Xe đi trong đêm, đến Đà Lạt gần bốn giờ sáng. Trong
tranh tối tranh sáng, thấy đèo Prenn đẹp huyền ảo như xưa. Mù sương và hoang
dã. Khi khung cảnh hai bên đường nhòa nhạt, im lìm thì ký ức lại dậy sóng. Văn
căng mắt giữ tay lái. Tôi cũng căng mắt nhưng lại đi tìm kiếm dấu vết nào đó của
mơ hồ kỷ niệm. Góc quẹo gấp nhất và nguy hiểm nhất của Prenn là nơi miếu Ba Cô
gần như vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Cua thật gấp. Bên tay phải là dốc đá gần
như dựng đứng, phía trái là vực sâu hun hút. Tôi đã từng dừng xe máy ở đó mấy
mươi năm trước, đứng nhìn ngọn cây thông phía dưới chỉ ngang hàng với giữa cây
thông kế tiếp bên trên để ớn lạnh về độ dốc. Ngày xưa một tai nạn đã xảy ra tại
đây làm ba cô gái trẻ chết thảm nên người ta lập miếu thờ. Những cây thông vẫn
còn đứng đó, phía trên dốc đá hay dưới triền sâu như nhân chứng cho mọi đổi
thay. Trở về Đà Lạt trong đêm, trong cái còn thanh vắng như ngày xưa là cơ hội
hiếm hoi, khó thể có hai lần
Tìm lại được nét hoang sơ của Đà Lạt
thật bất ngờ, như nhìn được một thiếu nữ say ngủ, nằm hớ hênh, đâu dễ gì! Đã bốn
giờ sáng 28 Tết mà Đà Lạt vẫn còn say ngủ! Rất lác đác người trong phố sớm. Năm
nay tháng Chạp thiếu nên thành 29, khuya mai là giao thừa! Bài “Xuân nầy con
không về” của Trịnh Lâm Ngân là nỗi lòng của anh lính trẻ trong thời chiến, còn
tôi, anh lính già khập khiễng đang trở về, giữa thời bình, sao cũng hoang vắng
mênh mông?
Cây xăng Kim Cúc, cửa vô Đà Lạt còn
nguyên đó, nhưng lạ. Lạ hẳn. Cái lạ là con đường bốn làn xe, có con lươn
(divide) thật hẹp được trang trí hoa ở giữa, bắt đầu từ bót Nguyễn Tri Phương
cũ. Ở đó, rẽ trái là vô bến xe chính của Đà Lạt. Đi thẳng là vô thành phố. Trước
kia hai bên là thông, là cây cỏ thiên nhiên, còn bây giờ thì nhà cửa san sát, lố
nhố. Đủ kiểu, đủ màu sắc. Khuôn mặt thơ ngây, hồn nhiên của Đà Lạt đã bị một
tay trang điểm thật tồi! Ngập ngụa màu sắc phấn son, với bê tông cốt sắt!
Quẹo trái Yersin cũ, khu vực hành
chánh trước kia, cũng đầy ắp biệt thự, nhà. Không biết đâu là đâu. Tòa Hành
chánh Tỉnh tựa lưng vào ngọn đồi, ngày đó khá đồ sộ, bây giờ như nhỏ lại trước
dinh thự chung quanh. Nét cổ kính của tòa nhà cũng mất. Palace vẫn chiếm nguyên
ngọn đồi nhưng không phô ra trần trụi như trước, đang ẩn mình ngủ trong vòm cây
dưới ánh đèn đêm. Trước kia trơ trụi hơn, bây giờ kín đáo hơn! Đến khu vực Bưu
điện, nhà thờ Con gà thì cứ như lạc vào một khu phố nào đó, lạ hoắc, sáng
trưng! Khuôn viên tượng Thánh Giu Se (?) trước nhà thờ, nơi chia hai lối lên và
xuống, có cái dốc khá nguy hiểm để xuống cầu Ông Đạo sang khu Hòa Bình, bây giờ
như nhỏ hẳn lại. Nhà thờ y nguyên nhưng nhìn cũng nhỏ lại! Ngày trước tháp
chuông là đỉnh điểm cao nhất toàn thành phố, từ rất xa vẫn thấy cây thánh giá nổi
lẻ loi trên táng lá thông xanh, cứ ngờ ngợ như đang ở một nơi nào đó của phương
Tây bây giờ lùn tịt bên cái tháp Bưu điện sơn trắng đỏ bằng sắt, nhại theo hình
tháp Eiffel thật đồ sộ. Trên đỉnh có đèn nhấp nháy với lá cờ đỏ.
Chiều cao tháp (có thể) gấp đôi tháp chuông nhà thờ. Nếu loại bỏ ý đồ chính trị là nhà nước đang dần dần tìm cách triệt tiêu biểu tượng của Thiên Chúa giáo thì hình ảnh nầy cũng nói lên sự dốt nát thẩm mĩ về thắng cảnh thành phố Đà Lạt. Lo lắng quang cảnh thiên nhiên của Đà Lạt bị tàn phá, thì đây có thể là biểu trưng!
Chiều cao tháp (có thể) gấp đôi tháp chuông nhà thờ. Nếu loại bỏ ý đồ chính trị là nhà nước đang dần dần tìm cách triệt tiêu biểu tượng của Thiên Chúa giáo thì hình ảnh nầy cũng nói lên sự dốt nát thẩm mĩ về thắng cảnh thành phố Đà Lạt. Lo lắng quang cảnh thiên nhiên của Đà Lạt bị tàn phá, thì đây có thể là biểu trưng!
Quăng người lên giường, cứ tưởng là
dễ ngủ, vì hành trình mệt mỏi và khí hậu Đà Lạt lại mát lạnh với chăn ấm nệm êm,
ai ngờ mắt cứ ráo hoảnh! Khoát cái áo lạnh ra sân thượng, khách sạn nằm trên
lưng chừng đồi cao, nên toàn cảnh Đà Lạt mờ sương hiện ra trong tầm mắt. Sương
mỏng và yên vắng từng lúc, từng lúc bị phá vỡ. Tiếng máy xe, ánh đèn xe càng
lúc càng nhiều, rồi mọi thứ ánh sáng điện nhạt dần, nhạt dần chỉ còn lại đủ loại
âm thanh của một ngày mới. Thành phố đang thức giấc! Bình minh và nắng sớm đẹp
như giải lụa tơ vàng trùm lên. Cơ man là mái nhà, đủ màu sắc, đủ cao độ, đủ kiểu
cọ, đủ kích cỡ như hàm răng lởm chởm của bầy quái vật đang ngoạm nuốt từng ngọn
đồi, từng ngọn thông xanh. Nó đang nuốt dở dang một ngọn đồi khác, kế cận thác
Cam Ly, mà thịt da đất bazan đang bày ra toang hoác, như ửng máu! Tôi cũng đã từng
đi trong sương sớm Đà Lạt. Cái jacket nhà binh, cài một đóa hồng mới hái còn mọng
sương đêm nơi túi áo, đem đến trao cho người yêu trước khi ra dãy Domino bụi đời
tìm cốc cà phê sáng. Bây giờ đứng chơ vơ ở đây. Cà phê Domino cũng đã mất. Nghe
nói quán của chị Năm-Huệ cũng còn nhưng đã dời về một ngóc ngách nào đó. Chỉ
may mắn, người yêu ngày trước thì đang ngủ vùi trong chăn nên có lẻ loi trên
sân thượng cũng ấm áp đôi chút trong lòng.
Về Đà Lạt lần nầy, ngoài gặp lại những
thân thương, chúng tôi chưa biết sẽ làm gì, vì hình ảnh Đà Lạt cũ đâu còn. Hương
xưa Đà Lạt đã mất. Hay làm khách lạ? Một chừng mực nào đó, từ đáy tim, như
không muốn chấp nhận sự thật nầy!
Chiều cuối năm anh chị em, con, cháu
từ bốn phương gom về nhà cha mẹ sau mấy mươi năm tản lạc. Đứa góc bể, đứa chân
trời theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Câu ca dao “mẹ già như chuối ba hương”
để chỉ chuối được giú đã đến lúc chín mùi, nhưng cha mẹ chúng tôi đã “chín” hơn
thế nữa. Cả hai người đã quá chín mươi! Vài anh, chị cũng đã hơn 70. Đứa út ít
cũng trên 50. Thế đấy, đất nước đã “thống nhất” từ hơn 35 năm mà đây là lần đầu
hội ngộ! Anh Ba ngày trước lái chiếc jeep có cần câu, bây giờ nghễnh ngãng, nói
cứ như bị cà lăm. Anh kể về chuyện đi bán dạo vé số ở An Giang. Mấy đứa út cười
cười khoe răng sún, chỉ vào mặt nhau, nói nói: “Anh nhìn anh nhìn kìa.. thấy
sân bay của tụi em không?” Thì ra, trán đứa nào cũng hói họi rộng như “sân
bay”!
Cũng may là anh chị em chúng tôi
không có ai khác giới tuyến, cái giới tuyến do một thứ chủ nghĩa gây hận thù
làm chia rẽ từ gia đình đến dân tộc mà không biết cho đến bao giờ mới có cơ may
hàn gắn lại được! Còn cháu thì đủ loại, có đứa đã 40 lại thêm con cái nữa.
Chào chào hỏi hỏi cứ ngớ ra! Anh em con cháu cũng khó nhận diện nhau ngay cả trong một gia đình!
Chào chào hỏi hỏi cứ ngớ ra! Anh em con cháu cũng khó nhận diện nhau ngay cả trong một gia đình!
Tất cả cũng trên dưới 50 người gồm
ba, bốn thế hệ gom lại trong một căn nhà cấp 4, nhỏ bé tuềnh toàng ở vùng quê,
thay vì trước kia là một ngôi nhà bề thế giữa một khu vườn vuông vức mà mỗi cạnh
dài đến một km cách đây không xa! Khu vườn cà phê đó còn có mít, có chuối, có
ao cá, có con suối thiên nhiên phía sau, là công sức khai khẩn từ rừng hoang,
là tích lũy tình yêu và của cải cả một đời cha mẹ chúng tôi. Thế mà, chỉ sau
ngày 30-4-1975 không lâu, các quan chức từ huyện đến xã dùng đủ cách uy hiếp,
cướp trắng! Họ đày ải cả gia đình tản lạc khắp nơi. Người xuống tận kinh rạch
Châu Phú, kẻ vào rừng sâu Long Khánh. Cha mẹ chúng tôi lúc đó cũng đã gần 60, lại
thêm một lần nữa đi khai hoang đất rừng! Chỉ năm bảy năm sau, sức đã cùng, lực
đã tận nên con cái gom góp chút tiền, quay về mua lại một thẻo đất cất căn nhà
nầy. Có thứ “độc lập, tự do, hạnh phúc” nào như vậy không?
Từ lâu lắm tôi mất cái thú “đi đón
giao thừa”. Nào là hái lộc đầu Xuân, nào là tay trong tay vào giáo đường dự
thánh lễ. Nào là nghe tiếng chuông chùa, tiếng chuông nhà thờ đỗ với ước nguyện
đầu năm. Tất cả đều trang trọng và đẹp như một bài thơ. Đêm nay Bảo rủ tôi ra bờ
hồ Xuân Hương. Chúng tôi muốn hòa vào dòng người, thử đi tìm cái rạng rỡ trong
đêm giao thừa. Trang bị khăn quàng cổ, áo ấm, máy ảnh, chúng tôi cuốc bộ. Càng
gần đến khu Hòa Bình, bỗng nhớ câu Kiều của cụ Nguyễn Du. “Dập dìu tài tử giai
nhân, ngựa xe như nước áo quần như nêm” Rất thành thật, người đông đang trẩy hội
nhưng không thể nào tìm thấy được một nụ cười rạng rỡ! Tôi không thể hiểu được.
Vì sao? Vừa xuống lưng chừng dốc Hòa Bình thì gặp ngay hơn mười em nhỏ khoảng
8-10 tuổi (người Thượng?) chia làm ba nhóm. Các em ngồi sát vào nhau tìm ấm,
lưng tựa vào vách đá, đầu trần vì mũ đã được lật ngữa để trên vỉa hè. Đôi mắt
các em như trơ ra (stare) trước dòng người. Tất cả các mũ đều trống trơn! Những
hình ảnh tưởng tượng của Tố Hữu trong các câu thơ xách động ngày trước “đứa
sung sướng là đứa con nhà chủ, còn đứa nghèo con mụ ở làm thuê” có minh họa rõ
ràng như hình ảnh đang xảy ra trước mắt hàng ngàn người đêm nay?
Chen lấn đến quán Thủy Trang bên bờ
hồ thì đã nghẹt người. Quán khép hờ cổng, để bảng “hết chỗ”. Chúng tôi bước qua
vì Bảo có hẹn ở đây. Hầu hết là giới trẻ. Mặc đẹp, fashion cùng với đèn màu.
Tôi nói Bảo ở lại, còn tôi quay ra, lang thang tìm cái lạ. Cái lạ của sự cách
biệt giàu nghèo, của rạng rỡ và tăm tối. Và, đặc biệt, cái lạ đến ngớ ngẩn của
người từ xa về. Còn khoảng 5 phút trước giao thừa, pháo bông từng đợt cả hai
bên bờ hồ được bắn lên. Nghe bùùmm bùùmm rồi bụụụpp bụụụpp thì hàng ngàn tia
sáng với màu sắc lung linh tỏa ra rồi tan biến. Từng cụm màu sắc đó bung ra như
những thoáng sao băng muôn màu, muôn vẻ. Rồi tắt ngúm trả lại bóng đêm! Bài Ký
“Đôi chút mông lung sau một chuyến về” [1] tôi đã chợt nghĩ về sự bùng nổ nầy
như sự bùng nổ của trí thức cả nước biểu tình chống Tàu cộng xâm chiếm hai đảo
Hoàng Sa và Trường Sa suốt mùa hè năm ngoái, mà nay đã bị nhà nước dẹp tan.
Không lẽ những hành động bày tỏ lòng yêu nước từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí
Minh rồi cũng bị tắt lịm nhanh chóng như pháo bông đêm nay?
Sáng mồng Một chúng tôi lại ra phố
tìm cốc cà phê. Cửa cà phê Tùng đóng im ỉm. Không biết là đóng vĩnh viễn hay chỉ
đóng trong mấy ngày nầy (?) Khung cảnh chung quanh đã đổi thay đến độ như không
thể nhận diện ra được thì chỉ có cà phê Tùng, vâng, chỉ duy nhất cà phê Tùng vẫn
y nguyên hình dáng cũ. Mái tôn đã gỉ sét chịu sự thách đố của thời gian! Cà phê
Tùng bỗng chốc như cô tình nhân chung thủy, âm thầm khép kín cửa để ngóng đợi
người xưa! Có biết đâu, chúng tôi là một trong vô số tình nhân ngày ấy đang đứng
lặng, cố ghìm lại cơn tim.
Chúng tôi đến một tiệm khác
trên dãy phố dốc Hòa Bình, gần Ciné Ngọc Lan cũ. Cốc cappuccino đậm đặc nhưng
sao uống cứ nhạt thếch! Ngồi đó, ngó tới ngó lui. Ngó gần ngó xa. Ngó người lên
dốc, xuống dốc mới chợt nhận biết mình thật sự đã là người xa lạ! “Đi đâu loanh
quanh cho đời mỏi mệt, hạnh phúc trăm năm một cõi đi về”(!) giọng ai đó hát nhạc
Trịnh Công Sơn trong nắng sớm nghe thật buồn.
“Anh có tưởng tượng được là bây giờ
đồn công an cũng cúng kiến đầu năm không?” “Đồn công an?” Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
“Vâng, họ bày bàn thờ rồi rước thầy đến cúng!” Thế mà báo chí nói về chuyện thờ
cúng ngay tại các cơ quan, tôi cứ tưởng là chuyện hiếm! Lễ cúng đầu năm là truyền
thống trong từng gia đình người Việt nhưng cúng tại cơ quan, mà ở đồn công an,
thì quả là lạ thật! Tại sao một thứ chủ nghĩa vô thần, một chế độ bất chấp sinh
mạng con người bây giờ quay ra cúng bái? Tín ngưỡng là khía cạnh tâm linh,
thiêng liêng và sâu thẳm nhất của người Việt Nam sao ra nông nỗi nầy? Có phải
đây là niềm tin tôn giáo đang phục hồi hay chỉ là sự trắc ẩn lương tâm cần phải
hối lộ thần linh?
“Bảy tám năm trước công an giết
một em học sinh trong đồn. Chỉ là chuyện hát hò cãi vả gì đó ở quán k-aroke nên
họ gọi công an. Công an bắt thằng nhỏ về đồn. Khoảng nửa đêm, bà hàng xóm ở cạnh
đồn nghe nhiều tiếng động lạ, dòm qua cửa thì thấy mấy công an kéo lê một người
bỏ dưới đường. Không biết có phải họ có ý định dàn cảnh như thằng nhỏ bị xe cán
chết hay không (?) Khi họ vô rồi bà mở cửa ra chứng kiến, rồi kêu cứu. Cũng
toán người đó ra làm bổn phận công an, mau mắn tiếp tay đưa nạn nhân đi bệnh viện.
Cả thành phố đều biết ai giết nhưng không dám lên tiếng. Người thân quen lắm mới
dám đến viếng tang. Cũng chỉ lặng lẽ thắp nén hương giữa không khí bao trùm đe
dọa vì có nhiều công an mặc thường phục ngồi ngay trong nhà theo dõi! Giết thằng
nhỏ chỉ vì họ bảo kê cái quán k-aroke đó! Chỉ có thế!” Giọng kể bị lạc đi, như
nghẹn: “Thằng Hải, nó là bạn học của con em! Nhà ở phường 5, đường Hoàng Diệu gần
đây.” Rồi trở lại trầm trầm, đều đều: “Thế mà báo chí im re, không có lấy một
dòng! Cùng thời điểm đó có một anh tài xế chỉ vì không chịu nổi sự nhũng nhiễu
hằng ngày nên đâm xe thẳng vào viên công an thì họ khai thác, đăng cả mấy tuần
liền!”.
Ghé thăm người bạn cũ thích nghiên cứu
bói toán gặp lúc khá đông khách, tôi muốn rút lui nhưng hắn giữ lại: “Đầu năm
nên khách đông hơn chút đỉnh nhưng ngày thường cũng có. Xã hội càng ngày càng bất
ổn nên người ta phải bám vào tướng số, thần linh.. như một điểm tựa. Đây là hiện
tượng của xã hội.” “Cho nên việc nghiên cứu tướng số bây giờ thành cái nghề?”
Tôi cười. “Không, mình chỉ giúp họ và chẳng đòi hỏi gì.” Hắn tiếp: “Mà đôi lúc
cũng vui. Mình có cơ hội tiếp xúc đủ giới, đủ thành phần. Trước đây không lâu
có một vị Đại tá, giáo sư bên Học viện Quân sự, tức liên trường Võ Bị và Chiến
Tranh Chính Trị ngày trước, đến nhờ xem phương hướng để xây cất nhà ở. Vừa mới
nhìn thấy mình vẽ hai trục thẳng góc, ghi Bắc đối với Nam, Đông đối với Tây thì
ông ta cãi ngay. Cãi hùng hổ! Theo ông thì phải ghi liên tục Đông-Tây-Nam-Bắc,
như vậy thì Đông đối với Nam, còn Tây đối với Bắc (!) Mình khéo léo hỏi ông dạy
gì. “Tôi tốt nghiệp Tiến sĩ ở Nga. Đang dạy về Mác và Lenin.” (!)
Rời Đà Lạt bằng xe bus Phương Trang
vào giữa trưa. Bỏ lại thành phố sau lưng nhưng không thể bỏ được cảm giác bùi
ngùi. Đèo Prenn dưới nắng trưa đã mất hết vẻ huyền ảo như trong đêm tôi trở về!
Prenn đang trần trụi. Đang phô ra những vết lở lói trên da thịt. Người ta đã
khai thác du lịch tối đa trên đoạn đường đèo 8 cây số nầy như khai thác thân
xác một cô gái điếm chỉ vì tiền! Người lên kẻ xuống. Xe hơi, xe máy chen nhau
trên con đường hẹp, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu. Các tụ điểm nhếch nhác và rác rưởi.
Rất nhiều khúc quành có người nghỉ chân, có nhiều người đang đứng đái rất tự
nhiên.
Đà Lạt bây giờ mới thực sự đã rớt lại
sau lưng. Chỉ có Đà Lạt ngày xưa, Đà Lạt còn trong ký ức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét