Quan niệm nghệ thuật về con người
I. Quan niệm nghệ thuật về con người
Con người là trung tâm của văn học, là đối tượng chủ yếu mà các nhà văn, nhà thơ khao khát hướng đến. Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của người nghệ sĩ nói riêng và thời đại văn học nói chung. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình” [9, 15]. Nghĩa là, quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con người được thể hiện thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp trong các tác phẩm văn học, từ đó, thấy được giá trị và chiều sâu triết lí của tác phẩm. Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với các phạm trù phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật, làm thành thước đo của hình thức văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật.” [4, 275]. Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm trên đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người. Chúng ta có thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con người một cách khái quát như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng.
Quan niệm nghệ thuật về con người là cách cắt nghĩa “có tính phổ quát, tột cùng mang ý vị triết học, nó thể hiện cái giới hạn tối đa trong việc miêu tả con người” [8]. Nhưng mọi cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách lí giải về con người của nhà văn đều là sản phẩm của lịch sử, xã hội và văn hóa thời đại nhà văn sáng tác. Không chỉ vậy quan niệm nghệ thuật về con người còn mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ sĩ, gắn liền với cái nhìn nghệ sĩ. Bởi vậy, quan niệm nghệ thuật về con người của văn học trung đại sẽ khác văn học hiện đại, quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Nguyễn Khải không giống nhà văn Nguyên Ngọc.
Quan niệm nghệ thuật về con người tạo thành nhân tố vận động của nghệ thuật. Và khi nhà văn miêu tả những con người là kết quả của sự vận động ấy thì sẽ làm văn học đổi mới. Quan niệm nghệ thuật về con người luôn hướng vào con người trong mọi chiều sâu của nó, cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn của tác phẩm văn học nói riêng và thành tựu của người nghệ sĩ nói chung.
II. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975
1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 23 tháng 10 năm 1930 tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An, Nguyễn Minh Châu tình nguyện vào quân đội. Năm 1959, Nguyễn Minh Châu đi dự hội nghị bạn viết toàn quân. Năm 1960, ông được điều động về cục Văn hóa quân đội, rồi về tạp chí Văn nghệ quân đội vừa làm biên tập vừa làm phóng viên. Trong thời gian này, Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn và cho in những truyện ngắn đầu tay nhưng chưa được dư luận quan tâm. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu chỉ được khẳng định trong thời kì kháng chiến chống Mỹ với hai cuốn tiểu thuyết Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970). Nhà văn đã phản ánh kịp thời những hình ảnh sinh động của cuộc chiến đấu và hình tượng cao đẹp của những con người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ, đồng thời, ông cũng có phát hiện và suy ngẫm về nhiều vấn đề của đời sống xã hội và số phận con người trong chiến tranh. Ngay sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những hạn chế của nền văn học thời chiến tranh và dũng cảm tìm kiếm con đường đổi mới sáng tác của chính mình. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1977: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà đã đem lại một sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn. Những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ra mắt bạn đọc ở nửa đầu những năm 1980 thực sự là những tìm tòi mới, với cái nhìn mới về hiện thực và con người, khiến Nguyễn Minh Châu trở thành một trong những “người mở đường tinh anh và tài năng nhất của công cuộc đổi mới văn học” (Nguyễn Khải). Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), ông đã có những phát biểu trực tiếp cùng với những sáng tác đã đạt đến độ chín của tư tưởng và nghệ thuật thể hiện sự tâm huyết với công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà. Nhưng vì mắc bệnh hiểm nghèo, Nguyễn Minh Châu đã qua đời vào ngày 23 tháng 1 năm 1989 khi nhiều dự định sáng tác còn đang ấp ủ.
2. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một trang mới đối với đất nước và con người Việt Nam, chấm dứt ngàn năm chế độ phong kiến, hơn tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp, để bắt đầu một thời đại mới - thời đại độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam cũng phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ trường kì gian khổ nhưng cũng rất hào hùng. Mọi đổi thay ấy đã đem đến cho văn học Việt Nam những sắc diện mới, luồng sinh khí mới ở nhiều khía cạnh, trong đó có quan niệm nghệ thuật về con người.
Nếu con người trong văn học Việt Nam chặng 1945 - 1954 là “con người tập thể”, “thức tỉnh về sức mạnh của cộng đồng”, “tham dự vào các biến cố lịch sử, gánh vác cuộc kháng chiến qua các tổ chức, các đoàn thể của mình”, “ít có những dằn vặt, suy tư, giằng xé nội tâm”, “dứt khoát, toàn tâm vì sự nghiệp chung, hòa mình trong tập thể” [7, 23 - 24 - 25]; nếu con người trong văn học Việt Nam chặng 1955 - 1964 là “con người trong sự thống nhất riêng - chung”, “nhìn nhận giải pháp duy nhất để giải quyết các số phận cá nhân và khát vọng hạnh phúc của con người là sự hòa nhập với tập thể, cách mạng và cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa” [7, 28 - 30]; thì con người trong văn học Việt Nam chặng 1965 - 1975 là mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta tuy vô cùng ác liệt, dữ dội nhưng đã khơi dậy được sức sống tiềm tàng, ý chí đấu tranh, tinh thần đoàn kết của con người Việt Nam. Tất cả kề vai, sát cánh để phục vụ tiền tuyến, hướng đến chiến thắng. Văn học chặng này đã nhanh chóng “nhập cuộc”, khai thác và thể hiện con người “trên phương diện con người chính trị, con người công dân, nhưng mỗi cá nhân như là biểu hiện tập trung của ý chí, khát vọng và sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, thậm chí của thời đại, của nhân loại” [7, 33].
Với quan niệm con người mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, ở thời kì trước 1975, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nên những hình mẫu nhân vật mang đậm cảm quan nghệ thuật của nhà văn. Con người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước hết là con người có lí tưởng sống cao đẹp, ý thức được tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Cô giáo Thùy trong Cửa sông (1966) đã “dành một phần nhỏ thì giờ biên thư cho các học sinh của mình hiện đang ở các đơn vị bộ đội” vì đã tự coi mình như “một người con gái ở hậu phương có nhiệm vụ đem đến cho họ những lời động viên, có nhiệm vụ săn sóc các chiến sĩ ngoài mặt trận”. Thùy luôn cố gắng “tìm cách không tách mình ra khỏi cái guồng máy sinh hoạt chung của nhân dân đang hối hả chuyển sang thời chiến” bởi như thế là ích kỉ, là coi trọng hạnh phúc cá nhân [1, 62 - 63]. Những người lính trong Dấu chân người lính (1972) đều xác định được trách nhiệm cao cả của thế hệ mình trước tiếng gọi thiêng liêng của non sông. Khuê, chiến sĩ cần vụ của chính ủy trung đoàn 5, rất quen thuộc, gắn bó với những khu rừng ngày đêm dội vang những trận bom, những cuộc chuyển quân trong tầm súng của địch. Khung cảnh bề bộn, dựng lửa của chiến trường “trước đây vài tháng, khi anh còn mài gót giày trên những chặng đường đi dài dằng dặc của núi Trường Sơn, anh như đã trông thấy, hình như nó đang vẫy gọi, đang giục giã anh và đồng đội của anh bằng tất cả sức mạnh quyến rũ không thể nào lường được” [1, 294].
Không chỉ sống có lí tưởng và nhận thức được vai trò của mình trong cộng đồng, con người của văn học kháng chiến chống Mĩ còn thể hiện lí tưởng và nhận thức ấy thành hành động, ý chí. Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu thường được đặt trong những hoàn cảnh thử thách ngặt nghèo, trước những tình huống phải lựa chọn giữa sống và chết để “càng làm kiên định ý chí cách mạng và bộc lộ sáng chói chủ nghĩa anh hùng” (Nguyễn Văn Long). Nguyệt, cô gái đi nhờ xe trong Mảnh trăng cuối rừng(1970), đã để cả quần áo “nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia bờ giúp tôi cột dây tời vào một gốc cây”, đã nấp ở mé ngoài để che chở cho Lãm vì “Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp đó!”, đã bình tĩnh, rành rọt chỉ đường cho Lãm và khi bị thương vẫn tươi tỉnh, xinh đẹp [2, 128 - 129]. Nhận được lệnh xuất kích, từ chính ủy Kinh đến những người lính thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5 (tiểu thuyếtDấu chân người lính) đều náo nức xen lẫn hồi hộp. Họ mang súng và một số cơ đạn, dây lưng to thắt rất chặt, mặt nghiêm trang, chuyện trò ít đi, ai nấy đều nghĩ đến cuộc chiến đấu mở màn sắp tới với quyết tâm “làm sao cho đơn vị mình đánh thắng trận đầu, nhất thiết phải đánh thắng giòn giã trận đầu”[1, 449]
Là con người của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nhân vật trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 đã kết tinh được phẩm chất của con người Việt Nam, tiêu biểu cho vẻ đẹp cộng đồng. Trong tiểu thuyết Cửa sông, người đọc cảm phục Bân có tình đồng chí gắn bó, keo sơn - anh thầm hứa với lòng mình, nhất định sẽ trả thù cho Ái, sẽ sống xứng đáng với sự hi sinh của Ái; thương mến sự lạc quan, vui tươi của Tốt - cô hát nhiều, cười nhiều trước hôm đi dân công mở đường đợt sáu tháng tận miền tây khu Bốn. Chính Thùy cũng đã từng nghĩ: “mỗi tấc đất làng Kiều, mỗi con người quen biết mà mình từng chung sống, từng dạy dỗ con cái họ đều có một cuộc đời gắn liền với lịch sử đất nước đầy thử thách, mỗi người đều mang trong lòng bao điều tốt đẹp mà mình có thể học hỏi, có thể khám phá suốt đời” [1, 282 - 283]. Nguyệt (truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng), như mọi cô gái Việt Nam khác, có một tình yêu thủy chung, một niềm tin mãnh liệt.
Sống giữa sự tàn phá của chiến tranh, bao năm cô vẫn chờ đợi người con trai chưa hề gặp mặt, chưa hứa hẹn một điều gì, bởi vì trong lòng cô “cái sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và bom đạn vẫn không phai nhạt, không hề đứt” [2, 120]. Chỉ là câu nói đùa nhưng người đọc thấy được cách Nguyệt hành xử rất phù hợp với truyền thống đạo lí của dân tộc, sống có trước có sau, trọn vẹn nghĩa tình: “Anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư” [2, 127].
Để thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của thời đại cũng như của cá nhân mình, trong các tác phẩm thời kì này, Nguyễn Minh Châu thường sử dụng bút pháp lí tưởng hóa, lãng mạn hóa. Các nhân vật Kinh, Lữ, Khuê, Cận, Lượng v.v... (tiểu thuyết Dấu chân người lính) đều là những viên ngọc, sáng đẹp, không có tì vết. Khó có thể tìm thấy một khiếm khuyết trong phẩm chất của họ. Đúng như nhà phê bình N.I.Niculin đã từng nhận xét về Nguyễn Minh Châu và sáng tác của ông, đại ý: niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp, cái thiện được khúc xạ ở chỗ Nguyễn Minh Châu đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng. Có những lúc, Lãm (truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng) cảm thấy xe mình chạy trên lớp sương bồng bềnh, trong nền không gian có mảnh trăng khuyết phía cuối trời sáng trong như mảnh bạc và bên cạnh là người con gái có mái tóc dày, thơm ngát, có khuôn mặt tươi mát, xinh đẹp. Lãm đã tưởng như mình trông thấy ảo ảnh và trong lòng anh từng dấy lên một tình yêu mê muội xen lẫn cảm phục người bạn đường. Mặt khác, nhiều trang văn của Nguyễn Minh Châu đều được viết bằng giọng điệu ngợi ca với chất trữ tình ấm áp. Giọng điệu này, theo nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan, được quy định do cảm hứng của tác giả, một phần là từ nỗi xúc động thực sự trước những chiến công anh hùng của quân và dân ta, một phần là do tác giả cổ vũ động viên nhân dân tham gia chiến đấu. Đoạn miêu tả tâm trạng của Thùy (tiểu thuyết Cửa sông) khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng được nhà văn viết bằng sự hứng khởi, say mê: “Từ bên này ngưỡng cửa của cuộc đời, Thùy thấy mọi vật đều đổi khác. Ba gian nhà trở nên ấm áp hơn, một mối tình đồng chí trong trẻo, chất phác tỏa lên từ khuôn mặt các đồng chí ngồi chung quanh. Thùy cảm thấy mình đang được bao bọc trong mối tình lớn ấy” [1, 273]. Giữa cảnh những ngôi nhà bị bom tàn phá, những hàng dừa mọc sát mép nước chỉ còn thân cây cháy sém, những người lính của Nguyễn Minh Châu không giấu nổi sự ngỡ ngàng trước cảnh “xung quanh bản hoa dong riềng vẫn nở đó, vẫn trông thấy những cô gái Lào vùng bãi sông đẹp yêu kiều mặc váy xanh màu lá mạ đi vác nước… từng đàn voi nhà bước đủng đỉnh trong đám tàn tranh” và “náo nức hẳn lên trong niềm mong đợi” khi nghe tin có đoàn văn công phục vụ mặt trận sắp tới [1, 346 - 347]. Nhưng Nguyễn Minh Châu ngay từ thời kì này đã không nhìn con người đơn giản, sơ lược. Nhà văn cũng đã chạm vào được nỗi trắc ẩn của con người, đã khơi được phần chìm khuất của đời sống, “ngay giữa những trang viết đầy hào sảng của Cửa sông, Dấu chân người lính, người đọc đã mong manh cảm nhận dường như nỗi đau vẫn song hành tồn tại cùng niềm vinh quang, ngay dưới chân tượng đài chiến thắng, và những nỗi éo le, ngang trái trong đời tư, sự vênh lệch giữa số phận cá nhân với số phận cộng đồng là điều có thực, là điều không tránh khỏi” [5]. Trong Dấu chân người lính, bi kịch mà ông Phang và Xiêm, con dâu ông phải trải qua cũng là nỗi đau của bao nhiêu người Việt Nam khi có người thân trong gia đình như con, như chồng cầm súng bắn vào đồng bào, phản bội quê hương. Thái độ có thể có trong tương lai của đứa con đi học ở nước ngoài cũng làm cho chính ủy Kinh trăn trở. Ngày mai, đứa con đó trở về khi tiếng súng đã dứt, những người anh hùng hôm nay đã trở lại với đời thường, liệu nó có biết ơn, có nhớ đến sự hi sinh xương máu của những người lính, trong đó có cả Lữ, anh em của nó. Những nhánh rẽ trong mạch văn hào hùng đã tạo cho tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 ít nhiều sự ám ảnh với giọng suy tư, triết lí. Nói tóm lại, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã dành gần hai thập kỉ để khám phá và ngợi ca vẻ đẹp lung linh, kì ảo của cuộc sống và tâm hồn con người trong chiến tranh với tâm niệm tất cả vì sự sống còn của dân tộc, của đất nước.
3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975
Thời kì hậu chiến, Nguyễn Minh Châu đã có những tìm tòi và đổi mới sâu sắc trong quan niệm nghệ thuật về con người. Ông đã chú trọng khai thác nhiều khía cạnh khác nhau trong tính lưỡng diện, đa diện và luôn biến đổi của con người. Trong tiểu thuyết Miền cháy sáng tác năm 1977, hình ảnh người anh hùng trở về từ chiến tranh hiện lên đầy tâm trạng. Đó là sự khắc khổ, dằn vặt, bất an trước mảnh đất miền Trung xác xơ sau khói bom lửa đạn. Người anh hùng kiên cường trong chiến đấu thì cũng phải bản lĩnh để đối mặt với ngổn ngang đổ nát, với bộn bề lo toan để quê hương nhanh chóng được hồi sinh. Tiểu thuyết Lửa từ những ngôi nhà (1977) của Nguyễn Minh Châu là sự phát triển của nguồn cảm hứng đã được khơi từ Miền cháy, vẫn là bộ mặt khắc khổ của những người lính từng là anh hùng nơi chiến trường nhưng xa lạ với lo toan đời thường sau chiến tranh, sống bất an trong hòa bình.
Phải đến với truyện ngắn Bức tranh (1987), sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu mới được thể hiện trực tiếp, đầy đủ. Nhân vật người họa sĩ tự nhận thức “trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ” [2, 195]. Con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 đã được đặt ra ngoài bầu không khí vô trùng vốn có, vừa đi vừa vấp ngã trước thế giới đa chiều đầy biến động. Con người phải đối diện với chính mình, với số phận của mình, với tư cách là một con người riêng lẻ, không nhân danh ai, không dựa vào ai. Hàng loạt những thể nghiệm sau Bức tranh như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau, Phiên chợ Giát đã làm cho quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu càng thêm vẹn đầy và sự biểu hiện quan niệm nghệ thuật đó càng thêm đa dạng, phong phú.
Điều cần phải khẳng định là con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 vẫn tiếp nối đạo lí truyền thống của dân tộc, vẫn nuôi dưỡng hoài bão xây dựng quê hương giàu đẹp nhưng đã biết bám rễ trên mảnh đất hiện thực. Lực (truyện vừa Cỏ lau) đã hi sinh thời trai trẻ, hi sinh tình cha con, vợ chồng, anh em cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Ngày trở về, em mất, vợ đã có một gia đình mới, người cha già phải sống nhờ cô con dâu tái giá, tuy đau đáu nỗi niềm, song anh hiểu“cuộc sống đã an bài… chẳng dễ thay đổi được hoàn cảnh”, anh lựa chọn cho mình tương lai của “một người lính già sống suốt đời cùng với một ông bố”, nơi có “những hình người đàn bà bằng đá đầy cô đơn” [2, 775 - 776]. Lại một lần nữa, Lực nhận về mình phần thiệt thòi nhưng người đọc cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp giàu chất nhân văn của tâm hồn người Việt Nam. Trước khi ra đi vĩnh viễn, Hòa (truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) đã chia sẻ với người yêu về những dự định, những ước mơ của anh. Hòa từng “mơ tưởng sau này lớn lên sẽ chế tạo được một chiếc máy cày” để những ông già đầu bạc, những em bé không còn phải “giơ cao những chiếc cuốc rất nặng bổ xuống một cánh đồng đất rắn như gang”, để bàn tay mẹ không giống như một tấm da trâu sau mỗi vụ cày ải. [2, 229 - 231]. Ra khỏi chiến tranh, Quỳ (truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) đã có mặt trên mặt trận kinh tế ở ngay tại mảnh đất mà người thân yêu và đồng đội của chị đã ngã xuống. Chị đã “cứu Ph ra khỏi sự lầm lạc, trả lại vị trí xứng đáng để người kỹ sư cơ khí phát huy năng lực sở trường”, “đã nhận ra được vai trò quan trọng của tài năng, của tri thức trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới” [8].
Đọc các tác phẩm Nguyễn Minh Châu viết trong thời kì đổi mới, độc giả dễ dàng nhận thấy con người hiện lên qua mỗi trang văn của ông không phải là con người nhất phiến mà là con người đa chiều và phức tạp. Chứng kiến người đàn bà làng chài (truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa) bị người chồng vũ phu đánh đập, nghệ sĩ Phùng tưởng chị là người “cam chịu, đầy nhẫn nhục” bởi “không hề một tiếng kêu, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn” [2, 499- 500]. Nhưng khi trò chuyện trực tiếp với chị, Phùng mới nhận ra sau vẻ lam lũ, khổ sở là một người phụ nữ sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Chị khước từ sự giúp đỡ của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu: “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó” vì “các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn” và hứng chịu mọi nhọc nhằn, khổ đau để các con được hạnh phúc: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Người phụ nữ ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh ta tha hóa. Điều đặc biệt ở người đàn bà là chị vẫn giữ được trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”, “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ” [2, 512 - 513]. Hòa (truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) là một trung đoàn trưởng tài khiến người lính ở hàng ngũ bên kia cũng phải ngưỡng mộ. Nhưng trong sinh hoạt hàng ngày, Hoà cũng có những thói nọ tật kia như những con người bình thường khác. Anh mừng rỡ, hí hửng khi được thăng cấp; chăn một đàn gà riêng, đánh một cái quần xà lỏn đi phát rẫy; yêu người này, nói xấu sau lưng người kia; có hai bàn tay lúc nào cũng dấp dính mồ hôi… Hòa vừa là một thánh nhân nhưng cũng lại là con người phàm tục với ham hố, nhược điểm. Nhân vật Hòa là một hình mẫu hoàn toàn mới khác hẳn với những con người trong tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975.
Nguyễn Minh Châu cũng chú ý khám phá con người ở góc độ đời sống riêng tư của từng cá nhân. Thai (truyện vừa Cỏ lau) vừa tham gia công tác xã hội vừa chịu tù đày, một tay chôn cất em chồng và chăm sóc phụng dưỡng bố chồng. Chị có một phẩm chất đặc biệt là suốt đời chỉ có thể yêu được một người. Số phận đã đẩy chị vào hoàn cảnh trớ trêu, phải lựa chọn giữa hai người đàn ông cũng rất đặc biệt, người thì hai mươi bốn năm nay không yêu một ai, người thì khổ sở, nhục nhã vì không được vợ yêu mà lại vẫn yêu vợ, quý vợ hơn bất cứ ai. Lão Khúng (truyện ngắn Phiên chợ Giát) có cuộc đời vô cùng khổ cực, nhọc nhằn. Lão phải giành từng tấc đất với cỏ lau và đá hộc để nuôi lớn cả bầy con cứ“tự nhiên” ra đời. Con người lão “hữu danh mà vô thực”, “trong bóng đêm đối mặt với sự thật của đời mình, con người lão càng trở nên lầm lũi” [6, 100]. Số kiếp của lão có lẽ cũng quẩn quanh, cổ xưa như số kiếp của con bò Khoang. Lão đã giải phóng cho nó mà nó vẫn tìm về với lão.
Bởi quan niệm nghệ thuật về con người thay đổi nên tất yếu giọng điệu trong những trang viết thời kì sau 1975 của Nguyễn Minh Châu không còn hào sảng, say mê, bay bổng. Giọng văn của ông trầm tĩnh hơn, xen lẫn chút chiêm nghiệm và suy ngẫm. Các nhân vật đầy suy tư, trăn trở khi nói về mình và mọi người. Dự một cuộc gặp gỡ sau hai mươi năm giữa hai mẹ con, đáng lẽ vui mừng cảm động thì lại giống như một phiên tòa đại hình, nhân vật trong truyện ngắn Mùa trái cóc ở miền Nam cảm thấy“lòng mình bị tổn thương nặng nề và hình như cả con người tôi tự nhiên bị ngập chìm trong lo âu, một nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người” và thấp thoáng trước mặt anh là người mẹ chỉ có một mình vì “con người có những lúc rất cần cô độc, cũng là để đi trốn cái thế giới loài người đầy nhiễu sự và cũng để sống hết với con người mình” [2, 817]. Có thể nói màu sắc triết lí thấm đẫm trong nhiều truyện ngắn viết sau 1975 của Nguyễn Minh Châu. Bên cạnh đó, vì nhìn thấu những chấn động trong đời sống và tâm lí của con người, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng những dạng tình huống nhận thức thể hiện sự tự nhận thức của cá nhân con người về bản thân và xã hội. Nhĩ (truyện ngắn Bến quê) từng đi không sót một xó xỉnh nào trên trái đất nhưng đến lúc ốm liệt giường mới phát hiện ra“một chân trời gần gũi mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến - cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình” [2, 479] và mơ ước được đặt chân lên bờ bên kia dù chỉ giây lát. Sự tự nhận thức về sai lầm của mình, về khả năng hữu hạn của bản thân đã làm Nhĩ ân hận, đau đớn. Anh đã không thể làm được gì để bù lấp nổi sự trống vắng, thiếu hụt của đời người vì đã đi con đường vòng chùng chình. Nhờ sự tự nhận thức: “già rồi mà vẫn chơi trồng bỏi, chắc anh đang vừa cười tôi lại vừa chửi tôi như thế” [2, 401], nhà văn T (truyện ngắn Sắm vai) đã từ bỏ lối sống giả tạo, làm đẹp lòng người khác mà đánh mất đi bản thân mình. Anh không phải là một thứ “tiện nghi”, “đồ đạc” của vợ mà là một nhà văn muốn đi đến tận cùng của sự sáng tạo. Đặt ra những tình huống này, Nguyễn Minh Châu “đã tạo nên những cái cớ để trở đi trở lại, lật xới những vấn đề vốn vẫn thao thức trong ông” [6, 130]. Phải chăng đó là niềm băn khoăn về thước đo giá trị con người trong xã hội khi mà sự tự nhận thức đã nâng con người lên tầm cao mới, hiểu mình và đủ bản lĩnh để là mình.
Như vậy, có thể nói, tiểu thuyết và đặc biệt là truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết sau 1975 đã có sự thay đổi mạnh mẽ về quan niệm nghệ thuật về con người, khẳng định những thành tựu nghệ thuật đặc sắc được hình thành từ sự dồn nén những trăn trở của nhà văn và những đóng góp của ông trong công cuộc đổi mới văn học nước nhà.
III. Kết luận
Tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975, chúng ta thấy quan niệm nghệ thuật về con người đã chi phối sự nghiệp sáng tác của mỗi tác giả nói chung và của nhà văn Nguyễn Minh Châu nói riêng. Sự biến đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người là trung tâm mọi biến đổi của nền văn học, là tiêu chí để đánh giá sự đổi mới của một cây bút hay của một thời kì văn học.
Con người là trung tâm của văn học, là đối tượng chủ yếu mà các nhà văn, nhà thơ khao khát hướng đến. Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của người nghệ sĩ nói riêng và thời đại văn học nói chung. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình” [9, 15]. Nghĩa là, quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con người được thể hiện thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp trong các tác phẩm văn học, từ đó, thấy được giá trị và chiều sâu triết lí của tác phẩm. Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với các phạm trù phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật, làm thành thước đo của hình thức văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật.” [4, 275]. Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm trên đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người. Chúng ta có thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con người một cách khái quát như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng.
Quan niệm nghệ thuật về con người là cách cắt nghĩa “có tính phổ quát, tột cùng mang ý vị triết học, nó thể hiện cái giới hạn tối đa trong việc miêu tả con người” [8]. Nhưng mọi cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách lí giải về con người của nhà văn đều là sản phẩm của lịch sử, xã hội và văn hóa thời đại nhà văn sáng tác. Không chỉ vậy quan niệm nghệ thuật về con người còn mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ sĩ, gắn liền với cái nhìn nghệ sĩ. Bởi vậy, quan niệm nghệ thuật về con người của văn học trung đại sẽ khác văn học hiện đại, quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Nguyễn Khải không giống nhà văn Nguyên Ngọc.
Quan niệm nghệ thuật về con người tạo thành nhân tố vận động của nghệ thuật. Và khi nhà văn miêu tả những con người là kết quả của sự vận động ấy thì sẽ làm văn học đổi mới. Quan niệm nghệ thuật về con người luôn hướng vào con người trong mọi chiều sâu của nó, cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn của tác phẩm văn học nói riêng và thành tựu của người nghệ sĩ nói chung.
II. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975
1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 23 tháng 10 năm 1930 tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An, Nguyễn Minh Châu tình nguyện vào quân đội. Năm 1959, Nguyễn Minh Châu đi dự hội nghị bạn viết toàn quân. Năm 1960, ông được điều động về cục Văn hóa quân đội, rồi về tạp chí Văn nghệ quân đội vừa làm biên tập vừa làm phóng viên. Trong thời gian này, Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn và cho in những truyện ngắn đầu tay nhưng chưa được dư luận quan tâm. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu chỉ được khẳng định trong thời kì kháng chiến chống Mỹ với hai cuốn tiểu thuyết Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970). Nhà văn đã phản ánh kịp thời những hình ảnh sinh động của cuộc chiến đấu và hình tượng cao đẹp của những con người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ, đồng thời, ông cũng có phát hiện và suy ngẫm về nhiều vấn đề của đời sống xã hội và số phận con người trong chiến tranh. Ngay sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những hạn chế của nền văn học thời chiến tranh và dũng cảm tìm kiếm con đường đổi mới sáng tác của chính mình. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1977: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà đã đem lại một sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn. Những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ra mắt bạn đọc ở nửa đầu những năm 1980 thực sự là những tìm tòi mới, với cái nhìn mới về hiện thực và con người, khiến Nguyễn Minh Châu trở thành một trong những “người mở đường tinh anh và tài năng nhất của công cuộc đổi mới văn học” (Nguyễn Khải). Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), ông đã có những phát biểu trực tiếp cùng với những sáng tác đã đạt đến độ chín của tư tưởng và nghệ thuật thể hiện sự tâm huyết với công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà. Nhưng vì mắc bệnh hiểm nghèo, Nguyễn Minh Châu đã qua đời vào ngày 23 tháng 1 năm 1989 khi nhiều dự định sáng tác còn đang ấp ủ.
2. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một trang mới đối với đất nước và con người Việt Nam, chấm dứt ngàn năm chế độ phong kiến, hơn tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp, để bắt đầu một thời đại mới - thời đại độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam cũng phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ trường kì gian khổ nhưng cũng rất hào hùng. Mọi đổi thay ấy đã đem đến cho văn học Việt Nam những sắc diện mới, luồng sinh khí mới ở nhiều khía cạnh, trong đó có quan niệm nghệ thuật về con người.
Nếu con người trong văn học Việt Nam chặng 1945 - 1954 là “con người tập thể”, “thức tỉnh về sức mạnh của cộng đồng”, “tham dự vào các biến cố lịch sử, gánh vác cuộc kháng chiến qua các tổ chức, các đoàn thể của mình”, “ít có những dằn vặt, suy tư, giằng xé nội tâm”, “dứt khoát, toàn tâm vì sự nghiệp chung, hòa mình trong tập thể” [7, 23 - 24 - 25]; nếu con người trong văn học Việt Nam chặng 1955 - 1964 là “con người trong sự thống nhất riêng - chung”, “nhìn nhận giải pháp duy nhất để giải quyết các số phận cá nhân và khát vọng hạnh phúc của con người là sự hòa nhập với tập thể, cách mạng và cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa” [7, 28 - 30]; thì con người trong văn học Việt Nam chặng 1965 - 1975 là mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta tuy vô cùng ác liệt, dữ dội nhưng đã khơi dậy được sức sống tiềm tàng, ý chí đấu tranh, tinh thần đoàn kết của con người Việt Nam. Tất cả kề vai, sát cánh để phục vụ tiền tuyến, hướng đến chiến thắng. Văn học chặng này đã nhanh chóng “nhập cuộc”, khai thác và thể hiện con người “trên phương diện con người chính trị, con người công dân, nhưng mỗi cá nhân như là biểu hiện tập trung của ý chí, khát vọng và sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, thậm chí của thời đại, của nhân loại” [7, 33].
Với quan niệm con người mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, ở thời kì trước 1975, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nên những hình mẫu nhân vật mang đậm cảm quan nghệ thuật của nhà văn. Con người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước hết là con người có lí tưởng sống cao đẹp, ý thức được tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Cô giáo Thùy trong Cửa sông (1966) đã “dành một phần nhỏ thì giờ biên thư cho các học sinh của mình hiện đang ở các đơn vị bộ đội” vì đã tự coi mình như “một người con gái ở hậu phương có nhiệm vụ đem đến cho họ những lời động viên, có nhiệm vụ săn sóc các chiến sĩ ngoài mặt trận”. Thùy luôn cố gắng “tìm cách không tách mình ra khỏi cái guồng máy sinh hoạt chung của nhân dân đang hối hả chuyển sang thời chiến” bởi như thế là ích kỉ, là coi trọng hạnh phúc cá nhân [1, 62 - 63]. Những người lính trong Dấu chân người lính (1972) đều xác định được trách nhiệm cao cả của thế hệ mình trước tiếng gọi thiêng liêng của non sông. Khuê, chiến sĩ cần vụ của chính ủy trung đoàn 5, rất quen thuộc, gắn bó với những khu rừng ngày đêm dội vang những trận bom, những cuộc chuyển quân trong tầm súng của địch. Khung cảnh bề bộn, dựng lửa của chiến trường “trước đây vài tháng, khi anh còn mài gót giày trên những chặng đường đi dài dằng dặc của núi Trường Sơn, anh như đã trông thấy, hình như nó đang vẫy gọi, đang giục giã anh và đồng đội của anh bằng tất cả sức mạnh quyến rũ không thể nào lường được” [1, 294].
Không chỉ sống có lí tưởng và nhận thức được vai trò của mình trong cộng đồng, con người của văn học kháng chiến chống Mĩ còn thể hiện lí tưởng và nhận thức ấy thành hành động, ý chí. Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu thường được đặt trong những hoàn cảnh thử thách ngặt nghèo, trước những tình huống phải lựa chọn giữa sống và chết để “càng làm kiên định ý chí cách mạng và bộc lộ sáng chói chủ nghĩa anh hùng” (Nguyễn Văn Long). Nguyệt, cô gái đi nhờ xe trong Mảnh trăng cuối rừng(1970), đã để cả quần áo “nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia bờ giúp tôi cột dây tời vào một gốc cây”, đã nấp ở mé ngoài để che chở cho Lãm vì “Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp đó!”, đã bình tĩnh, rành rọt chỉ đường cho Lãm và khi bị thương vẫn tươi tỉnh, xinh đẹp [2, 128 - 129]. Nhận được lệnh xuất kích, từ chính ủy Kinh đến những người lính thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5 (tiểu thuyếtDấu chân người lính) đều náo nức xen lẫn hồi hộp. Họ mang súng và một số cơ đạn, dây lưng to thắt rất chặt, mặt nghiêm trang, chuyện trò ít đi, ai nấy đều nghĩ đến cuộc chiến đấu mở màn sắp tới với quyết tâm “làm sao cho đơn vị mình đánh thắng trận đầu, nhất thiết phải đánh thắng giòn giã trận đầu”[1, 449]
Là con người của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nhân vật trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 đã kết tinh được phẩm chất của con người Việt Nam, tiêu biểu cho vẻ đẹp cộng đồng. Trong tiểu thuyết Cửa sông, người đọc cảm phục Bân có tình đồng chí gắn bó, keo sơn - anh thầm hứa với lòng mình, nhất định sẽ trả thù cho Ái, sẽ sống xứng đáng với sự hi sinh của Ái; thương mến sự lạc quan, vui tươi của Tốt - cô hát nhiều, cười nhiều trước hôm đi dân công mở đường đợt sáu tháng tận miền tây khu Bốn. Chính Thùy cũng đã từng nghĩ: “mỗi tấc đất làng Kiều, mỗi con người quen biết mà mình từng chung sống, từng dạy dỗ con cái họ đều có một cuộc đời gắn liền với lịch sử đất nước đầy thử thách, mỗi người đều mang trong lòng bao điều tốt đẹp mà mình có thể học hỏi, có thể khám phá suốt đời” [1, 282 - 283]. Nguyệt (truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng), như mọi cô gái Việt Nam khác, có một tình yêu thủy chung, một niềm tin mãnh liệt.
Sống giữa sự tàn phá của chiến tranh, bao năm cô vẫn chờ đợi người con trai chưa hề gặp mặt, chưa hứa hẹn một điều gì, bởi vì trong lòng cô “cái sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và bom đạn vẫn không phai nhạt, không hề đứt” [2, 120]. Chỉ là câu nói đùa nhưng người đọc thấy được cách Nguyệt hành xử rất phù hợp với truyền thống đạo lí của dân tộc, sống có trước có sau, trọn vẹn nghĩa tình: “Anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư” [2, 127].
Để thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của thời đại cũng như của cá nhân mình, trong các tác phẩm thời kì này, Nguyễn Minh Châu thường sử dụng bút pháp lí tưởng hóa, lãng mạn hóa. Các nhân vật Kinh, Lữ, Khuê, Cận, Lượng v.v... (tiểu thuyết Dấu chân người lính) đều là những viên ngọc, sáng đẹp, không có tì vết. Khó có thể tìm thấy một khiếm khuyết trong phẩm chất của họ. Đúng như nhà phê bình N.I.Niculin đã từng nhận xét về Nguyễn Minh Châu và sáng tác của ông, đại ý: niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp, cái thiện được khúc xạ ở chỗ Nguyễn Minh Châu đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng. Có những lúc, Lãm (truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng) cảm thấy xe mình chạy trên lớp sương bồng bềnh, trong nền không gian có mảnh trăng khuyết phía cuối trời sáng trong như mảnh bạc và bên cạnh là người con gái có mái tóc dày, thơm ngát, có khuôn mặt tươi mát, xinh đẹp. Lãm đã tưởng như mình trông thấy ảo ảnh và trong lòng anh từng dấy lên một tình yêu mê muội xen lẫn cảm phục người bạn đường. Mặt khác, nhiều trang văn của Nguyễn Minh Châu đều được viết bằng giọng điệu ngợi ca với chất trữ tình ấm áp. Giọng điệu này, theo nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan, được quy định do cảm hứng của tác giả, một phần là từ nỗi xúc động thực sự trước những chiến công anh hùng của quân và dân ta, một phần là do tác giả cổ vũ động viên nhân dân tham gia chiến đấu. Đoạn miêu tả tâm trạng của Thùy (tiểu thuyết Cửa sông) khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng được nhà văn viết bằng sự hứng khởi, say mê: “Từ bên này ngưỡng cửa của cuộc đời, Thùy thấy mọi vật đều đổi khác. Ba gian nhà trở nên ấm áp hơn, một mối tình đồng chí trong trẻo, chất phác tỏa lên từ khuôn mặt các đồng chí ngồi chung quanh. Thùy cảm thấy mình đang được bao bọc trong mối tình lớn ấy” [1, 273]. Giữa cảnh những ngôi nhà bị bom tàn phá, những hàng dừa mọc sát mép nước chỉ còn thân cây cháy sém, những người lính của Nguyễn Minh Châu không giấu nổi sự ngỡ ngàng trước cảnh “xung quanh bản hoa dong riềng vẫn nở đó, vẫn trông thấy những cô gái Lào vùng bãi sông đẹp yêu kiều mặc váy xanh màu lá mạ đi vác nước… từng đàn voi nhà bước đủng đỉnh trong đám tàn tranh” và “náo nức hẳn lên trong niềm mong đợi” khi nghe tin có đoàn văn công phục vụ mặt trận sắp tới [1, 346 - 347]. Nhưng Nguyễn Minh Châu ngay từ thời kì này đã không nhìn con người đơn giản, sơ lược. Nhà văn cũng đã chạm vào được nỗi trắc ẩn của con người, đã khơi được phần chìm khuất của đời sống, “ngay giữa những trang viết đầy hào sảng của Cửa sông, Dấu chân người lính, người đọc đã mong manh cảm nhận dường như nỗi đau vẫn song hành tồn tại cùng niềm vinh quang, ngay dưới chân tượng đài chiến thắng, và những nỗi éo le, ngang trái trong đời tư, sự vênh lệch giữa số phận cá nhân với số phận cộng đồng là điều có thực, là điều không tránh khỏi” [5]. Trong Dấu chân người lính, bi kịch mà ông Phang và Xiêm, con dâu ông phải trải qua cũng là nỗi đau của bao nhiêu người Việt Nam khi có người thân trong gia đình như con, như chồng cầm súng bắn vào đồng bào, phản bội quê hương. Thái độ có thể có trong tương lai của đứa con đi học ở nước ngoài cũng làm cho chính ủy Kinh trăn trở. Ngày mai, đứa con đó trở về khi tiếng súng đã dứt, những người anh hùng hôm nay đã trở lại với đời thường, liệu nó có biết ơn, có nhớ đến sự hi sinh xương máu của những người lính, trong đó có cả Lữ, anh em của nó. Những nhánh rẽ trong mạch văn hào hùng đã tạo cho tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 ít nhiều sự ám ảnh với giọng suy tư, triết lí. Nói tóm lại, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã dành gần hai thập kỉ để khám phá và ngợi ca vẻ đẹp lung linh, kì ảo của cuộc sống và tâm hồn con người trong chiến tranh với tâm niệm tất cả vì sự sống còn của dân tộc, của đất nước.
3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975
Thời kì hậu chiến, Nguyễn Minh Châu đã có những tìm tòi và đổi mới sâu sắc trong quan niệm nghệ thuật về con người. Ông đã chú trọng khai thác nhiều khía cạnh khác nhau trong tính lưỡng diện, đa diện và luôn biến đổi của con người. Trong tiểu thuyết Miền cháy sáng tác năm 1977, hình ảnh người anh hùng trở về từ chiến tranh hiện lên đầy tâm trạng. Đó là sự khắc khổ, dằn vặt, bất an trước mảnh đất miền Trung xác xơ sau khói bom lửa đạn. Người anh hùng kiên cường trong chiến đấu thì cũng phải bản lĩnh để đối mặt với ngổn ngang đổ nát, với bộn bề lo toan để quê hương nhanh chóng được hồi sinh. Tiểu thuyết Lửa từ những ngôi nhà (1977) của Nguyễn Minh Châu là sự phát triển của nguồn cảm hứng đã được khơi từ Miền cháy, vẫn là bộ mặt khắc khổ của những người lính từng là anh hùng nơi chiến trường nhưng xa lạ với lo toan đời thường sau chiến tranh, sống bất an trong hòa bình.
Phải đến với truyện ngắn Bức tranh (1987), sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu mới được thể hiện trực tiếp, đầy đủ. Nhân vật người họa sĩ tự nhận thức “trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ” [2, 195]. Con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 đã được đặt ra ngoài bầu không khí vô trùng vốn có, vừa đi vừa vấp ngã trước thế giới đa chiều đầy biến động. Con người phải đối diện với chính mình, với số phận của mình, với tư cách là một con người riêng lẻ, không nhân danh ai, không dựa vào ai. Hàng loạt những thể nghiệm sau Bức tranh như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau, Phiên chợ Giát đã làm cho quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu càng thêm vẹn đầy và sự biểu hiện quan niệm nghệ thuật đó càng thêm đa dạng, phong phú.
Điều cần phải khẳng định là con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 vẫn tiếp nối đạo lí truyền thống của dân tộc, vẫn nuôi dưỡng hoài bão xây dựng quê hương giàu đẹp nhưng đã biết bám rễ trên mảnh đất hiện thực. Lực (truyện vừa Cỏ lau) đã hi sinh thời trai trẻ, hi sinh tình cha con, vợ chồng, anh em cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Ngày trở về, em mất, vợ đã có một gia đình mới, người cha già phải sống nhờ cô con dâu tái giá, tuy đau đáu nỗi niềm, song anh hiểu“cuộc sống đã an bài… chẳng dễ thay đổi được hoàn cảnh”, anh lựa chọn cho mình tương lai của “một người lính già sống suốt đời cùng với một ông bố”, nơi có “những hình người đàn bà bằng đá đầy cô đơn” [2, 775 - 776]. Lại một lần nữa, Lực nhận về mình phần thiệt thòi nhưng người đọc cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp giàu chất nhân văn của tâm hồn người Việt Nam. Trước khi ra đi vĩnh viễn, Hòa (truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) đã chia sẻ với người yêu về những dự định, những ước mơ của anh. Hòa từng “mơ tưởng sau này lớn lên sẽ chế tạo được một chiếc máy cày” để những ông già đầu bạc, những em bé không còn phải “giơ cao những chiếc cuốc rất nặng bổ xuống một cánh đồng đất rắn như gang”, để bàn tay mẹ không giống như một tấm da trâu sau mỗi vụ cày ải. [2, 229 - 231]. Ra khỏi chiến tranh, Quỳ (truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) đã có mặt trên mặt trận kinh tế ở ngay tại mảnh đất mà người thân yêu và đồng đội của chị đã ngã xuống. Chị đã “cứu Ph ra khỏi sự lầm lạc, trả lại vị trí xứng đáng để người kỹ sư cơ khí phát huy năng lực sở trường”, “đã nhận ra được vai trò quan trọng của tài năng, của tri thức trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới” [8].
Đọc các tác phẩm Nguyễn Minh Châu viết trong thời kì đổi mới, độc giả dễ dàng nhận thấy con người hiện lên qua mỗi trang văn của ông không phải là con người nhất phiến mà là con người đa chiều và phức tạp. Chứng kiến người đàn bà làng chài (truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa) bị người chồng vũ phu đánh đập, nghệ sĩ Phùng tưởng chị là người “cam chịu, đầy nhẫn nhục” bởi “không hề một tiếng kêu, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn” [2, 499- 500]. Nhưng khi trò chuyện trực tiếp với chị, Phùng mới nhận ra sau vẻ lam lũ, khổ sở là một người phụ nữ sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Chị khước từ sự giúp đỡ của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu: “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó” vì “các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn” và hứng chịu mọi nhọc nhằn, khổ đau để các con được hạnh phúc: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Người phụ nữ ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh ta tha hóa. Điều đặc biệt ở người đàn bà là chị vẫn giữ được trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”, “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ” [2, 512 - 513]. Hòa (truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) là một trung đoàn trưởng tài khiến người lính ở hàng ngũ bên kia cũng phải ngưỡng mộ. Nhưng trong sinh hoạt hàng ngày, Hoà cũng có những thói nọ tật kia như những con người bình thường khác. Anh mừng rỡ, hí hửng khi được thăng cấp; chăn một đàn gà riêng, đánh một cái quần xà lỏn đi phát rẫy; yêu người này, nói xấu sau lưng người kia; có hai bàn tay lúc nào cũng dấp dính mồ hôi… Hòa vừa là một thánh nhân nhưng cũng lại là con người phàm tục với ham hố, nhược điểm. Nhân vật Hòa là một hình mẫu hoàn toàn mới khác hẳn với những con người trong tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975.
Nguyễn Minh Châu cũng chú ý khám phá con người ở góc độ đời sống riêng tư của từng cá nhân. Thai (truyện vừa Cỏ lau) vừa tham gia công tác xã hội vừa chịu tù đày, một tay chôn cất em chồng và chăm sóc phụng dưỡng bố chồng. Chị có một phẩm chất đặc biệt là suốt đời chỉ có thể yêu được một người. Số phận đã đẩy chị vào hoàn cảnh trớ trêu, phải lựa chọn giữa hai người đàn ông cũng rất đặc biệt, người thì hai mươi bốn năm nay không yêu một ai, người thì khổ sở, nhục nhã vì không được vợ yêu mà lại vẫn yêu vợ, quý vợ hơn bất cứ ai. Lão Khúng (truyện ngắn Phiên chợ Giát) có cuộc đời vô cùng khổ cực, nhọc nhằn. Lão phải giành từng tấc đất với cỏ lau và đá hộc để nuôi lớn cả bầy con cứ“tự nhiên” ra đời. Con người lão “hữu danh mà vô thực”, “trong bóng đêm đối mặt với sự thật của đời mình, con người lão càng trở nên lầm lũi” [6, 100]. Số kiếp của lão có lẽ cũng quẩn quanh, cổ xưa như số kiếp của con bò Khoang. Lão đã giải phóng cho nó mà nó vẫn tìm về với lão.
Bởi quan niệm nghệ thuật về con người thay đổi nên tất yếu giọng điệu trong những trang viết thời kì sau 1975 của Nguyễn Minh Châu không còn hào sảng, say mê, bay bổng. Giọng văn của ông trầm tĩnh hơn, xen lẫn chút chiêm nghiệm và suy ngẫm. Các nhân vật đầy suy tư, trăn trở khi nói về mình và mọi người. Dự một cuộc gặp gỡ sau hai mươi năm giữa hai mẹ con, đáng lẽ vui mừng cảm động thì lại giống như một phiên tòa đại hình, nhân vật trong truyện ngắn Mùa trái cóc ở miền Nam cảm thấy“lòng mình bị tổn thương nặng nề và hình như cả con người tôi tự nhiên bị ngập chìm trong lo âu, một nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người” và thấp thoáng trước mặt anh là người mẹ chỉ có một mình vì “con người có những lúc rất cần cô độc, cũng là để đi trốn cái thế giới loài người đầy nhiễu sự và cũng để sống hết với con người mình” [2, 817]. Có thể nói màu sắc triết lí thấm đẫm trong nhiều truyện ngắn viết sau 1975 của Nguyễn Minh Châu. Bên cạnh đó, vì nhìn thấu những chấn động trong đời sống và tâm lí của con người, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng những dạng tình huống nhận thức thể hiện sự tự nhận thức của cá nhân con người về bản thân và xã hội. Nhĩ (truyện ngắn Bến quê) từng đi không sót một xó xỉnh nào trên trái đất nhưng đến lúc ốm liệt giường mới phát hiện ra“một chân trời gần gũi mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến - cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình” [2, 479] và mơ ước được đặt chân lên bờ bên kia dù chỉ giây lát. Sự tự nhận thức về sai lầm của mình, về khả năng hữu hạn của bản thân đã làm Nhĩ ân hận, đau đớn. Anh đã không thể làm được gì để bù lấp nổi sự trống vắng, thiếu hụt của đời người vì đã đi con đường vòng chùng chình. Nhờ sự tự nhận thức: “già rồi mà vẫn chơi trồng bỏi, chắc anh đang vừa cười tôi lại vừa chửi tôi như thế” [2, 401], nhà văn T (truyện ngắn Sắm vai) đã từ bỏ lối sống giả tạo, làm đẹp lòng người khác mà đánh mất đi bản thân mình. Anh không phải là một thứ “tiện nghi”, “đồ đạc” của vợ mà là một nhà văn muốn đi đến tận cùng của sự sáng tạo. Đặt ra những tình huống này, Nguyễn Minh Châu “đã tạo nên những cái cớ để trở đi trở lại, lật xới những vấn đề vốn vẫn thao thức trong ông” [6, 130]. Phải chăng đó là niềm băn khoăn về thước đo giá trị con người trong xã hội khi mà sự tự nhận thức đã nâng con người lên tầm cao mới, hiểu mình và đủ bản lĩnh để là mình.
Như vậy, có thể nói, tiểu thuyết và đặc biệt là truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết sau 1975 đã có sự thay đổi mạnh mẽ về quan niệm nghệ thuật về con người, khẳng định những thành tựu nghệ thuật đặc sắc được hình thành từ sự dồn nén những trăn trở của nhà văn và những đóng góp của ông trong công cuộc đổi mới văn học nước nhà.
III. Kết luận
Tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975, chúng ta thấy quan niệm nghệ thuật về con người đã chi phối sự nghiệp sáng tác của mỗi tác giả nói chung và của nhà văn Nguyễn Minh Châu nói riêng. Sự biến đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người là trung tâm mọi biến đổi của nền văn học, là tiêu chí để đánh giá sự đổi mới của một cây bút hay của một thời kì văn học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét