Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014

Lãng Nhân – Ánh đèn trong đêm tối

Lãng Nhân – Ánh đèn trong đêm tối

Ni dung th bút:
Giày mũ, xe cộ, nhà cửa, cho đến báo chí, sách vở, tranh ảnh, âm nhạc… sản xuất cùng một khuôn, tiêu thụ theo một loạt, bản ngã của từng người bị số đông uy hiếp tràn lấn, cả thế giới rồi phục sức, ăn ở, nói cười, suy nghĩ, không ai bảo ai mà ai cũng giống ai, mọi người rồi biến thành như một người vô danh!
Lãng Nhân (Phùng Tất Đắc): Làm báo, viết văn. Sinh ngày 20 tháng 6 năm 1907 tại Hà Nội
Tác phẩm: Trước đèn (1939), Chuyện vô lý (1942), Chơi chữ (1960), Giai thoại làng Nho (1963), Hán Văn tinh tuý (1965), Thơ Pháp ngữ tuyển dịch (1968), Chuyện cà kê (1968)
Tác phẩm ký dưới bút hiệu Cố Nhi Tân (Những tiểu truyện danh nhân): Khổng Tử (1968), Tư Mã Quang, Vương An Thạch (1968), Nguyễn Thái Học (1969), Tôn Thất Thuyết (1969), Nghiêm Phục (1970)
Lãng Nhân – Ánh Đèn Trong Đêm Ti
“Gió sương đã đổi hai màu tóc
Non nước chưa đành một tiếng tơ.”
“Trong các nhà báo, nhà văn lớp trước, hiện nay ở đây còn sót lại vài người. Trong số này, có bạn Lãng Nhân.” Nhà văn Vũ Bng đã nói đúng trong bài Ta tác phm Trước đèn tái bn ln th ba, năm 1964.
Lãng Nhân, m
t nhà báo, mt nhà văn, mt nhà tư tưởng. Đã 40 năm trôi qua, đã trên mt vn ngày đêm đui nhau đi vào vô tn, đi vào s tàn phá hu dit mi giá tr không đ kh năng tn ti, nhưng mt khi giá tr, dù vt cht hay tinh thn chng li được thi gian mà tn ti được, thì trong đó t đã cha đng mt cái gì vĩnh cu.
Lãng Nhân đi vào cu
c đi văn chương t năm 23 tui, sau khi l d bước đường c nghip vì cuc bãi khóa chng li viên giám đc người Pháp ca Trường Bưởi (Chu Văn An ngày nay). Lãng Nhân mang mt tinh thn tr và tiến b, mong vượt thoát “lối mòn” đ vươn cao lên đón bt tng vùng hào quang ca văn hc quc tế đang t phương Đông lướt ti, t phương Tây t đ vào.
Năm 1930, t
Đông Tây ra đi do Hoàng Tích Chu, mt thanh niên t Pháp v, ch trương ci cách nn báo chí Vit Nam chm tiến. Cũng t đó, Lãng Nhân bt đu “cầm cố” đi mình cho bút mc. Trong sut mt dòng sông không bao gi ngơi ngh, Lãng Nhân quăng hơi th, ném cái tài hoa vào đà chung ca tiến hóa. Lãng Nhân khi hành t Đông Tây qua Thi báo, Duy tân, Nht tân, Hi Phòng Tun báo, Ích Hu và Đông Dương Tp chí. Lãng Nhân đôi lúc “bốc đồng” li nhy sang gi chc v giám đc cho hai t báo viết bng Pháp ng: Le Cri de Hanoi và Fléchettes. Nhưng dù cương v, hoàn cnh nào, Lãng Nhân vn coi viết và viết ra được là ch yếu, là cái đích cn đi ti, là lý tưởng ca đi mình. Tuy nhiên, Lãng Nhân viết gì và viết ra sao, cái đó mi quan trng.
Vi cái hc uyên thâm c Tây ln Hán cng vào s khó tính v phương din văn chương, tt c nhng điu gì Lãng Nhân viết ra, nói lên, đu không mang trong nó cái tm thường di trá, mà đu có cao vng trình bày mt giá tr ca tư tưởng.
Sinh ra là l
n lên trong giai đon đu ca đt nước do quân thù khuy đng và chính mình li đóng vai trò nhân chng lch s gia cuc tranh chp mi, cũ, chng nhng đi sng vt cht mà còn trm trng phương din tinh thn, Lãng Nhân đã tìm đúng phương hướng hot đng, tc là dùng văn chương đ nói lên tt c nhng suy nghĩ cũng như s vic, dù tt dù xu, đ mong ci to nếp sng ca thi đi hin din.
H
u hết các báo mà Lãng Nhân cng tác đu mang ni dung tiến b nghĩa là mong làm đi sng tinh thn ca dân “An Nam” khá hơn, đ sm ý thc được trách nhim ca mình trước tương lai dân tc.
Tác ph
m Trước đèn là mt quyn sách “nói chơi” đã đăng tng kỳ báo Đông Tây do Hoàng Tích Chu ch nhim, Lãng Nhân ch bút t năm 1930. Ni dung tác phm cha đng tht nhiu vn đ, trình bày dưới hình thc phiếm lun. Lãng Nhân nói chơi hay nói tht, ai mà đoán ni, vì mi dòng, mi ch đu hàm cha hai, ba nghĩa, tuỳ người đc suy lun đ tìm v mình ý nào thích hp. K thut hành văn ca Lãng Nhân đúng là “khuôn vàng thước ngọc” dùng đ đo lường kh năng và giá tr ca văn hc, vì
“Đọc sách đối với nhà nho, không những chỉ là thú tiêu nhàn tao nhã, mà còn là một tác động thiêng liêng: tìm cách cảm thông với người thiên cổ.

Người thiên cổ đã để lại trong thư tịch một túi khôn uyên áo, hay một tấm lòng cảm thương, túi khôn mong giúp ích cho đời sau, tấm lòng mong bộc bạch với người sau… (Trước đèn)
Cái túi khôn và tm lòng ca người thiên c đ li cho thế gian, Lãng Nhân đã ân cn nhn ly, góp thêm công khó ca chính mình đ “túi khôn” và “tấm lòng” được to rng ra tám tri, bn hướng.
Lãng Nhân đã hao phí r
t nhiu hơi sc và thi gian vi sách v. Đc c mt xe sách đ ch ly v phn mình vài suy nghĩ văn chương ca mình nhng bước đi riêng trong khung cnh đc bit ca “nước An Nam” đang b ngoi bang và phong kiến tiếp tay bóc lt, áp bc. Do đó, li văn và tư tưởng gói ghém trong mi dòng, mi ch đu toát ra ni gin hn, mun khóc mà không được, mun kêu gào nào biết có ai nghe? Vì biết rõ hoàn cnh và mc tiêu cn đt ti nên Lãng Nhân không hp tp, vi vã, c nhn nha tiến ti như mt k phiếm du trong khu rng cm, tìm cách m đường cho k đi sau.
Cu
c nhân sinh vn ngn ngi. Thi gian, hai tiếng đó như lưỡi dao tht sc, ct dn con người tng chút, tng chút mà nn nhân không h biết đau đn:
“Ai chế ra đồng hồ, thực đã có công hình dung được thời gian, nhưng có ngờ chăng là đã chuốc cho người đời bao nhiêu lo lắng!
Hai chiếc kim sắt nhọn, lúc nào cũng đon đả đua nhau thái nhỏ đời ta ra làm trăm ngàn mảnh vụn. Mỗi tiếng tích tắc nghe như tiếng nhấm, tiếng gặm, thủng thẳng, lạnh lẽo, tựa hồ điềm nhiên nhắc vào tai ta rằng: đây là một giây, một phút của đời ta đã tách ra và rơi mất vào khoảng không vô tận.” (Trước đèn)
S dĩ Lãng Nhân phi viết ra, ct đ lưu ý thiên h đng bao gi phi nhc li câu nói ca Oscar Wilde: “Cái bi kịch của người ta lúc về già, là tuổi già rồi mà lại thấy mình còn trẻ” (Trước đèn).
Ch
ng đến hôm nay vn đ tình dc mi tr thành thc mc đi vi thế h tr. Nó đã có t lâu. Nó hin din trong s sách, trong dòng thi gian miên tc lướt qua tng triu đi, tng thế h. Ch có khác là k thut đt vn đ và môi trường xut phát mi thi mi cách. Người xưa kín đáo vi nhiu n d, người nay nói toc ra không cn úp m và vn đ được khai trin do các danh nhân quc tế in thành sách trang trng. Lãng Nhân viết v ái tình:
“Nói đến ái tình, nhà đạo đức chưa chi đã cho ngay là không đứng đắn. Đối với nhà đạo đức, ái tình là một điều khó nói, dường như không nên nói tới: các ngài cho là một thứ dây oan dắt ta xa lìa thiên lý, kéo ta vào cuộc đời khổ não những tiếc cùng thương… Nhưng ái tình là một lòng dục: đứng vào phương diện sinh lý ái tình không ngoài sự cần dùng của nhục thể. Đã là cần dùng, thế tất phải làm cho thoả mãn.
Nhưng thoả mãn thế nào cho có vẻ mỹ quan, đấy là dấu loài người cao hơn vạn vật, cũng lại là cách làm cho ái tình nhoi lên đến cõi thơ mộng, vượt hẳn ra ngoài cái tục tằn của mọi loài”.
vn đ trên, Lãng Nhân còn bàn rng đến cái “trinh” vi nhng tư tưởng rng rãi qua quan nim ca Tây phương ln Đông phương. Nh vy, người đc mi biết Tn Th Hoàng – mt bo chúa – có cái gương đc bit soi vào người cung phi, là biết ngay được “còn” hay “mất” và gia t do phóng khoáng vi trinh tiết người con gái phi t la chn ly mt b.
T
ái tình đến trinh tiết qua hôn nhân, Lãng Nhân đã có cái nhìn tht bao dung, tht tiến b, vì hôn nhân ch là đơn thuc ca luân lý đ cha bnh cho xã hi mà luân lý cũng như thy lang đu không dám quyết đoán, không dám thng tay điu tr.
Cu
c sng có nhng băn khoăn, nhng ni bun mun t bày mt cách vô tư hay có thái đ, do mâu thun ca ni tâm hay thc tế đưa li. Dn dn ni ám nh như mũi nhn c lút dn vào suy nghĩ làm bt rt, khó chu, làm đn đau đến phn n. Cái tình thương mà nhân danh con người đ t bày vi nhau, thc cht vn gi di, vì mình hơn vì người, nên Lãng Nhân cn phi viết ra, nói ra dù s vic đó làm phin mình và phin người. Đ chng minh cho tư tưởng, cho lp lun ca mình, Lãng Nhân dn chng li nói ca triết gia Platon:
“Người ta chê sự bất công, không phải vì sợ mình sẽ làm điều bất công, mà vì sợ mình sẽ phải chịu điều bất công”
đ đi đến kết lun cho bài phiếm lun v cu tế xã hi bng câu nói chua chát:
“Cơ quan cứu tế, cũng như Hồng thập tự, một việc phúc gây ra bởi chiến tranh.
Cơ quan cứu tế, cũng như giải hoà bình, một giải thưởng đặt ra do Nobel, nhà phát minh chất cốt mìn.” (Trước đèn).
Đ an i cái xã hi mà áp bc, bt công trói buc mi thân phn con người Vit Nam càng ngày càng đi dn xung vc thm ca nghèo đói, ca ngu dt, thc dân Pháp vn đưa ra cái khu hiu: T do, Bình đng, Bác ái đ che lp dã tâm ca mt dân tc t nhn là văn minh tri Âu, đi khai phóng dã man.
“Tự do, bình đẳng, bác ái, ba điều tốt đẹp trên thế gian. Tốt đẹp vì cả ba cùng chỉ có ở trong vòng lý tưởng, nhờ cái ánh sáng rực rỡ của lý tưởng rọi vào, nên mới lập lòe muôn sắc hào quang. Thực ra, bác ái là yêu mình trước đã, rồi sẽ yêu đến người. Lắm kẻ yêu mình còn chưa xong, trách gì không yêu được người.
Bình đẳng, trong đời hoạ chỉ có hai lúc: lúc lọt lòng ra, lúc thác đi. Ai cũng do một nơi mà đến, ai cũng cùng về một nơi:
Bị gậy, cân đai: đất một hòn!”
Tht ngao ngán, tht chua xót, công hu, khanh tướng và k khôn cùng nào ai có hơn ai trong tư tưởng ca Lãng Nhân v hai ch: Sinh, T?
Cái quan ni
m bi đát v cõi sng, Lãng Nhân đã nhìn thy, tc là đã đt, đã thu sut “ba nghìn thế giới” trong cõi Tin do Đc Thích Ca dn dt, và kiếp nhân sinh ba vn sáu ngàn ngày cũng là mng o c thôi! Nên:
“Nhiều khi yên lặng còn là cách ôm kín nỗi lòng: gặp trường hợp khó khăn, không giãi hết được với mọi người, cũng không giãi riêng được cả với ai, âu đành ‘nỗi lòng kín chẳng ai hay’, chịu cho đau thương cắn rứt trong yên lặng, như một vết rạn nhấm dần. Thấy vết rạn li ti, ai có ngờ bình kia đã vỡ mà hiểu vì đâu đóa Mã tiên úa héo khô dần”(Trước đèn).
Cái “bình tâm hồn” ca Sully Prud’homme đã r hết nước làm khô đóa Mã tiên ca tình yêu, cái bình tư tưởng ca Lãng Nhân cũng khô cong suy nghĩ vì bc tranh tâm cnh do H Xuân Hương phác ho:
“Tựa gối chẳng hề lên một tiếng
Ôm đàn mà vắng cả năm cung.”
Lãng Nhân, trong vũng ly thi đi, đã c công dùng v chng đ phá v u mê mong tìm chân lý cho người đi chung hưởng. Nhưng văn chương Lãng Nhân mt cung bc cao quá, trí thc quá, nên chuyn cái thc, cái đúng, cái phi, cái cn, tr thành nghi hoc đúng như nhn xét ca Vũ Ngc Phan viết v Lãng Nhân qua tác phm Trước đèn trong tp Nhà văn hin đi xut bn năm 1943 ti Hà Ni. Lãng Nhân nên coi đó là mt vinh d vì nn văn chương Đông phương mi ch đi vào k nguyên nghi hoc trong ít năm gn đây, Lãng Nhân đã nói ti nó t 40 năm.
T
Trước đèn viết trong Đông Tây 1931 đến Chuyn vô lý đăng Đông Dương Tp chí năm 1937 do Nguyn Giang, th nam nhà văn hào Nguyn Văn Vĩnh, làm ch nhim, Lãng Nhân đã chuyn văn chương t đa ht triết lý qua đa ht hành đng, nghĩa là nhm thng vào tng vic, tng người vi tng s kin hin nhiên phô bày gia cuc sng. Phương pháp hành văn vn như vy, tht ngn, tht gn, tht súc tích, thâm trm và tế nh. Đc văn Lãng Nhân người ta thy tác gi phi kh công chng nhng tìm đ tài mà còn vn đ la li, chn ch. Mi ch được Lãng Nhân “cầm” ti, tr thành có giá tr và đi ngay trng lượng, đang nh tênh tênh, bng nng trĩu mt.
Nhưng Chuyện vô lý là gì?
Theo đnh nghĩa ca Nguyn Giang trong li ta Chuyn vô lý xut bn ti Hà Ni năm 1939, như sau: “Theo như nghĩa thông thường, thì một câu chuyện vô lý là câu chuyện cao hơn, trội hơn cái trí hiểu biết và xét đoán của mình. Vô lý có nghĩa là bất ngờ: một việc ta đoán, hoặc cứ tự nhiên ta tin, ta tưởng nó thế này, mà nó lại xảy ra thế kia”.
Cái vô lý mà Lãng Nhân vi
ết ra, là chuyn có thc, căn c vào s thc, mt s thc tht vô lý mà vi óc suy lun thường thường cho rng: Sao lại như thế được? Ấy thế mà có đấy! Nó hin din như s thường tình ít ai đ ý, nếu Lãng Nhân không đưa nó vào mt khung cnh, mt vn đ cn nói ra. Chng hn như chuyn hai ông “An Nam”  vùng Hi Dương nht đnh xin vào Pháp tch vì hai ông qu quyết mình là Tây:
“Toà án giao hai ông cho một viên bác sĩ khám nghiệm. Bác sĩ khai rằng hai ông không có chút máu Tây nào trong huyết quản. Hai ông không chịu (lẽ tất nhiên), hai ông xin Toà cử một bác sĩ khác khám lại. Thì bác sĩ này kết luận: Hai ông tuy ‘hình dáng’ An Nam nhưng da thịt Tây!
Toà đã theo lời bác sĩ này mà nhận cho hai ông đáng là dân trong làng Tây.
Thịt da ai cũng là người, nay nhờ có bác sĩ ta mới biết có thứ thịt da An Nam, có thứ thịt da Tây”.
Tht ma may, cay đc! Cái thi dân An Nam b đô h nó như thế đy. Nước Vit Nam ln bi cũng ti nhng s vic vô lý cn con đó, trong khi chúng ta cn nhng người như Thang Trí Dung và Y Xuyên, mt người yêu nước mt cách mng thc thi, mt người có lòng nghĩa hip. Chuyn này Lãng Nhân viết ra vi thâm ý cnh tnh nhng ai còn mê mui, đn hèn làm tay sai cho thc dân đ hi nước, bng ging văn giu ct và cho đó là điu vô lý vì đu thế k XX này làm gì còn có chuyn yêu nước và nghĩa hip!
Cùng theo đu
i mc đích trên, câu chuyn “Ăn cho đều” có ý công kích chế đ cai tr ca Pháp bng ngay kế hoch Pháp viết ra:
“Trong khi hàng xâu người bóng dáng tiều tuỵ, quần áo lam lũ, nối gót nhau xin cơm phát chẩn, hoặc xin chỗ ngủ trong phúc đường, trong khi ở Âu châu già trẻ không đủ ấm no, thì ở thế giới, người ta thừa dùng phải đổ đi 90 toa lúa mì, 15 vạn toa gạo, bận Hoa Kỳ phải vất đi 20 triệu tấn đồ hộp, giết bỏ 6 triệu lợn, 60 vạn bò, bên Nam Mỹ phải giết bỏ 55 vạn cừu, đổ ra biển 22 triệu bì cà-phê, ở Canada phải đốt bớt không biết bao nhiêu bông, ở Cuba vất đi 33 triệu tấn mía… nhiều nước lại treo giải thưởng cho công cuộc phá huỷ ấy nữa.”(Chuyn vô lý)
Lúc y dân Vit Nam đói và thiếu thn mi th, ma mai thay! Con người nhng xã hi tân tiến, sn xut thc phm tiêu th không hết, thay vì đem tr giúp cho nhân loi đang đói kh li đ xung bin hoc đt cháy thành tro. Do đó, thay vì hô “Chính trị đã” như Ch. Maurras, Lãng Nhân đ ngh: “Kinh tế đã”.
Nói cho đúng, không gì kh
bng mt dân tc lc hu, chm tiến li còn gp biết bao nhiêu tai tri, ách nước nào lt li, nào bnh tt. Khi gp lt thì muôn dân lâm vào cnh cát lp, sông vùi. Rung, vườn, nhà ca, gia súc đu ùa trôi theo ngn nước tàn bo. Con người nheo nhóc, không cơm áo, không có đt đ . Muôn ngàn thê thm. Chng kiến tn mt cái cnh người bóc lt người, người li dng cái đau kh ca người đ được thăng thưởng và thu li, vi tư cách nhà văn, vũ khí ch có cây viết, Lãng Nhân đành dùng nó đ đ phá s b i đó:
“Có người lại bảo rằng trời ra tai, ấy là để trừng phạt những kẻ có trách nhiệm chăn dân mà không chăn cho chu đáo… Có lẽ đâu lại vô lý như thế?
… Riêng dân ta thật đắng cay vì nước.
Từ trước đến nay, dân này đã vì nước mà trải bao gian nguy, biết bao lần sảy đàn tan nghé.
Nhưng lẽ trời cũng có thừa trừ…
… Dân bị vỡ đê cũng như bị cướp bóc, bị dịch tả, tai nạn càng to, bậc quan phụ mẫu càng dễ được đặc cách thăng thưởng.
… Cho hay có thử lửa mới biết lòng vàng, mà trời ra tai cho người này lại là sinh phúc cho kẻ khác.” (Chuyn vô lý)
Dân An Nam còn mt cái kh na, còn kh hơn lt li là bnh ăn “hối lộ”, bây gi thi bui mi gi là tham nhũng. Mong cnh tnh nhng ai, Lãng Nhân đã viết bài đ kích hai ông quan Huyn ăn hi l (“Quận trưởng ngày nay”). Hai quan đc báo gin quá bèn gi thư đến toà báo vi dòng ch: “Từ số sau xin ngài đừng gửi báo cho tôi nữa”. Mt hai người đc vì chuyn đã dám nói quan ăn chè đen, l mng, l trình, tin h cháo v.v… Do đó Lãng Nhân trích dn li thy Mc T, trong thiên Thượng Hin, đ nhn nh “nhà nước bảo hộ”.
“Có ba điều gốc trong đạo trị dân: chức cho cao, lộc cho hậu, lệnh cho nghiêm – chức không cao, dân không kính; lộc không hậu, dân không tin; lệnh không nghiêm, dân không sợ. Cho nên bậc thánh vương xưa nâng cao chức tước, trả lương hậu, giữ lệnh nghiêm. Ngày nay thì bậc vương công muốn tỏ lòng chuộng hiền mà dùng người tốt ra trị dân, nhưng chỉ đặt lên chức cao, mà không tăng lương theo. Dân thấy lương không xứng chức, không tin mà nói: ‘Đấy nhà vua không thực lòng yêu ta, giả dối để lừa ta…’
Bây giờ nhà nước có bụng chuộng hiền hay chăng? Nếu có cũng nên tăng lương, nhưng phải khuyên bậc hiền tài khâu đáy cho túi tham”.
(Chuyn vô lý)
Trong hoàn cnh bi thm ca đi đa s dân chúng Vit Nam hi y, lm chuyn xy ra tht thương tâm như đói quá không kiếm được gì sinh sng phi c tình làm by đ “được” ngi tù, vì ngi tù chc chn không chết đói!
Còn dân trí lúc đó ra sao? Lúc đó có H
i Khai trí sau mt thi gian đánh “tổ tôm” và ăn “cỗ mâm đồng” cht thy mình phi làm mt cái gì đ khai trí ch? Nhưng rt cuc Hi này cũng ch làm được gì hơn ngoài vic tranh lun v văn phm đ làm t đin theo văn phm Tây. Lãng Nhân th viết theo văn phm Tây:
“Tôi thì ốm, nó có rét; cái nhà trong ấy có hai người ở; nếu anh có năm đồng, hãy cho tôi vay chúng nó; với một tấm lòng hăng hái, tôi nhảy vào…”
Trong “Chuyện vô lý” còn có rt nhiu cái vô lý ghê gm khác mà Lãng Nhân đ cp ti như chuyn “Đạo văn”, “Mốt mới”, “Rơi vú”, “Con khoa học” v.v… Riêng chuyn “Con khoa học” mang mt ý nghĩa vô cùng cay đng do khoa hc to nên, đây, người đàn ông và dòng ging hoàn toàn không có nghĩa gì na vì mi người đàn bà có th th thai do s cy tinh trùng ging đc đã đóng trong hp st như cá mòi, như ht đu “cô-ve”…
Xuyên qua hai tác ph
m Trước đèn (1939) và Chuyn vô lý (1942) người đc nhìn thy Lãng Nhân đã vượt thoát được nhng gò bó tm thường ca ngôn ng thi đó vi các c, ngài Hoàng Tăng Bí, Nguyn Đ Mc v.v… toàn là các bc túc nho và cũng sng bng ch nghĩa. S vượt thoát này là bước đi bt buc ca tiến hóa, chng c gì Lãng Nhân mà biết bao nhiêu nhà văn hc tr thi đó đng lên góp gió, nht là Hoàng Tích Chu, Đ Văn v.v… và thi nay vi Hiếu Chân, ký gi Lô Răng, Sc My v.v…
Đi t
Chuyn vô lý ti Chuyn cà kê (Nam Chi Tùng Thư 1968) s liên h v mc đích cũng gn nhau. Ch khác, Chuyn cà kê, Lãng Nhân đã s dng hình thc đàm thoi đ chuyên ch ni dung. Nó là nhng câu chuyn cũ được nói chơi vi nhau nhưng suy nghĩ hi lâu, thy nó ăn khp vi chuyn hôm nay. Vn cái ging văn dí dm, vn nhng t ng chn lc, vn nhng chuyn bun man mác, d khóc d cười, vn cái hoài bão, mong mi vi ít dòng, ít ch có th sa đi được mt phn nét sng lch lc hin hu, vn đi tìm cái tuyt đi ca văn chương trong lãnh vc tư tưởng. Có l, ý nim s làm kh Lãng Nhân trn kiếp.
Ngoài v
n đ nói chơi, k Chuyn vô lý, Chuyn cà kê, Lãng Nhân còn dch thơ Trung Quc, thơ Pháp và sưu tm các giai thoi v thế h trước mà nho hc là nn văn hc chính ca nước ta trong thi phong kiến và cái thú chơi ch ca người xưa.
Trong Giai tho
i làng Nho toàn tp do Nam Chi Tùng Thư xut bn năm 1966 dày ngót 800 trang, ni dung tht phong phú và di dào. “Làng Nho” đi vi xã hi chúng ta hôm nay, tht ra không còn mt chút nh hưởng gì v đi sng cũng như v suy tưởng. Các nhà văn ngh mi ca h bán thế k XX đi tìm cái hc và cái biết các phương tri Âu M mà không mt người quay nhìn v quá kh, quay nhìn v cái bn cht đích thc ca các bc tin bi đ tìm hiu mt ln cho biết v n nếp sinh hot – c vt cht ln tinh thn – trong giá tr lch s, giá tr tiến hóa gia văn hc và các liên h khác ca xã hi Vit Nam, qua các giai đon thăng trm cùng ni khó khăn ca nhng con người mang danh trí thc. Cũng may, chúng ta còn Lãng Nhân, người đã có công sưu tm, nghiên cu hàng bao nhiêu năm tri đ gi li cho t sách Vit Nam nhng trang sách quý báu ca c nhân.
Nói đ
ến Làng Nho, các văn ngh sĩ bây gi cho là c h, là li thi. Lm, tht là lm, nếu người ta ch nhìn cái nhan đ mà suy lun ni dung. Giai thoi làng Nho toàn tp, Lãng Nhân chng nhng ghi chép nhng s vic thuc riêng mt danh nhân, t tiu s ti hành đng vi s chng minh đy đ, mà còn lưu gi h chúng ta nhng áng văn chương tuyt m cùng vi bao nhiêu d kin thuc v sĩ khí ca tng v, qua mi giai đon do thi thế đưa đy, làm ni bt tng cá tính trong con người Vit Nam nói chung.
T
Mc Đĩnh Chi (1280-1350) người thp bé, mt mũi c quái, xu xí t ví mình vi đóa hoa quân t, đ Trng nguyên khoa Giáp Thìn (1304) 24 tui, cho đến Hoàng Trà tc kép Trà (1890-) vn tính ngông nghênh, bướng bnh, thích nhng vic ngang ngược li hay làm thơ ch trích quan trường, tt c gm 94 v. mi v Lãng Nhân đu v rõ tng khía cnh đc thù, làm người đc có ngay mt ý nim rõ ràng v nhân vt đng bi cnh nào ca lch s.
Đ
c Giai thoi làng Nho, tc là chúng ta được nhìn vóc dáng người xưa vi nhng nét tht sng đng, tht chính xác, và qua tm lăng kính quá kh, nếu thành thc vi lòng mình, chúng ta phi nhn rng, chính vì nhng danh nhân đó, nước Vit mi có mt nn văn hóa sung mãn hôm nay, y là chúng ta chưa nói đến nhng s vic có tính cách “anh hùng khí phách” hay “tiêu sái” tuỳ tâm trng, mi con người thuc mi giai đon.
Trong cun Chơi ch (Nam Chi Tùng Thư 1963), Lãng Nhân sưu tp cái thú ca người xưa v vn đ ch nghĩa. Đc Chơi ch, chúng ta li ngm ngùi tiếc nh, vì cuc sng bây gi quá b bn, quá lo toan, quá cp bách nó làm cho kiếp người quay cung vì miếng cơm manh áo, nó làm cho con người tr thành hà tin ngay c đến thi gi ngh ngơi, còn nói gì đến chuyn “ngày Trời tháng Bụt” mà nhn nha ngâm vnh cùng bn hu dăm ba câu “Kiều lẩy” hay vài khu Đường Thi.

Ch
ơi ch là mt li chơi “có học”. Nhưng “có học” cũng không đ, phi có tài na. Nhng lúc tu hu trà dư, khi đi cnh sinh tình, thương cho kiếp người ngn chng tày gang, thương cho phn mình phn người, thương non sông gm vóc bng chc rơi vào tay bch qu, thương tiếng đàn nhp phách, thương cho tiếng cười nào đó vt tt vi thi gian. C nhân đem cái bun, thương, gin, hn, yêu, mến, biến thành cái thú chơi ch đ tho mãn lòng t ái nhiu khi đến tàn nhn, như chuyn “một ông ra tranh lý trưởng không xong, nhờ thời thế được cử làm quan, rồi cánh buồm được gió, lên tới chức Tổng đốc, bèn mở tiệc Hạ thọ, có người thuộc hạ mừng bức hoành khắc bốn chữ: ‘Vạn Lý Trường Thành’, ví cụ lớn như bức thành vạn lý che chở cho cả tỉnh. Lời khen tặng đã trọng vọng và cung kính, nhưng kỳ thực là nhà Nho chơi chữ vì chữ ‘lý trường’ cho thêm một nét ngoặc vào chữ trường thành chữ ‘lý trưởng’ ngụ ý cụ lớn ngày nay ‘Tổng đốc hữu dư’ nhưng xưa chỉ là ‘lý trưởng bất túc’.” (Chơi ch, trang 13)
Toàn b
tp Chơi ch đu ghi chép nhng s vic vi nhiu n d và c nhân đã s dng tuyt k li chơi ch đ nói lên cái ý thc ca mình bên trong, đng sau, mi ch, mi nghĩa. S “chơi chữ” đi vi Lãng Nhân cũng là mt ngh lm công phu và đ “dâng một cười”, Lãng Nhân đã trích dn câu ca thi sĩ Santeul: Cười ct mà sa li phong hóa (Castigat ridendo mores). Nhưng cái cười trong Chơi ch là cái cười ra nước mt, cái cười gn đn đau, ut c, cái cười na ming tht chua xót, cái cười chết na cõi lòng!
Sau h
ết, Lãng Nhân li nương theo nhn xét ca Bergson, nói v tiếng cười:
“Các lớp sóng xã hội hàng ngày dồn dập xô đẩy nhau, kèn cựa chống đối nhau, nếu trong sự va chạm ấy có nổi lên một ít bọt trắng ngần, ấy là cái cười ý nghĩa. Cái cười cũng như bọt biển, có muối mặn bên trong.” (Chơi ch, trang 271-272)
Lãng Nhân dâng hiến c mt đi cho văn hc. Lãng Nhân mun đem cái “biết”nh bé ca mình đóng góp vào cái kho tàng văn hóa Vit Nam bng cách mượn ca người làm vn cho mình. Lãng Nhân dch thơ Trung Quc và thơ Pháp sang Vit ng. Trong tp Hán văn tinh tuý, nhng bài thơ được chn không do tác gi ni tiếng trên thi đàn thế gii mà đích thc do ý nghĩa và giá tr ca tng bài được tuyn dch và chú thích đin tích cũng như dn gii. Chen vào gia các đi thi hào Trung Hoa như Đ Ph, Vương Bt, Đ Mc, Âu Dương Tu v.v… có “Chuyện cô Cầm” ca Nguyn Du và “Khúc ngâm cảm hoài đêm thu” ca Kỳ Đng (sinh cui đi T Đc 1875). Hai sáng tác trên đu viết bng Hán văn, do Hc Canh dch và Lãng Nhân gi phn ghi tiu s, và dn gii đin tích.

Vì cái
 “duyên nợ” vi Pháp trong gn mt thế k, cũng như vi Trung Hoa my ngàn năm, văn hóa Pháp cũng gây nh hưởng vào nn văn hóa ta không ít dai dng ti ngày nay.
Công vi
c tuyn la thơ Pháp cũng được tiến hành theo đúng tiêu chun trong Hán văn tinh tuý, nghĩa là chn sáng tác ch không chn tác gi. Tác phm này rt hu ích cho công cuc sưu tm và hc hi ca nhng ai mun biết sơ lược v s tiến hóa ca thơ Pháp t thế k th Xô Viết tc thi Trung c (Moyen Age) ti Hin đi.
Trong
 “lời phát đoan”, Lãng Nhân tóm lược gn đy đ v các phong trào và chiu hướng thi ca mi giai đon đi thay nếp suy tư ca thi sĩ Pháp. mi thi nhân, có phn tiu s, có khuynh hướng cũng như bút pháp riêng bit đ người đc – qua đây – nhn din nhà thơ vi ý nim phát thc. Đành rng chuyn đó, Lãng Nhân cũng ch “đọc” và “dịch” giúp đc gi mà thôi, nhưng có đim đc bit, Lãng Nhân đã chuyn ng rt khéo, làm cho đc thơ dch mà ta c tưởng đc thơ nguyên bn. Được như thế, nh Lãng Nhân chng nhng quán trit ch Pháp mà còn biết áp dng linh đng tuỳ theo mi th thơ Vit cho mi bài được dch. Chng hn, Lãng Nhân đã dùng th “song thất lục bát” đ dch bài“L’Espoir” ca Verlaine.
L’espoir
L’espoir luit comme un brin de paille dans l’étable
Que crains-tu de la guêpe ivre de son vol fou?
Vois, le soleil toujours poudroie à quelque trou
Que ne t’endormais-tu, le coude sur la table.
Hy vọng
Cọng rơm nhỏ chuồng bò tăm tối
Tia nắng trưa rọi tới sáng loè
Ấy tia hy vọng khác gì,
Con ong mặc nó vo ve bay quàng…
Kìa khe nào ánh dương chẳng chiếu,
Tì lên bàn thôi liệu ngủ đi!…
Thơ Pháp, nht là thơ ca các trường phái Tượng trưng, Siêu thc khó dch vô cùng. Người đc có trình đ hc vn nào đó, có th hiu ngm ý bài thơ nhưng bo nói cho rõ nghĩa chc đã my ai làm ni?
Đã 12 năm qua, tôi được biết Lãng Nhân trong mt bui đi cùng kiến trúc sư Võ Đc Diên (đã mt năm 1962 ti Sài Gòn) li nhà in Kim Lai s 3 Nguyn Siêu, Sài Gòn đ lo vic n hành mt tp chí. Cái cm tưởng mà nhà văn Vũ Bng nói v chuyn gp Lãng Nhân ln đu ti Toà son báo Đông Tây cách đây 40 năm như sau:
“Tôi được gặp ông Phùng Tất Đắc lần đầu tiên, vào một chiều tắt nắng, nhân dịp đến ‘yết kiến’ Hoàng Tích Chu tại trụ sở báo Đông Tây, số 12 phố Nhà Thờ. Vừa mới thấy ông Đắc ngồi ở bàn viết ở cửa đi thẳng vào, tôi đã biết ngay, không phải tại đã được ông tự giới thiệu, nhưng tại chính tôi được biết vì có bè bạn, trước đó, đã chỉ ông cho tôi rồi. Ngồi xuống ghế, nói với ông câu đầu, máu tôi chảy có một vòng, phần vì sợ văn ông, phần vì vẫn nghe tiếng ông là còn nhà giàu ở Nam thành, thạo đời ‘một cây’, lại có tiếng là tay ăn chơi ‘sộp’… tôi luống cuống và cảm thấy tay chân thừa cả, không biết giấu chỗ nào…
Ông Đắc mặc âu phục, vén tay áo sơ-mi lên ngồi rung đùi khảo cứu Nho giáo. Bên cạnh cuốn sách của Lệ Thần Trần Trọng Kim, tôi thấy một chồng sách chữ Nho. Đêm hôm ấy, về nằm nhớ lại buổi ban chiều, tôi chán đời không thể tả, vì thấy Phùng Tất Đắc tôi quan niệm muốn viết báo cho ra viết báo, muốn sử dụng ngòi bút tài tình như ông Đắc trong mục ‘Trước đèn’ của báo Đông Tây, người ta phải thông kim bác cổ, thạo cả chữ Hán lẫn chữ Tây”. (Vũ Bng, Bn mươi năm nói láo, trang 27)
Tôi không tâm trng này, vì s hot đng văn ngh ca tôi phn chính nm hi ho, nhưng nhìn Lãng Nhân ngi đĩnh đc trong mt căn phòng làm vic, dưới ánh sáng m ca ngn đèn đ bàn, xung quanh sách v cht đng, t nhiên lòng tôi cũng gn lên mt xúc đng. S xúc đng tuy nh thôi, nhưng cũng va đ đ cho lòng kính trng được dp t bày trước mt bc huynh trưởng đã xông pha nơi “trường văn trận bút” t lúc mình còn chưa thoát khi tiu hc. Vi tính tình hoà nhã, phong cách hào hoa, hình nh Lãng Nhân đã in đm trong tôi vi tng c ch ưu ái t bui đu gp g. Tôi cũng cn phi thú thc, khi trước Lãng Nhân đến vi tôi ch là mt “biểu tượng” ca mt-thi-đã-qua, nhưng qu tht lm, lúc tôi được đc k Trước đèn và Chuyn vô lý mà Lãng Nhân đã viết t ba, bn mươi năm nay. Khi còn thanh niên, tôi có đc, nhưng đc đ đc thôi, ch tht tình không thú vì không hiu đúng hơn. Thu y v văn, tôi thích đc Nguyn Tuân, Thch Lam, Vũ Bng, Thanh Châu, Vũ Trng Phng và sau này đến Nam Cao, Tô Hoài v.v… bi l tôi hiu, hơn na, trong con người tôi lúc y chng có mt ly ý thc nào v cuc sng hin din.
Nhưng nhng năm gn đây, lúc đng tui, các chuyn phiếm trong Trước đèn và Chuyn vô lý đã làm tôi suy nghĩ rt nhiu vì ngoài cái tài hành văn la li, chn ch, nhng tư tưởng và s vic được Lãng Nhân viết ra trong hai tác phm trên, nó vn mang bên trong giá tr ca tng ý nghĩ, tng s vic hôm nay. Bi vy, tác phm ca Lãng Nhân không phi tui nào cũng đc được. Theo ý riêng tôi, người ta phi đc nó cái tui 30 đến 40, khi lưỡi mình đã cm thy có v đng chát mi khi đng vào “thực phẩm trần gian”, khi lòng đã lng đy mui mn và cái cht mng mơ đã theo năm tháng bay xa dn tm tay vng ước. Đc văn Lãng Nhân cái tui “tam thập nhi lập” cho đến “tứ thập” tuy c nhân bo là “bất hoặc” nhưng mình vn b nh hưởng như thường, nht là đc vào nhng đêm tri có gió hây hây và có chút mưa va đ gây tưởng nh. Mt mình vi ngn đèn đêm va đc va ngm nghĩ, qu thc cái cht ch nghĩa nó có ma lc làm cho đi sng thêm nghĩa lý và biến thành nhu cu thc tin đi vi mi con người cn tìm mt chút tư tưởng trong tâm hn đ v v thân phn.
Tôi có cm tưởng, Lãng Nhân chu nh hưởng nhiu Voltaire, mt nhà thơ, văn, kch, s và triết hc ca nước Pháp. Voltaire ra đi cui thế k XVII và sng sut ¾ thế k th XVIII. Voltaire thường t ra kính trng ý thc và t do cá nhân, cũng như tin tưởng vng vàng vào tiến b và tín nhim v hiu năng ca hành đng. Tác phm ca ông đã gây nh hưởng rng ln trong xã hi Pháp thi y, và tư tưởng Voltaire đã đóng góp rt nhiu cho cuc Đi Cách mng Pháp 1789.
Lãng Nhân ch
u đc và hc c Tây ln Đông phương nhưng tuy chu nh hưởng tht đy mà vn bày t được cái riêng ca mình trong ngôn ng và suy tưởng, luôn luôn đt nó vào hoàn cnh nước nhà. Lâm Ng Đường khi viết The Importance of Living , đi t con người ra s vt đ tiến ti thái đ v cuc sng, trong đó còn ngm mang li khuyến d nên sng ra sao, còn Lãng Nhân li đi t s vt vào con người, chng khuyến d gì hết. Lãng Nhân ch trình bày như tc bích ho đ mà ngm, ai mun hiu sao cũng được. Cái d bit gia Lãng Nhân và người khác là ch đó.
Trong h
ơn 10 năm, căn phòng làm vic ca Lãng Nhân, hu như ngày nào cũng là nơi t hp ca bn văn, nơi đó tôi thường gp Tchya (khi sng), Đàm Quang Thin, Vi Huyn Đc, Lê Văn Siêu, Đoàn Thêm, Phan Văn To, Toan Ánh, Bàng Bá Lân, Phm Trng Nhân và đôi khi Triu Đu, Bùi Xuân Uyên ca tp chí Thế k ngày xưa và Hà Thượng Nhân, Bùi Đình, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng (khi sng), Phm Duy, Hiếu Chân và ký gi Lô-răng cùng nhiu, rt nhiu bn khác.

Lãng Nhân làm vi
c không biết mt tuy tui đã cao. Bây gi Lãng Nhân viết loi Tiu truyn danh nhân dưới bút hiu C Nhi Tân do Cơ s Phm Quang Khai xut bn. Loi Tiu truyn này nhm mc đích nêu cao tm gương anh dũng ca các anh hùng Vit Nam như Tôn Tht Thuyết, Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, Nguyn Thái Hc và nhng nếp suy tư ca các danh nhân Trung Quc như Khng T, Tư Mã Quang, Vương An Thch v.v…
Có nh
ng bui chiu nng quái chưa tt hn trên nn da rn phía mái ngói trước mt, anh em đã v hết, còn li tôi và Lãng Nhân đi din tâm s. Trong khi đó, tôi thường yêu cu anh nói cho nghe v cuc đi làm báo, viết văn ca anh ngày trước. Biết bao nhiêu chuyn vui, bun, nhưng có mt chuyn làm cho đến bây gi anh còn ân hn, đó là khi anh hp tác vi t Duy Tân ca Nguyn Đình Thu (người đã chết rt bi thm vì thuc phin mà Vũ Bng đã ghi bài Bt cun Phù Dung ơi! Vĩnh bit). Đ báo chy nên nhóm đã ch trương đ kích tt c nhng người có danh vng đa v trong xã hi thi y. Trong mt bài đ kích mt người mà làm c gia đình người y ly tán vì xu h, bài y không do Lãng Nhân viết nhưng vi tư cách thư ký toà son anh vn chu trách nhim. Vì đó, nên đến gi mi khi bt gp bài báo đ kích ai, anh li bun!
Chúng tôi th
ường coi Lãng Nhân như quyn t đin sng. Ch nào nghi ng, đin tích nào không am tường xut x, chúng tôi đu hi và được Lãng Nhân gii thích rt chu đáo, cn k. Lãng Nhân có mt trí nh đc bit, hình như nhng điu anh hc hay đc đã in chết vào tim thc, lúc cn li hin ra đ cho chúng tôi xài và coi đó như điu mình có. Lãng Nhân năm nay đã ngoài 60, sng gin d. Tui niên thiếu khi làm báo anh em đã thường giu, vì c ngày anh ch ng: “Trắng trẻo, đẹp trai, xương xương người mà không làm gì cả!”.
Anh vi
ết v đêm, dưới mt căn hm, t mt, hai gi cho ti sáng, do đó mi có quyn Trước đèn. Lãng Nhân tng được Trn Trng Kim và Bùi K kết bn vong niên. C Trn nhng khi chán nn v nhân tình thế thái, thường nói vi Lãng Nhân:
“Ông ạ, nghĩ cho cùng, cuộc đời chẳng cái đệch gì ra cái đệch gì cả!”.
Lãng Nhân thích câu nói đó, th
ường nhc li vi anh em. Tôi mượn câu đó đ làm câu kết thúc.
T T


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Văn hóa chửi

Văn hóa chửi Nhiều lúc tôi cứ tự hỏi sao chưa có nhà văn hóa nào nghiên cứu về cái sự “Chửi” nhỉ? Hôm nay ngồi buồn tôi mở máy vi tính, th...