Buổi sáng tháng năm, từ thị xã Hà Giang, chừng 2 tiếng đồng hồ
loanh quanh qua bao dốc, bao đồi, bao ngôi nhà lặng lẽ, bao nương ngô chênh
vênh trên những triền núi, tôi mới đến được cổng trời Quản Bạ lần đầu tiên
trong đời.
Tom, cậu lái xe trẻ của Báo Thừa Thiên Huế buông lời nhận
xét: “Dốc không cao, không dựng đứng như A Lưới nhưng sao cứ lên mãi, lên
mãi”. Ừ nhỉ! Lên đến tận cổng trời Quản Bạ mới cảm thấy đầy đủ sự chơi vơi
của vùng đất trời nơi biên cương cực bắc của Tổ quốc. Tới rồi mới hay, lời người
không sai về địa danh kỳ bí, nơi mà bầu trời hầu như quanh năm chỉ có mưa và
mù, để rồi dân gian truyền tụng mãi câu ca rằng “thấy nhau trong tầm mắt, gặp
nhau mất nửa ngày” và “đất không ba bước bằng, trời không ba ngày nắng”.
Đây mới là cổng trời. Qua cổng trời là thị trấn Tam Sơn. Tiếp
đến là cao nguyên đá Đồng Văn, là Lũng Cú, nóc nhà của Việt Nam, nơi
mà “cúi mặt sát đất, ngẩng đầu đụng trời”. Còn nữa là Mèo Vạc, nơi có chợ
tình Khâu Vai, chỉ họp mỗi năm một lần vào ngày 27 tháng 3 âm lịch. Tôi
như miên man trong trong ý tưởng khám phá vùng đất phên dậu diệu kỳ của Tổ quốc...
Trở lại với con đường vừa mới đi qua. Năm 1939, người
Pháp mở con đường này như cửa ngõ đầu tiên và cho đến này vẫn là con đường độc
đạo đi lên “cổng trời”, đi lên cao nguyên Đồng Văn. Cuộc sống nơi vùng núi cao
này còn nghèo nàn nên cũng không có gì lạ khi con đường vẫn đầy vẻ hiểm nguy và
hoang vắng như ngày nào.
Lên đến độ cao chừng 1.000 mét, mây mù che phủ cả lối đi ngoằn
ngoèo. Xe chạy cứ như len lỏi giữa trùng vây mây trời. Lâu nay thỉnh thoảng xem
ti vi giờ tôi mới có dịp chứng thực cảnh tượng những đàn trâu cứ lững thững
trên đường như đi về phía vô định, mới bắt gặp từng tốp dăm ba trẻ nhỏ nhởn nhơ
ngồi trên những phiến đá, hờ hững nhìn những chuyến xe đi qua.
Chuyện rằng, người Mông chiếm đa số có tổ tiên vốn xuất xứ từ
miền Nam sông Trường Giang, Trung Quốc. Họ có những xung đột và bị người Hán
chèn ép nên đành phải thiên di về phía Nam, định cư ở vùng cực Bắc này cách nay
chừng 300 năm. Những nơi địa hình thấp, lưng chừng núi đã có chủ, người Mông
đành kiếm chỗ dung thân trên cao, thích nghi với vùng núi đá. Ở tận non cao, mỗi
lần xuống núi, chủ yếu đi chợ, là cả hành trình của người Mông. Đường sá xa
xôi. Một lần đi là một lần khó. Vậy nên, họ đi như một lập trình sẵn có của tạo
hoá, không vội vàng, không gấp gáp. Chồng lâu ngày xuống chợ quá chén, vợ chẳng
hề rầy la. Họ tìm đến một gốc cây to bên vệ đường. Chồng gối đầu lên đùi vợ, cứ
thế mà chìm sâu trong giấc mộng say. Sau đó lại tiếp tục cuộc hành trình về lại
với non cao. Một hình ảnh quá đẹp và ấn tượng. Tôi nghe và bị hấp hẫn bởi lối kể
chuyện có duyên của anh Đặng Quang Vượng, Phó Tổng Biên tập Báo Hà Giang với cả
sự háo hức lãng mạn.
Gọi là “cổng trời” quả thực không sai. Với 1.500 mét so với mặt
nước biển, đây là đỉnh cao nhất của con đèo hun hút. Từ đây, nhìn lại thấy mênh
mông núi đồi nhấp nhô. Một thế giới mới là thung lũng Tam Sơn của huyện Quản Bạ
hiện ra trước mắt.
Còn nhớ, trên đường đi, anh Vượng cứ lo và áy náy hoài.
Anh sợ rằng, mây mù sẽ che lấp, không cho những người bạn Huế cảm nhận được trọn
vẹn vẻ đẹp tuyệt vời của núi Cô Tiên. Nỗi lo thân thương của Vượng như tan đi
khi trước mắt tôi là cảnh tượng non núi hữu tình của vùng thung lũng Tam Sơn.
Giờ thì tôi mới bắt đầu tìm hiểu về người bạn cùng đi. Đặng
Quang Vượng vốn quê tận vùng trung du rừng cọ đồi chè Phú Thọ. Đi bộ đội chống
Mỹ từ năm 1972. Năm 1978, chuyển ngành sang làm báo. Số phận cứ đưa đẩy thế nào
để rồi hơn 30 năm qua, anh sống và gắn bó với vùng biên giới cực bắc Hà Giang.
Ngoài làm báo, anh còn làm thơ và viết văn. Năm 2006, Vượng xuất bản truyện thơ
“Sự tích núi Cô Tiên”, lý giải một cách thật lãng mạn vẻ đẹp huyền bí của núi
Cô Tiên đang hiển hiện trước mắt chúng tôi.
Chuyện của Vượng bắt đầu từ ngày xửa ngày xưa có một bầy tiên
nữ xuống trần, phát hiện ra thung lũng thị trấn Tam Sơn có vẻ đẹp tuyệt vời. Có
một chàng trai si tình tên Lía trộm nhìn, đem lòng cảm thương đã đánh cắp đôi
cánh mỏng của một tiên nữ đẹp trong bầy. Mất đôi cánh diệu kỳ, nàng tiên trẻ
tái tê khi chị em đều đã ra về lúc hoàng hôn buôn xuống. Đang lúc éo le thì
chàng Lía si tình xuất hiện, thật thà thú nhận tội lỗi. Vậy là họ nên nghĩa chồng
vợ, rồi có con với nhau. Chuyện xảy ra khi nàng tiên vô tình phát hiện ra nơi cất
dấu đôi cánh mỏng của mình. Nỗi nhớ thượng giới không nguôi buộc nàng phải từ
biệt cõi trần. Thương chồng, thương con gái nhỏ, nàng để lại đôi bầu vú của
mình để sớm khuya nuôi con khôn lớn. Bầu vú đó chính là núi Cô Tiên dưới cổng
trời Quản Bạ, trông giống như đôi vú người thiếu nữ.
Bất giác, tôi lại nhớ đến và thầm cảm ơn Đặng Quang Vượng đã
là đồng hành của mình trong lần đầu tiên khám phá cổng trời Quản Bạ. Phải có một
cái nhìn đầy lãng mạn, phải có sự gắn bó da diết với Hà Giang, để rồi cũng như
tôi, một kẻ đến từ phương xa, Vượng mới có được một ý tưởng tuyệt vời đến thế.
Đứng trên này cổng trời nhìn xuống, thấy mồn một 2 trái núi Cô Tiên nảy căng
như bầu ngực thiếu nữ tuổi xuân thì!
Nơi cổng trời xa xăm và thăm thẳm này là cuộc sống đầy khó
khăn. Trên đường đi, tôi đã bắt gặp nhiều thiếu nữ múc từng ca nước nhỏ từ những
hố đá bên những triền núi. Trên cao không đào được giếng, người Mông cùng bà
con nhiều dân tộc anh em đã phải trông cậy vào nguồn nước trời cho kia. Khỏi
nhiều lời, họ đã phải khổ sở thế nào với giọt nước ở nơi có tiền cũng chẳng dễ
mua được. Rồi nữa là sự mưu sinh hàng ngày.
Anh Vượng bảo với tôi rằng, đá ở đây nhiều hơn đất đến nỗi
người chết cũng không đào được cái huyệt cho đúng đủ kích thước, thôi đành phải
lấy đá xếp vây quanh. Ngót nghét ba phần tư là núi đá vôi, khí hậu lại khắc
nghiệt nên chỉ còn lại cây ngô ăn ở đời đời kiếp kiếp với người Mông. Tầng đất
mỏng dính phủ lên mạch đá vôi nghèo dinh dưỡng, thân ngô trồng còi cọc, nhỏ nhắn
nhưng chớ có mà phụ.
Cuộc sống và văn hoá của bà con người Mông ở cổng trời Quản Bạ
này xoay quanh hạt ngô. Bà con người Mông dùng ngô hạt xay nhỏ như bột để đồ
(xôi) lên ăn thay cơm, gọi là mèn mén.
Cũng từ bột ngô, người ta chế ra rất nhiều bánh ngon dùng
trong các dịp Tết, lễ. Và cũng từ ngô, người Quản Bạ và Hà Giang có đặc sản rượu
ngô. Buổi chiều đầu tiên mới đến Hà Giang, tôi đã được thưởng thức rượu ngô. Tạng
người tôi vốn sợ các loại rượu bia. Bạn mời nhiệt tình quá, cạn một chén nhỏ lại
một cái bắt tay thật chặt, nên liều mà quá chén. Tưởng rằng, ngày mai ngủ dậy
có mà hoa đầu, nhức mắt. Vậy mà lạ thay, đầu óc lại cứ nhẹ tênh. Đem chuyện thắc
mắc, một anh bạn khá sành chuyện ăn nhậu ở Báo Hà Giang giải thích cứ... như thật.
Loại rượu ngô ở đây được nấu bằng thứ ngô bản địa trồng trên đá cùng với thứ
men lá truyền thống nên uống vào có vị ngọt và thơm của ngô, uống quá chén hôm
sau cũng không bị mệt do độ cồn trong rượu không cao. Uống rượu ngô và cứ tưởng
tượng rằng, đồng bào Mông đã gùi từng gùi đất đổ vào những hốc đá rồi tra từng
hạt ngô vào đó.
Chỉ mùa đông thôi, trên những triền núi cơ man là đá, thứ đá
xám xịt. Nhưng sang mùa xuân, mùa hạ, màu đá xám lạnh lùng lại nhường chỗ cho
màu xanh bạt ngàn của ngô. Rồi từ ngô ấy chưng cất để thành rượu là bao công sức
nhọc nhằn. Hèn chi mà nó lạ, nó quý, cứ ngấm sâu mãi vào tâm can.
Tôi không có được sự hữu duyên nên đến Tam Sơn vào đúng phiên
chợ đông vui nhưng cũng đã cảm nhận được bản sắc đậm đà của một vùng quê miền
sơn cước qua những dãy hàng quán nhỏ nhắn vòng vèo, qua các loại rau rừng cùng
những mặt hàng thổ cẩm bày bán, qua những bước đi và dáng điệu nhẹ nhàng, chậm
rãi của những con người mới gặp.
Trời ở Hà Giang buổi sáng hửng nắng và ấm nóng, còn ở đây lại
lất phất mưa và lạnh. Dạo một vòng quanh phố xá và ghé thăm chợ thị, chúng tôi
tạt vào một quán ăn thuộc loại sang trọng nhất của thị trấn. Anh Vượng cùng các
bạn ở Báo Hà Giang bảo vui, hôm nay sẽ đãi các bạn Huế thịt gà đen, các loại
rau rừng, và đặc biệt là ăn thắng cố, uống rượu ngô Thanh Vân. Hành trình Bắc
du lần này, tôi phát hiện nhiều điều lạ. Chẳng hạn như cách tiếp thị các món ăn
đặc sản của những hàng quán dọc đường. Nào là lợn cắp nách, heo hoả tiễn...Nào
là gà kiến, gà đồi và đến đây là loại gà đen, đen tuyền từ chân đến thịt, là một
loại gà được dùng như vị thuốc ở vùng cao Hà Giang này. Tôi có thói quen, đến
đâu cũng cố mà đi, cố mà hỏi và cũng tìm cách tiếp cận được các loại thức ăn đặc
sản cho biết.
Buổi tối hôm trước, ngủ ở khách sạn ở thị xã, anh em rủ nhau
đi ăn đêm. Vào một quán nhỏ ven đường, nghe cô hàng quán đon đả mời vậy là lần
đầu tiên trong đời “lỡ dại” thưởng thức món thắng dền, một thứ chè thập cẩm, có
hương vị của ngô, chỉ một chén nhỏ là nhớ mãi không quên. Còn bây giờ là món thắng
cố. Cũng là “thắng” nhưng đây là một món hầm toàn bộ thịt xương nội tạng trâu,
lợn, dê hay ngựa...; là đặc sản của người Mông. Đọc “Miền Tây” và “Vợ chồng
A Phủ” của Tô Hoài, tôi đã nghe tả về món ăn này. Ngay chuyện tên gọi cũng
đã có chuyện để bàn.
Có người bảo với tôi rằng, thắng cố là do nói ngọng, còn đích
thực thì phải gọi là tháng cố. Tiếng dân tộc, tháng là canh, là nước; còn cố là
cái chảo, cái nồi. Kẻ khách lạ như tôi mà bàn chuyện danh xưng cũng bất tiện.
Chỉ biết, trước mắt tôi bây giờ là một tô thắng cố lợn ắp đầy. Nó có tất trong
đó đủ loại xương, thịt và nội tạng. Rồi nữa là những loại gia vị của núi rừng:
Thảo quả, hạt dồi, gừng, tỏi... Ngửi thấy có mùi đặc trưng, rất riêng, như mùi
của sầu riêng, của loại mắm tôm. Mùi vị ấy, cách chế biến ấy... thoạt đầu cũng
ngại ngại, nhất là cái khoản an toàn vệ sinh thực phẩm, nhưng rồi cũng nhanh chóng
thích nghi, nhất là sau khi nhấp một ngụm rượu ngô Đồng Văn.
Ăn thắng cố, uống rượu ngô giữa chốn thanh thiên bạch nhật ở
phố núi Tam Sơn, thấp thoáng đằng xa là nét lãng mạn của núi đôi Cô Tiên, chợt
thèm sao được là chàng trai Mông cùng vợ xuống núi, để lỡ có quá chén mà lỡ say
thì tay đây mời tựa cho say giấc nồng, cho bỏ công lặn lội từ Huế ra đây, lên tận
cổng trời Hà Giang.
Cứ nghĩ đến cung đường dốc đèo thăm thẳm và ngút ngàn, cứ
nghĩ đến cuộc sống thầm lặng và chịu đựng nơi vùng cao biên ải, mới thấy rằng,
nơi tận cổng trời này, sống giữa mây núi bạt ngàn mà thiếu những giấc mơ đẹp
thì còn gì nữa là cuộc đời. Từ đây lên đến Đồng Văn, rồi qua Mèo Vạc, đường đi
ngút ngàn, xa ngái. Còn một tuần nữa mới đến phiên chợ tình Khâu Vai. Vậy là bỏ
công tôi mất rồi. Thôi đành, sống với giấc mơ được chứng kiến phiên chợ tình bắt
nguồn từ một truyện kể đẹp.
Rằng, ngày xưa có đôi trai gái thuộc hai bộ lạc yêu nhau.
Tình yêu của họ bị ngăn cản bởi lệ tục và sự hiềm khích. Một ngày kia, họ đang
ngồi trên núi cao, chợt thấy 2 bộ tộc đánh nhau quyết liệt ở dưới kia. Biết
tình yêu của mình là nguyên nhân chính của tai hoạ, tránh sự đổ máu, họ đau đớn
chia tay nhau và hẹn mỗi năm, đúng một lần vào ngày ấy gặp nhau ở nơi từng họ hẹn
là Khâu Vai. Cũng dần dần từ đó, chợ tình Khâu Vai trở thành điểm hẹn hò cho những
đôi trai gái có tình yêu dang dở. Có lẽ, trên thế gian này, ý tưởng về phiên chợ
tình Khâu Vai chỉ duy nhất có một ở vùng cổng trời Hà Giang này. Nó cho thấy,
tâm hồn của những con người gắn cuộc đời mình trên đỉnh non cao, nghèo khổ mà
khoáng đạt, không có chỗ cho sự hận thù và ắp đầy tình nhân ái.
Tôi cũng vậy, bỗng thấy mình như một kẻ khác lạ khi chạm bước
đến “cổng trời”. Như thực mà lại cũng như mơ. Như lạc vào một thế giới lạ, mênh
mông quá với bao khám phá bất ngờ. Và tôi mơ mình lạc bước vào phiên chợ tình
Khâu Vai, thấy những trai gái say rượu ngủ quên bên đường; mơ thấy núi đá cao
và bóng dáng ai đó mỏng manh cứ như khói như sương... Tháng năm này, đã một lần,
tôi lên tới cổng trời Quản Bạ. Mới lần đầu chạm đến cổng trời mà tôi đã có tâm
trạng của chàng Lía thuở nào trong giấc mộng vàng của người bạn mới quen Đặng
Quang Vượng.
Đình Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét