Ngọc An, thế giới thi ca trữ tình
trong mùa thu diễm ảo của cuộc đời
Đối với đa số những kẻ bước
vào tuổi trung niên thì quả thật khó làm một bài thơ tình mặn mà xúc cảm. Có lẽ
những rung động của con tim trong tuổi hoa niên hay trong tuổi thanh xuân của họ
bị rơi rụng ít nhiều trên những nẻo đường đời mà họ đã trải qua. Lại
nữa, gánh mưu sinh hay gánh hệ lụy làm tâm hồn họ mất sự tươi mát, làm trái tim
của họ chai lì không còn mẫn cảm nữa.
Song có một điều lạ lẫm: khi đọc một
vài bài thơ của Ngọc An in trong ''Tuyển Tập Thơ Mùa Tình Yêu'' do cơ sở Cảo
Thơm thực hiện vào mùa Xuân 2000, tôi ngạc nhiên một cách kỳ thú: Thơ chị vẫn
ăm ắp rung động, vẫn dạt dào tình ý, vẫn bát ngát men hương nồng đượm say sưa.
Dường như chị sinh ra để làm loại thơ này Tuy không ướt sũng cảm tính như thơ
tình yêu của T.T.Kh, lại cũng không như loại thơ trữ tình rất dễ thương về
phương diện nhân sinh quan của nữ sĩ Thu Hồng (1) thời tiền chiến, nhưng tình ý
chân thành và đôn hậu trong thơ của chị cũng đã ghi nhiều dấu ấn đậm đà trong
tâm hồn khách thưởng ngoạn không quá dễ dãi mà cũng không quá khó tánh.
Khuynh hướng thi ca, Ngọc
An đã xác định ở bài ''Màu Thời Gian'' trong thi tập ''Tiếng Thơ Là
Những Đường Tơ Của Lòng''.
Người làm thơ để giải sầu
thế sự,
Em
làm thơ vắt cả máu tim mình.
Đem
niềm đau từ thuở tuổi sơ sinh,
Gởi
hết cả đời mình theo giấy mực.
Em
đã viết với những điều rất thực,
Với
ước mơ sâu kín của riêng mình.
Với
tình yêu trong trắng thuở nguyên trinh,
Thuyền
định mệnh đã vô tình đưa đẩy.
Vào một buổi sáng chớm hạ,
tôi nhận được một bưu kiện kết xù do Ngọc An gửi tặng gọi là món quà văn chương
gồm có: 1 tuyển tập thơ văn ''Rừng Thu Xưa Vẫn Nhớ'' (1998), 2 thi tập ''Tiếng
Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng'' (1997), ''Từ Miền Biển Sóng'' (2000), 2 tuyển
tập thơ văn gồm của nhiều tác giả trong đó có thơ của Ngọc An
như ''Hoa Vàng'' (2003), ''Nam Phong'' (2005). Và đặc biệt là tập
thơ của Ngọc An được phổ nhạc. Mỗi một tác phẩm là một công trình rực rỡ về
hình thức: ruột được trình bày khoáng đãng, sáng sủa và đầy hình ảnh văn gia
thi sĩ ở Bắc California và hình ảnh những văn hữu thi hữu từ bốn phương trời xa
xăm đến viếng Thung Lũng HoaVàng. Còn bìa được tráng giấy láng
bóng như vóc lãnh, vóc sa-teng và được trang hoàng bằng những tranh ảnh
với màu sắc cực kỳ ngoạn mục. Nhìn những bìa sách, tôi có cảm tưởng màu sắc của
trăm hồng nghìn tía lộng lẫy trong hoa viên ngự uyển nào về tụ họp để mở hội quần
phương trong ánh thiều quang tươi sáng. Càng đặc biệt là quyển
''Ngàn Năm Mây Trắng'' (2002) gồm những bài thơ di cảo của cố thi sĩ Yên Bình,
người bạn đồng tâm đồng điệu của Ngọc An và gồm thơ hoài niệm của chị cùng các
bài thơ ai điếu của các tác giả khác. Đọc qua tác phẩm này, tôi liên tưởng đến
giai thoại đẹp đẽ và u buồn hồi 38 năm truớc. Số là thi sĩ Đông Hồ
thất lộc vào năm 1969. Vợ của ông là nữ sĩ Mộng Tuyêt (2) gom hết di cảo của
ông để cho in thành những quyển: ''Úc Viên Thi Thoại'', ''Bội Lan Hành'',
''Hương Gây Mùi Nhớ'', ''Dòng Cổ Nguyệt'', ''Đăng Đàn'', ''Thiên Địa Gian''...
Đó là những nén nhang tưởng niệm đấng truợng phu của bà quả phụ tài hoa kia.
Cũng vậy, sau khi nữ sĩ Louise de Vilmorin từ trần, cứ mỗi tuần người tình muôn
thuở của bà là đại văn hào André Malraux vào nghĩa trang thăm mộ bà và đặt trên
mộ một bó hoa hồng đỏ thằm gọi là kỷ niệm mối tình say đắm của cả
hai có sợi dây văn chương nối kết...
Tôi chưa hề được diện kiến Ngọc
An, chỉ được ngắm chân dung chị qua nhiều tấm ảnh, đặc biệt là 2 tấm
ảnh in trên bìa trước và trên bìa sau quyển ''Từ Miền Biển Sóng''. Ở
tấm ảnh in trên bìa trước, chị có mái tóc cắt ngắn chải bảy ba như mái tóc Nữ
Thần Điện Ảnh Greta Garbo vào thập niên 30 của Thế Kỷ 20. Chị mặc áo ngắn tay
và chiếc maxi jupe màu đen đứng bên ghềnh đá ven biển gợn sóng màu xanh thẳm.
Nét mặt chị buồn bã đăm chiêu. Ở tấm ảnh in trên bìa sau, chị có mái tóc rối rắm
một cách nghệ thuật. Chị mặc áo hở cổ màu đen nổi hình tròn màu lam ngọc, khoác
bên ngoài chiếc áo veste màu đỏ của hoa phượng vỹ, hoa vông đồng. Cặp môi chị
tô son màu hồng ngọc rực rỡ. Miệng chị vẫn khép kín nụ cười. Dưới
đôi chân mày cong cong như viền trăng mỏng, cặp mắt của chị cũng lộ
vẻ đằm chiêu, như chìm đắm vào giấc mộng xa xăm, như
không còn liên hệ với thực tại trong cuộc sống. Đây là chân dung của một nhà
thơ nữ kiều diễm không tuổi tác và cũng có thể là người đẹp gợi hứng
cho các thi nhân (une inspiratrice) như bà Récamier dưới triều đại Hoàng Đế
Nã Phá Luân Đệ Nhất. Vậy xin các bạn hãy đọc thơ tình yêu của Ngọc An để trong
một giây phút nào đó, chúng ta có thể sống lại cái thời trẻ trung với trái tim
mơn mởn tinh khôi. Đây bài ''Giọt Nước Mắt Em'' trong ''Tuyển Tập Thơ Mùa Tình
Yêu'':
Em
đã khóc...một chiều bên gối nhỏ
Mưa
ngoài kia như nặng hạt ru mềm
Gió
ngoài kia như cất tiếng ru đêm
Chia
nỗi nhớ mây dâng sầu ảm đạm...
Em
đã khóc...vòm trời nghiêng sắc xám
Bão
điên cuồng như dừng bước phiêu du
Hoa
Phong Lan thẹn mặt với sương mù
Sao
Bắc Đẩu cũng sa dòng lệ nhỏ...
Em
hãy khóc cho thành nghiêng quách đổ
Giọt
sầu em là bão tố đời anh
Lệ
em rơi là mầm mống xây thành
Cơn
thác nổi trong tim anh từ đó
Khi
Em Hỏi
Rồi
một hôm tình cờ anh đến hỏi
Em
là ai, từ đâu đến nơi đây?
Và
tìm hiểu về em thêm chút nữa,
Cuộc
tình riêng ngang trái tự bao ngày.
Em
vội vã gom hồng lên bếp lửa
Gọi
tim về nhen nhúm chuyện ngày xưa
Ôi!
Chóng quá thời gian trôi lặng lẽ
Hai
mươi năm đau xót mấy cho vừa.
(trong thi tập ''Tiếng Thơ Là Những
Đường Tơ Của Lòng'')
Lời thơ lẫn ý thơ sao mà
sáng loáng như pha lê, trong vắt như dải suối mà kẻ vãn cảnh có thể nhìn suốt
đáy để thấy những hòn cuội xinh xinh, những cụm rong mềm mại. Thơ của
Ngọc An đơn giản, lưu loát, nhạc thơ êm như mộng, dịu như nhung. Ý thơ không thần
bí, không ngoắc ngoéo, rối reng. Ngôn từ không kiêu sa, không nhiều
ngữ pháp diêm dúa, không có những cụm từ (groupe de mots) phức tạp. Có người sẽ
bảo thơ như thế này không đặc sắc, như một tời giấy trắng, như một tấm lụa bạch
trơn, cần phải vẽ, phải thêu một chút gì đó cho mặt giấy, mặt lụa thêm phần ý
nhị, thêm phân sinh sắc hơn.
Tôi thiết nghĩ không cần. Cái đơn giản, cái trơn nhẳn của ngôn từ có thể làm hiển lộ cái chân tình và bộc lộ niềm tha thiết của tác giả hơn, nhất là ở những bài thơ lục bát, chẳng hạn như bài ''Bâng Khuâng Nỗi Nhớ'' trong thi tập ''Tiếng Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng''. Đọc bài thơ này, chúng ta có thể liên tưởng đến giọng điệu trong thơ lục bát của nhà thơ nữ Hằng Phuơng (3) vào thời tiền chiến.
Tôi thiết nghĩ không cần. Cái đơn giản, cái trơn nhẳn của ngôn từ có thể làm hiển lộ cái chân tình và bộc lộ niềm tha thiết của tác giả hơn, nhất là ở những bài thơ lục bát, chẳng hạn như bài ''Bâng Khuâng Nỗi Nhớ'' trong thi tập ''Tiếng Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng''. Đọc bài thơ này, chúng ta có thể liên tưởng đến giọng điệu trong thơ lục bát của nhà thơ nữ Hằng Phuơng (3) vào thời tiền chiến.
Bỗng dưng lòng cảm thấy buồn,
Nhớ quê, nhớ phố, nhớ nguồn, nhớ sông.
Nhớ trời phương cũ mênh mông,
Bao nhiêu kỷ niệm sầu chong ngọn đèn.
Nhớ bàn tay ấm thân quen,
Nhớ lần tiễn biệt bạn hiền năm xưa.
Sài Gòn sớm nắng chiều mưa,
Đường khuya phố nhỏ, chân khua nhịp buồn.
Chuyện đời ôm giấc cô miên,
Người đi còn lại ưu phiền trong tim.
Tháng ngày in dấu chân chim,
Buồn theo nỗi nhớ chìm vào hư không!
Mộng xưa chôn chặt trong lòng,
Người đi biền biệt vời trông bóng hình.
Đêm nay trời, nước lặng thinh,
Bâng khuâng nỗi nhớ riêng mình ai hay!
Bài ''Biển Vắng Thì Thầm''
trong ''Tuyển Tập Thơ Mùa Tình Yêu'' vẫn là bài thơ tình yêu. Ở đây, tác giả
không cần nhìn sâu vào nội giới và vào tình cảm của mình. Chị hiểu tâm tình
mình bắng một trực giác kỳ diệu giữa khung cảnh giá lạnh bên bờ biển:
Biển
vắng tiếng thì thầm
Cội
thông già im lặng
Xa
rồi... tình trăm năm
Còn
đây bờ môi mặn...
Lá
còn đâu ấp ủ
Cây
mùa đông trơ cành
Biết
tìm đâu người cũ
Giữa
tinh cầu mong manh!
Vẫn
giọt nắng thủy tinh
Xuôi
thuyền xa bến đổ
Lữ
khách vẫn vô tình
Đạp
vỡ lá vàng khô...
Người
con gái đợi chờ
Đã
chín mùa đông phong
Chín
mùa hoa mai nở
Xuân
sắc nhạt môi hồng.
Còn
gì nữa... người ơi!
Biển
tương tư rã rời
Vết
tình in trên cát
Sóng
xô bờ cuốn trôi ...
Qua các đoạn trích dẫn của hai
bài thơ trên, chúng ta đã thấy gì trong thi ca của Ngọc An?. Có phải thơ của chị
đầy hình ảnh, được kiến trúc bằng những nét tạo hình hay không?. Thơ mà thiếu
hình ảnh, âm thanh, hương vị, hoặc những gì khơi dậy xúc giác, tình
cảm chúng ta tức là thiếu những cái va chạm vào năm giác quan và cõi nội giới
chúng ta thì chúng không còn là thơ nói riêng , không còn là văn chương
nói chung. Nữ tiến sĩ Helen Keller bị mù mắt, bị câm điếc từ thuở nhỏ, nhưng bà
vẫn viết văn được. Dù thế giới màu sắc và hình ảnh cùng thế giới âm
thanh đóng chặt cánh cửa đối với bà, tách rời bà với thế gian, xô dẩy bà vào
cõi tối tăm im lặng suốt đời. Tuy nhiên, còn xúc giác của bà vẫn mở rộng để bà
viết những bài tùy bút đẹp tuyệt vời khi bà sờ đến những cánh hồng êm dịu, những
giò huệ mảnh mai, những lượn sóng lăn tăn mát rượi trong dòng suối. Và còn khứu
giác nữa chi. Mũi bà có thể tiếp nhận những mùi hương của cỏ cây, hoa lá, gió
biển v.v... đem lại cho bà biết bao cảm hứng phong phú để bà viết văn. Như thế,
xúc giác và khứu giác của bà chẳng những tạo cho bà trở thành một bậc
vĩ nhân trong công cuộc tìm ra lẽ sống mầu nhiệm, mà còn giúp bà trở thành một
hiện tượng rực rỡ trong lãnh vực văn chương.
Vậy thì những
nhà thơ của chúng ta hãy còn tiếp xúc với thế giới màu sắc, hình dáng, âm nhạc,
tiếng động, hương vị thì lẽ nào chúng ta chỉ biết sáng tác những câu thơ khô
khan, chữ nghĩa vô vị vô hồn như cái thây ma khô đét, như gỗ đá vô tri hay
sao?. Thơ mà thiếu những cái va chạm vào giác quan người đọc là loại
trái cây thiếu sinh tố, là thứ lá héo úa mất hết lục diệp tố.
Ở thơ Ngọc An,
chúng ta thường bắt gặp những hình ảnh rất thơ, những nét tạo hình nhịp nhàng
và hài hòa trong thiên nhiên: nào mưa rơi giọt mềm, bóng đêm đen, hoa phong
lan, sao Bắc Đẩu, nào cảnh biển vắng, cội thông già, cây mùa đông trụi lá,
nào nắng thủy tinh, lối đi trải lá vàng khô, nào vết tình in trên
cát, cuộn sống tràn trên cát...Như thế, ai mà dám bảo Ngọc An là thợ
thơ?. Ai mà dám bảo chị không tìm bắt được ngôn ngữ riêng biệt của thơ?.
Xin đọc bài ''Đêm Mơ''
trong thi tập ''Từ Miền Biển Sóng'':
Hồn
em là cả trời mơ mộng
Dẫu
biết ngàn năm mây vẫn bay
Dâu
bể trần ai trong cõi tạm
Vững
lòng tin tưởng ở ngày mai. Anh
đến lòng em cơn bão dậy
Quỳnh
tương em cạn chén tình say
Thiên
thu mật ngọt như huyền thoại
Xao
xuyến lòng này anh có hay?
Anh
là ảo mộng giữa mùa đông
Nửa
kiếp phù sinh vướng bận lòng
Gom
cả tình anh vào giấc ngủ
Mơ
thuyền cặp bến một dòng sông...
Đây là hình ảnh nửa hư nửa
thực, chập chờn phiêu diễu mà chúng ta thường gặp trong cõi thi ca thời tiền
chiến. Chúng được Lưu Trọng Lư sử dụng để đưa thơ mình vào một cõi riêng biệt
trong thi giới. Bài thơ này của Ngọc An dù không hoàn toàn ảnh hưởng thơ ông
ta, nhưng được phản ảnh một vài mảnh vụn lấp lánh trong một vài câu rải rác ở
đâu đó. Cũng như nhà thơ họ Lưu, chị đưa bài thơ này vào cõi mộng cơn say trong
cuộc tình của mình.
Xin đọc thêm bài ''Tâm Sự
Với Xuân 2000'' trong thi tập ''Từ Miền Biển Sóng'':
Nắng
đã hồng thêm con phố lạnh
Lung
linh từng đợt gió heo may
Mình
ta lạc bước khung trời vắng
Xác
lá bên đường lất phất bay...
Xác
lá như hồn thu vấn vương
Chiêm
bao mộng mị cõi vô thường
Bóng
dài nghiêng đổ trên hè lạ
Chỉ
một mình ta giữa phố phường!
Nắng
đã lui dần vào cõi tịch
Trả
nhân gian màu xám âm u
Bàn
tay níu vội thời gian lại
Chân
bước mà nghe sóng dập vùi...
Biển
ở quê hương biển có hay
Từng
cơn xao động trái tim này
Lòng
thuyền muôn thuở không dời đổi
Chia
sớt cùng ta chút đắng cay!
Cuộc tình nào nếu không
có nụ cười thì cũng có giọt nước mắt. Nụ cười là nguyên nhân tạo nên những bài
Nhạc Thiều Ca (les Hymnes). Còn giọt nước mắt khơi thần trí sáng tạo của thi
nhân để hình thành những bản Trữ Tình Ca (les Odes). Toàn bộ thi ca của Ngọc An
không thiếu Trử Tình Ca đâu. Chị yêu say đắm như trôi lênh
đênh trong men rượu nồng ngát say sưa để rồi quên thực tại, quên
bóng tối dĩ vãng sau lưng, quên viễn ảnh tương lai cuối chân trời xa thẳm trước
mắt. Xin đọc bài ''Sóng Tình'' trong thi tập ''Tiếng Thơ Là Những Đường Tơ Của
Lòng'':
Một
sớm mai thức dậy
Không
giống như mọi ngày
Hoa
nở rộ trong tim
Hoa
cưòi trong ánh mắt
Ta
yêu anh thật rồi
Bởi
lòng ta se sắt
Nhớ
người yêu xa xôi
Để
ta mòn mỏi đợi
Ngày
đầu mới gặp nhau
Ngỡ
như trong tiền kiếp
Quen
nhau tự thuở nào
Thương
nhau tình thắm thiết!
Giọt lệ không tạo cho Ngọc
An sáng tác những khúc bi ca (les poèmes saturniens). Bi ca vốn là
loại thơ để tác giả nhìn sâu vào đời sống, vào các tấn bi kịch trong cuộc đời.
Chúng ta hãy đọc bài thơ ''La Déesse du Soleil Couchant'' (''Nữ Thần Tà
Dương'') của nữ sĩ Renée Vivien. Bài thơ này tả cái đẹp chết chóc với sắc thái
cường điệu. Đây là bài bi ca đúng hơn bài trữ tình.
Tóc em giống lá thu
Hỡi Nữ thần của chiều
hôm, của những phế tích, của buổi tối
Máu buổi hoàng hôn là màu
đỏ của mủ triều thiên của em
Em chọn vùng đầm lầy tù đọng
làm tấm gương soi.
Mùi hoa huệ héo tàn và mùi cành
cây ung thối
Bốc hơi từ tấm áo với những làn
xếp biếng trễ của em; đôi mắt em
Theo dõi một cách uể oải những cơn mơ
mộng xanh xao
Trong giọng nói hãy còn vọng tiếng thổn
thức của những cuộc vĩnh biệt
(4).
Giọt lệ chỉ khơi dậy cho
Ngọc An nỗi buồn cô quạnh, những bài ca trữ tình. Xin đọc bài ''Hải Âu'' trong
thi tập ''Từ Miển Biển Sóng''.
Tản
mác về đâu những áng thơ
Thời
gian như huyệt lạnh sương mờ
Cố
tâm nung nấu trong tiềm thức
Gợi
nhớ riêng mình một ước mơ...
Ước
mơ một kiếp là chim biển
Tung
cánh Hải Âu khắp mọi miền
Côn
đảo xa vời, đồng cát mịn
Chẳng
nghe tâm não nặng ưu phiền.
Em
sẽ đùa trăng trong bóng đêm
Rong
chơi mỗi buổi nắng chiều lên
Dang
tay ôm cả khung trời rộng
Nghe
gió vi vu tiếng gọi thầm
Người
yêu bé nhỏ của ta ơi!
Ta
nhớ thương em suốt một đời
Dù
kẻ chân mây người góc biển
Thuyền
tình mang mãi chẳng hề vơi.
Em
ước em là chim Hải Âu
Bao
la tung cánh giữa ưu sầu
Cơ
duyên tao ngộ người yêu cũ
Anh
hỡi... bây giờ anh ở đâu ?
Vết thương trong tim tác giả
không nhức nhối lan rộng, nhưng mà sâu sắc dằng dai. Nhà thơ than vãn nhưng
không rên rĩ, gào thét. Chị biết tiết chế tình cảm khi đối diện với cuộc tình
đã mất, với niềm hạnh phúc đã phôi pha. Thơ như thế mới gây xao xuyến rất lâu
trong lòng người đọc. Đây là bài ''Tình Biển'' cũng trong thi tập
''Từ Miền Biển Sóng''.
Hỏi lòng đã thấy đủ chưa?
Ba mươi năm chẵn có thừa đắng cay
Chữ tình vượt khỏi tầm tay
Xuân xanh theo với tháng ngày rong rêu
Bụi tình bám vết chân kiêu
Nụ hôn gửi gió một chiều thu sang
Biển tương tư, biển ngỡ ngàng
Để thuyền tách bến lỡ làng duyên nhau
Thuyền đi đâu, thuyền về đâu?
Biển sâu lặng lẽ niềm đau mong chờ
Biển hờn biển giận vu vơ
Đẩy cơn sóng dữ xa bờ cát trôi
Chỉ thuyền mới biết một đời biển đau
Thuyền lênh đênh giữa biển sầu
Đêm đêm biển hát ngàn câu vỗ về
Ai đi xin nhớ lời thề
Một thời gặp gỡ đam mê nửa vời
Gởi theo sóng nước trùng khơi
Tình yêu nồng thắm bên trời ly hương.
Sau đây là bài
''Xuân Lẻ Bạn'' khóc người tình thiên cổ trong thi tập ''Ngàn Năm Mây Trắng''.
Nhà thơ không thắp nén nhang trên bàn thờ hay trước mộ người quá cố mà chỉ thắp
nén tâm hương trong nỗi hoài niệm thiết tha của mình . Ở đây, nhà thơ cố mường
tượng cái thế giới bên kia cõi sống mà vong linh của người bạn lòng của mình
đang lạc lõng trong đó. Bài thơ không vang vọng tiếng nức nở huyên náo, tiếng sụt
sùi bi ai. Đó chỉ là những giòng lệ âm thầm trong cõi tịch liêu của một góc đời
sâu kín:
Người
ở đó bên kia vùng đất lạ
Có
đón chờ mùa xuân đến hay không?
Có
giai nhân má thắm với môi hồng
Để
ấp ủ tình quân đêm giá lạnh.
Người
ở đó một thiên đường bất hạnh
Lặng
lẽ buồn biết than thở cùng ai
Đón
xuân sang nơi thế giới lạc loài
Ru
điệp khúc cùng sương khuya tẻ nhạt
Người
ở đó côn trùng vang khúc hát
Điệu
bi ai trong cõi sống vô thường
Để
xuân này lòng mang nặng sầu thương
Xuân
lẻ bạn, người ơi... người có hiểu???
Ngọc An không chỉ thu hẹp
thơ của mình vào tình yêu đôi lứa dù trong thứ tình yêu ấy, chị quẫy lộn như
con lý ngư gặp nước trong mát của đầm sâu ao rộng, như chim én nhào lộn trong bầu
trời cao rộng tràn ngập nắng xuân tươi. Tuy nhiên, tình yêu của chị lại thăng
hoa lên một cung bậc cao hơn, lan rộng trong một lãnh vực có ý nghĩa đẹp hơn
hay trong một không gian bao la hơn. Đó là tình yêu hướng về mẹ cha, tổ quốc,
chính nghĩa. Đó cũng là tiếng thơ thời đại mà những nhà thơ vong gia khứ quốc
nào một khi định cư trên một đất nước mới cũng xem như là một sứ mạng,
một điểm tựa tinh thần để khơi nguồn cảm hứng đang tràn ngập tâm hồn
của mình. Ngọc An đâu thể chỉ yêu đương sa đà, đâu thể chỉ đắm đuối
trong nỗi đam mê thần tượng tình yêu đôi lứa của mình. Dù sao khi tìm cách dung
thân trên đất nước mới, vết thuơng lòng của chị và vết thương tổ quốc chưa hẳn
lành lặn. Ác mộng thời chiến tranh để chống Cộng cứu nước và ác mộng
trong những ngày sông dưới chế độ Cộng Sản làm sao hết ám ảnh chị được? Cho nên
tâm sự u hoài của Ngọc An được ký thác vào thi tập ''Ngàn Năm Mây Trắng''.
Khởi đầu những bài
thơ nhớ nước thương nhà là những bài thơ tìm về dĩ vãng gồm có thời hoa niên và
tuổi thanh xuân của Ngọc An. Khoảng thời gian ấy được các thi nhân, văn gia
dùng rất nhiều sáo ngữ thời đại nào là tuổi hoa, tuổi hồng, tuổi ngọc, tuổi ô
mai, thuở dậy thì v.v... Nhưng giờ đây độc giả kiều bào đã vào tuổi
trung niên, đã thu mình vào mùa thu cuộc đời trên đất khách rồi thì chẳng những
họ không thấy những ngôn từ ấy rổng sáo nữa ; mà trái lại chúng trở nên thân
thuơng đối với tấm lòng hoài niệm của họ. Chúng gợi nên một chặng đời mộng ảo
mơ hoa vô cùng kỳ thú của mình.
Chiều
trở lại trên con đường tuổi ngọc
Tôi
quay về một dĩ vãng mờ xa
Hình
ảnh ngôi trường, tà áo thướt tha
Hàng
phượng đỏ ven đường tươi nắng ấm...
Trong
hoài niệm hiện về từ xa thẳm
Của
một thời thơ dại sống hồn nhiên
Bên
thầy cô, sách vở, lũ bạn hiền
Tôi
có cả mưa xuân và nắng hạ...
Đường về kỷ niệm đâu phải
chỉ ngừng lại ở ngôi trường lớp học mà ở quê hương của tác giả. Đó là Vũng Tàu,
một thành phố du lịch danh tiếng, một thị trấn hoa lệ bên bờ Nam Hải của đất nước
Nam Kỳ Lục Tỉnh. Không gian nơi đó bao la khoáng đạt dễ mở rộng nội giới những
kẻ mang sẵn nòi thơ, đưa cảm khái bát ngát và cảm hứng lai láng vào tâm hồn họ.
Vũng Tàu biển sóng vây quanh
Em về tìm lại ngày xanh tuổi hồng
Bao nhiêu năm cuộc phiêu bồng
Quê hương vời vợi đau lòng đỗ quyên
Rì rào gió cát hàn huyên
Từ em cất bước truân chuyên dập dồn
Rặng dừa rũ bóng hoài mong
Mà người đi mãi cánh hồng bay xa...
Thôi đành dấu mộng hải hà
Thuyền neo bến đợi trăng tà quạnh hiu
Bao nhiêu hạnh phúc chắt chiu
Đào Nguyên một thuở Nguyễn Lưu lạc đường!
Ai về gối mộng tơ vương
Ai đi biền biệt một phương ngóng chờ
Con đường kỷ niệm ngẩn ngơ
Tương lai, hiện tại, thẫn thờ... chiêm bao...
Từ niềm nhớ thương cố hương
Vũng Tàu, tâm hồn tác giả bay xa hơn để đến những địa danh mà chị đã đến viếng
thăm hay chỉ biết qua sách vở hay qua lời đồn đãi. Nhưng dù thì dù, tất cả địa
danh ấy đều nằm trong non sông tổ quốc chúng ta mà nơi xứ lạ quê người tác giả
luôn ấp ủ một niềm thương mến luôn tươi thắm đậm đà.
Sáng
hôm nay nghe gió về lành lạnh
Thu
đã chuyển mùa, anh có biết không?
Mây
lang thang, hồn trĩu nặng nhớ mong
Nắng
dìu dịu, lòng em buồn man mác...
Em
bỗng nhớ mùa Thu xưa Đà Lạt
Mây
Lam Viên mờ ảo phủ rừng thông
Mi Mô Sa
từng hạt lệ rưng rưng
Bên
hồ biếc, xôn xao cơn sóng gợn.
Em
chưa có mùa Thu sông Hương núi Ngự
Huế
mơ màng ôm cung điện nghìn xưa
Huế
của ai... sao nhiều nắng lắm mưa
Em
ao ước được một lần hạnh ngộ!
Em
nghe nói: trời mùa Thu Hà Nội
Lá
vàng rơi trên đường phố cô liêu
Hồ
Lãng Bạc, dấu tích xưa huyền sử... Thế
là đã hơn mười Thu cô lữ
Lá
quê người sắc vàng đỏ mênh mang
Nhưng
trong em, bao kỷ niệm úa vàng
Niềm
cố quốc...quê hương xa vời vợi...
Anh
biết đó, em vẫn hằng mong đợi
Một
mùa Thu...ta nhặt lá vàng rơi!
(''Dấu Chân Thu'')
Dù Đà Lạt có đôi lần tác
giả thăm viếng, dù Huế và Hà Nội có nhiều lần chị mơ tưởng, nhưng đó
là những hình bóng xa xăm hay những hình bóng trong cõi mường tượng mà thôi.
Tuy nhiên, mấy nhịp cầu tre, mấy nhánh sông trên mảnh đất miền phù sa Sông Cửu
vẫn là những hình ảnh gần gũi với tâm tình chị hơn. Dù là những hình ảnh tầm
thuờng, nhưng vẫn ghi biết bao dấu ấn kỷ niệm yêu dấu và nhất là
hình ảnh song thân của chị trong trái tim của chị. Chị nhân cách hóa con sông
cái như người mẹ hiền (sông Mẹ). Còn những nhánh sông phụ lưu, chi lưu là đàn
con. Tuy nhiên, tác giả còn ví những dòng sông (sông cái lẫn rạch con) là những
dòng sữa của Đất Mẹ nuôi dưỡng những đứa con của Tổ Quốc thân yêu nữa.
Một bài thơ mà hàm chứa nhiều ẩn dụ lớn lao như vậy vẫn là một bài thơ sản sinh
từ thần trí sáng tạo tuyệt vời. Nhưng những nhịp cầu tre thì tượng trưng cho
cái gì đây? Tác giả dù không nói ra, nhưng chị đã mở cho chúng ta những
dòng liên tưởng đến những niềm cảm thông nối liền những tâm hồn hòa hợp và đồng
điệu với nhau, những niềm gắn bó da diết giữa những tình người đồng chủng đồng
hương với nhau. Xin đọc ''Mấy Nhịp Cầu Tre Mấy Nhánh Sông'' trong thi tập ''Từ
Miền Biển Sóng'' :
Có
ai còn nhớ dòng sông Mẹ
Sinh
trưởng đàn con nay lớn khôn
Chắp
cánh đoạn trường nơi đất lạ
Quê
nhà Mẹ khóc tạ dòng sông...
Ra
đi con Mẹ có vui gì
Giọt
lệ tuôn tràn phút biệt ly
Đau
xót nghẹn ngào chân bước vội
Âm
vang nhạc khúc biệt kinh kỳ...
Mấy
nhịp cầu tre mấy nhánh sông
Như
dòng sữa ngọt Mẹ nuôi con
Nặng
tình sông núi bao xa cách
Thao
thức từng đêm nát cõi lòng!
Nửa
mảnh trăng buồn như vấn vương
Chim
Quyên khóc bạn buổi lên đường
Dòng
sông tức tưởi đau lòng nước
Mấy
nhịp tình sầu biệt cố hương...
Ở các đoạn sau của bài
thơ ''Mấy Nhịp Cầu Tre Mấy Nhánh Sông'' hình như tác giả
không chỉ tự than vãn hoàn cảnh bất lực của mình vì chị nghĩ rằng
mình không làm được cái gì cho quê hương trong cảnh quốc phá gia vong. Hình như
chị nhắn nhủ những người cựu chiến binh, những kẻ nuôi bền lửa thiêng ái quốc
hãy góp tay góp sức vào đại cuộc. Xin đọc tiếp:
Phong
sương đã nhuộm trôi màu tóc
Tuyết
lạnh trời Tây bạc mắt môi
Ý
chí quật cuờng không thể mất
Nhưng...
cao niên kề một bên rồi! Còn
đâu anh dũng hiên ngang ấy
Góp
mặt sa trường lướt gió mây
Vượt
sóng trùng dương cơn bão tố
Còn
đây... những dòng lệ đêm ngày!
Thôi
rồi một mảnh tàn y
Súng
gươm trả lại, oai nghi trao người
Hai
lăm năm, chẳng nụ cười
Hồn
thiêng sông núi, đất trời chứng minh
Đàn
con vì kế mưu sinh
Vì
hờn non nước điêu linh một thời
Ra
đi góp gió phương trời
Mong
ngày trở lại rạng ngời quê hương
Hai
lăm năm, khóc đoạn trường
Mộng
cao chí cả như sương dật dờ
Gửi
hồn vào những vần thơ
Niềm
riêng canh cánh đợi chờ bình minh
Soi
gương chợt thấy bóng hình
Da
nhăn tóc bạc giật mình Mẹ ơi...
Nỗi niềm nhớ nước nhớ quê có thể hiện diện qua địa danh, hình ảnh trong bài thơ ''GiòngTâm Sự Nhỏ'' trong thi tập ''Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng''. Tâm sự hoài hương vẫn là tâm sự chung cho kiều bào. Nó tầm thường, phổ thông, nhưng mà nó gìn vàng giữ ngọc cho những con người còn thương tưởng tới cố quốc, không vì bã lợi danh ở hải ngoại mà mất gốc mất rễ. Bài thơ hoài hương càng có nhiều hình ảnh quê hương càng chứng tỏ tâm tình hoài vọng của tác giả càng tha thiết, càng thắm đượm và thâm thúy biết ngần nào! Niềm yêu quê làm cho tác giả thấy địa danh nào cũng đẹp, hình ảnh nào cũng nên thơ cả. Chị cố tình gọt sạch gai góc của xã hội phiền phức tại các địa danh ấy, chỉ giữ lại cái gì có khía cạnh tích cực và tốt đẹp trong tâm khảm của mình mà thôi.
Nỗi niềm nhớ nước nhớ quê có thể hiện diện qua địa danh, hình ảnh trong bài thơ ''GiòngTâm Sự Nhỏ'' trong thi tập ''Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng''. Tâm sự hoài hương vẫn là tâm sự chung cho kiều bào. Nó tầm thường, phổ thông, nhưng mà nó gìn vàng giữ ngọc cho những con người còn thương tưởng tới cố quốc, không vì bã lợi danh ở hải ngoại mà mất gốc mất rễ. Bài thơ hoài hương càng có nhiều hình ảnh quê hương càng chứng tỏ tâm tình hoài vọng của tác giả càng tha thiết, càng thắm đượm và thâm thúy biết ngần nào! Niềm yêu quê làm cho tác giả thấy địa danh nào cũng đẹp, hình ảnh nào cũng nên thơ cả. Chị cố tình gọt sạch gai góc của xã hội phiền phức tại các địa danh ấy, chỉ giữ lại cái gì có khía cạnh tích cực và tốt đẹp trong tâm khảm của mình mà thôi.
Quê
ta đó phía bên kia bờ biển,
Thái
bình dương nay xa cách nghìn trùng
Ôi!
Vũng Tàu nỗi nhớ thật mênh mông,
Những
thành phố, đồng bằng và sông núi...
Ta
ra đi với bao niềm hờn tủi,
Bởi
quê hương đang nặng dưới gông xiềng.
Và
Tự Do tiếng gọi quá thiêng liêng,
Mang
ta tới nơi chân trời xa lạ.
Mảnh
hành lý đầy thương yêu nỗi nhớ
Người
ra đi tung đôi cánh thênh thang.
Bỏ
lại sau lưng những lũy tre làng,
Con
phố cũ, đường trơn màu đất đỏ.
Nhớ
Đà Nẳng, Nha Trang chiều lộng gió,
Huế
Cố Đô với thành quách rêu phong
Đà
Lạt mờ sương che phủ đồi thông,
Cần
Thơ đó, bến Ninh Kiều sóng gợn.
Phố
biển Vũng Tàu, một thời mới lớn,
Dấu
chân xưa trên cát có còn chăng?
Những
giòng sông êm ả tắm màu trăng,
Con
đò nhỏ khua chèo trên bến cạn.
Và
tất cả nhạt nhòa trong ánh sáng,
Hòn
Ngọc Viễn Đông sắc thắm Sài Gòn
Thủ
đô một thời tình nghĩa sắt son,
Bao
chiến sĩ vì quê hương nằm xuống.
Ta
nhớ rõ như in trong tâm tưởng,
Những
con đường, dãy phố, những dòng sông.
Những
cái tên quen thuộc đến nằm lòng,
Từ
Bình Triệu chạy dài vô Chợ Lớn.
Dinh
Độc Lập, nhà thờ Đức Bà, Bưu Điện,
Chợ
Bến Thành, Cầu Muối, chợ Bình Tây...
ChùaVĩnh
Nghiêm vươn tháp nhọn, ai xây?
Lăng
Ông đó, những mùa xuân hái lộc!
Bao
thương nhớ lòng ta thêm thổn thức,
Những
dấu yêu, kỷ niệm một thời xa.
Việt
Nam ơi! Hỡi đất tổ quê nhà,
Xin
trang trọng gửi giòng tâm sự nhỏ.
Tổ quốc giang sơn
là một vấn đề to rộng. Chúng ta yêu nó qua hồn thiêng Mẹ Tổ Quốc, qua anh linh
các đấng tiền nhân đã đành. Nhưng cái ràng buộc chúng ta ngoài mảnh đất cố
hương còn có gia đình chúng ta. Hai đấng sinh thành của chúng ta mới là hai
mãnh lực mầu nhiệm để chúng ta gắn bó với cố quốc.
Cũng như bao nhiêu nhà
thơ nữ nặng óc gia đình khác, cũng như bao nhiêu đứa con thương mến mẹ cha mà
phải chịu cảnh lạc loài khác, Ngọc An vẫn không quên song thân của mình dù ở một
phương trời hải ngoại chị bận bịu với cuộc muu sinh phức tạp để đạt thành quả tốt
đẹp đi nữa. Có tình yêu thương sâu sắc đối với cha mẹ, chị mới vững chải bước
vào đời, mới giữ niềm tin yêu trong cuộc sống. Có tình yêu thắm đượm của người
tình anh dũng, tâm hồn chị mới tràn ngập hoài cảm, ngòi bút chị mới
nở hoa.Trong những tác phẩm thi ca của Ngọc An, hình cha bóng mẹ hiện diện rất
nhiều. Mẹ cha chẳng những đã khơi nguồn cảm hứng tràn trề cho thơ chị mà còn là
một ám ảnh không nguôi đối với chị. Cho nên trong thơ, khi chị viết chữ Cha hay
chữ Mẹ thì hai chữ đầu (chữ C và chữ M) đều là chữ hoa.
Bài thơ ''Hãy Vì Tôi'' trong
thi tập ''Rừng Thu Xưa Vẫn Nhớ'' nói lên niềm hoài vọng của tác giả đối với
nghiêm phụ của mình, trong bài có hai đoạn nhắc tới từ mẫu của mình.
Ý thơ đơn giản, tình thương yêu của chị đối với song thân chị bao giờ cũng đơn
giản, cũng hồn nhiên, nhưng rất nồng đượm, rất chân thành. Bài thơ của kẻ nào
đó dù có vụng về thô tháp cách mấy, nhưng bản chất chân thành của nó vẫn đưa
thơ đi sâu vào tâm hồn độc giả một cách dễ dàng, trơn ngọt :
Nếu
có dịp ghé qua vùng biển mặn
Hãy
vì tôi, xin đôi phút dừng chân
Thăm
dùm Cha tôi, tuổi sắp cửu tuần
Thăm
dùm Mẹ, mộ phần nơi hoang lạnh...
Cha
của tôi...tóc phủ màu sương trắng
Một
thân gầy lặng lẽ sống cô liêu
Vì
non sông người vẫn chắt chiu
Ôm
hoài bão dẫu da mồi tóc bạc!
Đường
đấu tranh trên nẻo đời luân lạc
Bước
công danh sáng tỏ một phương trời
Bao
đêm rồi con thao thức Cha ơi!
Mong
tuổi thọ của Cha dài thêm nữa...
Người
hãy vì tôi nhóm lên bếp lửa
Nấu
nước pha trà đôi chén mời Cha
Con
gái không về trong dạ xót xa
Ngụm
trà nóng cho lòng Cha ấm lại!
Đồng
cát trắng đã từng đêm khắc khoải
Ôm nỗi sầu, Mẹ hát khúc thiên thu Mẹ đã về trong thế giới hoang vu
Ôm nỗi sầu, Mẹ hát khúc thiên thu Mẹ đã về trong thế giới hoang vu
Con
xa vắng để mộ phần lạnh lẽo...
Tha
thứ cho con đường xa vạn nẻo
Giải
Ngân Hà cách trở tháng ngày qua
Hãy
vì tôi, vì tình bạn chúng ta
Đốt
hộ tôi những tuần nhang trên mộ!
Hồn
mẹ tôi sẽ linh thiêng phù hộ
Hương
nhang thơm quyện đến cõi trời Tây
Cho
chúng ta duyên tao ngộ một ngày
Trên
đất khách pháo hoa bừng nở rộ...
Nhưng rồi cha tác
giả cũng chết theo người bạn trăm năm của mình. Đó là vào tháng sáu, nhưng tác
giả không nói rõ năm nào, tháng sáu dương lịch hay tháng sáu âm lịch? Nhưng chắc
chắn lúc đó trên đất nước Miền Nam Việt Nam, mùa mưa dầm đã vào sâu. Nhưng cũng
tháng sáu ấy, cũng không rõ vào năm nào, người tình chiến sĩ của chị đã vùi
thân vào lòng đất lạnh. Hai cái tháng sáu thống khổ đã ghi vào cõi hoài niệm
nhà thơ nữ Ngọc An, nên chị chiêu niệm anh linh họ về trong phút hồi tưởng bi
thương của chị.
Xin đọc bài ''Tháng Sáu
Ta Buồn Tim Tái Tê'' trong thi tập ''Từ Mièn Biển Sóng''.
Năm nào
tháng sáu ta rong chơi
Ánh
nắng chiều nghiêng dưới mặt trời
Đuổi
bướm vờn quanh hàng dậu tím
Thả
diều theo ngọn gió chơi vơi...
Lần
lữa bao mùa Xuân nở hoa
Mấy
đông trở giấc đọng sương pha
Thả
tôi mơ mộng vào hư ảo
Ôm
chuỗi ngày buồn lẫn xót xa!
Tháng
sáu nào mưa bão ngút ngàn
Tiễn
người chiến sĩ vượt quan san
Đưa
người yêu mến vào lòng đất
Ta
đã một thời lệ chứa chan...
Tháng
sáu này ta đếm tủi hờn
Cha
vào huyệt lạnh với cô đơn
Hôm
nào bên cửa Cha còn đứng
Vẫy
vẫy tay chào để tiễn con!
Tháng
sáu con buồn tim tái tê
Còn
đâu Cha đứng đón con về
Âm
dương cách biệt rồi Cha nhỉ?
Vĩnh
viễn ôm sầu trong giấc mê...
Con
thấy Cha từ trong bóng đêm
Bạc
phơ mái tóc, ngủ êm đềm
Giấc
ngủ ngàn năm không trở dậy
Cho
con chua xót nghẹn ngào thêm!
Từ
đây cho đến cuối đời con
Một
bóng đơn côi giữa xứ người
Con
khóc khi đời dâng bão tố
Con
cười... nhưng giọt lệ đầy vơi...
Trót yêu quê hương khốn
khó, trót không thể cho tâm tình hòa điệu với cuộc sống trên xứ sở định cư, dĩ
nhiên những nhà thơ luôn mơ một ngày về vinh quang khi đất nước dựng lại ngọn cờ
xưa. Nhưng giấc mơ ấy, họ thầm biết chỉ mãi mãi là giấc mơ. Và dù ngọn
cờ xưa có tìm lại trên cố quốc chăng nữa, nhưng chắc gì họ còn sống sót để trở
về nhìn lại nó vẫy lộng trong bầu mây tạnh trời trong. Song họ vẫn tiếp tục mơ.
Tâm trạng đó là tâm trạng chung của kiều bào nặng tình nghĩa, trong đó có tâm
trạng của nhà thơ nữ Ngọc An. Xin đọc bài thơ ''Sẽ Có Ngày'' trong thi tập ''Từ
Miền Biển Sóng'':
Sẽ
có một ngày ta trở lại
Núi
sông hùng vĩ mượt màu xanh
Giòng
thác reo vui mừng khách lạ
Hoa
Xuân đua nở rộ trên cành
Sẽ
có một ngày tay siết tay
Mừng
mừng tủi tủi rượu, thơ, say
Tàn
đêm thức trắng niềm tâm sự
Thân
phận ly hương những tháng ngày!
Sẽ
có một ngày ta với ta
Đồi
cao vang dậy khúc hoan ca
Chim
muông cầm thú cùng vui hót
Chào
đón mùa xuân đẹp thái hòa...
Sẽ
có một ngày bao chiến binh
Trở
về đất Mẹ giữa bình minh
Thuyền
xưa bến cũ dang tay đợi
Lệ
đá rưng rưng khóc chuyện tình...
Chuyện
tình của những kẻ ly hương
Quên
mất mùa Xuân chốn dặm trường
Bỏ
ngõ tim hồng nơi xứ lạnh
Nhìn
nhau bỡ ngỡ, tóc pha sương!
Sẽ
có một ngày con của Mẹ
Tìm
về giòng máu chảy trong tim
Thiết
tha nguồn cội bao ngăn cách
Dựng
lại non sông kiến thái bình...
Trong cõi thi ca, nữ sĩ
Ngọc An có hai khuôn mặt: khuôn mặt của một người tình nhu mì âu yếm thường tâm
sự với người yêu của bằng lời mềm mỏng, gắn bó. Đó là những lời thoát thai từ tấm
lòng tha thiết và bền sắt tươi son. Khi hạnh phúc, chị không reo vang tưng bừng
tở mở, không ba hoa với ngọn trào lòng lai láng của mình. Khi đau khổ, chị
không bù lu bù loa, tru tréo như Nguyễn thị Hoàng, không dảy đành đạch như Túy
Hồng, không khinh bạc kiêu kỳ như Linh Bảo (bên văn xuôi). Chị chỉ than thỉ một
cách dịu dàng. Tiếng thở dài của chị mỏng nhẹ, ngắn ngủi, nhưng dễ thấm sâu vào
lòng người.
Khuôn mặt thứ hai của
chị trong thi ca là khuôn của một người phụ nữ gắn bó với tổ quốc quê hương và
chính nghĩa. Chị không nguyền rủa, không đả kích trắng trợn chế độ đương thời ở
quê nhà, không hằn học với những kẻ làm đất nước điêu đứng lầm than. Chị vẫn giữ
thái độ điềm đạm rất thục nữ và rất thùy mị khi viết những bài thơ cho quê
hương, cho những người vị quốc vong thân, cho những kẻ gánh vác hệ lụy sau cuôc
đổi đời trên đất nước.
Sáng tác thơ chị không cần gò gẫm,
cứ để cho mạch thơ tuôn tràn lưu loát như chất mật ong ngọt ngào rót vào chén sứ
mỏng tanh. Chị không gọt tỉa trau chuốt ngôn từ một cách tỉ mỉ như người sành
điệu gọt tỉa củ thủy tiên thành hình trân cầm thụy thú trong dịp Tết. Chị cũng
không cần thoa son đánh phấn cho ngôn từ, không cần chạm trổ những ngữ pháp tân
kỳ. Có vậy tình cảm trong thơ được hồn nhiên chân thực. Bởi đó chúng ta không lấy
làm lạ tại sao thơ chị thật truyền cảm.
Chú thích:
(1) Thu Hồng là nhà thơ nữ
thời tiền chiến, vốn là một tôn nữ đất Thần Kinh. Bà là tác giả thi tập ''Sóng
Thơ''. Sau đây là đoạn thơ tiêu biểu của bà trong thi tập ''Sóng Lòng'':
Mầm chán nản chớ len vào niên thiếu
Chớ
len vào sớm quá tội em mà!
Em
như nghe thời ấy vẫn còn xa,
Em
chậm chậm để mong còn xa mãi;
Hãy
là hoa, xin khoan là trái,
Hoa
nồng hương mà trái lắm khi chua.
(2) Mộng Tuyết là nhà thơ
nữ đất Hà Tiên, là vợ của thi sĩ Đông Hồ. Bà đoạt giải văn chương do nhóm Tự Lực
Văn Đoàn chủ trương vào năm 1939 qua thi tập ''Phấn Hương Rừng''.
Vào năm 1960, bà cho xuất quyển tiểu thuyết ''Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp'' qua
bút hiệu Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội. Vào năm 1972, bà cho xuất bản thêm thi tập
''Gầy Hoa Cúc''.
(3) Hằng Phương là con
gái nhà chí sĩ Sở Cuồng Lê Dư và là vợ phê bình gia Vũ Ngọc Phan. Bà
cùng 3 nữ sĩ Vân Đài, Mộng Tuyết và Anh Thơ cho xuất bản chung quyển hợp tuyển
thi ca ''Hương Xuân''. Vào thời tiền chiến, các nhà thơ nữ
như Hằng Phương, Vân Đài, Mộng Tuyết, Anh Thơ, được Hoài Thanh và Hoài
Chân đưa vào quyển biên khảo ''Thi Nhân Việt Nam''. Về sau ít lâu
còn xuất hiện thêm Ngân Giang và Mộng Sơn. Sáu nữ sĩ này vào thời kỳ Đệ nhất Cộng
Hòa tại Miền Nam Việt Nam được Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng đưa vào quyển
biên khảo ''Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến''. Sau đây là bài thơ tiêu
biểu ''Lòng Quê''của Hằng Phương trang tặng Vũ Ngọc Phan đã đăng trên tạp chí
Hà Nội Tân Văn:
Xưa kia em ở bên trời,
Ngây thơ chưa rõ cuộc đời là chi.
Mặc cho ngày tháng trôi đi,
Tóc mây nào biết có khi bạc đầu.
Chim non ở chốn rừng sâu,
Quanh mình chỉ thấy một màu xanh xanh.
Bình minh buổi ấy gặp anh,
Rủ em ra chốn thị thành xa khơi
Yêu anh em hóa yêu đời,
Theo anh chắp cánh tung trời bay cao.
Anh đưa em đến vưòn đào,
Màu tươi sắc thắm em nào dám chê.
Nhưng em luống nặng hồn quê,
Nhớ thương cảnh cũ bốn bề núi non.
Nhớ nơi làng xóm con con,
Nhớ hương cây quế chon von trên đồi.
Bạn xưa, nhớ yến tha mồi,
Cành xưa, em đỗ những ngay còn thơ...
Đường xa, ngoảnh lại ngẩn ngơ,
Trông theo mây trắng thẫn thờ mắt xanh.
(4) Đây là bài thơ của nữ
sĩ Renée Vivien tặng người đẹp Eva Palmer, một phụ nữ trí thức ưa khảo cứu văn
minh Hy lạp. Nàng có mái tóc hung hung đỏ như sắc mây hoàng hôn, thường gợi hứng
cho các thi nhân vào Thời Đại Mỹ Lệ (la Belle Époque, tức là vào thập niên 10 của
Thế kỷ 20). Cho nên thời nhân gọi nàng là ''Nữ Thần Tà Dương''.
Hồ Trường An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét