Thứ Năm, 12 tháng 2, 2015

Đi vào thơ Huyền Không

Đi vào thơ Huyền Không
Phạm Xuân Đài
Tôi cảm thấy ngại ngùng khi định viết về thơ của thi sĩ Huyền Không. Không phải tôi không thích thơ, trái lại là đàng khác, nhưng đây là những bài thơ nhuốm mùi thiền, mà tôi lại chẳng có một trình độ nào về thiền cả. Nhưng rồi tôi lại tự nhủ: sao lại phân biệt thơ thiền và thơ không thiền. Trên hết và muôn đời, thơ là thơ, lo việc chuyển tải các trạng thái đặc biệt của tâm hồn con người, với một ngôn ngữ riêng nhằm gây hiệu quả tối đa cho mục đích của nó. Tình yêu hay tôn giáo cũng chỉ là các trạng thái của tâm hồn người hướng về các đối tượng khác nhau, nhưng khí thế hiện ra thơ chúng phải được bình đẳng: phải qua các cửa nghệ thuật để tự giới thiệu mình. Người đọc thơ có cái sung sướng là không cần biết mình đã yêu chưa hoặc có kinh nghiệm gì về thiền định hay không mà vẫn cứ đọc thơ tình hay thơ thiền; vần đề là những bài thơ ấy có đem lại gì cho anh ta hay không chứ không phải anh ta phải đem lại gì cho những bài thơ ấy.
Vậy thì, thôi sẽ bắt đầu từ mùa Xuân, mùa nở đầu cho một chu kỳ sinh tử. Từ những năm thanh xuân của đời mình, nhà thơ Huyền Không đã cảm nhận mùa Xuân như sau:
 Ô hay Xuân đến bao giờ nhỉ
Nghe tiếng hoa khai bổng giật mình
Sáng nay thức dậy choàng thêm áo
Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh. 
Vẫn là cái giật mình mang tính cách khám phá của muôn thuở của tuổi trẻ đối với chuyển biến của đất trời, nhưng tác giả đã có đầy đủ sự già dặn và nhạy cảm tinh vi của tâm thức. Nghe được tiếng hoa đang nở và giật mình vì sự kiện ấy của mùa Xuân không phải là tài năng thính tai và mẫn cảm của đời thường mà phải là biểu hiện của một khối tâm linh trong suốt lung linh đang mở ra thế giới và cuộc đời với những ước hẹn cao thượng. Khả năng nhìn thấy, với mùa Xuân, “Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh” là một khả năng lạc quan và trong sáng, khả năng của cải đổi và của niềm an lạc. Khẩu khí của bài tứ tuyệt vịnh Xuân từ tuổi thanh xuân này đã mang dáng dấp triết học và ẩn dụ của những bài tứ tuyệt đã được ngâm nga dưới mái chùa Việt Nam từ bao nhiêu thế kỷ qua.
Nhiều năm về sau, mùa Xuân vẫn gây cảm hứng nơi thi nhân như thủa nào, nhưng ý tứ rõ rệt thẳm sâu hơn, lời lẽ dậm đà hơn, chứng tỏ bước đi chín mùi của thời gian trên tâm hồn thơ cũng như tâm hồn đạo: 
Sương Xuân rải xuống sơn hà
Lòng đêm xa vắng mở ra nhiệm màu. 
Sự hiền hòa của Phật giáo đã thấm nhập vào tâm hồn dân tộc Việt Nam từ bao giờ nhỉ? Có phải từ buổi những chiếc thuyền từ Ấn Độ vượt biển ghé đến Giao Châu, cách đây gần hai mươi thế kỷ, và những thiền sư lên bờ truyền giảng đạo hạnh từ bi cho dân ta? Có phải từ đấy các ngôi chùa bắt đầu tham dự vào sinh hoạt làng xã của cộng đồng Việt Nam, và đã đóng góp vào sự nghiệp giáo hóa ấy một cách thầm lặng và liên tục, hết đời nầy qua đời khác? Trải qua một lịch sử dữ dằn cay đắng vì phải luôn chống trả họa ngoại xâm cùng thiên tai, dân Việt Nam từ xưa có đạo Phật để giữ cho tâm của mình không thành dữ dằn và cay đắng, trái lại tiến triển đến chổ khoan dung cao thượng xứng đáng là dân tộc có văn hiến.
Trong một làng Việt Nam nếu đình là khu hành chánh tinh thần thì chùa là nơi tỏa bóng mát tâm linh, là môi trường hoàn toàn tự giác để tâm hồn nghỉ ngơi và hoàn thiện chính mình.
Văn học cận đại Việt Nam có một số tác phẩm văn xuôi đề cập về sinh hoạt chùa chiền như Hồn Bướm Mơ Tiên, Tiêu Sơn Tráng Sĩ của Khải Hưng, Lên Chùa của Thiện Sĩ v.v…, nhưng về thơ thì bài Nhớ Chùa của Huyền Không có lẽ là bài đầu tiên có tầm vóc về đề tài này. Thoạt đọc Nhớ Chùa ta dể liên tưởng đến các bài thơ mang nặng tình tự quê hương của Đoàn Văn Cừ (Chợ Tết, Đám Cưới, Mùa Xuân, Đám Hội) hay Tế Hanh (Quê Hương, Lối Con Đường Quê) mô tả một cách sinh động các sinh hoạt và tình cảm bình dị ngàn đời của nông thôn Việt Nam. Riêng Đoàn Văn Cừ, sau khi tả các hoạt cảnh của hội hè bao giờ cũng kết thúc với bóng

…Một lúc sau khi tới chổ vòng quanh
Nếp chùa trắng in hình trên trời thắm
Thì cả bọn dần dần cùng khuất lẩn
Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân.
(Đám Cưới Mùa Xuân)
…Khi chuông tới bên chùa văng vẳng đánh
Trên con đường đi các làng hẻo lánh
Những người quê lũ lượt trở ra về …
(Chợ Tết)
Vệt tháp trắng in dài trên đồng vắng
Tiếng chuông tối nhặt khoan trong yên lặng
(Đám Hội)
Như muốn khẳng định rằng cái nền không thể thiếu được trong đời sống Việt Nam chính là đạo Phật. Nhưng đến Nhớ Chùa thì ngôi chùa làng đã tiến lên thành cận cảnh.
Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con đường nhỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi:
Yên lặng, chùa tôi ngập nắng vàng
Có những cây mai sống trọn đời
Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi miệng mỉm cười.
Sinh hoạt tôn giáo cũng như chốn tu hành tại thôn quê không gây ấn tượng như các loại hội hè đình đám hoặc các hoạt cảnh làm ăn năng động, nhưng Huyền Không đã đưa ra được tình cảm đằm thắm của dân làng đối với ngôi chùa của mình, không mạnh mẽ sắc cạnh nhưng nhu hòa và lan tỏa rộng như một làn hương trầm. Đó là điều mà hình như rất ít ngòi bút văn học nào của nước ta đã làm được. Có thể đã có những thiên khảo luận dày thuyết phục rằng Phật giáo đã vào Việt Nam rất sớm và ảnh hưởng sâu đậm đến tư tưởng Việt Nam ra sao, nhưng điều này thì khác hẳn:
Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đâu ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống mến yêu.
bởi vì những buổi chiều êm đềm như thế, những lời kinh trong ngôi chùa cổ như thế, tình cảm mến yêu của dân làng như thế đều là các thực tại sống, tồn tại sâu trong thôn quê và sâu trong ký ức mỗi người chúng ta như từng tồn tại như thế đã hàng ngàn năm.
Sau các triều đại đầu của thời đại tự chủ, đạo phật đã thôi đóng vai quốc giáo, nhưng vẫn tiếp tục thấm sâu vào các mạch ngầm của đời sống tiếp tục góp phần tạo nên tâm hồn và phẩm cách của con người Việt Nam. Nên khi cho rằng:
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông
Thì có thể gây ra những tranh luận về lý trí trong một quốc gia trên nguyên tắc có nhiều niềm tin khác nhau về tôn giáo, nhưng về tình cảm, được điều khiển một cách kín đáo bởi vô thức, thì chúng ta thấy điều đó hầu như là tự nhiên. Có những nơi không nên vận dụng lý trí vào vì nó chẳng được việc gì cả, như ở đây chẳng hạn, một câu thơ về hồn dân tộc thì nên lấy hồn ta mà cảm ứng nó vậy. Khi đọc một câu thơ lên mà nghe lòng ta xôn xao rung động thì đúng là gặp phải mạch ngầm đã chảy miên viễn tự thâm sâu trong mỗi chúng ta tự đời não đời nào. Nhớ Chùa chính là nhớ nổi niềm ấy đã nằm sâu trong hồn dân tộc và dài dọc theo dòng lịch sử.
Tu hành là một kinh nghiệm riêng tư. Nhưng một tâm hồn đạo hạnh có cách tỏa sáng riêng của nó mà thi ca có lẽ là phương tiện chuyển tải hữu hiệu nhất.
Ai xây đời trong tưởng tượng
Ai dệt đời ngoài muôn hướng
Ai khóc
Ai than
Và ai buồn vì nắng đời chưa chớm
Tìm đâu ra một sớm
Cho loài người tắm gội ý tươi xinh
(Tình Nhân Loại)
Hạnh nguyện lớn lao ấy đã được tác giả tìm thấy giải pháp thực hiện trong đạo Phật:
Hai bàn tay
Hãy dựng nên tháng ngày
Hai bàn chân
Hãy đi trên đường dài trái đất
Khắp năm châu
Sống trong lòng từ bi Đức Phật
Ngọt ngào như mật
Tình nhân loại thương nhau
(Tình Nhân Loại)
Không những “tìm thấy giải pháp”, chính tác giả thực hiện giải pháp ấy: người là một tu sĩ. Chính cái tư cách vừa là thiền sư vừa là thi sĩ đã tạo ra một ngưỡng cửa trong thi ca của tác giả: bên này là tiếng nói của đời thường, bên kia là ngưỡng cửa là tiếng nói của kinh nghiệm và cảm hứng thiền định - một vùng đất lạ nhưng đầy quyến rũ đối với “người phàm”.
Trong hơi thở ngồi yên nhìn vạn kiếp
Nghe đất trời kể lại chuyện tiền thân
(Tĩnh Tọa)
Khả năng của định lực được hé mở nằng ngôn ngữ thi ca! Thở …ngồi yên …nhìn thấy …nghe thấy …Rồi ta rón rén tiếp nhận một kinh nghiệm khác:
Đêm yên vắng ngồi yên nhìn quá khứ
Thác trên cao đổ xuống mãi trong đầu
Nước cứ chảy, tư tưởng dài lữ thứ
Thời gian nào do dự hỏi ta đâu
(Tĩnh Tọa)
Cuộc hành trình đầy riêng tư của tâm và ý, cả tác động của thời gian trong trạng thái ấy, đã được tác giả tiết lộ một phần…Chúng ta chờ đợi dẫn đi vào nhiều nẻo đường mới lạ khác, nhưng bỗng hành trình chấm dứt ở một chổ ta không ngờ nhất:
Ta không kiếm tâm mình mà bỗng thấy:
Kìa, đóa hồng đang nở dưới trăng sao
(Tĩnh Tọa)
Ta hình như không hiểu lắm sự thể như thế là thế nào, nhưng nếu diển đạt cảm tưởng tức thời của mình, thì sẽ nói: một kết thúc rất thiền! Và cũng rất thơ. Vâng, tức thời tức chưa kịp suy luận, và đó chính là cái mà nghệ thuật thi ca của thiền tư thi sĩ đem lại cho tâm hồn và khiếu thưởng ngoạn của ta vậy.
Trạng thái đạt đạo của một người tu hành dĩ nhiên không thể chia xẻ bằng ngôn ngữ thường cho chúng ta được, nhưng bài thơ Đạt Đạo của Huyền Không quả là một bài thơ đẹp, vừa về ý và lời, đẹp ở cả khả năng đưa ta lên cao một bậc khỏi những dây nhợ vướng víu của đời thường.
Qua thiền môn thấy trời xanh
Kim Cang kinh tụng chân thành từng trang
Khói hương quyện cảnh mơ màng
Không gian là chiếc y vàng quấn thân
Tuy là bốn câu tả cảnh tu tập chăm chỉ thường nhật ở chùa nhưng đã có sự chuẩn bị cho một vượt thoát: mảnh trời xanh trong hoàn cảnh này đã là một cái gì là lạ, khói hương thường lệ đã được chủ thể thấy giữa mình và không gian bao quanh không còn ranh giới, không gian rộng lớn có thể thu hẹp lại quấn quanh ta vừa bằng cái áo của ta, hoặc là chính ta trở thành rộng lớn mênh mông trong không gian để mặc vừa cái áo rộng lớn ấy . Tâm thức đã đạt trạng thái chuẩn bị …
Thiền môn xưa sạch phong trần
Kim Cang kinh khép trầm luân thoát rồi
Ta từ sanh tử về chơi
Ngồi trên chóp đỉnh mỉm cười với trăng
Điều ấy đã xảy ra. Cuộc “về chơi” đã tới đích. Không biết tự bao nhiêu kiếp đi lạc vào cõi sinh tử, không biết đã bao nhiêu lần “người đi trong không gian nhịp xe uốn vòng tử sinh” (*), bây giờ ta đã tìm thấy quê cũ yên vui rũ sạch lầm than. Người đã thầy lại bản tâm. Trạng thái sau cùng là sẽ không còn chùa, không còn kinh, bặt ngôn ngữ, tất cả chỉ là một sự bừng sáng tuyệt đối của một ngày mới vừa rạng xóa tan cơn mê đời đời kiếp kiếp của quá khứ:
Còn đâu nữa Kim Cang kinh
Thiền môn biến mất còn mình vô ngôn
Bình minh về ngập hoàng hôn
Cười lên một tiếng tỉnh hồn ngàn năm. 
Sau khi đọc câu “Cười lên một tiếng tỉnh hồn ngàn năm” tôi cũng thấy “đạt” rồi,  không còn muốn viết thêm về các bài khác nữa, mặc dù còn nhiều bài tôi rất thích. Hình như đã đến chổ trọn vẹn. Qua mười sáu câu thơ của Đạt Đạo, thi sĩ thiền sư đã dẫn dắt và truyền cho tôi phần nào cái cảm giác “tỉnh hồn” – đó có lẽ là điểm cao nhất mà một bài thơ tạo được nơi nguời đọc nó. Và thế là đủ, tôi xin khép lại nơi đây cảm nghỉ này.
Trên đây tôi không dám viết về tác giả Huyền Không, đúng ra tôi chỉ viết về tôi khi đọc tác giả ấy, mà đọc cũng không trọn vẹn. Như thế lại hơn: đừng nên mang tham vọng làm những việc lớn lao quá sức mình.
Sàigòn, Mùa Phật Đản Nhâm Thìn
(*) Lữ hành của Phạm Duy


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  “Thơm từ nỗi đau” của Hoàng Thụy Anh: Hành trình hóa giải và hồi sinh Có những tập thơ khi mở ra, người đọc lập tức bị thu hút bởi sức n...