THI
NHÂN BÙI GIÁNG: MỘT TIẾNG LÁ RƠI
Phải nhiều năm sau
khi đất nước thống nhất, tôi mới biết đến một con người kỳ dị trong làng văn:
Bùi Giáng. Nói đúng hơn là tôi chỉ biết đến những tác phẩm của ông mà chưa bao
giờ có dịp được diện kiến ông lần nào. Càng đọc những tác phẩm của ông, cái phần
không hiểu lại càng lớn hơn cái phần hiểu được!
Nhưng rồi dần dần, tôi
mới ngẫm thấy rằng điều đó chẳng quan trọng mấy. Nếu cứ đâm đầu vào đi tìm hiểu
xem Bùi Giáng viết gì thì có ngày cũng dễ điên giống ông! Cái đọng lại trong
tôi mỗi khi đọc Bùi Giáng, ấy là một cảm giác hân hoan không cưỡng lại nổi, cứ
như thể được nhận quà từ tay một chú bé hồn nhiên, vui vẻ.
Cả thơ, cả văn hay
khảo cứu của ông đều gây cho tôi cái cảm giác ấy. Với tôi, có lẽ thế là đủ.
Trong 73 năm sống trên
cõi đời này, Bùi Giáng là người phiêu hốt qua hàng hàng chữ nghĩa. ông lãng
đãng ngay từ bản khai lý lịch không “đụng hàng” với bất cứ ai
Hỏi tên? Rằng biển
xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
Gọi tên là một, hai, ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
Gọi tên là một, hai, ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
Có vẻ như với Bùi
Giáng, đời là một cuộc vui bất tận và ông tận hưởng nó, diễn giải nó, yêu
thương nó, như cái cách mà ông đã từng viết: “Thơ vô tận vui”.
Mở đầu cho Mưa
nguồn, thi phẩm đầu tiên của Bùi Giáng được xuất bản năm 1962, ngoài lời đề
từ giỡn cợt “rất Bùi Giáng” là “tặng ba người con gái – chiêm bao ở bờ cỏ Phi
Châu”, Bùi Giáng còn rút ra hai câu trong bài Chào Nguyên Xuân có trong tập
này, như một lời thề về cuộc đời (và có lẽ toàn bộ chữ nghĩa) của ông:
Xin chào nhau giữa con
đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
Đấy là cái tâm thế của
một người tung tăng trên đường đời, chào gặp và giã biệt bất cứ ai dù lạ hay
quen; và đời sống ông chảy trôi giữa hai cảnh giới: luôn có một mùa xuân vẫy
gọi tíu tít ở phía trước, trong khi phía sau là những giấc ngủ dài.
Đời sống phiêu bồng
của Bùi Giáng vang vọng trong thơ ông. ông như một người lữ thứ đi trong cuộc
đời, không biết từ đâu đến và cũng không biết đi về đâu:
Ngày sẽ hết và tôi
không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu.
(Phụng hiến).
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu.
(Phụng hiến).
Trong cõi trần gian
ấy, Bùi Giáng sống tận hiến cho từng satna một, với một niềm vui sống bất
tuyệt, như ông đã viết, vẫn trong bài Phụng hiến:
Tôi đã gửi hồn tôi
biết mấy bận
Cho mây xa cho tơ liễu ở gần
Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật
Quả tim mình nóng hổi những chờ mong
Cho mây xa cho tơ liễu ở gần
Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật
Quả tim mình nóng hổi những chờ mong
Một tình yêu mãnh liệt
đời sống với những sắc thái tế vi của nó:
Xin yêu mãi yêu và yêu
nhau mãi
Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn.
Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn.
Có lẽ, cái tình yêu
đời sống mãnh liệt ấy đã là đôi cánh bướm mỏng nhẹ nhàng mang thơ ông len lỏi
vào trái tim những người yêu thơ.
Trong nền thơ Việt
Nam, có một thế giới thơ tình Nguyễn Bính. Có một thế giới thơ tình Xuân Diệu.
Vậy liệu có một thế giới thơ tình Bùi Giáng hay không?
Theo tôi là có.
Trong thơ Bùi Giáng,
hình ảnh người con gái lớn mênh mông mà cũng thật nhỏ nhoi. Tựu trung lại, nàng
bao giờ cũng đẹp:
Ôi một người con gái
Là đúng một bầu trời
Là sinh con đẻ cái
Đẹp bằng hột mưa rơi
ôi một người con gái
Dù là gái đốt than
Cũng đẹp như suối ngàn
Chảy từ trên núi xuống.
(Ôi một người con gái).
Là đúng một bầu trời
Là sinh con đẻ cái
Đẹp bằng hột mưa rơi
ôi một người con gái
Dù là gái đốt than
Cũng đẹp như suối ngàn
Chảy từ trên núi xuống.
(Ôi một người con gái).
Trong tình yêu của thơ
Bùi Giáng, nỗi nhớ luôn hiển hiện như một thành tố không thể thiếu. Có một
thời, có lẽ do bị ảnh hưởng bởi những tiểu thuyết cổ trang, Bùi Giáng thường
xưng “Trẫm”, như một vị vua trước các thần dân trong vương quốc tưởng tượng của
riêng Bùi Giáng. Vị vua này cũng không được miễn nhiễm khỏi cái sắc thái thông
thường của người đang yêu:
Trẫm ở bên trời
Trẫm nhớ em
Trên trời trẫm nhớ
Trẫm thương thêm
Trẫm buồn như thể
Trời buồn thảm
Trẫm khóc vô ngần
Trẫm nhớ em.
(Trẫm một mình nhớ nhung hoàng hậu của trẫm).
Trẫm nhớ em
Trên trời trẫm nhớ
Trẫm thương thêm
Trẫm buồn như thể
Trời buồn thảm
Trẫm khóc vô ngần
Trẫm nhớ em.
(Trẫm một mình nhớ nhung hoàng hậu của trẫm).
Và hiển nhiên là vị
vua Bùi Giáng, khi xa cách em, cũng rối ren, cũng dằn vặt với câu hỏi thường
xuyên đặt ra: “Em đâu?”. Hồi đó chưa có điện thoại di động, những người yêu
nhau bình thường giải tỏa nỗi nhớ bằng cách viết thư cho nhau, còn Bùi Giáng
thì… làm thơ.
Em ở đâu rồi Trẫm nhớ
em
Trẫm buồn chẳng biết viết gì thêm
(Em có nhớ Trẫm chăng em nhỉ
Trẫm viết dòng nào
Cũng rối ren).
(Em ở bên trời).
Trẫm buồn chẳng biết viết gì thêm
(Em có nhớ Trẫm chăng em nhỉ
Trẫm viết dòng nào
Cũng rối ren).
(Em ở bên trời).
Bùi Giáng là một trong
số hiếm hoi những nghệ sĩ mà ngay khi ông còn sống đã có vô vàn những giai
thoại vây quanh. Trong số đó, có một giai thoại về việc Bùi Giáng tự viết “tiểu
sử” trong một bản thảo chép tay ghi trong cuốn sổ gửi vào chùa Pháp Vân, Gia
Định, Sài Gòn ngày 10-11-1993. Trong cái “tiểu sử” giai thoại này, có những
dòng liên quan đến đối tượng luyến ái của ông:
“1942: trở ra Huế vì
nhớ nhung gái Huế…
1970: Lang thang du hành lục tỉnh, gái Châu Đốc thương yêu và gái Long Xuyên yêu dấu
Gái Chợ Lớn khiến bị bịnh lậu (bịnh hoa liễu)”.
1970: Lang thang du hành lục tỉnh, gái Châu Đốc thương yêu và gái Long Xuyên yêu dấu
Gái Chợ Lớn khiến bị bịnh lậu (bịnh hoa liễu)”.
Không rõ sự chân thực
của những dòng “tiểu sử” giai thoại này đến đâu, nhưng trong suốt cuộc đời
mình, ngoài người vợ chính thức Bùi Thị Ninh đã không may mất sớm, Bùi Giáng có
vô số những người yêu trong mộng. Danh sách “người yêu” của Bùi Giáng, cũng là
những nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ông, trải dài từ Nam Phương hoàng hậu,
Phùng Khánh (Thích Nữ Trí Hải), ca sĩ Hà Thanh, kỳ nữ Kim Cương cho đến những
minh tinh màn bạc ngoại quốc tài danh đương thời Bùi Giáng như Marilyn Monro và
Brigitte Bardot! Đấy là còn chưa kể đến những người tình không tên như “em Mọi
nhỏ” mà Bùi Giáng luôn nhắc đến với niềm trân trọng.
Có lẽ bởi đó là những
người yêu trong mộng tưởng nên tình yêu của Bùi Giáng đối với họ thấm đẫm những
ẩn ức tình dục libido. Có thể thấy cái chất libido này lại thấm đẫm trong nhiều
câu thơ của Bùi Giáng. Khả năng tận dụng từ ngữ tiếng Việt phi phàm cho phép
Bùi Giáng tung hứng với những cách nói lái dân gian điển hình. Trong thơ ông
xuất hiện với tần suất cao những “tồn lưu”, “liên tồn”, “lưu tồn”, “cồn hoa
lá”, “lộn đàng”; thậm chí Bùi Giáng còn lấy bút danh của mình là “Vân Mồng” cho
bản dịch tiểu thuyết Khung cửa hẹp của André Gide, lấy tên nhà xuất bản cho tập
tiểu luận Đường đi trong rừng là Lá hoa cồn, hay đưa hẳn cái từ Lá hoa cồn này
vào tên một tập thơ: Mưa nguồn và Lá hoa cồn, nhà An Tiêm xuất bản năm 1973!
Đây:
Mép bờ nước mọc nguyên
tiêu
Tờ điên hoa dậy trăng Chiều Dã Man
Đất về lịch sử thênh thang
Cồn Hoa Lá trút cho hàng ngửa nghiêng.
(Cồn hoa lá).
Tờ điên hoa dậy trăng Chiều Dã Man
Đất về lịch sử thênh thang
Cồn Hoa Lá trút cho hàng ngửa nghiêng.
(Cồn hoa lá).
Đây:
Trăm năm trong cõi
sinh tồn
Cá bờ mương nhảy sô hồn xuống hang
Biết bao là gái lộn đàng
Nhớ nhung như nhớ lang thang mây chiều
…
Một ngàn cỏ lá cồn trơ
Đẩy ngang ngửa nhịp nước cờ chiêm bao
Dấn thân thể dấn bước vào
Xịch mành sực tỉnh hàng rào chắn ngang.
(Bờ tồn sinh).
Cá bờ mương nhảy sô hồn xuống hang
Biết bao là gái lộn đàng
Nhớ nhung như nhớ lang thang mây chiều
…
Một ngàn cỏ lá cồn trơ
Đẩy ngang ngửa nhịp nước cờ chiêm bao
Dấn thân thể dấn bước vào
Xịch mành sực tỉnh hàng rào chắn ngang.
(Bờ tồn sinh).
Đây nữa:
Mở hai hàng cỏ long
đong
Úp môi vào thút thít trong một vùng.
(Mở cỏ vào môi).
Úp môi vào thút thít trong một vùng.
(Mở cỏ vào môi).
Đọc những câu thơ này
của Bùi Giáng, thoảng như thấy Hồ Xuân Hương đâu đây.
Nhiều người biết Bùi
Giáng là một dịch giả siêu phàm với hàng ngàn trang dịch các tác phẩm triết học
khó nhằn của các triết gia, các tiểu thuyết, kịch hiện sinh của André Gide,
Gérard de Nerval, Albert Camus, W.Shakespeare… ông cũng có những trang dịch với
ngôn ngữ tuyệt đẹp các tác phẩm đầy thơ mộng của Saint Exupéry như Hoàng
tử bé, Cõi người ta…
Nhưng ít ai biết được
là Bùi Giáng đã từng dịch truyện chưởng!
Trong số các “đại gia
võ hiệp” của tiểu thuyết chưởng Tàu thập niên 60 của thế kỷ trước, Ngọa Long
Sinh là một tên tuổi nổi bật, sánh ngang với những Cổ Long, Lương Vũ Sinh, Gia
Cát Thanh Vân…, có lẽ chỉ kém Kim Dung tí chút. Tiểu thuyết của các tác giả này
được độc giả đô thị miền Nam nồng nhiệt đón nhận hồi thập niên 60-70, được dịch
và in với số lượng lớn.
Một trong những tác
phẩm của Ngọa Long Sinh mà Bùi Giáng chọn dịch là Kim kiếm điêu linh,
sau này được những người dịch khác lấy cái tựa đề dễ hiểu hơn là Xác chết loạn
giang hồ!
Cách đây nhiều năm,
Bùi Giáng từng viết, trong bài thơ cuối của tập Mưa nguồn, bài Mai
sau em về:
Ta đi còn gửi đôi
giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù?
Lá rơi có dội ở trong sương mù?
Cuộc đời cũng như sự
nghiệp chữ của Bùi Giáng cũng giống như một tiếng lá rơi dội trong sương mù của
đời sống. Tiếng dội ấy sẽ còn vang rất xa, rất sâu.
Yên Ba
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét