Ðối tượng chung của văn học
là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện
kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên nhiên, những lời bình luận...đều
góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tác phẩm nhưng cái quyết định chất
lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm, cái đọng
lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc,
suy tư của những con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi
cho rằng "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết
thảy trong một sáng tác"
I. Nhân vật trong văn học và chức của nó trong tác phẩm
1. Khái
niệm chung.
Nhân vật văn học là con người
được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người
này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một
hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc
không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Nhân vật văn học có thể là
con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có
thể là những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...)
hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong
các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình- ta trong ca dao...). Khái niệm
con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi trên 2. Phương diện: số lượng:
hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung
miêu tả số phận của con người. Về chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma
quỉ, đồ vật...nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người.
Trong nhiều trường hợp, khái
niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào
đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người ta thường nói đến nhân dân như là một nhân
vật trung tâm trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, ca cao là nhân
vật chính trong Ðất dữ của G. Amađô, chiếc quan tài là nhân vật trong tác
phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan...Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài:
"Trong truyện ngắn Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật
không phải là người mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc
quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ
thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật".
Tuy vậy, nhìn chung, nhân vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm
văn học.
Nhân vật văn học là một hiện
tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những
dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường
được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật
gắn bó mật thiết với những giới thiệu ban đầu đó. Việc giới thiệu Thúy Vân,
Thúy Kiều khác nhau dường như cũng báo trước về số phận của mỗi người sau này:
"Vân xem trang trọng
khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài
nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan
trang
Mây thua nước toc, tuyết nhường
màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần
hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn
kém xanh"
Hay việc giới thiệu Hoạn
Thư:
"Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay
cũng già"
gắn liền với những suy nghĩ,
nói năng, hành động trong quá trình phát triển về sau của nhân vật.
Nhân vật văn học không giống
với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật khác. Ơí đây, nhân vật văn học
được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi
người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người
hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.
3.
Chức năng của nhân vật văn học.
Nhân vật văn học có chức
năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của
nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gán liền nó với
những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật
trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra
những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện.
Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường
nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của
người phụ nữ có tài sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình
yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực
hiện khát vọng tự do, công lí...Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo
thể hiện quá trình lưu manh hóa của một bộ phận nông dân trong xã hội
thực dân nửa phong kiên. Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề
đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của
con người...
Do nhân vật có chức năng
khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà
văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn
những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về
con người và cuộc sống. Chính vì vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với
con người trong cuộc đời. Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu,
so sánh có thể cần thiết để hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có
nguyên mẫu ngoài cuộc đời (anh hùng Núp trong Ðất nước đứng lên; Chị Sứ trong
Hòn Ðất...) nhưng cũng cần luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo
nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những
vấn đề của hiện thực cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của
tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người
sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả".
II. Phân loại nhân vật
Nhân vật văn học là một hiện
tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật được xây dựng thành công từ xưa đến nay
bao giờ cũng là những sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt nội
dung tư tưởng, kết cấu, chất lượng miêu tả..., có thể thấy những hiện tượng lặp
đi lặp lại tạo thành các loại nhân vật khác nhau. Ðể nắm bắt được thế giới nhân
vật đa dạng, phong phú, có thể tiến hành phân loại chúng ở nhiều góc độ khác
nhau.
1.
Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật.
Có thể nói đến các loại nhân
vật chính diện (nhân vật tích cực), nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực).
Nhân vật chính diện là nhân
vật đại diện cho lực lượng chính nghĩa trong xã hội, cho cái thiện, cái tiến
bộ. Khi nhân vật chính diện được xây dựng với những phẩm chất hoàn hảo, có tính
chất tiêu biểu cho tinh hoa của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại, mang
những mầm mống lí tưởng trong cuộc sống...có thể được coi là nhân vật lí tưởng.
Ơí đây, cũng cần phân biệt nhân vật lí tưởng với nhân vật lí tưởng hóa. Loại
nhân vật sau là loại nhân vật được tô hồng, hoàn toàn theo chủ quan của nhà
văn. Ơí đây, nhà văn đã vi phạm tính chân thực của sự thể hiện.
Nhân vật phản diện là nhân vật
đại diện cho lực lượng phi nghĩa, cho cái ác, cái lạc hậu, phản động, cần
bị lên án.
Trong quá trình phát triển của
văn học, trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, việc xây dựng các loại nhân vật
trên cũng khác nhau. Nếu như trong thần thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa
nhân vật chính diện và nhân vật phản diện thì trong truyện cổ tích, các truyện
thơ Nôm, các nhân vật thường được xây dựng thành 2 tuyến rõ rệt có tính chất đối
kháng quyết liệt. Ở đây, hễ là nhân vật chính diện thường tập trung những đức
tính tốt đẹp còn nhân vật phản diện thì hoàn toàn ngược lại.
Trong văn học hiện đại, nhiều
khi khó phân biệt đâu là nhân vật chính diện, đâu là nhân vật phản diện. Việc
miêu tả này phù hợp với quan niệm cho rằng hiện thực nói chung và con người nói
riêng không phải chỉ mang một phẩm chất thẩm mĩ mà bao hàm nhiều phẩm chất thẩm
mĩ khác nhau, cái nhìn của chủ thể đối với sự vật nhiều chiều, phức hợp chứ
không đơn điệu...Những nhân vật như Chí Phèo, Thị Nỡ, Tám Bính, Năm Sài
Gòn...là những nhân vật có bản chất tốt nhưng đó không phải là phẩm chất duy nhất
của nhân vật. Bakhtin cho rằng: cần phải thống nhất trong bản thân mình vừa các
đặc điểm chính diện lẫn phản diện, vừa cái tầm thường lẫn cái cao cả, vừa
cái buồn cười lẫn cái nghiêm túc. Chính vì vậy, ở đây, sự phân biệt chính diện,
phản diện chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi đặt nhân vật vào loại nào để
nghiên cứu, cần phải xét khuynh hướng chủ đạo của nó đồng thời phải chú ý đến
các khuynh hướng, phẩm chất thẩm mĩ khác nữa. Trong giai đoạn trước, những nhân
vật như Kiều, Hoạn Thư, Thúc Sinh cũng được Nguyễn Du miêu tả ở nhiều góc độ, với
nhiều phẩm chất khác nhau chứ không phải chỉ có một phẩm chất chính diện hoặc
phản diện.
2. Xét từ góc độ kết cấu. (Tầm quan trọng và vai
trò của nhân vật trong tác phẩm).
Xem xét chức năng và vị trí
của nhân vật trong tác phẩm, có thể chia thành các loại nhân vật: nhân vật
chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ.
Nhân vật chính là nhân vật
giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức và triển khai tác phẩm. Ơí đây,
nhà văn thường tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình, nội tâm, quá
trình phát triển tính cách của nhân vật. Qua nhân vật chính, nhà văn thường nêu
lên những vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản trong tác phẩm và từ đó giải quyết vấn
đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng và tình điệu thẩm mĩ.
Nhân vật chính có thể có nhiều
hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Với
những tác phẩm lớn có nhiều nhân vật chính thì nhân vật chính quan trọng nhất
xuyên suốt toàn bộ tác phẩm được gọi là nhân vật trung tâm. Trong không ít trường
hợp, nhà văn dùng tên nhân vật trung tâm để đặt tên cho tác phẩm. Ví dụ: Ðông
Kísốt của Cervantes, Anna Karênina của L. Tônxtôi, A.Q chính truyện của Lỗ Tấn,
Truyện Kiều của Nguyễn Du...
Trừ một hoặc một số nhân vật
chính, những nhân vật còn lại đều là những nhân vật phụ ở các cấp độ khác
nhau. Ðó là những nhân vật giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính trong
quá trình diễn biến của cốt truyện, của việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác
phẩm.
Nhân vật phụ phải góp phần hỗ
trợ, bổ sung cho nhân vật chính nhưng không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có
nhiều nhân vật phụ vẫn được các nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính
cách riêng, cùng với những nhân vật khác tạo nên một bức tranh đời sống sinh động
và hoàn chỉnh.
3.
Xét từ góc độ thể loại.
Có thể phân thành các nhân vật:
nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự và nhân vật kịch. (sẽ nói rõ trong phần
các loại thể)
Có thể phân thành các loại:
nhân vật, tính cách, điển hình.
Nhân vật là những con người
nói chung được miêu tả trong tác phẩm. Ơí đây, nhà văn có thể chỉ mới nêu
lên một vài chi tiết về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động...cũng có thể miêu tả kĩ và
đậm nét.
Tính cách là nhân vật được
khắc họa với một chiều sâu bên trong. Nó như một điểm qui tụ mà từ đó có
thể giải thích được mọi biểu hiện muôn màu, muôn vẻ sinh động bên ngoài của
nhân vật.
Ðiển hình là tính cách đã đạt
đến độ thực sự sâu sắc, là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái
khái quát và cái cá thể...Nói một cách nghiêm ngặt, thuật ngữ này chỉ được áp dụng
từ chủ nghĩa hiện thực phê phán trở về sau.
Ngoài những loại nhân vật được
trình bày, có thể nêu lên một số khái niệm khác về nhân vật qua các trào lưu
văn học khác nhau. chẳng hạn, khái niệm nhân vật bé nhỏ trong văn học hiện thực
phê phán, khái niệm nhân vật-con vật người trong chủ nghĩa tự nhiên, nhân vật-phi
nhân vật trong các trào lưu văn học hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây..
III.
Một số biện pháp xây dựng nhân vật
Ðể xây dựng thành công một
nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng đồng cảm, phát hiện những đặc điểm bền
vững ở nhân vật. Ðiều này đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời và hiểu người. Nhưng có
một điều không kém phần quan trọng là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy
sao cho có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc. Ðây là vấn đề liên quan
trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học.
Có nhiều biện pháp khác nhau
trong việc xây dựng nhân vật. Ơí đây chỉ xét một số biện pháp chung, chủ yếu nhất:
miêu tả nhân vật qua ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ và hành động.
1.
Miêu tả nhân vật qua ngoại hình.
Ngoại hình là dáng vẻ bên
ngoài của nhân vật bao gồm y phục, cử chỉ, tác phong, diện mạo...Ðây là yếu tố
quan trọng góp phần cá tính hóa nhân vật.
Nếu như văn học cổ thường
xây dựng ngoại hình nhân vật với những chi tiết ước lệ, tượng trưng thì văn học
hiện đại thường đòi hỏi những chi tiết chân thực và cụ thể sinh động. M. Gorki
khuyên các nhà văn phải xây dựng nhân vật của mình đúng như những con người sống
và phải tìm thấy, nêu lên, nhấn mạnh những nét riêng độc đáo, tiêu biểu trong
dáng điệu, nét mặt, nụ cười, khóe mắt...của nhân vật.
Ngoại hình nhân vật cần góp
phần biểu hiện nội tâm. Ðây cũng chính là sự thống nhất giữa cái bên ngoài và
cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính cách, đời sống bên trong của nhân
vật thay đổi, nhiều nét bên ngoài của nhân vật cũng thay đổi theo.
Khi xây dựng ngoại hình nhân
vật, nhà văn cần thể hiện những nét riêng biệt, cụ thể của nhân vật nhưng qua
đó, người đọc có thể nắm bắt được những đặc điểm chung của những người cùng nghề
nghiệp, tầng lớp, thời đại...Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến
nay cho thấy nhà văn bao giờ cũng chọn lựa công phu những nét tiêu biểu nhất để
khắc họa nhân vật .
2.
Miêu tả nhân vật qua biểu hiện nội tâm.
Khái niệm nội tâm nhằm chỉ
toàn bộ những biểu hiện thuộc cuộc sống bên trong của nhân vật. Ðó là những tâm
trạng, những suy nghĩ, những phản ứng tâm lí... của nhân vật trước những cảnh
ngộ, những tình huống mà nó gặp phải trong cuộc đời.
Trong quá trình phát triển của
lịch sử văn học, việc thể hiện nhân vật qua nội tâm ngày càng có vai trò quan
trọng. Trong văn học Việt Nam, so với các giai đoạn trước, Truyện Kiều của Nguyễn
Du đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Tác phẩm chứng tỏ Nguyễn Du có khả năng
nắm bắt một cách tài tình những ý nghĩ, tình cảm sâu kín của nhân vật và diễn tả
nó một cách sinh động.
Sự biểu hiện hợp lí và sâu sắc
nội tâm góp phần rất lớn tạo nên sức sống của nhân vật. Nói như L. Tônxtôi:
"Mục đích chính của nghệ thuật...là nói lên sự thật về tâm hồn con
người, nói lên những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được".
Ðể làm được điều đó, nhà văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm
bắt được những biểu hiện và diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của
nhân vật.
3.
Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật.
Khái niệm ngôn ngữ nhân vật
nhằm chỉ những lời nói của nhân vật trong tác phẩm. Lời nói đó phản ánh kinh
nghiệm sống cá nhân, trình độ văn hóa, tư tưởng, tâm lí, thị hiếu...Ðằng sau mỗi
câu câu nói của mỗi con người đều có lịch sử riêng của nó. Sêđrin cho rằng:
"Từ cửa miệng một người nói ra không hề có lấy một câu nào mà lại
không thể truy nguyên đến cái hoàn cảnh đã khiến cho nó xuất hiện...Trong cuộc
sống, không thể có những hành động, những câu nói mà đàng sau lại không có một
lịch sử riêng". Quả là trong cuộc sống không thể có những người nói
hoàn toàn giống nhau, vì vậy nhà văn cần phát hiện những nét riêng của ngôn ngữ
nhân vật để thể hiện trong tác phẩm.
Trong các tác phẩm tự sự nói
chung, lời nói của nhân vật thường chiếm tỉ lệ ít hơn so với ngôn ngữ người kể
chuyện nhưng lại có khả năng thể hiện sinh động và khêu gợi cho người đọc hình
dung về bản chất, tính cách của nhân vật. Trong đoạn báo ân, báo oán của Truyện
Kiều, mặc dù đang hồn lạc phách xiêu, Hoạn Thư vẫn biết lựa điều kêu ca:
Rằng: Tôi chút dạ đàn bà
Ghen tương thì cũng người ta
thường tình
Nghĩ cho khi các viết kinh
Ðến khi khỏi cửa dứt tình chẳng
theo
Lòng riêng, riêng những kính
yêu
Chồng chung, ai dê,ù ai chiều
cho ai
Trót đà gây việc chông gai
Cũng nhờ lượng bể tha bài
nào chăng?
Những lời nói trên hoàn toàn
phù hợp với con người khôn ngoan, thông minh, lanh lợi, của Hoạn Thư.
Trong các trào lưu văn học
hiện thực, việc cá thể hóa nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật được nhà văn đặc biệt
quan tâm và được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, nhà văn có thể
để cho nhân vật lặp đi lặp lại nhiều lần một số từ hoặc một số câu mà nhân vật
thích (Biết rồi, khổ lắm, nói mãi của cụ cố Hồng trong Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng), có thể để nhân vật sử dụng một số từ địa phương, từ nước ngoài, cách
phát âm sai...nhưng dù sử dụng cách nào, ngôn ngữ của nhân vật cũng phải có sự
chọn lọc nhằm đạt đến sự thống nhất giữa cá thể hóa và khái quát hóa, đồng thời
cũng phải phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của nhân vật.
4.
Miêu tả nhân vật qua hành động.
Hành động nhân vật là
khái niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật. Ðây là phương diện đặc biệt quan
trọng để thể hiện tính cách nhân vật vì việc làm của mỗi người là căn cứ quan
trọng có ý nghĩa quyết định nói lên tư cách, lí tưởng, phẩm chất cũng như những
đặc điểm thuộc về thế giới tinh thần của người đó. Hơn nữa, trong các tác phẩm
tự sự, tính cách nhân vật không phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn vẹn.
Chính hành động có tác dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách và thúc đẩy
sự diễn biến của hệ thống cốt truyện...Thông qua các mối quan hệ, sự đối xử giữa
các nhân vật trong những tình huống khác nhau, người đọc có thể xác định được
những đặc điểm, bản chất của nhân vật.
Thông thường, khi miêu tả
hành động nhân vật, nhà văn thường kết hợp với những biểu hiện nội tâm tương ứng
vì đằng sau mỗi hành động, bao giờ cũng có một tâm trạng hoặc một động cơ nào
đó. Dùng nội tâm để lí giải hành động, sử dụng hành động để làm sáng tỏ nội tâm
là một hiện tượng phổ biến trong việc miêu tả nhân vật.
Trên đây là những biện pháp
chung nhất trong việc xây dựng nhân vật. Ngoài những biện pháp trên, nhà văn
còn có thể khắc họa nhân vật thông qua việc đánh giá của các nhân vật khác
trong tác phẩm, thông qua việc mô tả đồ dùng, nhà cửa, môi trường xã hội, thiên
nhiên...mà nhân vật sinh sống. Ở những tác phẩm tự sự, ngôn ngữ người kể chuyện
là một yếu tố rất quan trọng trong việc bộc lộ, miêu tả và đánh giá nhân vật.
Việc phân biệt các biện pháp
xây dựng nhân vật như trên chỉ có tính chất tương đối. Trong thực tế, các biện
pháp này nhiều khi không tách rời mà gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì vậy, nhiều
khi rất khó chỉ ra các biện pháp xây dựng nhân vật dưới một hình thức thuần túy
và độc lập. Một điều cũng cần lưu ý là, nắm bắt các biện pháp trên đây cũng chỉ
là nhằm mục đích hiểu một cách đầy đủ và chính xác về nhân vật trong tác phẩm
văn học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét