Chiếc thuyền máy lướt nhẹ trên sóng biếc. Tôi ngó ra mênh
mông biển hồ Thác Bà. Mặt trời giống như chiếc đèn lồng đỏ tươi treo lơ lửng
trên đỉnh núi Mèn. Kia là con đập Nhà máy thủy điện Thác Bà vươn từ chân dãy
núi Chàng Rể vượt sang chân núi Cao Biền, vồng đập căng lên như vồng ngực chàng
trai khổng lồ đón sóng gió biển hồ.
Sừng sững giữa trời kia là núi Cao Biền, những đám mây phớt hồng
cứ bay lang thang như muốn tìm lại huyền thoại xửa xưa với những "Cao Biền
dậy non"; "Ông bà Khổng Lồ đi tìm đất sống" ở vùng Thu Vật cổ.
Thuyền máy nghiêng mạn xé nước một vòng, vượt ra khỏi mê cung của quần đảo
Hương Lý. Những hòn đảo xanh xinh đẹp hình như đang chòng chành - chòòng
chàành, bồng bềnh - bồồng bềềnh. Dưới chân đảo, những chiếc thuyền kéo rọ tôm
bé tẹo cứ dập dềnh dập dềnh theo sóng. Xa xa, một chiếc tàu chở khách từ cảng
Hương Lý đang hối hả rẽ nước về hướng bến Cẩm Nhân.
Phút ban mai choáng ngợp giữa một trời non xanh nước biếc biển
hồ Thác Bà khiến tôi bồi hồi nhớ những ngày xưa nao nức và oanh liệt trên công
trình sáng tạo "đứa con thủy điện đầu lòng" của Chủ nghĩa xã hội. Sử
sách còn sáng ngời sự cống hiến, hy sinh to lớn của những người công nhân, kỹ
sư, chuyên gia Liên Xô, của các chiến sĩ và nhân dân huyện Yên Bình trong lao động
và trong chiến đấu chống lại cuộc hủy diệt tàn bạo của không lực Hoa Kỳ. Còn đấy
hàng chục cán bộ, công nhân, chiến sỹ tự vệ anh dũng hy sinh nay vẫn chưa tìm
ra dấu tích và 81 liệt sĩ khắc tên trên Bia tưởng niệm ngay đầu con đập thủy điện.
Còn đấy dưới lòng hồ Thác Bà cả nghìn héc-ta "bờ xôi ruộng
mật", cả chợ Ngọc chợ Ngà, cùng với nền văn hóa vật thể ngàn năm của người
dân Yên Bình. Hơn năm vạn người dân Yên Bình đã phải di dời, mang theo hơn ba vạn
mồ mả cha ông, dòng tộc, 30 nhà thờ, 40 đền chùa miếu mạo, bao phong tục tập
quán sống và canh tác, cùng với dằng dặc những năm tháng gian khó, cho Nhà máy
Thủy điện Thác Bà mọc lên kiêu hãnh. Ðể ngày nay hồ thủy điện Thác Bà mênh
mông, thường thì hết tháng 9 hàng năm, nước có thể dâng lên hết cốt 58, có
nghĩa là mặt hồ đã chứa xấp xỉ 2,9 tỷ m3 nước trên một diện tích hơn 23.000ha với
1.300 hòn đảo xanh, có nghĩa là nước đủ cho các tổ máy sản xuất điện, cung cấp
cho nhân dân và nền kinh tế quốc dân suốt mấy chục năm qua gần 15 tỷ KWh
điện và đủ khả năng phủ đỉnh thường xuyên cho lưới điện quốc gia. Nước hồ Thác
Bà còn là một biển nước ngọt lành, cung cấp một lượng rất lớn tôm cá.
Ðược biết, từ năm 2000 - 2007, lượng cá đánh bắt được gần
25.000 tấn, không kể hàng ngàn tấn tôm. Tiền tỷ của dân từ tôm cá cùng với lúa,
ngô, khoai, sắn, rừng cây, đã góp phần giảm bớt đói nghèo cho gần mười vạn dân
Tày - Kinh - Dao - Nùng của 29 xã thuộc huyện Yên Bình và Lục Yên, thật
quý!
Và nữa, hồ Thác Bà không chỉ là "nguồn than trắng vô
biên", là nguồn nước ngọt lành nuôi vô vàn tôm cá, mà miền trời xanh - rừng
đảo xanh - nước xanh này còn là miền kỳ thú hấp dẫn đối với bao nhà khoa học,
các nhà đầu tư và du khách. Thì đấy, những hòn đảo xưa cô đơn nay đã dập dìu
tàu thuyền ngược xuôi chở khách, chở đá, chở gỗ, chở hàng hóa lên nhà máy chè,
nhà máy xi-măng, nhà máy chế biến gỗ, lên bến chợ Thác Bà, chợ Cẩm Nhân, chợ
Tân Hương, chợ Tân Nguyên, chợ Tô Mậu... Những hòn đảo xưa cô đơn nay đã
rộn bước chân đàn bò, đàn dê, đã xanh lên ngút ngàn rừng bạch đàn, rừng keo, rừng
tre, rừng bồ đề, rừng vầu, rừng nứa. Nơi ấy, trên vòm xanh của lá, gió hát rì
rào, sơn ca hót ríu ran, từng đàn cò trắng bay về tụ hội. Ðã nhiều lần phiêu dạt
lang thang non nước vùng hồ, tôi không thể không nhớ cứ vào tháng Sáu đến đảo
Cò, nhìn lên các lùm cây, lòng bỗng hồi hộp khi thấy hàng trăm tổ cò đơn sơ
nhưng trong đấy đang ấp ủ ba quả trứng xanh- giọt máu giống má của họ nhà Cò.
Sang tháng Tám, từ xa đã thấy những chú Cò con chập chững bay theo cánh bay luyện
của Cò mẹ, chúng sà xuống mặt hồ giỡn sóng rồi lại rập rờn chớp trắng bay lên rừng
cây, cứ thế sáng sáng chiều chiều chúng đem lại cho quần đảo sự yên lành, thanh
bình biết bao! Còn giữa tháng Bảy, những trận mưa rào trút xuống là mùa yêu
đương của họ nhà Chép. Chừng ba, bốn giờ sáng chúng tôi bơi một chiếc thuyền
con ra ven đảo nào đó, bơi thật nhẹ nhàng, thủ sẵn bật lửa, vài cút rượu, dấm ớt,
tỏi, gừng, rau thơm..., rồi cứ buông cho thuyền trôi tự do, còn tất cả im lặng
ngồi xuống lòng thuyền. Mưa lắc rắc nhưng chẳng sao. Khi nghe tiếng xé nước
loách roách, tôi căng mắt nhìn, trong ánh nước mờ mờ chợt thấy các chàng
Chép, nàng Chép quấn riết lấy nhau tỏ tình thật sôi nổi, mạnh mẽ.
Cũng lúc ấy, bốn bề tưởng cả ngàn sao trời rơi xuống mặt hồ lấp
láy lấp láy, nhưng không, đấy là ngàn đốm lửa đèn rực lên từ những con thuyền
thả lưới của các làng nổi trên hồ. Phiêu dạt cho đến sớm mai ra, chúng tôi ghé
xuồng máy bên chiếc thuyền thả lưới, mua ngay một đôi cá chép to còn đang giãy
lạch xạch trong khoang thuyền, thêm vài chục con tôm càng, lên đảo đốt lửa nướng
cho thơm, rồi đánh trần, khoanh đùi trên cỏ nhắm rượu giữa trời nước trong xanh
mênh mông. Cái thú ăn chơi hoang dã giữa thiên nhiên thật khoái chá không thể
gì sánh được!
Thuyền máy tiếp tục lướt sóng. Ra giữa biển hồ chỉ chút gió,
sóng đã dồn lên vỗ ào ạt vào mạn thuyền. Cứ thế ngược mãi lên, bên phải là Phúc
Linh - Xuân Lai - Mỹ Gia - Cẩm Nhân - Tích Cốc - Ngọc Chấn - Xuân Long, bên
trái là Ðại Ðồng - Tân Hương - Tân Nguyên - Mông Sơn - Bảo Ái... Ở đấy, các
thôn xóm bản làng còn lưu giữ biết bao nhiêu là bản sắc văn hóa sông Chảy của
người Tày, người Mán quần trắng, người Nùng, như: hát then, pụt, hát khảm hải,
xịnh ca Cao Lan, hát quan làng, xòe Tày, tết nhảy, đâm luống, nhảy lửa, cầu
mùa, dân vũ trong lễ cấp sắc Cao Lan, v.v...
Phía xa kia, núi nhấp nhô xanh sậm chẳng khác lũ voi đang lững
thững theo nhau xuống hồ uống nước. Ðấy là dãy núi Voi Ðàn. Còn thăm thẳm trước
mặt giữa 1.300 hòn đảo đang trôi dạt bến bờ là quần đảo đá Mông Sơn ảo mờ sương
khói, có lúc nháng lên cái ánh bạc ánh vàng mơ hồ do nắng đổ xuống một lườn đá
nào đó. Tất cả như đang trôi từ trong huyền thoại, trôi từ trong vòm trời tiền
sử trôi ra, trôi dập dềnh đuểnh đoảng, trôi lừng lững choáng ngợp gợi nên một cảm
giác vừa thích thú vừa sợ hãi. Ðấy là một quần đảo hùng vĩ, đầy huyền bí mà con
người cho đến nay chưa thể khám phá hết về nó. Phải mất hơn một giờ mặt nước
thuyền mới cập đảo đá đầu tiên trong quần đảo đá Mông Sơn. Rẽ qua đảo Trinh Nam
rồi neo thuyền lại, chúng tôi cùng vào thăm động Thủy Tiên, rồi động Cẩu Quây
huyền bí, trên tay mỗi người mang theo mấy cây nến lớn, vài thẻ hương, chút hoa
quả. Vào cửa động thì đốt nến, đi chầm chậm, thả trí tưởng tượng, tha hồ mà
chiêm ngưỡng, thăm thú muôn vẻ diệu kỳ của thiên nhiên: Cột Chống Trời, Trái
Ðào Tiên, Thần Rừng, Thần Sông, Nàng Thủy Tiên, Ông Thiện, đường lên Dương Thế
hun hút, đường xuống Giếng Tiên, xuống Thủy Cung thăm thẳm. Dời động Thủy Tiên,
động Cẩu Quây, thuyền máy ngược nữa lên những 80 km mặt hồ Thác Bà theo dòng
sông Chảy. Phía trái ven hồ, ngay chân núi Con Voi là mỏ đá quý Tân Hương.
Mấy năm trước Công ty Ðá quý và Vàng Yên Bái đã bất ngờ khai
thác được rất nhiều đá quí saphia và rubi. Ðặc biệt có một viên rubi hồng ngọc
nặng 2,1 kg và một viên rubi Sao nặng 1,56 kg. Ðó là hai viên rubi vô giá,
"độc nhất vô nhị" thế giới, được gọi là "Ngôi sao Việt
Nam", đã trở thành bảo vật quốc gia. Ngược lên nữa phía bên phải hồ là miền
núi đá Lục Yên kỳ vĩ và đẹp mê hồn, chẳng khác gì Hoa Quả Sơn của Tôn Ngộ Không
trong truyện Tây Du Ký. Trong lòng các núi đá ấy ẩn chứa biết bao nhiêu là đá
quý: bloc siêu trắng, thạch anh, rubi hồng ngọc, saphia, rubi Sao... Từng có hẳn
hai công ty kếch xù liên doanh khai thác đá quý là Công ty Việt - Thái và Công
ty Việt-Nga, sau mấy năm khai thác đều thất bại. Chỉ riêng "bụi đá"
(chữ của H.T.S) Ðào Trọng Cường là thành công bởi khát vọng hiến dâng. Ông Cường
đã đầu tư khai thác vô vàn hạt đá lung linh bé nhỏ tưởng như chẳng dùng được
vào việc gì, để làm ra những bức tranh tuyệt đẹp. Công ty Thần Châu Ngọc Việt với
những bức tranh cẩn đá quý duy nhất ở Việt Nam đã đem lại vinh quang "Nghệ
nhân bàn tay vàng" đầu tiên cho ông. Và không ít người Kinh - người Tày -
người Dao Lục Yên rất biết ơn ông, vì ông đã truyền cái nghề cẩn đá quý lên
tranh, một nghề hiếm hoi quý giá, giúp họ thoát nghèo và sống đẹp. Cùng với núi
ngọc Lục Yên, bên thềm hồ Thác Bà người ta còn tìm thấy trống đồng làng Vặc -
Khai Xuân, ngày 25-5-1978 và trống đồng Mông Sơn - Yên Bình, ngày 15-3-1984.
Trước đó, vào hồi tháng 10-1963 đến tháng 12-1964, các nhà khảo cổ học Việt Nam
có sự tham gia của chuyên gia Cộng hòa dân chủ Ðức, tiến sĩ H. Ðơ-kan-kơ, đã
phát hiện và khai quật di chỉ hang Hùm, còn gọi là hang Ma Mút ở Tân Lập.
Hang Hùm có hàng ngàn hóa thạch của 30 loài động vật, đặc biệt có ba chiếc răng hàm của người Khôn ngoan (Homo sapiens) cùng các hóa thạch thuộc họ đười ươi (Pongo Pygmaeus Weidencei Chi HOIJR), các hóa thạch thuộc họ voi răng kiếm (Stegoden orientalis OWEN), các hóa thạch của báo gấm thuộc họ mèo (Neofilis rebulosa of primigchic HEMMR và V.KOENIG SWALD). Chứng tỏ vùng hồ Thác Bà từng là một trong những cái nôi sinh sống của người Việt cổ. Còn đây, trải dài 80 km lòng hồ, suốt từ núi Mèn, núi Hoàng Thi, núi Cao Biền, núi Chàng Rể ở đông hồ lên đến núi Mông Sơn, núi Tô Mậu, núi Nậm Ngập, núi Bạch Mã, núi Tân Lĩnh phía tây hồ, có nhiều đền chùa linh thiêng thờ Sơn thần, Thủy thần, thờ các tướng lĩnh có công giữ nước, như: đền Thác Bà, Vũ miếu Ðại Ðồng, chùa São, đền Thần áo Ðen, chùa hang Úc, đền Ðại Cại. Ðặc biệt là khu di chỉ khảo cổ học Hắc Y - Ðại Cại. Tại đây, thêm di tích chùa tháp Bến Lăn nữa, các nhà khảo cổ học Việt Nam và Yên Bái đã khai quật được một khối lượng hiện vật vô cùng phong phú, bao gồm: đồ sành sứ, gạch ngói, tượng phật, tượng thú, dấu tích lò nung, chân tảng, tiền cổ, tháp, tường đá, một số hiện vật kim khí khác. Các nhà khảo cổ học Việt Nam kết luận: "Ðây là một quần thể di tích lịch sử văn hóa khảo cổ học đặc biệt quý hiếm của thời Trần sớm được phát hiện và tìm thấy ở vùng miền núi phía bắc nước ta". Cũng từ những hiện vật khai quật và cứ liệu lịch sử, các nhà khoa học lịch sử và các nhà khảo cổ học đầu ngành Việt Nam đã nhận định rằng, Chiêu văn vương Trần Nhật Duật - người rất giỏi về kiến trúc, hội họa, quân sự, ngoại giao, lễ tục, ngôn ngữ dân tộc thiểu số và rất thân thiện với người Chăm - được triều đình nhà Trần giao cho việc trấn thủ miền biên viễn phía bắc nước Ðại Việt, đã xây dựng nên trung tâm phật giáo tuyệt mỹ này. Kính cẩn và sợ hãi, chúng tôi thắp hương bái lạy khắp đền chùa, rón rén những bước chân phiêu du trên trầm tích linh thiêng của lịch sử và văn hóa tâm linh Việt nghìn năm.
Hang Hùm có hàng ngàn hóa thạch của 30 loài động vật, đặc biệt có ba chiếc răng hàm của người Khôn ngoan (Homo sapiens) cùng các hóa thạch thuộc họ đười ươi (Pongo Pygmaeus Weidencei Chi HOIJR), các hóa thạch thuộc họ voi răng kiếm (Stegoden orientalis OWEN), các hóa thạch của báo gấm thuộc họ mèo (Neofilis rebulosa of primigchic HEMMR và V.KOENIG SWALD). Chứng tỏ vùng hồ Thác Bà từng là một trong những cái nôi sinh sống của người Việt cổ. Còn đây, trải dài 80 km lòng hồ, suốt từ núi Mèn, núi Hoàng Thi, núi Cao Biền, núi Chàng Rể ở đông hồ lên đến núi Mông Sơn, núi Tô Mậu, núi Nậm Ngập, núi Bạch Mã, núi Tân Lĩnh phía tây hồ, có nhiều đền chùa linh thiêng thờ Sơn thần, Thủy thần, thờ các tướng lĩnh có công giữ nước, như: đền Thác Bà, Vũ miếu Ðại Ðồng, chùa São, đền Thần áo Ðen, chùa hang Úc, đền Ðại Cại. Ðặc biệt là khu di chỉ khảo cổ học Hắc Y - Ðại Cại. Tại đây, thêm di tích chùa tháp Bến Lăn nữa, các nhà khảo cổ học Việt Nam và Yên Bái đã khai quật được một khối lượng hiện vật vô cùng phong phú, bao gồm: đồ sành sứ, gạch ngói, tượng phật, tượng thú, dấu tích lò nung, chân tảng, tiền cổ, tháp, tường đá, một số hiện vật kim khí khác. Các nhà khảo cổ học Việt Nam kết luận: "Ðây là một quần thể di tích lịch sử văn hóa khảo cổ học đặc biệt quý hiếm của thời Trần sớm được phát hiện và tìm thấy ở vùng miền núi phía bắc nước ta". Cũng từ những hiện vật khai quật và cứ liệu lịch sử, các nhà khoa học lịch sử và các nhà khảo cổ học đầu ngành Việt Nam đã nhận định rằng, Chiêu văn vương Trần Nhật Duật - người rất giỏi về kiến trúc, hội họa, quân sự, ngoại giao, lễ tục, ngôn ngữ dân tộc thiểu số và rất thân thiện với người Chăm - được triều đình nhà Trần giao cho việc trấn thủ miền biên viễn phía bắc nước Ðại Việt, đã xây dựng nên trung tâm phật giáo tuyệt mỹ này. Kính cẩn và sợ hãi, chúng tôi thắp hương bái lạy khắp đền chùa, rón rén những bước chân phiêu du trên trầm tích linh thiêng của lịch sử và văn hóa tâm linh Việt nghìn năm.
Cuộc hứng khởi chơi non nước và du khảo suốt hai ngày hai
đêm, chưa thật mỹ mãn nhưng rất đã. Hôm sau chúng tôi lái thuyền máy quay về
bãi tắm Tân Hương, nơi Công ty Hùng Ðại Dương đang khơi mở tí chút cho tương
lai du lịch hồ Thác Bà. Bãi tắm bao nhiêu đá cuội trắng phau tràn cả xuống lòng
nước trong xanh. Anh Tuyết, anh Hữu Tê, anh Thắng và tôi nữa cùng vui sướng nhảy
ùm xuống, thỏa sức bơi lặn, cảm giác như được trở về với tuổi thơ hồn nhiên
trong trắng. Thế là giũ sạch nỗi ưu phiền thường nhật, cảm xúc yêu cuộc sống
trào dâng, khát khao sống mạnh mẽ hơn, sống có ích hơn cho mình, cho đồng loại.
Và nhận ra mình đương là người hạnh phúc một phần nhờ vốn sống ở đời không ngừng
đầy thêm, trang nhật ký du lịch của mình cũng dài thêm các địa danh nổi tiếng đầy
chất huyền thoại trong vùng hồ Thác Bà. Bỗng lời hát đắm say như từ đâu đó ngân
nga vỗ về tâm hồn mơ mộng: "Núi ơ núi, thuyền ơ thuyền, mây ơ mây, nước ơ
nước... Thuyền ta ngược, thuyền ta xuôi, xốn xang mái chèo nhịp đời sinh sôi,
non xanh nước biếc...".
Chợt ngẩng lên, một miền xanh trong đến nao lòng!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét