Thơ ca kháng chiến chống Mỹ
Khi còn học ở Quy Nhơn, mới mười hai tuổi Giang
Nam đã có những sáng tác đầu tay viết về quê hương đất nước, nhưng như nhà thơ
tự nhận là “vẫn còn non nớt”. Bước vào cuộc kháng chiến, ông được sống với những
năm tháng chiến đấu tuy gian khổ nhưng hào hùng, vĩ đại của cả dân tộc. Và ông
thực sự được “chín” trong thực tiễn cách mạng.
Một điều dễ nhận thấy trong các sáng tác của ông giai đoạn này là hình ảnh quê
hương, đất nước. Tình yêu quê hương xứ sở là tình cảm sẵn có trong trái tim mỗi
người và Giang Nam cũng không ngoại lệ. Quê hương, đất nước vốn là đề tài
quen thuộc, là nguồn cảm hứng lớn của thi ca từ bao đời nay, là nơi bao thế hệ
thi nhân gặp nhau và gặp lại mình trong tình yêu lớn của dân tộc. Trong tiếng gầm
của đại bác, xe tăng tiếng hát ca ngợi quê hương, đất nước vẫn vút cao. Tình
yêu quê hương, đất nước thật đậm đà trong thơ ca cách mạng. Chẳng
hạn Lê Anh Xuân đã có những vần thơ đẹp về hình ảnh đất nước:
Có
nơi đâu đẹp tuyệt vời
Như sông, như núi, như người Việt Nam
Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang
Cà Mau cuối đất mỡ màng phù sa.
(Nguyễn Văn Trỗi)
Cà Mau cuối đất mỡ màng phù sa.
(Nguyễn Văn Trỗi)
Còn đất nước trong thơ Viễn Phương đẹp bình dị, hiền hòa và đầy chất thơ:
Tổ
quốc mình mát rượi những dòng sông
Bốn ngàn năm đôi má vẫn hồng
Đỉnh núi vươn cao cho mặt trời làm tổ
Bình nguyên dài nắng trải mênh mông.
(Tổ quốc)
Hay như Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận về Đất nước gắn liền với những gì cụ thể, gần
gũi, thân thiết:
Khi
ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa…”
mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
(Trích trường ca Mặt đường khát vọng)
Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước bắt nguồn từ cội nguồn văn hóa
dân gian, từ truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, từ phong
tục tập quán, từ tình nghĩa thủy chung của con người, từ lao động,…Tất cả đã
làm nên “Đất Nước muôn đời” và những người làm ra Đất Nước đó chính
là Nhân dân với những lớp người qua bốn ngàn năm, nên Đất Nước đó là “Đất
Nước của nhân dân - Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Tiếp thu mạch nguồn truyền thống của dân tộc, đi vào kháng chiến và cách mạng,
sống cuộc đời chiến đấu giữa cảnh Quê hương mình trăm vết thương rỉ máu,
đã giúp Giang Nam lớn lên thật nhiều trong suy nghĩ và trong cảm xúc nghệ thuật.
Dù viết về đề tài nào cũng là dịp để ông gắn bó với quê hương hơn. Rất ít những
bài thơ mà tác giả không nói về quê hương. Quê hương là đất mẹ, quê hương là “Thuở
còn thơ ngày hai buổi đến trường”, là“trang sách nhỏ”, là “những ngày
trốn học, đuổi bướm cạnh cầu ao”, là tình yêu đầu đời với “cô bé nhà bên”,
là “dòng Krông-nô nước phù sa cuốn đỏ”, quê hương là “rẫy lúa, nương khoai”,
quê hương là “tiếng xa quay dìu dịu ngân dài”, quê hương là “tiếng dân ca như mạch
nước ngầm trong mát”, quê hương là “tiếng hò khoan dìu dặt”.
Chính vì vậy mà khi đọc thơ Giang Nam, Hoài Thanh đã có nhận xét thật chính
xác: “Tình yêu quê hương đất nước đúng là linh hồn của thơ Giang Nam.
Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là quê cha đất tổ, là nơi
có tiếng mẹ ru con dịu dàng từ thuở còn nằm nôi. Vì vậy, dù thoát ly gia đình,
tham gia kháng chiến từ khi còn là chàng thanh niên mười sáu tuổi, trái tim ông
vẫn hướng về quê mẹ mến thương và những vần thơ ngọt ngào về quê hương Ninh Hòa
– Khánh Hòa vang lên thật nồng nàn, tha thiết:
Quê
hương ơi, tạm biệt!
Ta đi đây thôi nhé, ta đi đây!
Nhớ thương nhiều, từ bến nước đồi cây
Từ khung cửa, mảnh trời, từ góc vườn, đám bí.
(Đi để trở về)
Kháng chiến bùng nổ, quê hương đầy bóng giặc, tạm biệt quê
hương thân yêu, tác giả dấn thân vì lý tưởng cao đẹp, giải phóng quê hương,
mang lại sự bình yên cho thôn xóm. Ra đi, thế nhưng lòng vẫn mang nặng nỗi nhớ
thương, lưu luyến. Một bến nước, đồi cây, một khung cửa, mảnh trời, một góc vườn,
đám bí thật giản dị, nhưng đó là tất cả, là quê hương, là nơi in dấu những kỷ
niệm tuổi thơ. Hai câu cảm thán đi liền nhau, cùng với những hình ảnh quen thuộc, gần
gũi đã phần nào diễn tả tâm trạng bịn rịn, lưu luyến, nhớ thương của người ra
đi.
Chính vì lẽ đó mà trên những bước đường hành quân hay khi “vòng
vây kẻ thù xiết chặt dưới chân”, tác giả vẫn mơ về quê hương yêu dấu:
Có
những buổi dừng chân bên bờ suối
Nhai lá thay cơm, nhường nhau hạt muối
Mơ thấy quê hương trong giấc ngủ chập chờn
(Tiếng hát trên cao)
Xa quê nhưng trong lòng nhà thơ vẫn giữ cho mình một góc nhỏ
quê hương. Quê biển miền Trung với sóng, với gió vẫn vỗ mãi trong lòng người xa
quê nỗi nhớ thương da diết:
Tôi
lại về quê biển miền Trung
Nghe sóng nói những lời thương nhớ
Nghe gió gọi những tên người quen cũ
Nghe rì rầm ghềnh đá nhấp nhô
Nha Trang ơi! Biển đêm sóng vẫn vỗ bờ
(…)
Biển vẫn là quê hương
Nơi cuối cùng tôi đến
Biển vẫn là tâm hồn
Chắt chiu từng kỷ niệm.
(Biển miền Trung)
Quê hương là nơi ta sinh ra và cũng là nơi ta trở về. Với
Giang Nam, biển đâu chỉ là quê hương, biển chính là tâm hồn nhà thơ, là nơi lưu
giữ những kỷ niệm, những kí ức khó quên. Biển là một phần không thể thiếu trong
cuộc đời nhà thơ cũng như của những con người sinh ra từ biển. Yêu biển, gắn
lòng mình với phố biển thân thương, Giang Nam say sưa ca ngợi vẻ đẹp của biển:
Làng
biển của em, làng biển của anh
Người chung thủy nên biển càng đẹp lắm
Bãi cát, hàng dương, làng chài đầy nắng
Đến bây giờ mới thật là ta!
Buổi bình minh biển nhìn rất xa
Và Hòn Lớn, Hòn Tre xinh như hòn ngọc.
(Biển miền Trung)
Ai một lần đặt chân đến Nha Trang, ngắm nhìn biển trong buổi
bình minh, mới cảm nhận hết vẻ đẹp mặn mà của biển, mới hiểu hết những điều nhà
thơ gởi gắm trong những vần thơ. Biển thật đẹp với bãi cát trắng trải dài lấp
lánh, với hàng dương rì rào trong gió, với những làng chài đầy nắng, ở đó có những
con người cần mẫn lao động, suốt đời bám biển, thủy chung với biển. Phải yêu biển
mãnh liệt, Giang Nam mới có những cảm nhận, những rung động tinh tế trước vẻ đẹp
của Hòn Lớn, Hòn Tre. Đó không chỉ là cảm nhận của riêng ông mà còn là cảm nhận
chung của mọi người khi đến với Nha Trang - Khánh Hòa. Sinh ra từ biển, lớn lên
với biển, vị mặn của biển đã ngấm sâu vào da thịt, vào tâm hồn nên những năm sống
chiến đấu ở rừng thiếu muối, ông càng nhớ chất mặn của biển, của làng quê mình:
Ôi
chất mặn đã làm nên đảo, nên dừa
Ăn hột muối Cầu Hin, thương người bám biển.
Biển với những lời ru cho em, cho anh
Từ biển mình đi đánh giặc.
(Biển miền Trung)
Biển hiền hòa chảy dọc suốt tuổi ấu thơ. Biển dịu dàng, ngọt
ngào như lời ru của mẹ cho em, cho anh. Chúng mình lớn lên trong lời ru của
sóng biển. Chất mặn của biển đâu chỉ làm nên đảo, nên dừa mà nó còn ngấm sâu
trong từng thớ thịt, hun đúc nên tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Và
“từ biển mình đi đánh giặc”.
Quê hương với Giang Nam đâu chỉ có biển, quê hương còn có cả
tiếng hát ru con buồn buồn của mẹ, có cả những cuộc đời lam lũ, có cả xương máu
của những người đã ngã xuống mang lại sự bình yên cho quê hương:
Hăm
ba năm rồi
Ba chưa về quê nội
Nơi ba lớn lên
Giữa những cây xoài, cây ổi
Nơi ba biết yêu
Tiếng nội hát buồn buồn
“À
ơi, con mèo, con chuột có lông
Ống tre có lỗ, nồi đồng có quai”
Ở đó có những cuộc đời
Quanh năm còng lưng trên ruộng cạn.
Ở đó có máu chú cô rắc trên những cánh hoa một màu đỏ thắm.
(Con có về thăm quê nội)
Nhịp điệu thơ chậm, buồn kết hợp với lối thơ tự do rất phù hợp
với tâm trạng của người con xa quê mong mỏi được một lần về thăm. Hai mươi ba
năm đi mải miết “mang quê hương mình xanh biếc trên lung”, trái tim nhà
thơ luôn hướng về quê mẹ với tình cảm thật thiêng liêng, sâu nặng. Chỉ cần một
hình ảnh, thanh âm khẽ chạm vào trái tim cũng có thể làm ông nhói lòng. Ông gởi
lời nhắn nhủ cho đứa con gái thân yêu “con có về thăm nơi ấy thay ba”
hay đó cũng là lời nhắn nhủ với chính mình. Hai mươi ba năm nhớ thương về một
vùng quê, nơi hoa toàn màu đỏ, nơi thắm thiết lời ru ngọt ngào ngày xưa của mẹ
theo nhịp võng đong đưa đọng lại trong trái tim nhà thơ và theo ông trên mỗi nẻo
đường chiến đấu. Chính vì lẽ đó mà dù xa cách nhà thơ vẫn gắn lòng mình với quê
hương:
Em
ơi! Dù xa xôi cách trở
Dù hết cùng em chia ngọt xẻ đau
Anh vẫn là cây cổ thụ rễ sâu
Bám chặt xóm thôn, ăn vào lòng đất.
(Đi để trở về)
Một điều dễ nhận thấy là Giang Nam hay sử dụng đại từ nhân xưng “Em”. Em là ai?
Là một người thân thiết gắn bó, một nửa yêu thương của nhà thơ, hay em là cả
quê hương thân thương. Dù là ai đi chăng nữa thì “Em” vẫn là nhân vật trữ tình
để nhà thơ bộc lộ cảm xúc của mình. Tiếng gọi “Em ơi!” vang lên thật tha thiết
và gói trọn trong ấy là một lời hứa thủy chung, chân thành nhưng rất đỗi thiêng
liêng! Dù có ở phương trời nào Anh vẫn nguyện là một phần của quê hương,
như cây cổ thụ suốt đời bám rễ vào quê hương.
Dù không trực tiếp chiến đấu trên mảnh đất Ninh Hòa yêu
thương, nhưng tấm lòng ông lúc nào cũng hướng về quê hương. Và tâm hồn nhà thơ
ngân vang rộn rã khi hay tin quê mình được giải phóng:
Đi
giữa đường Trường Sơn
Nghe quê mình giải phóng
Ba mươi năm dài, có phút giây nào
lòng ta không cháy bỏng
Khánh Hòa ơi, nôi mẹ ru ta
Rất thiêng liêng từng ngọn cỏ, tàu dừa.
(Khánh Hòa – Nha Trang ơi)
Ba mươi năm chưa về thăm quê mẹ. Ba mươi năm dài mang nỗi nhớ khôn nguôi về một
vùng đất yêu thương…Và trong tấm lòng của người con xa quê, gắn lòng mình với
quê hương, đất nước những vật vô tri bình thường như ngọn cỏ, tàu dừa sao quá đỗi
thiêng liêng, bởi đó là biểu tượng, là một phần của quê hương. Ba mươi năm dài
tranh đấu, có “bao nhiêu người thân yêu ngã xuống”, có bao “ước mơ cao hơn ngọn
núi xanh” và bao “căm thù dập dồn hơn sóng” (Giang Nam). Và hôm nay nghe quê
hương được giải phóng làm sao không khỏi vui mừng. Trong niềm vui sướng tột
cùng, nhà thơ mơ một điều thật giản dị:
Trong
ngày vui này, xin được về cùng em
Giữa thành phố thùy dương
sóng vỗ rất hiền
Để tung hoa
Lên chiếc tăng “giải phóng” đầu tiên
Và khóc, cười cho thỏa thích.
(Khánh Hòa – Nha Trang ơi)
Mang nặng trong lòng nỗi nhớ quê hương nên ông luôn ao ước được
trở về:
Ta
sẽ trở về mảnh đất nhỏ quê hương
Ấm áp, hiền lành của lòng ta: quê mẹ.
Chân sẽ bước trên ruộng đồng màu mỡ
Trong tiếng cười, trong tiếng hát yêu thương.
(Đi để trở về)
Mấy ai đi xa lại không ao ước được trở về bến đỗ bình yên, ấm
áp: quê mẹ, quê hương. Ước mơ giản dị ấy cháy bỏng khôn nguôi trong tâm hồn nhà
thơ. Được trở về quê hương là một điều thật hạnh phúc! Hạnh phúc đơn sơ ấy phải
đánh đổi bằng xương máu, nước mắt của biết bao đồng bào, đồng chí thân yêu. Và
sẽ hạnh phúc hơn khi quê hương không còn bóng kẻ thù xâm lược để mảnh đất này
mãi mãi nở hoa, để ta có thể bước những bước tự do trên ruộng đồng màu mỡ trong
tiếng cười, tiếng hát yêu thương.
Quê hương trong cách hiểu chung đó là nơi ta sinh ra và lớn
lên, nơi in dấu những kỷ có mặt ở những niệm tuổi thơ, ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển tâm hồn và nhân cách của mọi người. Nhưng đối với Giang Nam lại
không hẳn như thế. Do yêu cầu công tác, phải bám chặt chiến trường, phải nơi
nóng bỏng nhất của cuộc chiến, nên Giang Nam có điều kiện đi đến nhiều nơi. Chiến
trường Nam Bộ rộng lớn không chỉ là mảnh đất màu mỡ, là hiện thực sinh động tạo
chất liệu cho ông sáng tác mà còn là quê hương thân thiết, gắn bó máu thịt với
cuộc đời ông. Đó là Sài Gòn, thành phố muôn đời vẫn trẻ, đó là Củ Chi, Long An,
Bến Tre, Cà Mau,…Mỗi vùng đất đi qua đều để lại trong lòng ông bao cảm xúc
rưng rưng về quê hương đất nước. Với ông đâu cũng là quê hương! Chính không
gian miền Nam rộng lớn đã giúp Giang Nam thể hiện tình yêu quê hương đất nước
trong thơ toàn diện hơn. Dường như có sự đồng điệu trong tâm hồn của thế hệ nhà
thơ thời chống Mỹ khi đề cập đến điều này. Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng đã từng viết:
Ngọn
gió đi qua thành nỗi nhớ
Cát khô cằn ở mãi hóa yêu thương.
(Gió Lào cát trắng – Xuân Quỳnh)
Câu thơ trữ tình mà đậm chất chính luận thể hiện tình cảm yêu
thương, gắn bó của con người đối với vùng đất mình đã từng sinh sống.
Giang Nam khi về sống giữa quê em mới có mấy ngày mà cứ ngỡ
như đã ở đây lâu lắm rồi, và khi chia xa, ông vẫn “nhớ thương mãi một góc trời
quê hương” (Giang Nam).
Có thể thấy hình ảnh quê hương Nam bộ luôn thường trực trong
trái tim của nhà thơ. Yêu mến, tự hào vô cùng về vùng đất anh dũng thành đồng,
Giang Nam say sưa ca ngợi vẻ đẹp của quê hương đất nước, con người miền Nam. Vẻ
đẹp của vùng quê Nam bộ hiện lên ở sự xanh mát của hàng dừa, ở cánh đồng lúa
vàng nặng trĩu bông, ở đàn cò trắng sải cánh trên đồng ruộng bao la, ở cái nắng
vàng rực rỡ, ngọt ngào. Và tấm lòng nhà thơ đôi khi hòa quyện với cảnh sắc quê
hương:
Tôi
đã nghe tiếng hò khoan dìu dặt
Một chiều Cửu Long bát ngát mây trời
Tôi đã về thăm phố chợ đông vui
Vết đạn còn in trên tường vôi, mái ngói.
(Đất anh hùng)
Trong cảm nhận của Giang Nam, quê hương đất nước vốn là những
gì rất cụ thể, gần gũi, thân quen. Hình ảnh quê hương đất nước trong thơ Giang
Nam gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ:
Thuở
còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu
quê hương qua từng trang sách nhỏ
“Ai
bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi
mơ màng nghe chim hót trên cao
Những
ngày trốn học
Đuổi
bướm cạnh cầu ao
Mẹ
bắt được…
Chưa
đánh roi nào đã khóc!
Cô
bé nhà bên nhìn tôi cười khúc khích…
(Quê hương)
Tiếng thơ Giang Nam là tiếng nói chân tình, ấm áp đưa ta về với những kỷ niệm
tuổi thơ và quê hương. Quê hương đối với mỗi người là cái gì đó thật giản dị, gần
gũi nhưng cũng rất đỗi thiêng liêng. Với Giang Nam, quê hương là con đường ngày
ngày cắp sách đến trường, là trang sách nhỏ chở bao mơ ước, là phút giây thả hồn
mình mơ màng nghe tiếng chim hót, là những ngày trốn học đuổi bướm cầu ao, là
tiếng khóc sợ đau của trẻ nhỏ khi bị mẹ bắt gặp, là tiếng cười khúc khích của
cô bé nhà bên.
Không những thế, quê hương đất nước còn hiện lên qua hương vị đậm đà chốn quê
nhà:
Con
lại về leo cây khế sau vườn
Ăn trái khế chua mỉm cười nhắm mắt.
(Sau ngày chiến thắng)
Quê
hương ngọt múi sầu riêng chín
Những chiếc xuồng vui chở ánh trăng.
(Có một mùa xuân đẹp đã về)
Ôi
ngọn khói hòa bình thơm mùi cỏ mật quê hương!
(Vì một em gái ngã xuống giữa ngày 28-1-1973)
Anh
biết mùa này thơm chín khắp nơi
Gió, nắng quê ta đã ngọt ngào chất mật
Ngọt cả lòng em, con thoi đưa khách
Đi khắp đất trời vẫn nhớ mùa thơm.
(Mùa thơm)
Mảnh
đất đồng bằng ngọt mía, vàng cam
Gợi nhớ, gợi thương những chân trời cũ
Đuốc rừng Ba Tơ – đắng, lạt canh đu đủ
Đêm Hàm Luông, cá nhảy trắng khoang xuồng.
(Một mặt trời đỏ rực)
Hương vị ngọt ngào của quê hương như thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn nhà thơ để
rồi bật lên thành tiếng thơ ngọt lịm, trong trẻo.
Tình yêu quê hương đất nước trong thơ Giang Nam còn gắn liền
với những tình cảm thật cụ thể: tình mẹ con, tình vợ chồng, tình yêu đôi lứa.
Đọc thơ Giang Nam, người đọc nhận thấy ông ghi lại rất đúng, rất sâu, rất cảm động
tình mẹ con gắn liền với tình yêu quê hương đất nước. Thuở còn
thơ, chàng trai trong bài “Quê hương” đã từng “có những ngày trốn học – Đuổi bướm
cạnh cầu ao – Mẹ bắt được – Chưa đánh roi nào đã khóc”. Khóc vì sợ mẹ đánh đòn
đau. Đó là nỗi sợ ngây ngô của trẻ nhỏ. Theo thời gian, chàng trai lớn dần lên,
chàng càng thấu hiểu tấm lòng mẹ dành cho con, bởi ông cha ta từng nói “Thương
cho roi cho vọt”. Chính vì lẽ đó mà trong nỗi nhớ về những kỷ niệm ngày
xưa về quê hương, có nỗi nhớ về tình mẹ:
Xưa
yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi…
(Quê hương)
Yêu quê hương đâu chỉ bởi cảnh đẹp của quê hương mà yêu quê hương còn bởi ở đó
có kỷ niệm khôn nguôi về mẹ. Nhà thơ không nói gì về tình mẹ con, thế nhưng người
đọc vẫn cảm nhận được tình cảm thiêng liêng và sâu nặng ấy qua hình ảnh “trốn
học bị đòn roi”.
Tình vợ chồng, tình yêu đôi lứa – những tình cảm riêng tư rất khó được chấp nhận
trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Vì vậy, trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, trong văn học có rất ít bài thơ viết về tình yêu. Và nếu có chăng thì những
bài thơ ấy cũng bị lên án, bị khép vào lỗi “thời đại”. Nhưng trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ thì lại có khá nhiều bài thơ đề cập đến tình cảm riêng tư ấy.
Nhưng tình yêu trong giai đoạn này lại mang một màu sắc mới, tích cực hơn nhiều.
Đọc bài Quê hương, người đọc không thể nào quên mối tình đẹp như thơ trong
cảnh quê hương khói lửa của chàng trai cùng cô bé nhà bên có “đôi mắt đen tròn”
lay láy cùng miệng cười khúc khích. Nhưng mối tình ấy nhanh chóng bị giết chết
bởi sự tàn bạo của kẻ thù, bởi cô gái đã từng vì quê hương đất nước mà đứng
lên, vào du kích cầm súng chống ngoại xâm:
Giặc
bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ
vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người…
Chỉ một tiếng “em ơi!” nhưng chất chứa trong ấy biết bao nhiêu là nỗi đau
đớn, xót xa, nỗi uất ức, căm hờn. Và từ đây tình yêu quê hương đất nước được
nâng lên một bậc:
Nay
yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Tình yêu riêng mất đi đã bồi đắp cho tình yêu quê hương những ý nghĩa mới. Tình
yêu quê hương giờ đây không còn giản dị, êm dịu như trước nữa mà giờ đây trong
tình yêu còn có cả ý chí căm thù giặc sâu sắc. Ngày nay, yêu quê hương là yêu “từng
nắm đất” quê mình đã thấm máu thịt của người thân yêu. Chính vì vậy, tình yêu đối
với quê hương giờ đây thật thiêng liêng, sâu nặng. Giang Nam đã diễn tả rất
đúng những tình cảm riêng – chung của người cách mạng.
Tình cảm riêng tư của con người hòa lẫn vào cái lớn lao chung của quê hương. Tất cả như hòa quyện thành một khối thống nhất không thể tách rời. Không nói ra nhưng người đọc vẫn nhận thấy đằng sau nỗi đau đớn, căm hờn ấy là một lời hứa, một quyết tâm bảo vệ quê hương đất nước. Để mối tình của đôi lứa không phải tắc nghẹn nửa chừng thì chỉ có một con đường là chiến đấu.
Tình cảm riêng tư của con người hòa lẫn vào cái lớn lao chung của quê hương. Tất cả như hòa quyện thành một khối thống nhất không thể tách rời. Không nói ra nhưng người đọc vẫn nhận thấy đằng sau nỗi đau đớn, căm hờn ấy là một lời hứa, một quyết tâm bảo vệ quê hương đất nước. Để mối tình của đôi lứa không phải tắc nghẹn nửa chừng thì chỉ có một con đường là chiến đấu.
Quê hương còn được Giang Nam cụ thể hóa bằng đôi mắt của
“em”: “Tôi nhớ đôi mắt em – đôi mắt quê hương đậm đà chung thủy” và “em
còn sống đấy, quê hương – Vẫn đôi mắt của đồng, bưng cuối trời”. Như vậy,
quê hương đâu còn là khái niệm trừu tượng, vô hình mà hết sức cụ thể, hữu hình.
Quê hương chính là mẹ, là em, là những gì thân thiết nhất đối với ông.
Ngay cả khi khóc anh Trỗi, ông cũng nhắc đến quê hương:
Quê
chúng mình khu Năm – anh còn nhớ
Chuyến đò ngang trên sông nước Thu Bồn
Và Sài Gòn –
Sài Gòn trăm mến nghìn thương
Bà Chiểu, Thị Nghè, Cầu Bông, Khánh Hội.
(Mạnh hơn súng gươm và án tử hình)
Có lẽ một điều khiến Giang Nam khác với các nhà thơ khác cùng thời là ông
hay nhắc đến những địa danh mọi miền của đất nước trong thơ. Luôn sống trong cảm
thức về quê hương đất nước nên những địa danh đất nước đi vào thơ ông ngọt ngào
như câu ca dao thuở trước:
Ta về, ta nhớ Hàm Luông
Hầm chông An Thạnh, mái trường Mỹ Nhơn.
(Giã từ Bến Tre)
Hoài Thanh cho rằng việc Giang Nam nhắc đến những địa danh đất nước như vậy là
điều nên làm: “Có những mảnh đất ta chưa hề đi đến bao giờ mà ta lại thấy rất
quen, mỗi lần nhắc đến bỗng như sống lại cả một trời kỷ niệm: một bến nước sông
Tương, một đầu cầu sông Vị. Trái lại có những mảnh đất đáng lẽ phải rất quen vì
cha ông ta đời này sang đời khác đã gửi vào trong đó bao nhiêu vui buồn, bao
nhiêu mồ hôi nước mắt, bao nhiêu xương máu nữa, thế mà ta lại thấy hững hờ xa lạ.
Ấy chỉ vì nó chưa được nhắc đến trong văn thơ. Món nợ lâu đời ấy đối với quê
hương chúng ta phải liệu mà thanh toán. Và Giang Nam là một người nhiều khả
năng góp phần thanh toán” .
Giang Nam nói nhiều đến miền Bắc. Đó là điều đặc biệt ở ông, bởi trong số các
nhà thơ miền Nam cùng thế hệ ít có cây bút nào viết nhiều về miền Bắc. Dù chưa
một lần đặt chân lên miền Bắc nhưng miền Bắc trong niềm khát khao, trong trí tưởng
tượng của ông hiện lên thật đẹp. Ở đó có màu “đỏ dải lụa sông Hồng”, “màu
xanh cành cam”, “màu trắng cánh cò”, “màu tím hoa mua”, “màu vàng của ngôi sao
vàng năm cánh”, nơi có “năm sắc cầu vồng đã làm nên Tổ quốc ta hùng
vĩ”, làm nên “màu cuộc sống thiêng liêng từ thuở những vua Hùng”. Miền
Bắc là hậu phương cách mạng vững chắc, không những là chỗ dựa tinh thần, cổ vũ
sức mạnh mà còn là động lực vật chất đối với tiền tuyến lớn miền Nam “Mỗi
tiếng nói hậu phương cũng trở thành chông súng”. Giang Nam đã
từng tâm sự đối với quân và dân miền Nam lúc bấy giờ hậu phương miền Bắc thật sự
quan trọng. Nếu có việc gì xảy ra với miền Bắc thì miền Nam không biết bấu víu
vào đâu. Và nếu không có hậu phương lớn miền Bắc thì liệu cuộc chiến tranh vệ
quốc vĩ đại của quân dân miền Nam có đi đến thắng lợi và đất nước Việt Nam có
được thống nhất hoàn toàn? Chính đế quốc Mỹ cũng hiểu được điều đó. Chúng đã từng
cố gắng dùng đủ mọi thủ đoạn, dùng những vũ khí tối tân nhất để đưa miền Bắc trở
về thời kì đồ đá. Chúng “không chỉ giết người, chúng cố giết niềm tin – Ôi
ngọn hải đăng xa bờ rực sáng”. Cuộc chiến khốc liệt là thế
nhưng hình ảnh tươi vui của miền Bắc trong lòng miền Nam vẫn vô cùng thân thiết.
Những người con của hai miền Nam Bắc vẫn tìm đến nhau. Những ngày đoàn đại biểu
miền Nam đi thăm miền Bắc, nhà thơ Thanh Hải có mặt trong đoàn đã nói: “Mười
ngày như một giấc mơ”. Riêng Giang Nam không có mặt trong đoàn, nhưng đúng ngày
đoàn đặt chân lên miền Bắc, ngày 19-10-1962, ông đã viết những dòng thơ ngọt
ngào, thắm thiết:
Giữa
một ngày cuối thu
Các anh đặt chân lên miền Bắc
(…)
Bước xuống Đồng Đăng giữa cô bác, anh em
Anh có nghe đất dưới chân mịn màng quen thuộc?
Khi đàn cháu miền Nam ôm hoa trước ngực
Chưa kịp tặng anh mà nước mắt chạy quanh
Anh có bồng cháu lên hôn đôi má mủm xinh
Kể chuyện má ba không ngừng chiến đấu?
Dọc đường xe đi có bao nhiêu giàn giáo
Chọc trời, điện sáng đêm đêm…
Ngói đỏ, áo hoa, hạnh phúc, hòa bình…
Anh có khóc khi “trở về” Tổ quốc?
(Anh có thấy không anh)
Từ một nửa đất nước đau thương mà vô cùng anh dũng, tấm
lòng nhà thơ hướng về miền Bắc ruột thịt yêu thương với những vần thơ chân
thành, xúc động, sâu lắng một niềm tin yêu tha thiết:
Mười
năm rồi, đường chiến đấu ta đi
Từng
phút, từng giây nhớ thương miền Bắc…
Chưa thấy Hồng Gai tàu ăn than tấp nập
Chưa về Nghệ An thăm làng nhỏ: Kim Liên
Chưa về Nghệ An thăm làng nhỏ: Kim Liên
Hà Nội ơi, máu về tụ giữa tim
Tóc Bác có bạc nhiều những đêm không ngủ?
Giặc Mỹ liệu hồn: thịt xương ta đó…
(Gởi miền Bắc)
Đó là tiếng lòng của người thanh niên trên tiền tuyến lớn miền Nam gởi cho đồng
bào miền Bắc yêu thương. Lẽ thường con người nảy sinh tình cảm với những nơi
mình đã đi qua, những nơi mình từng gắn bó yêu thương. Còn với Giang Nam dường
như không hẳn như thế. Chúng ta điều biết chắc chắn một điều nhà thơ chưa từng
đặt chân lên miền Bắc, chưa thấy Hồng Gai, chưa về Nghệ An, thế nhưng mười năm
rồi trên bước đường chiến đấu, từng giây, từng phút ông không nguôi nhớ thương
về miền Bắc. Với ông miền Bắc đâu chỉ là hậu phương, miền Bắc còn là máu thịt,
là một phần cơ thể, là lẽ sống của ông.Vì vậy, ông gởi trọn tình yêu và niềm
tin tưởng của người con miền Nam với miền Bắc. Giang Nam nhiều lần tâm sự:
Ngàn
vạn lần tôi thầm gọi hậu phương
Chưa nói hết được tấm lòng tôi với em, với mẹ.
(Giữ cho tôi màu sắc nước non này)
Miền Bắc đã đóng góp cả sức người và sức của cho chiến trường lớn miền Nam. Cả
miền Bắc vì miền Nam đã cùng đứng lên đánh giặc. Và để tiền tuyến lớn trong này
có thêm một làng giải phóng thì “Em ở ngoài kia phải thức mấy trăm đêm”, phải “làm
việc bằng hai”. Đồng bào Miền Bắc đã nghe theo lời hịch thiêng liêng của
Bác Hồ: kháng chiến!, “Còn tự do, ta sẽ còn tất cả”. Vì vậy, những chàng
trai, cô gái đã “giao lại mẹ, em ruộng mùa cày dở - Súng khoác vai, ba lô
nặng lên đường” theo tiếng gọi của tiền tuyến lớn. Và Giang Nam nói:
Những
chuyến ra đi trong này hiểu lắm
… Những chuyến ra đi xanh rờn lá ngụy trang
… Những chuyến ra đi không bao giờ chấm dứt
Như sông Mã, sông Hồng cuồn cuộn phù sa
Những chuyến ra đi trong thời đại Bác Hồ…
(Những chuyến ra đi)
Những chuyến ra đi có từ thuở Hùng Vương. Những chuyến ra đi bắt nguồn từ truyền
thống đấu tranh giữ nước của dân tộc. Lê Anh Xuân cũng đã từng nói: “Đây là cuộc
hành quân cả nước – Đội ngũ ta dài suốt bốn ngàn năm”. Còn Giang Nam lại nghĩ:
“Lịch sử không ngừng hành quân hối hả”.
Giang Nam viết về những đồng chí hải quân, những đồng chí pháo binh, những chị
công nhân miền Bắc với thái độ ngợi ca, cảm phục:
Hoan
hô các anh, những anh hùng rất trẻ
Hoan hô hậu phương dũng cảm tuyệt vời.
(Gởi miền Bắc)
Miền Bắc trong lòng miền Nam cũng như trong lòng Giang Nam là
thế. Miền Nam máu lửa chỉ có hai mùa mưa nắng vậy mà trong ông vẫn thấm cái lạnh
của gió mùa đông bắc. Ông băn khoăn “vườn trẻ có thêm chăn khi gió mùa
đông bắc?”, lo lắng không biết “tóc Bác có bạc nhiều những đêm không ngủ” và
day dứt không biết người mẹ miền Bắc “hai mươi năm trời áo vá vai, cơm ghế” nghĩ
gì đêm nay khi tiễn đứa con cuối cùng “để lại ruộng vườn cày dở…”. Có bao đêm
ông nằm mà “nghe thấy cả từng nhịp tim Bác đập”. Giang Nam đã nói
được nghĩa tình của cả dân tộc khi mà cả hai miền còn đang bị chia cắt. Qua những
vần thơ của Giang Nam, ta hiểu vì sao trong những năm tháng đấu tranh gian khổ
đồng bào miền Nam vẫn chịu đựng bền bĩ, bởi họ tin vào đồng bào, đồng chí, vào
Đảng, vào chế độ Xã hội Chủ nghĩa tốt đẹp ở miền Bắc. Đó là nét tâm lý rất thật
của đồng bào miền Nam. Và Giang Nam bằng vốn sống, bằng ngòi bút của mình đã
chuyển tải nét tâm lý lịch sử ấy đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng, chân thật. Những bài thơ viết về miền Bắc cho người đọc thấy được tình cảm
gắn bó giữa hai miền của Tổ quốc, thấy được ý nghĩa vô cùng sâu xa của tình
nghĩa ruột thịt, của lẽ sống quý giá “không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Nhà văn Nga I. Ê-ren-bua đã từng nhận định khá sâu sắc: “Chiến
tranh khiến cho mỗi công dân Xô Viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương”.
Chính sự đau thương, mất mát của quê hương càng thôi thúc chúng ta biết yêu và
biết giữ gìn vẻ đẹp thanh bình của đất nước. Có thể nhận thấy tình yêu da diết
đối với quê hương của Giang Nam là thứ tình yêu được xây dựng trên sự mến phục,
tự hào về quê hương đất nước. Và những trang thơ của ông đã gợi dậy trong mỗi
chúng ta niềm yêu mến, tự hào về vẻ đẹp của quê hương đất nước; ngưỡng mộ và cảm
phục trước vẻ đẹp của con người trong một thời kì máu lửa.
Hình
tượng người phụ nữ là một hình tượng đẹp xuyên suốt trong văn học từ cổ điển đến
hiện đại. Ở mỗi thời kì, cách nhìn nhận và đánh giá về người phụ nữ có sự khác
nhau. Trong nền văn học cách mạng hiếm có nhà thơ nào viết nhiều và viết hay về
người phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ trẻ, như Giang Nam. Ngòi bút của ông đặc
biệt trân trọng, trìu mến với hình tượng nghệ thuật này. Hình ảnh người phụ nữ
miền Nam xuất hiện trong thơ Giang Nam thật phong phú, đa dạng. Người phụ nữ miền
Nam trong thơ Giang Nam vừa mang nét đẹp truyền thống: tần tảo, trung hậu, đảm
đang, chịu thương chịu khó, yêu chồng, thương con của người phụ nữ trong ca dao
xưa, vừa mang nét hiện đại của một Nguyệt Nga cầm súng trong thời đại chống Mỹ:
kiên cường, bất khuất, trung thành với Đảng. Đúng như lời nhận xét của Hoài
Thanh: không phải đợi đến Giang Nam người phụ nữ Việt Nam mới có mặt trong
thơ ca cách mạng nhưng người phụ nữ trong thơ ông vừa có những tính cách của
con người mới trong thời đại cách mạng vừa đậm đà bản sắc của con người Việt
Nam.
Hình ảnh các chị trong thơ Giang Nam hiện lên thật đẹp, thật
dễ thương: một bờ vai nhỏ, một mái tóc dài, một tà áo bà ba, một đôi mắt đen
tròn, miệng cười khúc khích cũng đủ làm say lòng người:
Thương
biết mấy những bờ vai nhỏ hẹp
Áo
bà ba trắng thon thon
(Những người vợ miền Nam)
Môi em cười như hoa bưởi, hoa sen
Tươi mát những dòng sông mùa mít ngọt.
(Chiến thắng)
Hình như em mặc áo màu xanh nhạt
Hình như kẹp tóc em màu mây
Ơi ngày bé theo mẹ về quê ngoại
Có đẹp bằng cô biệt động hôm nay.
(Cô gái mùa xuân)
Vẻ đẹp của người phụ nữ như kết tinh từ vẻ đẹp của quê hương
đất nước. Dù trong hoàn cảnh kháng chiến thật khắc nghiệt, hằng ngày, hằng giờ
phải đối mặt với tội ác, với cái chết nhưng những người con gái miền Nam vẫn hiện
ra với những nét đẹp mềm mại và duyên dáng.
Trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, ở miền Nam người “nông
dân bị cướp ruộng cày. Bát cơm khoai sắn mỗi ngày một vơi”, người
phụ nữ cũng không thoát khỏi cảnh khổ nghèo, lam lũ. Yêu thương, trân trọng người
phụ nữ nên Giang Nam đặc biệt xót xa trước cảnh sống của người phụ nữ nghèo:
Nửa
căn nhà trống, vài phiên chợ
Đôi cánh tay gầy, một mụn con
Mưa nắng đã phai màu áo cưới
Giấc mơ còn lại: một lưng cơm.
(Lá thư thành phố)
Những
chiếc áo sờn vai
Những bàn chân đen sạm đạp sỏi dày gai.
(Những người vợ miền Nam)
Chị đứng đó: quần trên gối xắn cao
Nón rách cầm tay, cả cuộc đời hiền lành, lam lũ.
(Chiếc
áo cuối cùng)
Ngòi bút của nhà thơ ghi lại thật xúc động hoàn cảnh của người
phụ nữ miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Cuộc đời họ là chuỗi ngày dài đói
nghèo, khổ nhọc. Trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt phải sống cách xa chồng,
không còn bờ vai vững chãi để nương tựa, người phụ nữ phải tự mình gánh vác gia
đình và nhiều khi gánh luôn cả phần việc của người chồng. Thế nhưng, họ vẫn tự
mình vượt lên hoàn cảnh để sống, để yêu thương. Và hơn hết, họ chính là hậu
phương vững chắc cho người chồng nơi xa vững tâm chiến đấu. Lá thư người vợ gửi
cho chồng đang công tác ở nơi xa gói trong ấy biết bao nhiêu là tình cảm
thủy chung, thương nhớ:
Con
vẫn ăn chơi, em vẫn khoẻ
Anh yên lòng nhé chốn xa xăm.
(Lá thư thành phố)
Hay: Nhà
ta mấy bận mưa hư nát
Mái lá tơi bời lạnh gối chăn
Em không buồn lắm vì em biết!
Anh khổ nơi xa gấp mấy lần
(…)
Em biết anh không ngừng chiến đấu
Muôn ngàn anh chị ở bên anh
Bao giờ em được lên trên ấy
Vá áo cho anh rách lại lành.
(Lá thư thành phố)
Xúc động vô cùng trước tấm lòng của những người vợ yêu chồng,
thương con trong Lá thư thành phố ! Một ước mơ thật bình dị, nhỏ bé:
“Bao giờ em được lên trên ấy - Vá áo cho anh rách lại lành”, một cử chỉ thật
đơn giản, bình thường nhưng cũng đủ làm ấm lòng, xóa bớt nỗi cô đơn của người
chồng ở nơi xa. Qua lời thơ ta thấy được cái tình của người vợ nghèo miền Nam.
Và hãy lắng nghe lời tâm sự của người vợ:
Con
nhớ anh thường đêm biếng ngủ
Nó khóc làm em cũng khóc theo
Anh gởi về em manh áo cũ
Đắp cho con, đỡ nhớ anh nhiều.
(Lá thư thành phố)
Lời tâm sự của người vợ nhớ chồng thật kín đáo, rất đúng với
tình cảm của phụ nữ Việt Nam nhưng chứa đựng trong ấy bao nhiêu là nhớ thương,
âu yếm. Có gì đó vừa quen vừa lạ trong cách suy nghĩ, cách nói của người vợ. “Con
nhớ anh thường đêm biếng ngủ”. Vậy còn em thì sao? Có người đã chữa câu thơ
thành:
Anh
nhớ gởi về manh áo cũ
Ủ con, cho mẹ ấm nhờ hơi
Nhưng đâu cần phải sỗ sàng như thế! Kín đáo, ít lời thật đấy
nhưng cũng đủ để anh và em, những người trong cuộc hiểu nhau. Và như thế, tình
yêu và nỗi nhớ càng thêm sâu sắc.
Người mẹ miền Nam cũng như tất cả những bà mẹ trên trái đất
này đều có tình cảm yêu thương vô tận với đứa con của mình. Đó là thứ tình cảm
rất đỗi thiêng liêng: “Người mẹ sinh con mang nặng đẻ đau. Người mẹ nuôi con bằng
dòng sữa của mình, bằng tâm huyết của mình, bằng toàn bộ tinh lực của mình.
Ngoài nghĩa cả đối với Tổ quốc, đối với cách mạng, có tình cảm nào thiêng liêng
hơn tình cảm mẹ con” (Lê Duẩn). Chị phụ nữ trong Chiếc áo cuối cùng đã
chín năm trời bám chặt đất quê hương để đấu tranh. Trước khi bị địch hành hình,
chị đã cởi chiếc áo mặc trên người gởi lại cho con:
“Tôi sắp chết rồi, không cần mặc áo
Xin gởi lại cho con tôi bán lấy tiền mua gạo
Nhờ các anh treo hộ nó lên cành
Máu dây vào khó giặt lắm”.
Cảm động vô cùng tấm lòng người mẹ dành cho con. Đến phút cuối
cùng của cuộc đời mình mẹ vẫn hướng về con. Cử chỉ bình dị mà cao quý ấy của
tình mẹ con khiến chúng ta cảm phục, khiến kẻ thù khiếp sợ.
Yêu chồng, thương con, người phụ nữ có thể hi sinh cả cuộc đời
vì một nửa yêu thương của mình nhưng trên hết ở người phụ nữ miền Nam trong thơ
Giang Nam là tấm lòng yêu nước, trung thành với Đảng: “Thương chồng, theo Đảng
bước lên hàng đầu”. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, ở miền Nam giặc mở chiến dịch “tố
cộng”, “diệt cộng”, chúng buộc những người phụ nữ có chồng đi tập kết ở Bắc phải
làm tờ “phản tỉnh” nghĩa là phải từ bỏ chồng, nói xấu cách mạng, nói xấu Đảng.
Và người phụ nữ trong bài thơ Trước tờ giấy trắng đã trải qua những
giây phút dằn vặt, đau khổ:
Chị
ngồi trước tờ giấy trắng
Hàng giờ không viết một câu
Bóng cây ngắn dần theo nắng
Đàn trâu chậm
chạp qua cầu
Có ai từng sống trong những ngày oi bức, ngột ngạt như thế mới
hiểu hết những gì mà nhà thơ đã ghi lại. Thời gian trôi qua thật nặng nề. Viết
hay không viết? Có lúc chị đã dao động, chị nói như phân bua với chồng:
Có
nên viết để con ta được sống
Dù một ngày, một buổi nữa rồi thôi
Đứt ruột sinh con đêm nào mình mẹ
Lẽ nào giọt nắng chết trên nôi…
Có làm mẹ mới thấu hiểu hết tấm lòng của người mẹ thương con,
mới thông cảm cho phút giây yếu lòng của chị: thương con, chị muốn bám lấy
cuộc sống. Thế nhưng:
Vụt
hiện những ngày kháng chiến
Giành từng góc ruộng bờ ao
Vụt hiện những ngày trên bến
Vẫy khăn anh bước xuống tàu!
Và kìa, dường như con và chồng đang trách chị:
Có
thể nào như thế được, mẹ ơi!
Có thể nào như thế được, em ơi!
Cuối cùng, người phụ nữ ấy đã chiến thắng chính mình:
Chị
bỗng vùng lên, tưởng đang nắm tay chồng
Day dứt quá giữa buồn vui mừng giận
Lũ quỷ ập vào, dí súng bên hông
Chị vẫn ngồi nghiêm trước tờ giấy trắng.
(Trước tờ giấy trắng)
Không chỉ tình yêu vợ chồng, tình cảm mẹ con mà trên hết là tấm lòng thuỷ chung
son sắt dành cho Đảng, cho đất nước. Từ sự day dứt về tình cảm riêng tư ta thấy
được tinh thần kiên cường, bất khuất của người vợ miền Nam. Những người vợ miền
Nam ấy dù có bị kẻ thù tra tấn dã man vẫn kiên gan, bất khuất, thà hi sinh thân
mình chứ quyết không chịu sống cuộc đời ô nhục bởi: “Gái chỉ một chồng, người
không hai nước!”. Dù phải sống cuộc đời khổ nghèo, cơ cực, dù hằng ngày phải đối
mặt với họng súng, với tội ác của kẻ thù, và dù có bị bắt làm tờ “phản tỉnh”
thì:
Những
người vợ miền Nam
Hột muối cắn đôi
Đợi chồng vẫn đợi…
(Những người vợ miền Nam)
Vì vậy mà những người vợ bất khuất ấy bị điệu vào nhà lao. Và những đứa con
chưa rời vú mẹ cũng phải theo mẹ vào chốn lao tù:
Và
những cháu thơ
Sớm hiểu lao tù đế quốc
Chập chững đi, chân non dại ngập ngừng
Mất của cháu rồi hết mấy mùa xuân?
Mấy bận tay gầy ôm chặt mẹ?
(Những người vợ miền Nam)
Hình ảnh cháu bé thơ võ vàng sau khung cửa sắt, khát từng tia nắng mặt trời nhức
nhối mãi trong trái tim nhà thơ để rồi bật lên thành lời nghe thật đau xót.
Xiềng xích ngục tù chỉ khóa được thân xác chứ không khóa được tinh thần của con
người. Sống cuộc sống tù đày ngột ngạt: “muỗi, rệp, phân người, tim bầm óc buốt”,
chị vẫn mơ về kỷ niệm tuổi thơ:
Sáng
nay xuân đến rồi,
Đất trời như trẻ lại.
Theo má về bên ngoại
Xanh biếc những hàng cau.
(…)
Em chị nắm tay nhau
Chạy trên đường đá sỏi.
Em ngắt chùm hoa dại
Mừng tuổi chị đầu năm.
Chị tặng em chiếc khăn
Có thêu dòng tên nhỏ.
(…)
Quê ngoại bên kia sông,
Hoa ô môi nở tím.
Ngồi đợi đò qua bến,
Chị hát cho em nghe.
Những câu hát ngày xưa
Má thường ru em ngủ.
Đôi môi em mọng đỏ,
Hớp từng hớp ngọt ngào.
(…)
Trời xanh cao rất cao
Có một đàn chim trắng...
(Thức giữa mùa xuân)
Họng
súng đen ngòm chia cắt nước non của kẻ thù đang chĩa thẳng vào người phụ nữ,
nhưng có hề gì họ vẫn kiên gan bám đất giữ làng, tham gia sản xuất và chiến đấu.
Và khi sắp bị kẻ thù hành hình chị vẫn ngẩng cao đầu bất khuất:
Một
phút nữa thôi, đạn thù sẽ nổ!
Chị đứng đó, bóng ngả dài trên lúa
Không van xin, không khóc, không buồn.
Vầng trán nám đen chưa lau kịp vết bùn
Mảnh khăn rằn vải thưa bó tròn mái tóc
Chị đứng đó: nhỏ bé, mong manh nhưng tràn đầy sinh lực
Như mạ non chị cấy, như bụi chuối chị trồng.
Mắt thản nhiên nhìn họng súng đen ngòm
Ôi! Đôi mắt chưa bao giờ biết sợ!
Tinh thần của người phụ nữ miền Nam là thế hay cũng chính là
tinh thần chung của con người miền Nam. Đạn bom của kẻ thù không bao giờ có thể
hủy diệt được sức sống mãnh liệt của con người.
Và từ trong đau khổ, căm hờn, Giang Nam nhìn thấy ở những người
phụ nữ miền Nam ấy sự trưởng thành trong chiến đấu và trong tính cách:
Bên
bờ Cửu Long gió ngàn lồng lộng
Em lớn lên rồi qua giông tố phong ba.
Đã từng sống và chiến đấu, từng đi sát phong trào, đi sâu vào
cuộc chiến đấu của nhân dân, đến những nơi quyết liệt nhất, những nơi mà con
người sống với sức sống mạnh nhất nên Giang Nam đã ghi lại rất nhiều, rất chân
thực về sự chuyển biến, lớn lên của người phụ nữ trong bão táp phong ba. Hình ảnh
cô gái An Thường là hình ảnh điển hình cho người phụ nữ đã được rèn luyện
qua thử thách. Lần thứ nhất, tác giả gặp cô trên bãi biển Quy Nhơn khi tiễn người
yêu ra Bắc tập kết thật hồn nhiên nắm trên tay con cào cào mới thắt, đuổi
bắt những chú còng giỡn nước, nụ cười bẽn lẽn trên môi và chỉ thấy cuộc đời
hạnh phúc! Lần thứ hai, tác giả gặp lại cô “Trên đường phố Sài Gòn giữa những
ngày giặc vào chiến dịch”. Đôi mắt mệt mỏi, thâm quầng: “Không sống nổi đâu
anh! Chúng trả thù, chém bắn…”, tiếng nấc đau buồn thay cho tiếng cho “tiếng cười
khúc khích, màu đỏ trên môi”. Lần thứ ba, tác giả gặp lại cô “trên phần đất tự
do giành từ tay giặc Mỹ” bây giờ là: “Chị cán bộ từ đâu về hội nghị - Mà
chiếc áo bạc màu mang miếng vá trên vai”(Đội du kích anh hùng). Và lần này tác
giả thật sự vui mừng trước sự thay đổi, trưởng thành của cô gái: “Em khác xưa rồi
lớn khoẻ biết bao nhiêu”. Quả thật, hoàn cảnh đã làm thay đổi tính cách, số phận
của con người. Từ một cô gái bình dị, ngây thơ đã trở thành một nữ anh hùng:
Người
nữ chỉ huy dạn dày, gan dạ
Mấy trăm trận chưa bao giờ biết sợ
(Đội
du kích anh hùng)
Chính tác giả cũng nhận định:
Ôi
mười năm long trời lở đất
Đã biến những cô gái quê thành những anh hùng!
Người nữ anh hùng Nguyễn Thị Hạnh cũng có sự chuyển biến, lớn
lên như thế, từ một “cô bé gầy gò, lớn giữa đưng sình bắt cá mò cua”, chị đã trở
thành cánh chim đầu đàn của đội du kích Củ Chi. Chính cuộc chiến đấu vĩ đại của
dân tộc đã tôi luyện nên tính cách anh hùng của những con người thật bình dị.
Những chị Hạnh, chị Liên, chị Thắng,… đã trở thành những huyền thoại. Từ cuộc đời
thực họ bước vào trang thơ để rồi bất tử trong lòng những người con yêu nước.
Không chỉ trưởng thành trong chiến đấu ở các chị còn có sự
trưởng thành trong nhân cách, trong đạo đức cách mạng. Hình ảnh chị Hạnh mặc áo
rách đi dự đại hội anh hùng là một hình ảnh đẹp. Chính sự bình thường, đơn giản
ấy đã nâng nhân cách con người lên tầm cao mới khiến cho hình ảnh các chị càng
sáng ngời lên trong chiến đấu. Và Giang Nam viết về điều này với ngòi bút trân
trọng, tự hào:
Anh
đón em: người em gái anh hùng
Nắm chặt bàn tay đen đúa nắng bùn
Thương quá những đêm cắt rào, nhổ trụ
Cho anh trùm lên vai em mảnh khăn rằn Nam Bộ
Áo em rách rồi, không có tiền may.
(Đội du kích anh hùng)
Và chính vì phản ánh được những nét đẹp của người phụ nữ trưởng thành trong cuộc
chiến tranh vĩ đại của dân tộc bằng cách nói của riêng mình, thơ Giang Nam đã để
lại dấu ấn sâu đậm trong tình cảm mọi người.
Đọc thơ Giang Nam, chúng ta nhận thấy một điều là vai trò của người phụ nữ
miền Nam khác xưa nhiều lắm. Họ không chỉ đơn thuần là người vợ, người mẹ mà
hơn hết họ là một công dân yêu nước, có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc.
Từ sau hiệp định Giơ-ne-vơ, những người kháng chiến mà đại bộ phận là nam giới
đều tập kết ra Bắc. Vì thế mà “Anh đi rồi nửa đất nước giao em!”. Những người
phụ nữ ấy vừa phải chăm lo gia đình, con cái, ruộng vườn, vừa đưa đường, dẫn lối
cho cán bộ và làm công tác dân vận… Không gian của người phụ nữ lúc này không
còn bó hẹp trong gia đình mà đã mở rộng ra. Đó là không gian của cộng đồng, của
dân tộc. Ở miền Nam lúc này rất nhiều người phụ nữ đã tham gia vào cuộc chiến đấu
vĩ đại của cả dân tộc, có nhiều chị trực tiếp cầm súng chiến đấu. Cùng với đồng
bào miền Nam, chị em phụ nữ đã khẳng định vai trò và năng lực của mình:“Cái đẹp
vĩ đại của dân tộc Việt Nam trước hết là của phụ nữ Việt Nam”. Có thể nói
nét mới trong tính cách của người phụ nữ miền Nam được tạo nên bởi chính hoàn cảnh
lịch sử xã hội. Tình yêu, lòng chung thuỷ của người phụ nữ miền Nam gắn chặt với
lòng trung thành cách mạng, trung thành Đảng. Và bổn phận của một người vợ lúc
này gắn liền với nhiệm vụ cách mạng:
Một
nửa quê hương em quyết bảo toàn
Trao lại tay anh ngày về thống nhất!
(Những
người vợ miền Nam)
Họ là những cô du kích anh hùng, những cô giao liên dũng cảm vượt đạn bom đưa
đường cho cán bộ. Khi đất nước gọi họ sẵn sàng cầm súng. Khi Tổ quốc cần họ
cũng dám đứng lên:
Sài
Gòn hiện nay ngút trời căm giận
Bọn con gái chúng em cũng bãi khoá, rải truyền đơn…
(Thành phố của chúng ta)
Những người phụ nữ ấy nhỏ bé, mong manh là thế: “Ôi đoá hoa
thơm lừng và trong trắng - Nhỏ bé mong manh trước giông tố, bão bùng”.
Nhưng ở họ có một sức mạnh phi thường: “Tiếng em cất cao, rắn chắc, rạch ròi -
Rát mặt quân thù như một làn roi”. Người phụ nữ miền Nam là thế! Điều gì
đã làm nên sức mạnh phi thường để những con người nhỏ bé ấy có thể chiến thắng
cả những tên đế quốc hung hãn nhất nếu không phải là lòng yêu nước, nỗi căm hờn
trước những tội ác dã man mà kẻ thù đã gây ra cho dân tộc.
Không chỉ trực tiếp cầm súng chiến đấu mà người phụ nữ miền
Nam còn đi đầu trong các cuộc biểu tình quần chúng. Nhà thơ đã ghi lại rất đẹp
hình ảnh ấy:
Em
bước lên trước lũ diều hâu ác độc
Như anh bộ đội xuất kích trận đầu.
Tình yêu của người phụ nữ miền Nam trong hoàn cảnh chiến
tranh khốc liệt cũng khác trước rất nhiều. Ở họ tình yêu, niềm hạnh phúc lứa
đôi hòa chung với niềm vui của cả dân tộc. Khi được hỏi vì sao chưa làm lễ cưới,
cô gái có người yêu tập kết ra Bắc đã thẹn thùng:
“Việc gì phải vội!
Em sợ chúng nó cười… thôi, thống nhất càng vui…”
(Cô gái An Thường)
Trong hai mươi năm chiến tranh, người phụ nữ miền Nam chịu
nhiều đau thương mất mát. Các chị đấu tranh chống kẻ thù để bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ hạnh phúc, lẽ sống của đời mình. Hai mươi năm ấy có biết bao người vợ chờ chồng,
cô gái đợi người yêu. Trong văn học từ trước đến nay, hình ảnh người phụ nữ chờ
đợi người yêu có biết bao nhiêu dạng khác nhau. Nhưng trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ hình ảnh người phụ nữ miền Nam chờ đợi người yêu tập kết có một nét mới:
Có
phải Nguyệt Nga xưa
từ những vần thơ ánh sáng
Đã bước ra cuộc đời: tóc bới gọn, quần xăn?
Chị là “con nhỏ giải phóng quân”
Của má đưa đò ngang sông Cái
Chị là ngôi sao xanh đỉnh núi
Thao thức đêm dài soi bóng người thương…
(Chị)
Người phụ nữ miền Nam chờ đợi, nhớ thương người yêu da diết,
mặn mà. Nhưng sự chờ đợi, nỗi nhớ thương ở đây không có cái vẻ ủ dột, sầu muộn
mà đã biến thành hành động cụ thể, nhớ thương để giữ vững đấu tranh, để mãi là
ngôi sao sáng dẫn đường, soi bóng người yêu trong những đêm dài hành quân ra trận.
Người phụ nữ miền Nam kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm
đang là hình ảnh đẹp, nhiều màu sắc và tập trung nhất trong thơ Giang Nam. Nhà
thơ đã chuyển tải điều ấy bằng một giọng thơ chân tình, mộc mạc, trữ tình sâu lắng,
giàu chất tự sự. Thơ Giang Nam là tiếng nói của trái tim và cũng là tiếng nói của
trí tuệ, của lí trí cách mạng. Vì vậy, dễ khơi gợi tinh thần chiến đấu cho các
thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ thời chống Mỹ. Như con bồ nông nuôi con bằng máu
của mình, Giang Nam đã nuôi dưỡng đứa con tinh thần bằng những hình ảnh đẹp, bằng
những kỷ niệm xót đau của đời mình. Nhà thơ đã viết về người phụ nữ miền Nam với
những rung động, những cảm xúc chân thành nhất, với thái độ nâng niu, trân trọng,
tự hào. Vì vậy, thơ ông mang hơi thở ấm áp của cuộc sống, của những con người
đang chiến đấu. Những vần thơ “chan chứa mến thương” (Hoài Thanh) ấy của Giang
Nam đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp và giá trị của người phụ nữ miền Nam. Cám ơn
Giang Nam đã góp thêm một hình tượng đẹp với những nét riêng vào nền thơ Việt
Nam hiện đại thời chống Mỹ.
Cuộc đời và những năm tháng đấu tranh vì độc lập
dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành huyền thoại. Đối với cả nhân loại
Người là một vĩ nhân, đối với dân tộc Việt Nam Người là vị cha già vĩ đại, là “sao
bắc đẩu”, là “vầng thái dương”. Nhiều tác giả đã có những sáng tác rất thành
công về Bác như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Minh Huệ, Viễn Phương. Và đặc biệt hình ảnh
của Người Cha già đã in đậm trong thơ ca miền Nam đúng như Viễn Phương đã nhận
định: “Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, các nhà thơ sống ở Nam bộ đều có những
tác phẩm viết về Bác”. Hòa trong dòng cảm hứng chung ấy, Giang Nam cũng
đã có những vần thơ dâng tặng Người. Chính tình cảm sâu nặng đối với Bác là cội
nguồn cảm hứng để ông sáng tạo nên hình tượng nghệ thuật tuyệt vời này.
Suốt cuộc đời mình, nhà thơ chưa bao giờ được gặp mặt Bác, vì vậy mà hình ảnh
Bác được khắc họa chủ yếu bằng trái tim, bằng tình cảm chân thành của người con
miền Nam đối với người cha già muôn vàn kính yêu. Giang Nam đã thay mặt cho những
đứa con miền Nam dâng lên Bác những vần thơ ngọt ngào, đằm thắm, mượt mà:
Mái
tóc bạc phơ gian khổ, ân tình
Ôi màu áo bà ba Bác mặc hiền lành.
(Bác vẫn còn sống mãi)
Bác vẫn giản đơn như cuộc đời bộ đội
Vẫn đôi dép cao su bốn mùa không thay đổi
Vẫn bộ đồ kaki quen thuộc, bạc màu.
(Con viết bài thơ dâng Bác)
Bằng những cảm xúc khác nhau, nhà thơ đã gợi lên trong tâm
trí người đọc những ấn tượng sâu đậm về vị cha già dân tộc. Hình ảnh Bác Hồ với
chiếc áo nâu giản dị, màu áo của quê hương đậm đà, chung thủy, với đôi dép cao
su quen thuộc là một hảnh ảnh đẹp xuyên suốt trong những trang viết của các nhà
thơ, nhà văn.
Tâm hồn, tấm lòng nhà thơ luôn hướng về Bác. Cũng như đồng bào miền Nam, Giang
Nam luôn khao khát được một lần gặp mặt Bác, được đón Bác vào thăm miền Nam rực
nắng như chính lòng Bác ước mong:
Ngày
mai đẹp nắng, Sài Gòn tự do
Sẽ đón Bác giữa sao cờ
Với hoa trên tóc, lời ca nghẹn ngào.
(Miền Nam có Bác)
Niềm ước mong giản dị và tha thiết ấy đã trở thành nỗi canh cánh trong tâm trí
nhà thơ. Vì vậy, dù chỉ có thể ngắm nhìn ảnh Bác trên báo nhưng trái tim ông vẫn
ngân lên những giai điệu rộn ràng vui sướng:
Vui
sao giữa những ngày gian khổ
Bác bỗng về đây với chúng con
Tờ báo mới thơm mùi mực mới
Đến với con qua lớp lớp Trường Sơn.
(…)
Con nhìn Bác nghẹn ngào không chớp mắt
Bác Hồ đây. Cha của chúng con đây
Bác vẫn khỏe hồng hào, rắn chắc
Hơn thuở đầu tiên Bác đứng giữa lễ đài.
Các chiến sĩ miền Nam dù bị đọa đày giữa chốn ngục tù, dù đứng trước ranh giới
giữa sự sống và cái chết vẫn kiên gan, bất khuất bởi đơn giản một điều: Bác vẫn
luôn ở trong trái tim của họ:
Trong
xà lim trước lưỡi lê, máy chém
Hàng vạn chúng con đã thấy Bác bên mình
An ủi, vỗ về, tiếp sức đấu tranh
Dù đến cuối cuộc đời chưa gặp Bác
Đồng chí Cống, đồng chí Thuần, đồng chí Xuân Thu
Và muôn ngàn anh chị khác
Trước giờ chết hiên ngang không khuất phục
Vẫn hô to: Hồ
Chủ tịch muôn năm!
(Con viết bài thơ dâng Bác)
Hay: Dù
xa trăm núi, ngàn sông
Bác vẫn đứng bên chúng con từng giờ.
(Miền Nam có Bác)
Với Giang Nam, Bác là tất cả, Bác là quê hương. Bác ra đi để
lại trong lòng chúng ta niềm tiếc thương vô hạn. Trong niềm kính yêu khôn cùng
đối với người lãnh tụ vĩ đại, ông không thể nào tin được Bác đã vĩnh viễn ra
đi:
Có
thể nào tin Bác vĩnh biệt chúng ta rồi
(…)
Bác vĩnh biệt chúng ta rồi! Không, Bác vẫn còn sống mãi
Như mặt trời không tắt trên đồng ruộng Việt Nam.
Bác thân yêu ơi, chúng con lại hành quân
Có Bác cùng đi, phượng đỏ đường ra tiền tuyến…
(Bác vẫn còn sống mãi)
Hòa cùng với nỗi đau chung của dân tộc, nhà thơ cảm nhận nơi
lòng mình một mất mát vô biên. Nỗi đau đớn tột cùng ấy khiến ông không dám đối
diện với sự thật: Bác kính yêu không còn! Trong tận cùng sâu thẳm tâm hồn ông,
Bác vẫn còn sống mãi với quê hương đất nước, với mỗi con người Việt Nam. Bác
như ánh mặt trời chiếu rọi những tia nắng ấm áp, mang lại sự sống cho vạn vật
trên thế gian. Hình ảnh “mặt trời không tắt trên đồng ruộng Việt Nam” là hình ảnh
biểu trưng: Bác là niềm tin, là lẽ sống của dân tộc Việt Nam trong những năm
tháng kháng chiến trường kì gian khổ.
Tóm lại, với những xúc cảm chân thành từ trái tim, hình tượng
Bác Hồ kính yêu thật ngời sáng trong thơ Giang Nam. Nhà thơ đã thể hiện tình cảm
yêu mến tha thiết đối với Bác – một thứ tình cảm ngưỡng mộ, tự hào.
Trở về với cuộc sống đời thường, Giang Nam vẫn “đau đáu” một
nỗi niềm với thơ ca. Mạch thơ trong tâm hồn của ông không hề bị ngắt quãng, vẫn
viết về những đề tài quen thuộc với chất giọng trữ tình, sâu lắng, nhưng tiếng
thơ Giang Nam mới hơn, có chiều sâu hơn về cảm xúc, về nghệ thuật và đầy chất
triết lý.
Trong kháng chiến chống Mỹ, nhà phê bình Hoài Thanh đã từng
nhận định Giang Nam là nhà thơ của quê hương. Và đúng như vậy. Tâm hồn nhà thơ
như cùng nhập vào tâm hồn của quê hương đất nước. Hòa bình lặp lại, trang sử
vàng của dân tộc lại sang một trang mới, vì thế, hình ảnh quê hương đất nước
trong thơ ông vui hơn, tươi sáng hơn, tràn đầy niềm tin tưởng, lạc quan. Mùa
xuân tự do đầu tiên đã trở về trên quê hương và nhà thơ hân hoan, reo mừng
trước niềm vui chung của Tổ quốc:
Xin
chào Tổ quốc vào Xuân
Nỗi đau xưa với muôn phần vui nay
Bồi hồi tay lại cầm tay
Mừng
nhau không rượu mà say say lòng.
Đất trời ta rộng mênh mông
Ngọt ngào sao những cánh đồng phù sa
Nghe vui tiếng sóng vỗ bờ
Khói nhà máy chân trời xa rựng hồng.
(…)
Bây
giờ đường lại nối đường
Rất toàn vẹn, cả bốn phương về mình
Bây giờ đồng ruộng biển xanh
Một hột muối cũng mặn tình Việt Nam.
Bây giờ Xuân mới là Xuân
Hạnh phúc lớn nỗi băn khoăn kiếp người
Tự do làm đẹp cuộc đời
Thủy chung làm đẹp mỗi lời của em Bây giờ ta lấp hố bom
Vườn sầu riêng lại vui chung nảy mầm
Bây giờ máy chạy càng nhanh
Đêm đêm điện sáng cho mình, cho ta.
(…)
Tự do nên má em hồng
Trời xanh, nên mắt em trong lạ thường
Người thuỷ chung, đất thuỷ chung
Tình yêu bỗng đẹp vô cùng, em ơi!
(Mùa xuân ơi, rất tuyệt vời)
Nhìn thấy cuộc sống đang hồi sinh, tiếng thơ ông dường như thấm
cả tiếng cười hạnh phúc. Lời đầu tiên mà tác giả thốt lên ấy chính là lời chào
Tổ quốc thân yêu: “Xin chào Tổ quốc vào Xuân”. Lời chào giản dị mà rất đỗi chân
thành bởi chứa đựng trong ấy tấm lòng, tình cảm của một con người được tự do
trên mảnh đất quê hương vừa mới được giải phóng. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên
mà ông viết hoa từ “Xuân”. Hơn nữa, thể thơ lúc bát truyền thống của
dân tộc với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng, thiết tha rất phù hợp trong việc diễn
tả tâm trạng, tình cảm của nhà thơ. Chất men say ngọt ngào của niềm vui chiến
thắng như thấm sâu vào hồn người và lan toả trong không gian: “Mừng nhau không
rượu mà say say lòng”. Mùa Xuân đầu tiên con người được làm chủ, được sống một
cuộc đời tự do không còn bị nô lệ, áp bức làm sao không khỏi xúc động, bồi hồi.
Mạch cảm xúc dâng trào, nhà thơ ca ngợi đất nước tự do với tinh thần say sưa, sảng
khoái. Với niềm vui náo nức, với tâm thế của một con người làm chủ, tác giả
nhìn đâu cũng thấy đẹp, cũng thấy toàn một màu hồng rạng rỡ: đất trời rộng mênh
mông và xanh biếc, những cánh đồng ngọt ngào phù sa, tiếng sóng vỗ bờ nghe thật
vui, màu hồng trên đôi má em. Và “Bây giờ Xuân mới là xuân”. Khắp nơi tràn ngập
niềm vui và ánh sáng: “Bây giờ máy chạy càng nhanh – Đêm đêm điện sáng cho
mình, cho ta”.
Đất nước sạch bóng quân thù, non sông từ đây nối liền một dải.
Một cuộc sống mới đang nảy mầm từ trên mảnh đất đau thương, mất mát:
Áo
trắng các em đùa trên sóng nước
Phà tươi vui nối những mạch đời.
(Qua phà Rạch Miễu)
Hình ảnh đẹp, tươi sáng như gói trọn niềm vui, niềm hạnh phúc
của nhà thơ trước sự thay da đổi thịt của quê hương đất nước. Con sông chia cắt
hai tỉnh Mỹ Tho và Bến Tre giờ đây đã được nối liền bởi những chuyến phà tươi
vui, đông khách. Tự do đã thật sự trở về!
Đã từng công tác và chiến đấu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ, nên
khi trở lại nơi này ông thật ngỡ ngàng trước cuộc sống nơi đây:
Đường
vào Ấp Bắc, mưa bay trắng
Lúa xanh đồng, lúa vẫy người đi
Hố bom ngập nước vui đàn cá
Rặng cây xa thầm nhắc những ngày.
(Về thăm Ấp Bắc)
Quê hương vẫn còn đó dấu tích của chiến tranh, nhưng có hề
chi. Cuộc sống mới đang hồi sinh! Bức tranh quê hương với gam màu nhẹ xanh mát
của đồng lúa, hàng cây gợi sự bình yên cùng niềm hi vọng về một tương lai tươi
sáng, tràn đầy niềm vui, niềm hạnh phúc.
Và khi đặt chân đến Đà Lạt, nhà thơ cảm nhận về sự đổi thay
trên mảnh đất cao nguyên lạnh giá này:
Tôi
đến đây vượt đèo dốc, sương mù
Hồ vẫn đó mà cuộc đời đã khác
Thông không buồn mà thông reo, thông hát
Nước không còn than thở nỗi riêng tư.
(Hồ Than thở)
Và:
Đà Lạt vui như một bức tranh
Thiên nhiên quý người nên cho nhiều đến thế!
Những đồi thông rì rào bên cửa sổ
Những mặt hồ như mặt gương trong.
(Đà Lạt mùa hoa)
Đi đến đâu nhà thơ cũng cảm nhận được một cuộc sống khác, một
cuộc đời khác. Cuộc đời nô lệ với nỗi đau xưa giờ không còn nữa. Hình ảnh
thông, nước tượng trưng cho kiếp người, kiếp đời giờ đây không còn buồn đau, than
thở. Động từ “reo”, “hát” đi liền nhau nhấn mạnh niềm vui sướng tột cùng của
con người trước cuộc đời mới.
Và khi trở về với mảnh đất Khánh Hòa thân yêu, với thị trấn
Diên Khánh hiền hòa, ông đã kịp thời ghi nhận những đổi thay nơi đây:
Lúa
sắp vào vụ gặt, vườn đầy trái non
Công trường mới mọc lên ngổn ngang vôi gạch
Đôi mắt em cười, ôi đôi mắt miền Trung rất đẹp
Nơi ngày xưa máu đổ, nay bát ngát mùa xuân.
(Qua cầu Sông Cạn, mùa xuân)
Thể thơ tự do được vận dụng thật phù hợp trong việc chuyển tải
cảm xúc, tình cảm của tác giả. Mảnh đất ngày xưa, nơi giặc Pháp hồi đầu thế kỷ
XX đã xử chém nhà chí sĩ yêu nước Trần Quý Cáp, nơi đã từng thấm máu xương của
biết bao thế hệ cha ông, nơi đế quốc Mỹ đã từng khủng bố, đàn áp, huỷ diệt, giờ
đây một cuộc sống mới đang nảy mầm: lúa sắp vào vụ gặt, vườn cây đầy trái
non, và đặc biệt đôi mắt em cười, ôi đôi mắt quê hương miền Trung ngàn đời
vẫn đẹp, vẫn xanh trong.
Đất nước hôm nay đang trỗi dậy một sức sống mới, mọi người bắt
tay vào lao động, xây dựng làm chủ cuộc đời mình:
Cuộc đời lớn đó, tưng bừng
Máy cày vạch luống, con đường xe lên
(Chiếc nón bài thơ)
Từ năm 1978 do yêu cầu công tác, ông mới có dịp được sống giữa Hà Nội yêu thương.
Vậy là nỗi ước mong, niềm khao khát bấy lâu nay đã thành hiện thực. Vì vậy, những
trang viết về miền Bắc, nhất là về Hà Nội, cũng đậm đà, cụ thể hơn. Hà Nội thời
hậu chiến vẫn còn trong cảnh đói nghèo. Bát cơm đón khách từ miền Nam thương nhớ
“vẫn độn mì sao em, bát cơm của mỗi nhà” nhưng trên hết ấy là tấm lòng, là tình
nghĩa của con người dành cho nhau:
Em
gạn bớt mì, bới cho anh bát cơm gạo mới
Vẻ chắt chiu, đầm ấm, thương sao!
(…)
Có một điều em không nhận ra đâu:
Bát cơm độn mà lòng người đầy đặn
Thương Hà Nội còn nghèo sau thắng trận
Bồi hồi anh nhìn em quên ăn…
(Bữa cơm đầu ở Hà Nội)
Và trong cảm nhận của Giang Nam, Hà Nội giờ đây khác trước rất
nhiều, khác “từ cái dáng đi, từ mặt trời tỏa nắng”:
Từ nơi đây, mặt trời lên đỏ rực
(…)
Ôi sáng nay, Hà Nội đỏ màu cờ
Quảng trường nắng Ba Đình, hàng cây xanh vườn Bác
Mặt nước Hồ Tây, đường Thanh Niên gió rì rào ca hát
Hà Nội của mình đẹp lắm, em ơi!
(Bài thơ về
Hà Nội)
Đất nước mình vẫn còn nghèo sau thời hậu chiến, nhưng với cái
nhìn lạc quan và niềm tin yêu cuộc sống, nhà thơ cảm nhận một cuộc sống mới
đang bắt đầu ngập tràn niềm vui, niềm hạnh phúc:
Tết
ngoài này rộn rã biết bao nhiêu
Cờ đỏ Hồ Gươm, sông Hồng áo đỏ
Dòng người đi trong mưa phùn, trẻ lại
Đôi mắt cười như hạnh phúc tìm nhau
(Gởi Huế,
xuân này)
Hình ảnh quê hương đất nước còn hiện lên qua những điệu dân
ca, những câu quan họ, những câu hát bài chòi, tranh Đông Hồ:
Đêm
Bình Quới nghe em hát dân ca
Dòng sông xanh và cù lao đầy gió
Lòng rộng mở như đất này rộng mở
Câu “lý thương nhau” luyến láy cột chân người.
(Đêm Bình Quới
nghe hát dân ca)
Đêm
hội xuân nghìn con mắt đổ về
Cô gái hát dân ca
Một vùng quê Kinh Bắc
Không nón quai thao, không áo tứ thân
Không con thuyền buộc chặt
Mà vẫn lặng đi: người ở, người về.
(Quan họ)
Đêm
hội mùa xuân, em hát bài chòi
Anh lại nghe trăm miền thương nhớ cũ
Con sông nhỏ, cát vàng nhìn thấy đáy
Người đi hội xuân, soi đuôi mắt làm duyên.
(…)
Câu
hát bài chòi có cô gái làm dâu
Có “ông Xã”, “ông làng”
Có người trung kẻ nịnh
Anh đã mang đi như nỗi lòng canh cánh
Dưới đáy ba lô trong giấc ngủ chập chờn.
(Nghe
em hát bài chòi)
Những tưởng mùa xuân đã thực sự trở về, nhưng không, đất nước vẫn chưa được
bình yên, người lính vẫn chưa được nghỉ ngơi sau một chặng đường dài vất vả,
gian lao. Họ vẫn phải tiếp tục cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương, bảo vệ nền
độc lập, tự do vừa giành được bởi kẻ thù ở phương Bắc vẫn mang dã tâm chiếm nước
ta một lần nữa:
Ta
lại gặp một kẻ thù ta tưởng đã quên
Lịch sử chôn dưới mồ và bây giờ sống lại
Những cái đầu hung hăng và tăm tối
Giữa thế kỷ văn minh mơ lấy thịt đè người!
(…)
Những tên chặt đầu người và giết trẻ em
Những bản làng chìm trong lửa khói
Đau nhức lòng ta đêm mênh mông Hà Nội
Càng hiểu tình yêu, hạnh phúc, tự do.
Miền Nam ơi, và em ở quê xa
Tiền tuyến gọi mai anh lên phía Bắc.
(Bài
thơ đêm Hà Nội)
Yêu
thương và căm giận như hai đợt sóng dâng trào trong tâm hồn người lính. Không
thể bình yên cho kẻ thù gây tội ác, tất cả lại lên đường theo tiếng gọi thiêng
liêng của Đảng, của Tổ quốc:
Đảng đã gọi. Đêm nay dưới mỗi mái nhà
Không
ai ngủ chờ ngày mai ra trận
Đảng đã gọi. Yêu thương và căm giận
Cháy lòng ta…Hãy cứu lấy quê hương!
(Bài
thơ đêm Hà Nội)
Lời thơ gợi ta nhớ lại lời hịch năm nào của Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và dù ở
thời đại nào người Việt Nam vẫn canh cánh bên lòng tình yêu quê hương, xứ sở và
sẵn sàng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Đâu chỉ bảo vệ Tổ quốc thân yêu mà chúng ta còn giúp nước bạn
(Campuchia) diệt trừ bọn ăn thịt người Pôn-Pốt mang lại sự bình yên cho biên giới:
Chiều
Bảy Núi, biên giới “không bình yên”
Người lên tuyến trong khói mù đại bác.
(Chiều Bảy
Núi)
Tự
bao đời, biên giới hai nước vẫn bình yên, “Núi bên đó, núi bên này tựa vào nhau
mà đánh giặc”. Vậy mà, “có những kẻ hòng quên hạt muối cắn đôi” đang lén lút
gây tội ác. Và để giữ cho núi, đồng mãi một màu xanh, người lính lại tiếp tục cầm
súng lên đường. “Biên giới không bình yên”, thế mà, lòng người rất đỗi bình yên
dẫu biết trước mặt mình là giặc. Đấy là cái bình yên, trầm tĩnh, thấu suốt của
người đã từng trải qua chiến tranh bởi họ tin một điều những kẻ gây nên tội ác,
những kẻ đang cố giết chết nghĩa tình rồi cuối cùng cũng phải đền tội.
Lẽ thường con người ta sống ở hiện tại, mơ ước nhiều ở tương
lai và không quên nghĩ về quá khứ. Đặc biệt đối với những người đã từng sống và
chiến đấu trong những năm tháng gian khổ, ác liệt nhưng rất đỗi hào hùng của
dân tộc thì không thể nào quên được những gì đã diễn ra của ngày hôm qua. Và
Giang Nam cũng thế! Những cảnh, những sự việc, những con người vẫn mãi ám ảnh,
trăn trở trong thơ ông. Viết về cuộc chiến hôm qua là một cách để trân trọng,
ghi nhớ công ơn các thế hệ cha anh đã ngã xuống, đã hi sinh thân mình để làm
nên màu đỏ của những chiến công, màu xanh của sự sống hôm nay: “Đất nước đẹp từ
đau thương, căm giận – Máu và mồ hôi…để có cảnh, có người” (Đà Lạt mùa hoa). Bản
thân Giang Nam luôn tâm niệm một điều càng “trân trọng những ngày qua càng quý
hơn những gì ta có”. Và chúng ta không thể không thừa nhận có nhiều bài thơ
hay, câu thơ hay lại là trở về với những kỷ niệm, những từng trải của ngày qua.
Sống trong hòa bình nhưng Giang Nam vẫn nhớ về chiến trường xưa, nhớ những người
bạn đã từng cùng mình vào sinh ra tử nên tiếng thơ ông có sự lắng đọng trong
chiều sâu cảm xúc khi nhìn về quá khứ. Vì thế, khi về lại Trường Sơn tác giả
không khỏi bồi hồi, xúc động:
Lại
về Dốc Miếu, Tà Cơn
Bánh xe lăn, nắng Trường Sơn bồi hồi
Những ai qua đó một thời
Bàn chân dẫm nát núi đồi, cỏ tranh
Những ai nằm lại một mình
Đã về chưa, bước gập ghềnh còn đi.
(…)
Lại về nắng lửa Trường Sơn
Vắt cơm, hạt muối tình thương một thời
Bay đi những cánh chim trời
Mang nghìn mơ ước của người mà bay.
(Về Trường Sơn)
Năm tháng rồi sẽ xóa nhòa tất cả nhưng những kí ức về bạn bè, đồng chí thuở nào
vẫn hiện hữu trong tâm trí nhà thơ và ông viết về họ với nỗi khắc khoải khôn
nguôi.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ do yêu cầu của thời cuộc, nhà văn phải bám sát
và phản ánh được cái không khí nghẹt thở của cuộc chiến, phải tuyên truyền cổ
vũ tinh thần chiến đấu; văn học phải nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, con
người không thể sống với cái tôi riêng của bản thân. Vì thế, phương diện cá
nhân, đời tư ít được chú ý. Nếu như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Giang Nam
có đề cập đến tình cảm cha con, tình vợ chồng thì những tình cảm ấy vẫn gắn liền
với tình cảm chung của đất nước, của dân tộc. Khi nghe tin vợ con bị kẻ thù bắt
và không biết sống chết ra sao, ông đau đớn vô cùng. Ông nói với con nhưng cũng
là tự nói với chính mình: “Ba không buồn, không khóc đâu con”. Nhà thơ đã nén
tình riêng, biến đau thương thành hành động, mài sắc ý chí chiến đấu để trả thù
cho vợ con, cho dân tộc. Giờ đây, khi đất nước đã lặng yên tiếng súng, ý thức về
cái tôi cá nhân thức tỉnh, có điều kiện nhìn lại bản thân mình, nhà thơ quay về
trò chuyện với trái tim mình. Ông bắt đầu chú ý nhiều hơn đến phương diện đời
tư cá nhân, tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Ông nghĩ về quá khứ:
Quá
khứ là gì, em ơi
Là một phần của đời ta không chia cắt
Những vụng dại, lỗi lầm, tổn thất
Vinh quang và đắng cay
Có anh bạn thân bỏ mình mà đi
Lại có người không quen yêu mình đến tận cùng cái chết
(Nghĩ về quá khứ)
Câu thơ mang đậm tính triết lý về cuộc sống, con người. Với Giang Nam những cảnh,
những việc và con người trong quá khứ vẫn ám ảnh khiến ông day dứt mãi khôn nguôi.
Những kỷ niệm ấy găm sâu vào trong ký ức ông, là một phần của cuộc đời ông
không thể chia cắt. Đôi khi, ta bắt gặp người nghệ sĩ lặng lẽ suy tư:
Ta
hớp buồn vui từng hớp nhỏ
Nghe trong mưa từng giọt đắng ngọt ngào
(Mưa tháng năm)
Khi nói về hạnh phúc, nhà thơ Chế Lan Viên từng cho rằng: “Hạnh
phúc đựng trong một tà áo đẹp – Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” (Người
đi tìm hình của nước), còn với Giang Nam được đưa con đến trường là điều hạnh
phúc:
Má bận bao nhiêu là việc
Nên dành cho ba
Cái hạnh
phúc đưa con đến trường
Mười bảy tuổi đời con
Ba mới có niềm vui của những người cha, người mẹ
(…)
Có hạnh phúc nào lớn hơn
Như sáng mai này ba đưa con đến lớp
(…)
Cái hạnh phúc trong lành như hơi thở của con
Cái hạnh phúc nửa đời người ba mới gặp!
(Hạnh phúc)
Đưa con đến trường, một công việc thật bình thường của người
làm cha làm mẹ nhưng với Giang Nam ấy lại là niềm hạnh phúc lớn lao. Nhìn vào
hoàn cảnh của nhà thơ ta sẽ thấu hiểu và trân trọng vô cùng cái hạnh phúc nhỏ
bé, giản dị mà rất đỗi thiêng liêng ấy! Suốt những năm dài công tác và chiến đấu
ở hai miền Nam Bắc, ông không có nhiều thời gian dành cho vợ con. Giờ đây, ông
mới cảm nhận trọn vẹn niềm vui sướng khi lần đầu tiên cầm tay con đến lớp. Vì vậy,
nhà thơ nâng niu, trân trọng vô cùng cái hạnh phúc giản đơn, trong lành mà đến
nửa đời người ông mới tìm thấy!
Và khi nghĩ về nghề văn với tư cách là một nhà văn, ông lại tâm niệm về hạnh
phúc:
Hạnh phúc là gì? Câu hỏi xoáy lòng đau
(…)
Hạnh phúc là gì? Nước mắt tôi rưng rưng
Câu trả lời nào cũng không nói hết
Là nhà nghệ sĩ của nhân dân được đi và viết.
(Hạnh phúc)
Đó là niềm mong mỏi, là nỗi khát khao của người nghệ sĩ chân
chính và đồng thời cho ta thấy được một quan niệm đúng đắn về mối quan hệ giữa
văn học và cuộc sống. Văn học phải hướng về cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nhất
là cuộc sống của quần chúng nhân dân. Và muốn như thế người nghệ sĩ phải đi sâu
vào thực tế, bám sát đời sống của quần chúng nhân dân và phản ánh nó vào trong
các trang viết của mình.
Vẫn là tiếng lòng đằm thắm, thiết tha, Giang Nam gởi trái tim
mình đến vạn trái tim khác. Ông viết về những người bạn, những nhà văn, nhà thơ
mà ông từng kính yêu, ngưỡng mộ. Đây là những vần thơ ông viết về nhà thơ Yến
Lan:
Thanh thản một đời thơ
Thanh thản một tình yêu đã thành huyền thoại
Để lại bến My Lăng con đò đợi mãi
Ngơ ngác chiều, gió thổi lá sang sông.
(Mùa thu chợ huyện)
Giang Nam viết về nhà thơ Quách Tấn, tác giả Mùa cổ điển, với những
câu thơ thật xúc động:
Anh sống trọn tình với thế kỷ hai mươi
Mỗi ngọn núi, dòng sông với anh là lịch sử
Mãi không phai niềm say câu thơ cũ
Chùa
Hàn San tiếng chuông vọng, con thuyền…
(…)
Buổi mừng thọ anh mới đó đã xa xôi
Nhẹ nhàng anh đi như một nhà hiền triết
Chồng bản thảo mấy ngàn trang xếp chật
Ấm lòng ai qua Bến chợ chiều mưa.
(Bến chợ chiều nay)
Tình cảm của Giang Nam dành cho Quách Tấn, người “đã khép lại một thời đại
trong thi ca Việt Nam” (Hoài Thanh), thật nồng thắm. Nhà thơ đã cô đọng tấm
lòng mình rất chân thật trong mười hai câu thơ tám chữ để tưởng nhớ nhà thơ
Quách Tấn. Và thơ khi ra đi từ trái tim sẽ dễ dàng nhận được sự đồng điệu, đồng
tình từ hàng vạn trái tim khác.
Cũng có lúc ông lặng im nhìn sâu vào nỗi cô đơn của người nghệ
sĩ:
Đó
là nỗi cô đơn làm nên những thiên tài
Nỗi cô đơn của một người và của ngàn người khác
Hạnh phúc, tình yêu, tự do, sự nghiệp
Rất riêng mà rất chung.
Nỗi cô đơn của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tú Xương là nỗi cô đơn của người nghệ
sĩ tài hoa nhưng bất đắc chí. Người đời không thấu hiểu, không đồng cảm với họ.
Vì vậy, họ gởi tấm lòng mình vào trang viết mong nhận được tiếng nói tri âm của
người đời sau. Đó là nỗi cô đơn của người nghệ sĩ cách ta ba thế kỉ. Còn thời đại
hôm nay khác xưa nhiều lắm! Đời đã thay đổi rồi, đời đang có mùa xuân:
Nỗi
cô đơn đã có người chia sẻ
Không phải nỗi cô đơn kiêu căng, ích kỷ
Mà nỗi cô đơn giục giã những tấm lòng.
(Về nỗi
cô đơn của người nghệ sĩ)
Nghĩ về tình yêu, người đọc nhìn thấy ở ông một sự hi sinh thầm lặng. Ông giành
về phần mình nỗi nhớ thương, đau đớn. Ông nhìn thẳng vào bi kịch cuộc đời mình
và tự vượt:
Gần
không giữ được người thương lại
Thì xa tim vẫn đập trong nhau
Bao nhiêu thương nhớ mình anh chịu
Thức trọn đêm nay đủ bạc đầu.
(Đêm)
Giờ đây câu thơ của Giang Nam không chỉ đơn giản dừng lại ở mạch tình cảm, cảm xúc mà còn lấp lánh chất trí tuệ:
Đất
nào cũng đất quê
Cũng là nơi em bé ra đời và cụ già nằm xuống (Đường về An Đức)
Cũng là nơi em bé ra đời và cụ già nằm xuống (Đường về An Đức)
Câu thơ thể hiện một triết lý sống. Đâu chỉ đơn giản là tình yêu quê hương mà ở
đó còn chứa đựng cả lẽ sinh tồn, gắn bó về mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Vậy đó,
dù cách nói, cách thể hiện khác nhau nhưng bao giờ thơ Giang Nam cũng ánh lên
tình yêu đất, yêu quê tha thiết.
Về giọng điệu
Thơ là tiếng nói đi ra từ trái tim một người và hướng đến trái tim của vạn người.
Như vậy để có được sự đồng cảm, đồng điệu trong tâm hồn và tác phẩm có sức sống
bền lâu trong tâm hồn con người, thì tất yếu người nghệ sĩ phải có cách diễn đạt
riêng và nhất là có một giọng điệu riêng cho chính mình. Giọng điệu là điểm
phân biệt các nhà văn, nhà thơ. Giọng điệu “phản ánh lập trường xã hội,
thái độ, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò to lớn trong việc
tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một
giọng điệu nhất định nhà văn chưa thể viết ra tác phẩm”. Bàn về vấn
đề này, trong Điển luận, Tào Phi cho rằng:“Văn lấy khí làm chủ, khí có thể
trong và có thể đục, không thể dùng sức mạnh mà có được”. Lưu Hiệp trong Văn
tâm điêu long cũng đề cập đến phong cốt, khí chất của nhà văn: “Văn cần
có cốt cách cũng như thân thể người ta có bộ xương. Tình cảm của ta chứa đựng sẵn
cái phong cũng như hình hài ta chứa đựng cái khí chất vậy”. Còn khi bàn về
giọng điệu thơ trữ tình, Nguyễn Đăng Điệp viết: “Giọng văn chương vừa cho
phép người đọc nhận ra vẻ riêng nghệ sĩ, vừa có ý nghĩa như một tiêu chí xác định
tài năng nhà văn. Không có giọng điệu, lập tức tác giả sẽ được liệt vào số người
không có tài năng”.
Từ việc tìm hiểu các ý kiến khác nhau về giọng điệu, ta nhận
thấy giọng điệu là yếu tố bộc lộ chủ thể một cách trung thực, cho phép ta nhận
ra nét riêng, sự độc đáo của người nghệ sĩ. Giọng điệu là yếu tố cơ bản tạo
thành phong cách nghệ thuật. Tuy nhiên, không thể có giọng điệu nếu không có những
rung động sâu sắc, những nỗi đau, những xót xa trước quê hương đất nước, trước
thân phận con người, không xẻ chia với họ nỗi đau, niềm vui và tình yêu cuộc sống.
Nghiên cứu về giọng điệu thơ Giang Nam, chúng tôi nhận
thấy thơ Giang Nam mang giọng điệu trữ tình – cách mạng (Nguyễn Công
Lý) nghĩa là ông chuyên chở những vấn đề của dân tộc, của đất nước bằng tiếng
thơ mượt mà, trữ tình, sâu lắng, và đấy cũng là cái điệu chung của thơ ca cách
mạng miền Nam. Giọng điệu thơ Giang Nam gắn liền với mạch cảm xúc tình cảm xuất
phát từ trái tim chân thành, từ chiều sâu suy nghĩ và ý thức thẩm mỹ của một
thanh niên sống hết mình vì quê hương đất nước, vì lý tưởng cách mạng.
Viết về nỗi đau riêng của bản thân cũng như nỗi đau chung của
cả dân tộc, lời thơ bật ra thật nghẹn ngào, đau xót:
Giặc
bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ
vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người…
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
(Quê hương)
Những năm dài kháng chiến, mang quê hương xanh biếc bên mình ra đi chưa một lần
về lại, nhà thơ nói về nỗi nhớ quê với âm điệu buồn tha thiết:
Hăm ba năm rồi
Ba chưa về quê nội
Nơi ba lớn lên
Giữa những cây xoài, cây ổi
Nơi ba biết yêu
Tiếng nội hát buồn buồn
“À
ơi, con mèo con chuột có lông
Ống tre có lỗ, nồi đồng có quai!”
(…)
Con có về thăm nơi ấy thay ba
Có thấy nội con đêm đêm còn khóc?
Bông bưởi vẫn còn rơi trên tóc
Hay chỉ là mảnh pháo sắc như dao.
(Con có về thăm quê nội)
Tâm trạng của người lính ngụy trong buổi đi càn được nhà thơ
tái hiện bằng giọng thơ trầm buồn, da diết, khắc khoải:
Anh nín thở nép mình sau gò đất
Mắt căng lên trong bóng tối chập chờn
Làng nào đây? Ồ cũng những đụn rơm
Con mương nước, gốc dừa xiêm
Và chiếc cầu tre gập ghềnh như sắp đổ
Anh nghe tiếng trẻ thơ nô đùa trước ngõ
Tiếng chày khua và cả tiếng xa quay
Anh cắn môi. Trời, những tiếng xa quay
Sao khắc khoải như tiếng người thương nhớ.
Giọng thơ tâm tình mang âm hưởng ngọt ngào của những lời ru.
Vì tiếng thơ ra đi từ trái tim chân thành, nhạy cảm nên thơ Giang Nam có sức sống
bền lâu trong lòng bạn đọc. Chính giọng điệu đã góp phần lý giải vì sao trong
những năm tháng đấu tranh gian khổ, người đọc cả hai miền Nam Bắc tìm đến thơ
Giang Nam như một chỗ dựa tinh thần để vững tin và mài sắc ý chí chiến đấu. Một
số bài thơ của Giang Nam đã trở thành những bài binh vận như: Quê hương, Bài
ca tháng tám, Tiếng xa quay…
Sau ngày đất nước đổi mới, Giang Nam đã tự làm mới mình nên
tiếng thơ của ông có sự lắng đọng trong chiều sâu cảm xúc và có thêm chất triết
lý. Tình cảm trong thơ cô đọng hơn chứ không dàn trải như trong thơ kháng chiến
nhưng tựu trung lại chất giọng trữ tình vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Về thể thơ
Thơ
tự do vốn xuất hiện từ trong phong trào Thơ Mới và được sử dụng rộng rãi
trong thơ hiện đại. Đây là một thể thơ được các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ,
trong đó có Giang Nam, sử dụng một cách nhuần nhuyễn. Khi bàn về thơ tự do, Hà
Minh Đức đã nhận định: “Thơ tự do không phải là một hình thức định trước của
nhà thơ khi sáng tác mà là một hình thức đã được nhà thơ tìm đến với độ
chín của tâm hồn, phù hợp nhất để diễn tả đối tượng, tâm đắc nhất để diễn tả
các trạng thái tinh vi của tình cảm”. Thống kê 235 bài thơ, chúng
tôi nhận thấy Giang Nam chủ yếu sử dụng thể thơ tự do để chuyển tải tư tưởng,
tình cảm của mình. Thể thơ này chiếm tỷ lệ 60,42%. Đặc biệt là những sáng tác
theo thể thơ này xuất hiện khá cao trong giai đoạn kháng chiến. Sở dĩ thơ tự do
chiếm ưu thế trong thơ Giang Nam bởi nó có thể tiếp nhận một dung lượng cuộc sống
thực tế lớn hơn. Mặt khác, với thể thơ tự do, nhà thơ có điều kiện phát triển mạch
cảm xúc thoải mái mà không bị lệ thuộc vào một luật lệ nào.
Ở thể thơ này, ông đã có những câu thơ từ 3 đến 15 tiếng nhưng tập trung
nhiều nhất là những câu thơ 6, 7, 8, 9 tiếng (Những người vợ miền Nam, Mạnh hơn
súng gươm và án tử hình, Sau ngày chiến thắng, Người con gái Kiến Phong, Con có
về thăm quê nội, Thăm quê Nguyễn Huệ, Bài thơ đêm Hà Nội, Hạnh phúc…). Nhà thơ
đã có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các loại câu thơ trong một bài thơ:
Chúng nó trói anh vào cột
Mắt anh vẫn sáng ngời ngời
Anh Trỗi ơi!
Anh không khóc mà sao lòng nức nở?
Quê chúng mình khu năm – Anh còn nhớ
Chuyến đò ngang trên sông nước Thu Bồn
Và Sài Gòn –
Sài Gòn trăm mến nghìn thương
Bà Chiểu, Thị Nghè, Cầu Bông, Khánh Hội
(Mạnh hơn súng gươm và án tử hình)
Em Nguyễn Thị Bé ơi!
Em không còn nữa
Chúng nó giết em rồi
Những thằng côn đồ mặt chó
Chúng nó giết em, người con gái Kiến Phong
Của quê ta, của Nam bộ thành đồng.
(Người con gái Kiến Phong)
Theo bạn về Hà Tĩnh
Bàn chân NGUYỄN còn hằn trên đá sỏi
Câu thơ quặn lòng nỗi bất hạnh trăm năm:
“Nàng thì cõi khách xa xăm
Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây”
Bãi lau còn đó hơi may
Hình như tôi đã quên một Tiền Đường xa lắc
Có phải Kiều đã qua đây
Nước mắt thấm vào từng hạt cát
Hà Tĩnh ơi!
(Về Hà Tĩnh nhớ Nguyễn Du)
Lục bát là một thể thơ “diệu kỳ” có giá trị nhất định
trong đời sống văn học cũng như trong tâm hồn của công chúng yêu thơ. Thơ lục
bát được ca ngợi như một hình ảnh đẹp: “Lục – Bát là Lục – Bát ơi/ Em duyên
dáng vậy làm tôi say lòng/ Con sáo thì đã sang sông/ Ai thì vẫn bắc cầu vồng mộng
mơ (…) Lục – Bát là Lục – Bát ơi/ Ước gì Lục – Bát là tôi với nàng” (Nguyễn Thị
Kim Quy – Báo Văn nghệ ngày 21/1/1993). Khảo sát thơ lục bát, chúng
tôi nhận thấy thơ lục bát có khoảng 29 bài trong tổng số 235 bài chiếm
tỷ lệ 1,23 %, một tỷ lệ tương đối khiêm tốn trong sáng tác của Giang Nam và xuất
hiện nhiều trong các sáng tác sau năm 1975. Thơ Giang Nam là tiếng thơ thốt ra
từ trái tim chân thành, đằm thắm. Ông nói về những vấn đề lớn lao của dân tộc,
thời đại bằng giọng thơ trữ tình, sâu lắng. Vì vậy, việc ông tìm đến thể thơ lục
bát để diễn tả tình cảm của mình đối với quê hương đất nước, con người là một
điều tất yếu.
Nhìn chung, số khổ trong thơ và số câu trong một khổ được
phân chia khá đa dạng. Hầu hết các bài thơ gồm nhiều khổ. Số câu trong một khổ
có sự thay đổi tùy theo nội dung, cảm xúc của tác giả, ví dụ như: khổ thơ gồm 2
câu (Câu hát cũ), 4 câu (Bài ca chiến trường), 6 câu (Về Trường Sơn), 8 câu (Hàng
tre Giồng nhỏ), 10 câu (Mẹ Củ Chi), 18 câu (Đất nước còn mang hình bóng Bác)…Về
cách ngắt nhịp thơ lục bát, đôi khi, ông không theo nhịp chẵn quen thuộc mà đã
có sự thay đổi, chẳng hạn:
Cách ngắt nhịp ở câu 6 tiếng:
+ Nhịp 1/2/3:
Mẹ/ giao con/ mảnh đất này
(Mẹ Củ Chi)
+ Nhịp 3/3:
Đông hay Tây/ cũng bản làng
(Về Trường Sơn)
+ Nhịp 1/2/3:
Người/
còn đợi/ đến bao giờ
(Dưới chân núi Mẹ bồng con)
+ Nhịp 1/3/2:
Đá/ không trở lại/ làm người
(Dưới chân núi Mẹ bồng con)
Cách
ngắt nhịp ở câu 8 tiếng:
+ Nhịp 3/3/2:
Câu
hát cũ,/ em nhớ gì/ không em?
(Câu hát cũ)
+ Nhịp 3/1/4:
Ba Đình nay/ nhớ/ Ba Đình ngày vui
(Đất nước còn mang hình bóng Bác)
+ Nhịp 1/3/4:
Không,/ ngàn cặp mắt/ dạt dào yêu thương
(Tiễn cháu qua đường 4)
+ Nhịp 3/5:
Tình
của bạn/ cũng là tình Bác xa
(Bài ca chiến trường)
Dù sử dụng thể thơ truyền thống nhưng thơ lục bát của Giang
Nam đã có những biến đổi về khổ thơ, câu thơ và nhịp thơ để cho chúng trở nên mới
lạ và phong phú hơn.
Thể
thơ 5 tiếng có số lượng khá ít (19/235 bài thơ, chiếm tỷ lệ 0,8%). Các khổ
thơ của thơ 5 tiếng thường có 4 câu. Tuy nhiên, có bài khổ thơ lên đến 10 câu
thơ 5 tiếng như bài Thức giữa mùa xuân, Mở đường hoặc có bài đoạn
kết lại xen các khổ thơ 7 tiếng như bài Chị em. Đáng chú ý là số lượng khổ
khá cao trong mỗi bài thơ như: Mừng bạn mùa xuân (9 khổ), Những
vết bầm trên má (11 khổ), Bởi ngày mai giặc đến (13 khổ), Chị
em (14 khổ), Gặp anh du kích miền Tây (27 khổ)…
Riêng về cách ngắt nhịp, đôi khi, ông có những câu thơ vượt
ra ngoài cách ngắt nhịp thông thường 2/3 hoặc 3/2, chẳng hạn như:
+ Nhịp 2/1/2:
Chị
cười/ và/ chị khóc
(Thức
giữa mùa xuân)
+ Nhịp 1/1/3:
Nắng/ rung/ cành phượng đỏ
(Bởi ngày mai giặc đến)
+ Nhịp 1/2/2:
Mà/
thương em/ muốn khóc
(Chị em)
Về thể thơ, Giang Nam ít có sự bứt phá, cách tân mà dấu ấn của
thơ ca truyền thống vẫn còn in đậm trong sáng tác của ông. Tuy nhiên, cách ngắt
nhịp thơ có những sáng tạo vượt thoát khỏi những quy luật thơ truyền thống đã
chứng minh cho sự miệt mài và cố gắng thể nghiệm trong quá trình sáng tác của
nhà thơ.
Về ngôn ngữ thơ
Nhà văn khi sáng tạo nên tác phẩm bên cạnh việc sáng tạo hệ thống nhân vật,
hình tượng, thế giới nghệ thuật…thì cũng đồng thời sáng tạo ngôn ngữ bởi “Thơ
phải làm say đắm hồn người bằng hồn vía của chữ nghĩa”. Giang Nam đã vận dụng
ngôn ngữ của đời sống hàng ngày trong thơ một cách tự nhiên, bình dị, sinh động.
Những từ ngữ địa phương, đậm sắc thái Nam Bộ được ông đưa vào thơ góp phần tạo
nên chất hiện thực với sắc thái riêng độc đáo. Và đó cũng chính là đặc điểm của
thơ ca kháng chiến.
Về ngôn ngữ thơ Giang Nam, chúng tôi sẽ tìm hiểu những nét đặc sắc trong cách
dùng từ ngữ, các biện pháp tu từ và hình ảnh trong thơ.
Giang Nam có sự kết hợp nhuần nhuyễn các động từ,
tính từ tình thái:
Cô
bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt
đen tròn thương, thương quá đi thôi
(…)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn, ngậm ngùi
Em
vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng
(Quê hương)
Chính sự kết hợp các động từ, tính từ tình thái làm câu thơ đậm sắc thái biểu cảm
và trở nên gần gũi hơn:
Đêm thương
nhớ một con đường cỏ ướt
Bến nước xôn xao mái tóc, mảnh khăn rằn
(Đường về)
Các động từ được sử dụng liên tiếp còn để nhấn mạnh niềm vui
sướng tột cùng của con người được tự do, được làm chủ:
Sung sướng quá tôi muốn cười, muốn nói
Muốn thét to lên như thuở ấy ra đường
Đặc trưng của thơ là giàu sức gợi nên thơ Giang Nam được cô đúc bằng những từ
ngữ tạo hình, gợi tả, gợi cảm:
Thương
biết mấy những bờ vai nhỏ hẹp
Áo
bà ba trắng thon thon
(Những
người vợ miền Nam)
Anh
vẫn là cây cổ thụ rễ sâu
Bám
chặt xóm thôn, ăn vào lòng đất.
(Đi
để trở về)
Em
vẫn đẹp như mùa xuân chín tới
Má vẫn hồng và mái tóc vẫn xanh
(Thành
phố của chúng ta)
Họ như mùa xuân chín ngọt trên cành
Hoa nở đầu môi, sông cười trong mắt
Tuổi mười chín, áo chưa sờn đã chật
Bước vụng về nhưng rắn chắc, hăng say
(Hoa mùa
xuân Nam bộ)
Biện pháp tu từ ngữ nghĩa so sánh được Giang Nam sử dụng một
cách sáng tạo, độc đáo:
Môi em cười như hoa bưởi, hoa sen
Tươi mát những dòng sông mùa mít ngọt
(Chiến thắng)
Chị
đứng đó: nhỏ bé, mong manh nhưng tràn đầy sinh lực
Như mạ
non chị cấy, như bụi chuối chị trồng
(Chiếc
áo cuối cùng)
Giang Nam còn sử dụng cấu trúc so sánh đảo với những câu thơ
đầy ấn tượng:
Bàn tay mềm thon thon
Ôm cổ ba nũng nịu
Như một
cánh chim non
Như một
cành sậy yếu.
(Bởi
ngày mai giặc đến)
Như vú
mẹ không cạn nguồn sữa quý
Như dòng
sông vô tận chẳng ngừng trôi
Gói trọn tâm tình trên đôi cánh nhẹ
Làn sóng đi mang nắng khắp phương trời
(Tiếng
nói Việt Nam)
Biện pháp tu từ so sánh được Giang Nam sử dụng rất nhiều, không chỉ dùng liên từ
“như” để so sánh hai vế, nhà thơ còn sử dụng từ “là”:
Em là ngọn lửa tháng năm đốt cháy cánh đồng
Em là ngôi sao sáng giữa trời.
(Đội
du kích anh hùng)
Song hành với so sánh, điệp ngữ cũng là một phép nghệ thuật được nhà thơ vận dụng
khá nhiều nhằm nhấn mạnh suy nghĩ, cảm xúc qua một số từ ngữ:
Một vùng lũ trắng không bờ
Lại xanh…tranh thủ từng giờ mà xanh
(Hội
xuân vùng lũ)
Tôi
về quê biển miền Trung
Nghe sóng
nói những lời thương nhớ
Nghe gió
gọi những tên người quen cũ
Nghe rì
rầm ghềnh đá nhấp nhô
Nha Trang ơi, biển đêm sóng vẫn vỗ bờ
Ánh đèn câu mực tuổi thơ sáng trong kí ức.
(Biển
miền Trung)
Trời
Bến Tre xanh như vườn Bến Tre xanh
(Đất
anh hùng)
Anh vẫn thương em son sắt, vẹn toàn
Dù đã nát cả cuộc đời trinh trắng!
Đã trinh trắng em càng thêm trinh trắng!
Đã thương nhiều, càng thương lắm em ơi!
(Những người vợ miền Nam)
Chính sự phong phú trong cách sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật đã giúp
thơ ông chạm đến những xúc cảm sâu lắng trong hồn người.
Dù chiến tranh khốc liệt, sự sống và cái chết cận kề, thơ
Giang Nam vẫn ánh lên cái nhìn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống và con người thể
hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng. Vì thế, thơ ông thiên về các hình ảnh
tươi sáng, gam màu nóng. Ông hay nhắc đến màu đỏ, màu xanh, ánh sáng cũng như
các dạng biểu hiện của chúng, chẳng hạn ánh sáng: ánh sáng, sáng chói, mặt
trời, nắng mới, ánh đèn, chấm lửa, đốm lửa, biển lửa…; màu xanh:bóng dừa
xanh, trời thăm thẳm một màu xanh, biển xanh, xanh màu áo, đồng xanh,
; màu đỏ: áo đỏ, ngôi sao đỏ, hoa chuối đỏ, đôi môi đỏ, máu đỏ, ráng đỏ,
ngói đỏ, nắng đỏ, bông hồng đỏ… Những màu sắc và ánh sáng biểu hiện ý
niệm về cuộc sống và những khát vọng ẩn chứa trong tâm hồn nhà thơ. Màu xanh,
màu đỏ, ánh sáng tượng trưng cho sức sống, sức trỗi dậy mãnh liệt của vùng đất,
con người Nam Bộ đồng thời thể hiện niềm tin tưởng, lạc quan của tác giả.
Lấy chất liệu từ hình ảnh, màu sắc thực trong cuộc sống đưa
vào thơ là một hướng khai thác đầy cá tính của các nhà thơ. Giang Nam hay sử dụng
các gam màu xanh, màu đỏ:
Con có về
thăm nơi hoa toàn màu đỏ
Con có về thăm nơi thắm thiết điệu ru hời
(Con có về thăm quê nội)
Ôi mùa xuân tôi đi dọc sông Đà
Hoa chuối đỏ như rất nhiều chấm lửa
(Sông Đà, mùa xuân)
Cô gái áo xanh quai chèo nhè nhẹ
Nắng gió mơn man đôi cánh tay tròn
Đồng giải phóng màu xanh mát mắt
Nơi em nằm lúa vàng trĩu hạt
(Viết
ở Đại Điền)
Ngoài ra, những gam màu “trắng”, “hồng”, “tím”, “vàng” cũng
được ông đưa vào trong thơ một cách tự nhiên, dung dị:
Mảnh
đất đồng bằng ngọt mía, vàng cam
Gợi nhớ, gợi thương những chân trời cũ
Đuốc rừng Ba tơ – đắng, lạt canh đu đủ
Đêm Hàm Luông, cá nhảy trắng khoang xuồng.
(Một
mặt trời đỏ rực)
Hậu
phương, hậu phương
Đỏ dải
lụa sông Hồng
Xanh những
cành cam có bầy ong về hút mật
Sao vàng bay trên nơi Bác đọc tuyên ngôn.
Trắng cánh
cò bay lả mênh mông
Một thung lũng Điện Biên tím màu hoa mua bình dị
Năm sắc cầu vồng đã làm nên Tổ quốc ta hùng vĩ…
(Giữ cho tôi màu sắc nước non này)
Cũng như nhà thơ Lê Anh Xuân, Giang Nam đã đưa phương ngữ Nam Bộ, tên địa danh,
tên các nhà văn, nhà thơ vào trong thơ mình. Đây cũng là một cách nhằm tạo ra sắc
thái biểu cảm trong thơ:
Em còn sống đấy, quê hương
Vẫn đôi mắt của đồng, bưng cuối trời
(Hàng tre Giồng nhỏ)
Lại về với đất mùa xuân
Lòng người như suối trong ngần hát ca,
Con dao vạch lối rừng xa
Rẫy cách mạng, đuốc mò o bập bùng.
(Đất mùa xuân, đất tiến quân)
Việc sử dụng phương ngữ Nam Bộ cho ta thấy được tình cảm gắn
bó của nhà thơ với mảnh đất mình từng sinh sống. Không chỉ dừng lại ở đó, Giang
Nam còn đưa tên đất, tên người vào thơ mình:
Bác vốc
vào đôi tay
Từng giọt nước trong vắt
Chiếc áo nâu Bác mặc
Thấm mồ hôi đường dài
(Rừng trưa)
Bác không
ngủ năm nào rừng Việt Bắc
“Nỗi nước nhà” giờ chắc Bác chưa yên
Trường
Dục Thanh con nghe từng chiếc lá
Khe khẽ rơi như ngại động bậc thềm
(Nghe
thơ Bác ở Phan Thiết)
Cầu Sông
Cạn ta chưa về thăm nơi cụ Nghè ngã xuống
Ôi Nguyễn Huệ đã phá giặc mấy lần
Trên dòng Cù Huân mịt mù khói sóng
Những năm ba mươi, cờ đỏ búa liềm
Mọc trên đỉnh Ổ Gà mẹ còn nhớ như in
Đất lịch sử, ru nôi người từ tuổi nhỏ
Hòn
Dữ, Hòn Hèo, Đá Bàn, Dốc Mỏ.
(Khánh
Hòa, Nha Trang ơi!)
Có sông Hồng, sông Lô, có Hồ Gươm, Đống
Đa
Có cả thơ Nguyễn Du và Nguyễn Trãi
Có mười hai cô gái Truông Bồn mở đường trong đêm tối
Và có miền Nam, có miền Nam!
(Giữ cho tôi màu sắc nước non này)
Các địa danh quen thuộc, tên nhân vật lịch sử được Giang Nam
đưa vào trong thơ như là một cách để gợi nhớ về quá khứ hào hùng, về cội nguồn
dân tộc.
Ngoài ra, nhà thơ còn dành riêng từng bài thơ để nhắc đến tên
cụ thể của từng người như: Về Hà Tĩnh nhớ Nguyễn Du, Đêm xuân Quy Nhơn đọc
Hàn Mặc Tử, Mùa thu chợ huyện, Cháy trong lửa, Bài thơ ấy, Thăm nhà E.
Hemingway, Vội thế sao anh,…
Thơ Giang Nam phục vụ chính trị, tuyên truyền cổ vũ chiến đấu,
đó cũng là giá trị, là điều tất yếu của văn học thời kì chiến tranh. Sáng tác của
Giang Nam đã đáp ứng được yêu cầu của thời đại nghĩa là nó đã thực hiện được chức
năng xã hội – lịch sử của mình. Đọc thơ Giang Nam, ta lại nhớ câu nói của
Sóng Hồng: “Thơ tức là sự thể hiện con người và thời đại” [98, tr.50]. Tuy
nhiên, xét đến cùng, chất hiện thực của nhiều bài thơ vẫn chưa vươn tới chiều
cao của những vấn đề thời đại. Nhiều lúc chúng ta bắt gặp trong thơ những con
người, những sự việc, những tình cảm quá chung chung, hình tượng nhân vật chưa
cụ thể, sắc nét. Sự sống chưa ùa vào trong thơ kết tinh lại thành những hình ảnh
chân thực và xúc động. Có một số bài thơ rơi vào kể lể dài dòng mà vẫn thiếu cụ
thể. Còn với thơ ca sau 1975, cảm hứng sáng tạo chưa gắn liền với
thực tế mà gắn liền với khát vọng về tương lai với niềm vui tràn đầy khi được tự
do. Nhưng đó là nhiệt tình, là tấm lòng của ông đối với quê hương đất
nước, với dân tộc. Vì thế, tiếng thơ Giang Nam tác động mạnh đến người đọc, cổ
vũ tinh thần chiến đấu của thế hệ trẻ. Hơn nữa, trong điều kiện chiến tranh ác
liệt, chúng ta không thể đòi hỏi quá nhiều ở nhà thơ, bởi ông đâu có thời giờ gọt
giũa từng câu chữ, tìm tòi những cái độc đáo. Nhưng dẫu sao chúng ta vẫn trân
trọng tiếng thơ Giang Nam!.
Trần Thị Thúy Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét