chính là chữ tâm, chữ tình mà Trịnh Công Sơn muốn gửi lại cho
đời, muốn trao đến muôn loài chút tình tôi. Để đến với đời, trước hết phải biết
lắng nghe.
Tôi không chỉ lắng
nghe tôi, nghe buồn vui trong mình, mà còn lặng nghe đất trời trở mình hú than,
nghe tiếng muôn trùng, nghe im lặng của đêm ngày, của tình người, nghe đời nhấp
nhô, nghe đời mênh mông. Lắng nghe, cảm nhận để hóa thân thành muôn loài: tôi
đã biến mình thành lá cỏ hay nụ hồng, đốm lửa hay ngọn đèn, thác đổ hay mưa
tan, con chim hay đứa trẻ. Khát vọng được hòa đồng, chia sẻ với đời đã biến em
là tôi và tôi cũng là em, đã cứu rỗi tôi trong cơn tuyệt vọng. Dù cho thân phận
là mong manh và sự sống là hữu hạn, tôi vẫn xin tạ ơn người, tạ ơn đời, tạ ơn ai.
Cái tôi càng hay triết lý sự đời trong những bài hát ở giai đoạn sau này. Những
“lý sự” ấy vừa ngấm chất thiền, vừa quẩn quanh trong nhiều cái tiến thoái lưỡng
nan, vừa rất giản đơn sau nhiều cái ngộ ra ở tuổi già, lại vừa mang nét ngộ
nghĩnh bất ngờ của trẻ thơ. Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi Đi đâu loanh quanh
cho đời mỏi mệt. (Một cõi đi về) Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi Ta xô biển
lại sóng về đâu. (Sóng đừng xô tôi) Quê hương Thực ra quê hương cũng vẫn là
thân phận và tình yêu, nhưng không của một người mà mang tính bao quát hơn:
tình yêu cho nhiều người và thân phận của nhiều người – cho quê hương và của
quê hương. Tình yêu quê hương chính là tình yêu đồng loại, tình yêu thiên
nhiên, đất trời. Không chỉ là người tình của con người, Trịnh Công Sơn còn tự
coi mình là một “người tình của thiên nhiên”.
Có những tình yêu tìm
thấy Từng ngọn núi con sông ruộng vườn Từng dòng suối con sông đầu làng Đã mang
hình bóng quê hương … Tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá Góc phố nào cũng thấy
quê nhà. (Tình yêu tìm thấy) Thiên nhiên gắn bó với từng buồn vui đời người.
Trong cô đơn, Trịnh Công Sơn đâu chỉ có gọi em, ông còn mê mải gọi tên bốn mùa,
gọi nắng, gọi mưa. Thiên nhiên bình đẳng với con người trong sự sống. Nắng hờn
ghen rồi nắng chết trên sông dài. Đồi núi thắp nắng đứng ngóng, cứ nghiêng
nghiêng đợi chờ cho đến lúc người về để đồi núi reo ca. Dòng sông chở hồn
thương đau, chở ngày hấp hối, rồi dòng sông cũng qua đời. Mặt trời lẻ loi cúi
nhìn mây bay buồn rầu. Ông đã nghe gió tự tình, gió thở dài, đã thấy từng giọt
sương nhỏ nhoi mà thu nổi vào mình hết cả mênh mông, đã cảm được nỗi đau của
bia đá, để hiểu rằng sỏi đá cũng cần có nhau. Một hiện tượng thiên nhiên được
thầy phù thủy Trịnh Công Sơn thổi vào hồn người nhiều nhất là mưa. Trong ca
khúc Trịnh Công Sơn, mưa là một hình tượng sống, có màu sắc, có linh hồn. Mưa
rớt trong lòng người, đem cả lòng người ra cô đơn dệt hè phố rồi rưng rức khóc
bên đường. Mưa thì thầm, lạnh lùng, lặng lẽ. Mưa thưa tựa áo trời mà có khi lại
mang sức mạnh hủy diệt để nhận chìm cả ngàn năm trước và ngàn năm sau, khiến
cho đất phải trở mình và đời hóa thành biển động.
Mưa rơi, mưa bay, mưa
ru trong rất nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn, vì mưa chính là một biểu tượng
của Huế. Cùng với hình ảnh dòng sông, thành cổ, lăng miếu, khói sương và những
dáng gầy mong manh, mưa đã làm nên một không gian rất Huế, để khỏi cần nhắc đến
Huế dù chỉ một lần, mà người nghe vẫn nhận ra chất Huế mặn mà trong Trịnh Công
Sơn. Trong những bài hát về chiến tranh, hình ảnh quê hương mất hết vẻ lung
linh thơ mộng. Quê hương đắm chìm trong tiếng nổ: tiếng nổ nghe quen như câu
dạo buồn, đại bác ru đêm thay tiếng mẹ ru, người già co ro buồn nghe bom nổ,
trẻ con quên lớn đe từng đêm nghe ngóng. Quê hương phủ một màu tang tóc: người
con gái chưa từng hát ca dao một lần đã thành kẻ mất trí lên đồi cao hát trên
những xác người, người mẹ mê sảng hò ơ ru con, đứa con đã ngủ vĩnh viễn trong
tuổi đôi mươi.
Chiến tranh đem đến
những câu chuyện ngụ ngôn lạnh lùng: Một ngày mùa Đông Trên con đường mòn Một
chiếc xe tang Trái mìn nổ chậm Người chết hai lần Thịt da nát tan. (Ngụ ngôn
mùa Đông) Cái chết tự nhiên của một kiếp người không đáng sợ. Nhưng cái chết
nhan nhản khắp mọi nơi trong chiến tranh sao mà hãi hùng và oan nghiệt đến thế:
chết vội vàng, chết vô tình, chết lạnh lùng, chết nghẹn ngèo, chết cong queo.
Trong chiến tranh, tình yêu con người, tình yêu quê hương càng sâu nặng, khát
khao hòa bình càng cháy bỏng. Từ trong đau thương mất mát, cái nhìn nhân bản
của Trịnh Công Sơn đã vượt qua tất cả, thời gian, khoảng cách, hận thù để thấy
một ngày tương lai người Việt gần nhau trong tiếng nói da vàng, cùng nhau đi
khâu vá non sông Việt Nam, để mỗi con người đều được yêu, được sống trọn vẹn
một vòng Sinh Tử.
Từ Bắc vô Nam nối liền
nắm tay Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà Mặt đất bao la anh em ta về Gặp
nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng Bàn tay ta nắm nối liền một vòng Tử
Sinh Biển xanh sông gấm nối liền một vòng Việt Nam. (Nối vòng tay lớn) Tình yêu
Bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình bằng những tình khúc, Trịnh Công Sơn đã gặt
hái nhiều thành công từ các bài hát về những mối tình không thành, gần như đơn
phương của mình. Như có lần ông đã thổ lộ: “Tôi chỉ có những mối tình lãng
đãng, sương khói, hoàn toàn không có gì cụ thể”. Yêu thầm một mái tóc, một dáng
hình, để khi từng mối tình khói mây ấy bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ thì
cuối cùng ở lại chỉ còn một nỗi đau rất thật. Bởi vậy, hình tượng người tình
của Trịnh Công Sơn thật đẹp và buồn, thật mảnh mai và xanh xao: xanh mướt hồng
nhan, gầy yếu hư hao, mình hạc xương mai, nụ cười mong manh, mướt xanh như
ngọc.
Nếu thiên nhiên luôn
mang tình người thì người tình luôn được đối chiếu với vạn vật: đôi môi lửa
cháy, mi cong cỏ mượt, tay xanh ngà ngọc, đôi vai lụa mát, da thơm quả ngọt,
và: từng phiến mây hồng em mang trên vai, thân mong manh như lau sậy, như hoa
lá giữa thiên nhiên hiền hòa. Cứ thế, chân dung em được vẽ bằng cả đất trời:
nắng, gió, mây, mưa… Nắng có hồng bằng đôi môi em Mưa có buồn bằng đôi mắt em
Tóc em từng sợi nhỏ Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai Vai em gầy guộc nhỏ Như cánh vạc về chốn xa xôi.
(Như cánh vạc bay) Đôi vai thon, gầy, ướt, mềm… lại gánh cả không gian – biển
rộng hai vai, cả thời gian chở chiều trên vai, một ngày trên vai. Em đi vào đời
người, tình người bằng những gót nhỏ, gót hồng, bằng những bước chân nhè nhẹ,
âm thầm, mềm mại. Đã có tóc dài, bồng, xanh, mây, buông lơi… em còn mang tóc
gầy và tóc buồn.
Em càng đẹp, buồn và
hư ảo với những mắt biếc, mắt sâu, mắt xanh xao, mắt cười mênh mông, với những
môi thơm, môi mềm, môi hồng đỏ, hồng đào, hồng vừa, hồng nhạt và hồng như lá hư
không. Hơn tất cả mọi vai, tóc, mắt, môi… ấy là tay! Những ngón tay măng, mềm,
gầy, muốt dài, biết ưu phiền và nuối tiếc, biết ngóng đợi rồi lãng quên. Tay em
vừa hiền vừa ác, vừa xây vừa phá, kết nụ nuôi trọn một đời hay dựng đời bão lên
làm từng vết thương cũng từ một “tay em” mà ra. Cho nên em yếu mềm, dịu dàng
thật đấy, mà một ngày thấy em là đời bỗng đêm vây khốn, từng bước em là từng
mũi đinh cuồng điên. Em chẳng an phận một chiều trong mắt Tôi, khiến Tôi nhìn
một thành hai, nhìn em yêu thương, nhìn em thú dữ. Khắc khoải với Tình nhớ,
Tình xa, Tình sầu, Trịnh Công Sơn đưa ra hàng loạt “định nghĩa” về tình bằng
những hình ảnh so sánh rất Trịnh Công Sơn, thực thực – ảo ảo: tình vừa mong
manh như nắng, lại có sức tàn phá như cơn bão đi qua địa cầu, tình lên cao vút
như chim xa lìa bầy, rồi lại chìm mau như bóng chim cuối đèo.
Tình yêu của Trịnh
Công Sơn, cũng giống như hình ảnh người con gái của lòng ông, đẹp và buồn. Một
vẻ đẹp mong manh, dễ vỡ và một nỗi buồn lặng lẽ rất đỗi dịu dàng. Thêm một khía
cạnh nữa cho bức chân dung Tôi: rất chân thành tận tuỵ và bao dung trong tình
yêu. Một người đã từng vài lần ru đời, vừa rơi lệ ru người vừa ngậm ngùi tự ru thì
nhất định phải để dành nhiều lời ca nhất để ru tình, ru em. Một người sẵn lòng
làm tất cả, làm hạt mưa, giọt sương hay cụm mây, ngọn gió, làm cây đèn, giọt
mực hay giấc mộng, nụ cười, cốt để được thấy em yêu đời. Tôi xin làm quán trọ,
buồn chân em ghé chơi … Tôi xin làm đá cuội và lăn theo gót hài. (Biết đâu
nguồn cội) Ngay cả khi bị em phụ rẫy vẫn một mực yêu em yêu thêm tình phụ, yêu
em lòng chợt từ bi bất ngờ.
Dù em đã để lại vết
thương cho riêng một người thì người ấy vẫn cứ dịu dàng mà xin cho bốn mùa đất
trời lặng gió, đường trần em đi hoa vàng mấy độ. Tấm lòng là một nét đẹp trong
tình ca Trịnh Công Sơn. Cái đẹp còn được tạo bởi một yếu tố khác: chất thơ. Nếu
trong chủ đề thân phận trĩu nặng tính triết lý thì không đâu trong ca khúc
Trịnh Công Sơn lại đậm đặc chất thơ như trong chủ đề tình yêu. Chất thơ đầy ắp
trong cảnh, trong tình. Nhờ con mắt thi sĩ – họa sĩ, Trịnh Công Sơn đã nắm bắt
được những gam màu lạ lùng: màu mắt em lung linh nắng thủy tinh vàng và màu áo
trắng trong ánh sao băng, màu chiều tím loang vỉa hè và vàng chiều ngơ ngác
giăng lên nhịp cầu, màu thành phố mắt đêm đèn vàng và tiếng hát xanh xao của
một buổi chiều … Ông nhìn thấy chiều đã đi vào vườn mắt em… ngàn cây thắp nến
lên hai hàng, thấy em chở chiều trên vai, ngậm buồn trên môi và thấy người phu
quét lá bên đường đã quét cả nắng vàng mùa Thu, quét cả gió nồm mùa Đông, quét
cả nắng hồng mùa Hạ để góp lá cho mùa Xuân.
Trong mắt ông, bao
nhiêu cảnh bình thường bỗng hóa ra khác thường, đầy biểu cảm: Một chiều xa đã
bay về gần Rơi trên sông rơi sau bờ thành Nhìn cỏ cây ráng pha màu hồng Nhìn em
áo lụa thinh không Mặt trời như trái cây tuyệt vọng… (Níu tay nghìn trùng) Ôi
áo xưa lồng lộng Đã xô dạt trời chiều Như từng cơn nước rộng Xóa một ngày đìu
hiu. (Tình nhớ) Thương ai về ngõ tối Bao nhiêu lá rơi rơi Thương ai cười không
nói Ngập ngừng lá hôn vai. (Thương một người) Trịnh Công Sơn tả tình, tả tâm
trạng với cách riêng. Dân gian có “quen hơi bén tiếng”, Trịnh Công Sơn viết
“thương áo quen hơi”, để lúc rời nhau hồn mình như vá khâu. Ví tình như chiếc
áo rồi thì ngại gì mà không đem treo tình trên chiếc đinh không, phơi tình cho
nắng khô mau. Chẳng những lòng ta trăm con hạc gầy vút bay, mà cả nụ cười cũng
vội cất cánh bay luôn.
Cách dùng từ, ghép từ
độc đáo đã biến cái thực thành không thực, và ngược lại, cái trừu tượng, cái
không thể sờ nắm được lại có cơ hội hiện hữu bằng chất liệu thật – thật mà rất
thơ. Nắng trở nên lung linh, lấp lánh hơn khi được nương nhờ vào vật chất để
thành nắng thủy tinh. Cách nói thông thường, kiểu như: sống quá nửa đời người,
rõ ràng không ấn tượng bằng biến đời thành đá để có thể diễn tả như Trịnh Công
Sơn: Ta lăn đời đã quá. Không biết có phải vì muốn phá vỡ tính cân bằng, đối
xứng, vì luôn cảm nhận được sự chông chênh trong lòng, bấp bênh trong đời và bất
định trong tình nên ông thích xoay nghiêng nhiều thứ: nghiêng tay, nghiêng vai,
nghiêng đầu, nghiêng sầu, nghiêng tình … rồi hóm hỉnh hỏi: Này nhân gian có
nghe đời nghiêng?. Sức tưởng tượng bay bổng được kết hợp với tính linh hoạt
trong cách sử dụng ngôn từ đã làm cho lời ca của Trịnh Công Sơn “chẳng giống
ai”, đẹp, lạ, và đôi khi chữ nghĩa cứ chờn vờn, không dễ nắm bắt.
Vẻ mơ hồ, trừu tượng
ấy góp phần không nhỏ làm nên nét độc đáo trong ca từ của ông. Ông đưa ra nhiều
cụm từ thật ấn tượng: vết lăn trầm, vòng tiều tụy, bờ mộng mị, vùng ăn năn …
Đôi chỗ tính từ đại diện luôn cho danh từ vắng mặt càng tăng thêm vẻ bí ẩn, “vô
thường” cho đối tượng được ám chỉ: yêu dấu tan theo, nghe những tàn phai, ôm
lấy mịt mùng, cười với âm u. Sự bí ẩn còn tạo bởi cách diễn đạt cầu kỳ: Xin vỗ
tay cho đều, môi người thôi những âm ba, và những hình ảnh “kinh dị”: loài sâu
nào ngủ quên trong tóc chiều, rồi lại hát lên khúc ca cuối cùng trong vùng u
tối nào đó, đến nửa đêm thì quên hết ưu phiền để người về hát đêm hồng địa đàng
còn in dấu chân bước quên. Sự bí ẩn nhiều khi chỉ để cảm nhận chứ không thể,
hay không cần giải mã cụ thể, cặn kẽ. Dù không phải tất cả lời ca đều dễ hiểu
với bất cứ ai, vậy mà người ta vẫn cứ nghe, vẫn cứ cảm, vẫn mê say ca khúc
Trịnh Công Sơn. Với ông, thế là đủ, bởi điều quan trọng nhất trong nghệ thuật
là làm thế nào để mở ra một con đường ngắn nhất đi từ trái tim của mình đến
trái tim của người mà không cần cắt nghĩa gì thêm. Và sẽ không quá nếu nói rằng
lời ca độc đáo, vừa “thiền” vừa “thơ” góp phần quyết định để làm nên một tên
tuổi Trịnh Công Sơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét