Thơ chữ Hán Nguyễn Du - Từ
cõi hư vô nhìn lại kiếp người
Sinh ra và lớn lên giữa một
thời giông gió cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Du sớm nghiệm sinh những tủi buồn riêng
tư, sớm trải qua mất mát và chứng kiến biết bao cuộc ly loạn, tan vỡ, đổi thay.
Ngay chính gia đình ông cũng đã là cả một tấn bi kịch với những chia cách, đối
lập, vừa hoài niệm quá khứ vàng son chưa xa vừa bị hiện thực dồn đẩy về phía
trước với một niềm hy vọng mong manh. Bản thân ông cũng bị xô đẩy, vừa mới được
giữ một chức quan nhỏ dưới thời Lê mạt thì cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổi lên và
buộc phải làm cánh bèo trôi dạt, khi ở xứ vợ Thái Bình, khi về miền quê Nghệ
Tĩnh. Đến ngày ra làm quan với tân chúa nhà Nguyễn và được trọng dùng thì tuổi
đã sang chiều, hơn nữa lại phải cúc cung ở bên chúa "lạ", nơi dẫu sao
mình cũng chỉ dự một vai phụ, một chân "chầu rìa". Dường như ông luôn
bị phân thân, xa gần thấy triều đại nào mình cũng chịu ân sủng và cũng thấy những
điều bất cập, trái chiều, khó có thể tận trung tận hiếu. Thế là hết một thời và
càng hiểu rõ rằng rồi sẽ qua hết một đời! Bao nhiêu ước vọng, bao nhiêu suy tư
suy tưởng đành chiếu lệ một lời "vâng dạ" cho xong, tận đến lúc trút
hơi thở cuối cùng cũng vẫn an nhiên coi một kiếp đời thế là "được"
thay cho lời nhắn gửi, trối trăng.
Cả cuộc đời Nguyễn Du là những
quan sát, nghĩ suy, chiêm nghiệm không ngừng nghỉ để rồi chắt lọc, lắng đọng lại
thành những trang thơ còn mãi với thời gian. Đi ngang qua hai thế kỷ, thơ Nguyễn
Du là đỉnh cao của tiếng nói nhân văn, đồng hành với thăng trầm lịch sử và đời
sống tinh thần dân tộc. Thơ ông mở rộng diện đề tài từ những cảm nhận về đời sống
thôn quê đến nơi đô hội thị thành, từ dòng sông bến bãi thân quen trong nước tới
những miền đất xa lạ trên đường đi xứ, từ một câu chuyện đói no thoáng gặp bên
đường đến bài học nhục vinh ngàn năm xưa cũ, từ nỗi đơn côi cá nhân tới vui buồn
mọi kiếp chúng sinh, từ nỗi hoài niệm một thuở ấu thơ tới ngày mái tóc pha
sương, từ đêm tàn lẻ bóng mà mơ hồ nghĩ đến một mai xuôi về bến bãi hư vô, tự
gián cách đặt mình vào cõi hư mà soi nhìn lại kiếp sống con người... Trên hết cả,
phải có một tâm hồn nghệ sĩ lớn, một năng lực sáng tạo phi thường và "con
mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn đời" thì Nguyễn Du mới
có được kiệt tácTruyện Kiều và những vần thơ chữ Hán chất nặng suy tư.
TÍNH CHO ĐẾN NAY CÁC NHÀ
NGHIÊN CỨU ĐÃ SƯU TẦM, BIÊN SOẠN, PHIÊN ÂM, DỊCH CHÚ ĐẦY ĐỦ CẢ BA TẬP THƠ CHỮ
HÁN CỦA NGUYỄN DU. TRÊN THỰC TẾ, MỖI TẬP THƠ ĐƯỢC VIẾT TRONG MỘT KHOẢNG THỜI
GIAN NHẤT ĐỊNH VÀ NỘI DUNG THEO SÁT TỪNG CHẶNG ĐƯỜNG ĐỜI TÁC GIẢ.
Trong giai đoạn đầu sáng tác
kéo dài đến những năm ra làm quan với nhà Nguyễn ở Bắc Hà, Nguyễn Du có Thanh
Hiên thi tập. Tập thơ bộc lộ nỗi niềm Nguyễn Du trong những tháng năm sống long
đong, mất phương hướng, mất lòng tin, thậm chí cả tâm trạng hoang mang, vô vọng
với rất nhiều những xót xa về thân phận "chân trời góc bể ", "đi
khắp chân trời lại đến góc biển", "mối sầu man mác", "một
nhánh cỏ bồng đứt gốc trước gió tây", "người đã đến bước đường
cùng"... Sống giữa thời buổi loạn ly, Nguyễn Du cảm nhận về cuộc đời thường
nhật, về nỗi cửa nhà tan tác, ý thức về sự vô vị vô nghĩa của đời mình trước thời
gian đang qua mau và nỗi đơn côi:
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ
tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời
thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương
kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập
niên.
(Quỳnh Hải nguyên tiêu)
(Ở Hồng Lĩnh không có nhà,
anh em tan tác,
Đầu bạc thường bực vì ngày
tháng trôi mau.
Cảm động thay, lúc cùng đường,
vẫn được trăng từ xa đến thăm,
Trong ba mươi năm nay, dù ở
nơi chân trời góc biển)
(Đêm rằm tháng giêng ở Quỳnh
Hải)
Nhiều khi khác là tâm trạng
vô vọng, muốn thoát ra khỏi cuộc đời phiền toái, tìm đến nơi non xanh thanh
tĩnh, mong làm bạn với cỏ cây, tan hoà cùng cỏ cây mây nước:
- Hà năng lạc phát qui
lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng
bán vân.
(Tự thán - Kỳ nhị)
(Ước gì có thể gọt tóc vào rừng,
Nằm nghe tiếng thông reo
lưng chừng mây)
(Than thân - Bài II)
- Ná đắc khiêu ly phù thế
ngoại,
Trường tùng thụ hạ tối nghi
nhân.
(Sơn thôn)
(Ước gì thoát được vòng trần
tục,
Ngồi dưới gốc tùng già thú
biết bao nhiêu)
Dường như với tư chất thi sĩ
kiểu Nguyễn Du đã sớm định hình một cách cảm nhận về cuộc đời, sớm ý thức về số
phận và sự tồn tại của mỗi thân phận con người trong cõi đời mong manh, chập chờn
bất định. Nỗi đau đời, thương đời tiếp tục theo đuổi ông trong những ngày ra
làm quan và thể hiện bàng bạc trong cả tập thơ Nam trung tạp ngâm. Được
làm quan với thường nhân ai kia là cả một niềm khắc khoải, một dịp vinh thân và
cơ may tiến thân. Riêng với Nguyễn Du, ông ngại ngần và cảm nhận nhiều hơn ở
phía mặt trái, những hệ luỵ, ràng buộc, mất tự do: "Triều đình có đạo khiến
anh phải tròn đạo hiếu", "Không luỵ nên chưa chuốc lấy sự trách móc của
quỉ - Bất tài nên hay sợ rước lấy sai lầm trong việc quan", "Khá
thương mình đầu bạc vẫn phải chịu để người sai khiến - Không cùng với núi xanh
giữ được thủy chung"...; những sự giả dối, tranh chấp, bon chen, đố kỵ chốn
quan trường: "Không bệnh mà lưng lom khom", "Phương xa một mình
gửi cái thân làm quan - Khi gặp việc bọn đầy tớ, lính hầu đều lên mặt với
ta"..., hay sự vọng tưởng về chốn thanh tao, biết rằng mình lỗi hẹn với cỏ
cây hoa lá: "Ta cũng muốn từ đây treo mũ áo từ quan mà ra đi",
"Rất thẹn cùng trúc đá vì lỗi phụ lời thề", "Trăng núi gió sông
dường như có ý đợi chờ", "Hồn ơi, về đi thương cố hương",
"Trong giấc mộng tàn canh vẫn mơ về quê hương", "Thẹn mình đã phụ
làn mây núi Hồng", "Cúc vàng năm ngoái năm nay lại nở - Vì ta hãy tạ
từ với cây tùng tảng đá ở Hồng Sơn"... Hơn nữa, Nguyễn Du làm quan nhưng
chẳng giầu có gì nên luôn chạnh lòng thương nhớ những đứa con chịu cảnh đói
nghèo nơi quê xa:
Cố hương cung hạn cửu phương
nông,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng.
Thí tự thuần lô tối quan thiết,
Hoài qui nguyên bất đãi thu
phong.
(Nơi quê hương nắng hạn lâu
ngày, làm hại việc nông,
Nhà mười miệng trẻ đói xanh
như rau.
Nếu quả thiết tha nhớ rau
thuần cá vược,
Thì chẳng cần đợi gió thu mới
muốn về)
(Ngẫu hứng - Bài IV)
Nguyễn Du nhấn mạnh sự đối lập
giữa hôm nay và hôm qua, giữa việc làm quan và cuộc sống tự tại, giữa sự bó buộc
và tháng ngày lãng du:
Thử thân dĩ tác phàn lung vật,
Hà xứ trùng tầm hãn mạn du?
(Tân thu ngẫu hứng)
(Thân này đã là vật trong lồng
rồi,
Còn tìm đâu được cuộc đời
phóng khoáng tự do nữa?)
(Đầu mùa thu ngẫu hứng)
Đặc biệt khi viết về chiến
tranh, ông mừng vui khi đất nước thu về một mối, gián cách ngay cả với những ta
- địch, chính - phản, thắng - thua mà đề cao đức hiếu sinh, vẻ đẹp hồn toàn của
tạo hoá và cuộc sống thanh bình:
Nam Bắc xa thư khánh đại đồng,
Pháo đài hư thiết thổ thành
đông.
Sơn băng thạch liệt thành do
tráng,
Hán đoạt Tần tranh sự dĩ
không.
Tạc giả đại khuy sinh vật đức,
Nhĩ lai bất quí sát nhân
công.
Thanh bình thời tiết vô
tranh chiến,
Ngưu độc ưu sừ chính trọng
nông.
(Pháo đài)
(Nam bắc, xe và chữ viết, mừng
đã giống nhau,
Pháo đài bỏ không ở phía
đông thành đất.
Núi lở đá tan, nhưng bức
thành còn vững,
Nhà Hán nhà Tần tranh giành
nhau, chuyện đã qua.
Trước kia thương tổn rất nhiều
đến đức muốn muôn vật sinh tồn,
Giờ đây không quí cái công giết
người nữa.
Trong buổi thanh bình không
có chiến tranh,
Trâu bò cày bừa, chính giờ
là lúc coi trọng nghề nông)
Phải ghi nhận rằng tâm thức Nhĩ
lai bất quí sát nhân công (Giờ đây không quí cái công giết người nữa) của
Nguyễn Du thật vô cùng siêu việt, hiện đại, đạt đến tầm cao giá trị nhân văn
muôn thuở, đạt tới tính Phật, tinh thần yêu chuộng hoà bình của bậc hiền triết,
minh triết.
Tập thơ thứ ba Bắc hành
tạp lục, bên cạnh mấy bài thơ viết về Thăng Long thì tất thảy đều viết về chuyến
đi sứ Trung Quốc kéo dài qua suốt một năm trời. Tập thơ với số lượng bài lớn, đề
tài phong phú, có ý nghĩa kết tinh các giá trị nội dung và nghệ thuật thơ chữ
Hán Nguyễn Du.
Sau nhiều năm trở lại Thăng
Long, Nguyễn Du xúc cảm về một kinh đô dâu bể, bâng khuâng với thành quách đổi
thay, xót thương từ một kiếp ca nhi, một nàng hầu và biết bao người xưa cảnh cũ
đã phai bạc dần theo năm tháng. Có thể nói Nguyễn Du đã viết những vần thơ cảm
khái về Thăng Long đạt đến độ tuyệt bút, biểu cảm được tấm lòng thi nhân thao
thức trong một đêm trăng, trước vô hạn những buồn thương bởi sự chuyển hoá, đổi
thay của con người và đất trời:
Tản Lĩnh, Lô Giang tuế tuế đồng,
Bạch đầu do đắc kiến Thăng
Long.
Thiên niên cự thất thành
quan đạo,
Nhất phiến tân thành một cố
cung.
Tương thức mỹ nhân khan bão
tử,
Đồng du hiệp thiếu tẫn thành
ông.
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy,
Đoản địch thanh thanh minh
nguyệt trung.
(Thăng Long - Kỳ nhất)
(Núi Tản sông Lô hằng năm vẫn
thế,
Đầu bạc, còn được thấy Thăng
Long.
Những ngôi nhà đồ sộ nghìn
xưa, nay thành đường cái,
Một dải thành mới làm mất dấu
vết cung điện cũ.
Những cô gái xinh đẹp quen
biết nay đều ẵm con,
Những bạn hào hiệp lúc trẻ
nay thành ông già.
Suốt đêm nghĩ ngọi thao thức
không ngủ,
Văng vẳng nghe tiếng sáo
trong ánh trăng sáng)
(Thăng Long - Bài I)
Khi khác là nỗi tủi hờn, cảm
thông, tiếc nuối lúc gặp lại nàng hầu cũ của người em:
Hồng tụ tằng vân ca uyển
chuyển,
Bạch đầu tương kiến khốc lưu
ly.
(Ngộ gia đệ cựu ca cơ)
(Từng nghe giọng ca uyển
chuyển khi mặc áo hồng,
Nay đầu bạc gặp nhau, khóc
than nỗi lưu ly)
(Gặp người hát cũ của em)
Trên hết cả là bài thơ dài Long
thành cầm giả ca (Bài ca người gảy đàn ở Long Thành) đã khắc họa sâu sắc
những đổi thay của cả một thời và cả một đời người, bày tỏ mối tương liên đồng
cảm thương người và se sắt nỗi thương thân:
... Khúc xưa đàn lên từng tiếng
mà nước mắt tôi thầm rơi,
Tai lắng nghe mà trong lòng
đau xót.
Bỗng sực nhớ chuyện hai mươi
năm trước,
Từng thấy cô ta trong bữa tiệc
bên hồ Giám.
Thành quách đổi dời, việc
người cũng khác,
Bao nơi nương dâu trở thành
biển cả.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu vong
đâu hết,
Mà còn sót lại một người
trong làng ca múa.
Trăm năm thấm thoát có là
bao,
Cảm thương việc cũ, nước mắt
thấm áo.
Tôi từ Nam hà trở lại, đầu bạc
trắng hết,
Không trách nhan sắc người đẹp
suy tàn.
Hai mắt trừng trừng luống tưởng
chuyện trước,
Còn lại những bài thơ Nguyễn
Du viết trên đường đi sứ được chia thành hai loại: phản ánh đời sống hiện tại,
những điều tai nghe mắt thấy và loại đề vịnh lịch sử. Trong tư cách một vị
Chánh sứ, Nguyễn Du cũng như bao người đi sứ khác thường nói đến nỗi nhớ nhà,
tình cảnh nơi đất khách quê người, những cảnh trí lạ lùng mà lần đầu mình được
gặp, được biết, thưởng ngoạn. Song điều khác biệt là ông thường nhạy cảm quan
sát, phản ánh cuộc sống những người dân lao động bình thường như ông cháu người
hát rong ở Thái Bình, người kéo xe ở Hồ Nam, thôn xóm bên trạm Tây Hà, thảm trạng
những người đói rét và việc binh đao làm nghẽa đường, hình ảnh người mẹ với ba
đứa con đói khổ đối lập với bữa tiệc phung phí của đám quan lại và một ý nghĩ bất
chợt nảy sinh trong nhà thơ:
Thùy nhân tả thử đồ,
Trì dĩ phụng quân vương.
(Sở kiến hành)
(Ai vẽ bức tranh này,
Dâng lên nhà vua rõ)
(Những điều trông thấy)
Trong mảng thơ đề vịnh lịch
sử, Nguyễn Du thường bày tỏ rõ tinh thần dân tộc và thái độ phản đối, mỉa mai
viên tướng Mã Viện đời nhà Hán: "Cột đồng trụ chỉ có thể lừa đàn bà đất Việt
- Xe ngọc châu rốt cuộc làm luỵ con cái trong nhà - Họ tên chỉ đáng được
ghi ở gác Vân Đài - Sao còn ngoảnh mặt về nước Nam sách nhiễu việc cúng tế?"
(Miếu thờ Mã Phục Ba ở Giáp Thành). Nhìn chung Nguyễn Du am tường nhiều sự kiện
và nhân vật lịch sử Trung Quốc, đặc biệt những nơi còn để lại dấu tích mà ông gặp
trên đường. Ông hết lời ca ngợi những danh nhân văn hoá, các bậc trung thần
nghĩa sĩ như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Văn Thiên Tường, Hàn Tín và cũng
phê phán, khinh bỉ những kẻ xâm lược, gian hùng như Mã Viện, Minh Thành Tổ, Tô
Tần, Tần Cối... Trên hết cả, ông không chỉ nêu bài học giáo huấn, tấm gương đạo
lý mà nhấn mạnh hơn về những khía cạnh nhân văn, những nỗi niềm thế sự, những
buồn vui, còn mất trong một đời người và cũng là chung cho mọi kiếp chúng sinh.
Chính vì thế mà ông phê phán quyết liệt hiện thực ngang trái và đồng cảm với
Khuất Nguyên, khuyên hồn ông đừng trở về cõi dương gian:
Tảo liễm tinh thần phản thái
cực,
Thận vật tái phản linh nhân
xi.
Hậu thế nhân nhân giai Thượng
quan,
Đại địa xứ xứ giai Mịch La.
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
(Phản "Chiêu hồn")
(Hãy sớm thu tinh thần về với
thái hư,
Đừng trở lại đây mà người ta
mỉa mai.
Đời sau ai ai cũng đều là
Thượng quan,
Mặt đất đâu đâu cũng là sông
Mịch La.
Cá rồng không ăn, hùm sói
cũng ăn,
Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế
nào?)
(Chống lại "Chiêu
hồn")
Nguyễn Du triệt để khai
thác, liên tưởng, nhấn mạnh và đi đến nâng cấp, đúc kết những khía cạnh có tính
muôn thuở của con người. Ông luôn đặt mỗi sự kiện, hiện tượng và nhân cách
trong tương quan với bản chất sự sống, với cái vô cùng vô tận của thời gian và
không gian. Chính vì thế mà ông luôn trở đi trở lại các môtip nấm mồ, đứng trước
mồ, bóng chiều, bóng đêm, gió tây, trời tây; luôn ngoái nhìn lại quá khứ với những
tuổi xuân, tuổi trẻ, cảnh xưa người cũ đã một đi không trở lại; luôn luôn đặt
mình vào một "ngày mai", khi mình đã nhắm mắt xuôi tay, đã đi qua cõi
đời, đã cập bến hư vô mà gián cách chiêm nghiệm lại những tháng năm quá khứ.
Qua các hình tượng nhân vật lịch sử, một mặt ông bày tỏ rõ thái độ trước những
thiện - ác, đúng - sai nhưng cũng đi tới chiết trung, tâm trạng hư vô chủ
nghĩa, coi mọi sự sang giàu, chức quyền, buồn vui cũng chỉ là hư ảo:
- Tôn sách, Lưu phân hà
xứ tại?
Thương nhiên nhất vọng tẫn bình
vu.
(Sở vọng)
(Đâu là chỗ xưa kia Tôn Quyền,
Lưu Bị tranh giành nhau?
Trông chỉ thấy cỏ cây một
màu xanh biếc)
(Trông vời đất Sở)
- Bá vương trần tích
thuộc du du,
Hán thủy thao thao trú dạ
lưu.
(Hán Dương vãn diểu)
(Dấu cũ bá vương đã thuộc về
dĩ vãng xa xôi,
Dòng sông Hán vẫn cuồn cuộn
chảy đêm ngày)
(Ngắm cảnh chiều ở đất Hán
Dương)
- Du du sự hậu nhị
thiên tải,
Đãng đãng thành biên nhất
phiến sa.
(Hàn Tín giảng binh xứ)
(Chuyện xảy ra, dằng dặc đã
hai nghìn năm,
Nay chỉ thấy bên thành mênh
mông một bãi cát bồi)
(Chỗ Hàn Tín luyện binh)
- Nhân sinh quyền lợi
thành vô vị,
Kim cổ thùy năng phá thử mê.
(Tô Tần đình - Kỳ nhất)
(Cho hay đời người uy quyền
danh lợi thực là vô vị,
Mà xưa nay ai phá được giấc
mê ấy)
Trước đây Nguyễn Du khóc
thương nàng Tiểu Thanh mà chạnh lòng xót xa cho thân phận mình một mai về
cõi hư vô: Bất tri tam bách dư niên hậu - Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? (Chẳng
biết ba trăm năm lẻ nữa - Người đời ai khóc Tố Như chăng?) thì bây giờ ông cảm
thương mọi kiếp con người:
Sơn hạ kiều tùng, tùng hạ phần,
Luy luy đô thị cổ thời nhân.
Tự do tự tại bất tri tử,
Hoa lạc hoa khai vô hạn
xuân.
Phục lạp tử tôn không loại tửu,
Thế gian phú quí đẳng phù
vân.
Bách niên đáo để giai như thị,
Hồi thủ mang mang nhất phiến
trần.
(Đồ trung ngẫu hứng)
(Chân núi có thông cao, dưới
thông là mồ mả,
Ngổn ngang gò đống đều là
người đời xưa.
Tự do, tự tại không biết là
đã chết,
Hoa rụng, hoa nở, mùa xuân
dài vô hạn.
Đến ngày tế lễ, con cháu tưới
uổng rượu xuống đất,
Giàu sang trên đời chỉ là
mây nổi.
Trăm năm rốt cuộc đều như thế
cả,
Ngoảnh đầu nhìn lại chỉ thấy
đám bụi mịt mù)
(Dọc đường cảm hứng)
Bên cạnh kiệt tác Truyện Kiều
cùng các tác phẩm thời trai trẻ (Thác lời trai phường nón, Văn tế sống hai cô
gái Trường Lưu) và thi phẩm Văn tế thập loại chúng sinh (còn gọi Văn
chiêu hồn), có thể nói bộ phận thơ chữ Hán giữ một vị trí đặc biệt quan trọng
trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du. Ba tập thơ cho thấy những chặng đường
sáng tác phù hợp với các chặng đường đời và tư tưởng tác giả. Xuyên suốt nội
dung thơ chữ Hán là tiếng nói trữ tình, tiếng nói nhân văn giữa một thời tao loạn,
tiếng nói khắc khoải tìm về ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét