Chàng
Trương Chi của những bản tình ca và hùng ca
Trịnh Chu
Nhạc sĩ Văn Cao – chàng Trương Chi
gõ mạn thuyền mà ca vào một thời lãng mạn xa xưa cũng là một đại thụ của nền
tân nhạc Việt Nam, mà theo lời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Trong âm nhạc, Văn Cao
sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ
mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần
tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất.
Bay và chìm trong những thân phận riêng tư…”. Ông cũng là một trong những người
đặt nền móng cho nền tân nhạc Việt Nam thế kỷ XX.
Trong
giới nghệ thuật của Việt Nam, Văn Cao là một nghệ sĩ hiếm hoi mà bước lãng du ở
lĩnh vực nào cũng để lại dấu ấn sâu đậm, từ thơ ca đến nhạc họa. Nhưng ca khúc
là lĩnh vực ông thành công hơn cả.
Người nghệ sĩ đa tài Văn Cao sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Hải Phòng, sớm
bộc lộ năng khiếu âm nhạc. Người thầy dạy nhạc muốn phát huy năng khiếu thiên
bẩm của cậu học trò nhỏ đã gửi Văn Cao vào trường dòng Bonnal để học nhạc. Văn
Cao tập sáng tác ca khúc từ đó.
“Buồn tàn thu”,
ca khúc đầu tiên, sáng tác khi ông mới 17 tuổi, với những ca từ rất lãng mạn: “Nhờ bóng chim uyên/ Nhờ gió đưa duyên/ Chim với gió
bay về/ Chàng quên hết lời thề…” đã
làm chấn động công chúng yêu nghệ thuật ở Hải Phòng và thủ đô Hà Nội. Văn Cao
nổi danh từ đó.
Từ hơi
hướng nghệ sĩ lãng mạn, với những “Buồn
tàn thu”, “Thu
cô liêu”… Văn Cao đã nhanh chóng hòa nhập vào cuộc kháng chiến vĩ
đại của dân tộc. Năm 1944, mới 21 tuổi, trong những ngày mới đến với cách mạng,
Văn Cao đã viết bài “Tiến
quân ca” được
Quốc hội khóa I (năm 1946) công nhận là quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Đó là một vinh dự lớn bởi không phải nhạc sĩ nào cũng được dân tộc tôn
vinh và lấy một bài hát làm quốc ca. Sau “Tiến
quân ca”, một loạt ca khúc cách mạng ra đời: “Công nhân Việt Nam”; “Ca ngợi Hồ Chủ tịch”; “Tiến về Hà Nội”; “Bắc Sơn” và đặc biệt “Trường ca sông Lô”… là
những hùng ca nhưng vẫn mang phong cách thư thái, đỉnh đạc mà dung dị của tâm
hồn người Việt Nam.
Song song với những bản hùng ca, Văn Cao vẫn dành sự ưu ái cho tình ca. Nhiều
người vẫn say sưa hát bài “Thiên Thai”: “Thiên Thai chốn đây hoa xuân chưa
gặp bướm trần gian/ Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn quá một lần/ Đèn
soi trăng êm, nhạc lắng tiếng quyên đây đó nỗi lòng mong nhớ/ Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi/ Đàn xui ai quên lời dương thế/
Đàn non tiêu, đàn khao khát cuộc tình duyên…”. Hay bâng khuâng, mơ
mộng với “Trương Chi”: “Một chiều xưa trăng nước chưa thành
thơ/ Trầm trầm không gian mới rung thành tơ/ Vương vất heo may hoa bướm mong
chờ/ Nghe tiếng cầm ca thu tới bao giờ…”. Rồi lại say đắm, mơ màng
cùng “Suối mơ”: “Suối ơi! Ôi nguồn yêu mến/ Còn ghi
khi bóng ai tìm đến/ Đàn ai nắn buông lưu luyến/ Suối hát theo đôi chim quyên/
Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối/ Nghe suối róc rách trôi/ Hoa lừng hương
gió ngát/ Dàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi…”. Nếu “Buồn tàn thu”, “Thu cô liêu” còn mang hơi hướng lãng mạn thì đến “Thiên Thai”, “Trương Chi”, “Suối mơ”, “Mùa xuân đầu tiên”, “Làng tôi”… Văn Cao đã đổi
mới sáng tác, cách tân giai điệu, khúc thức và hướng về âm nhạc dân tộc, thể
hiện một bản lĩnh vững vàng, biết kế thừa và phát huy vốn âm nhạc dân
tộc.
Không những có năng khiếu âm nhạc, Văn Cao còn có năng khiếu hội họa. Văn Cao
đã tham gia cuộc triển lãm Salon Unique tại Hà Nội ở Nhà Khai Trí Tiến Đức cùng
với các danh họa như Tô Ngọc Vân, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tiến Chung, Lưu Văn
Sìn vào năm 1944, với 3 bức sơn dầu “Cô
gái dậy thì”; “Thái
Hà ấp đêm mưa” và “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử” đã gây sự chú ý cho giới mỹ thuật về
bút pháp và màu sắc.
Nhận xét về hội họa Văn Cao, nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân viết: “Ở Văn Cao tiếng vọng hoài niệm như
một vẻ đẹp có thẩm mỹ siêu thực, theo tôi là một ẩn hiện di truyền lác đác
trong cả cuộc đời nghệ sĩ đẹp đẽ của anh. Nhưng cái nhìn hội họa ở anh có địa
vị dẫn đường và chi phối: chính Văn Cao và vài ba người nữa (Bùi Xuân Phái, Sỹ
Ngọc, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng…) vào những năm 60 đã mở hướng thẩm mỹ mới
cho minh họa và đồ họa. Có thể nói Văn Cao đã lập được một trường phái minh họa
vẽ bìa sách. Nhiều minh họa của anh trên báo Văn Nghệ phải gọi là xuất sắc. Nếu
âm nhạc, thơ ca là một bản thể tươi tốt của anh, thì hội họa là một tâm thức
sâu sắc. Văn Cao có cái nhạy bén về cảm xúc tinh tường trong quan sát”.
Rồi người nghệ sĩ đa tài trải qua bao thăng
trầm cũng đến lúc dừng bước lãng du. Tháng 7 năm 1995, ông đã vĩnh viễn ra đi
trong niềm tiếc thương của người yêu nhạc cả nước. Trước sau, ông vẫn là một
nhân cách lớn, không a dua, chạy theo thời thế. Trong lời vĩnh biệt người nghệ
sĩ đa tài Văn Cao, nhạc sĩ Thế Bảo đã viết: “Thơ với họa đã theo suốt hành trình
âm nhạc hơn nửa thế kỷ, vỗ về an ủi ông, chia sẻ những cảm xúc đầy ắp tâm hồn
nghệ sĩ mà đôi lúc âm thanh dường như phải nhường bước cho ngôn từ và màu sắc”.
Văn Cao đã yên nghỉ ở cõi vĩnh hằng. Mọi vui buồn, được mất của đời nghệ sĩ
cũng đã lắng xuống. Ông đã đến với chúng ta, sống giữa chúng ta rồi rời xa
chúng ta và để lại những “Buồn
tàn thu”; “Thiên
Thai”; “Trương
Chi”; “Suối mơ”
“Mùa xuân đầu tiên”;
“Trường ca sông Lô”…
như những bó hoa tươi thắm dâng tặng cho đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét