“Các cậu con trai hết lời ca ngợi vẻ đẹp của các cô nàng yêu
quí: mái tóc, làn da và nhất là đôi vú mà người ta chẳng việc gì phải che dấu
và đàn ông điên lên vì chúng, tới mức họ tạc hình chúng lên các cây gỗ trong
nhà, từ cầu thang cho tới xà ngang”[1].
Đã khá lâu rồi kể từ khi những dòng hồi tưởng này được nhà
Tây Nguyên học nổi tiếng người Pháp Jacques Dournes viết nên, và cũng lâu rồi
người ta không thấy đôi chỏm vú đào căng đầy nhựa sống nơi đất cao nguyên hùng
vĩ. Dường như vẻ đẹp hoang dại ấy chỉ còn lại đâu đó giữa các bức ảnh đầu thế kỷ
XX hoặc ẩn sâu giữa những nếp nhà dài đơn sơ vùng đất đỏ. Giờ đây, ta chỉ bắt gặp
những cụ bà ở trần, dù dải vú chảy xệ nhăn nheo song đôi mắt vẫn rực sáng đăm
đăm nhìn vào một miền xa xưa ký ức.
Ngày ấy, cao nguyên xa xăm bằng phẳng Tây Nguyên vẫn bao bọc
lấy những tộc người Thượng mới bước qua thời kỳ mẫu hệ. Hình ảnh sinh sôi nảy nở
đầy tính nữ như mẹ lúa, nữ thần mặt trời, bà Tồ Cô, bà Dạ Cróa... xuất hiện
đậm đặc giữa một miền hồng hoang huyền thoại. Quan niệm về cái đẹp cũng bắt nguồn
từ ấy và bầu vú người phụ nữ được phô ra như những gì rực rỡ nhất của núi rừng.
Thời gian nối tiếp thời gian, những kẻ lữ hành nơi cao nguyên
hoang dã đã luôn ghi lại hình ảnh bầu vú đầy khát vọng nảy nở vào ký ức của
mình. Nào là thiếu nữ ở trần mang gùi băng rừng vượt thác, màu nắng phủ lên đôi
vú đầy sinh lực của cô. Về bản rồi, đôi vú mẩy tròn lại nhún nhẩy hòa nhịp với
bước chân thoăn thoắt lên những bậc thang. Bà mẹ ngồi bên đống lửa, vừa vun bếp
vừa quàng lấy đứa con đang nô đùa trong cái địu bằng chăn mải miết bú mẹ. Rồi
các cô gái tắm tiên trẫm bầu vú non đẫy nước của mình xuống làn suối mát. Trong
ký ức xa xưa hơn nữa là những cô con gái đến tuổi dậy thì vú nở khoe sắc xuân
nhọn hồng háo hức mong chờ nghi lễ trưởng thành cà răng cuh kraih [2]. Đến giờ, tục
lệ ấy đã không còn, nhưng các cụ già từng trải qua thời kỳ ấy vẫn gợi lại như một
kỷ niệm đẹp không thể nào quên.
Người phụ nữ Tây Nguyên xưa biết làm đẹp cho đôi nhũ hoa của
mình mọi lúc, mọi nơi và mọi cách. Đối với họ, lao động sẽ giúp cặp vú luôn săn
chắc qua nhiều kỳ sinh nở. Nước da bánh mật trải nắng cùng mái tóc đen huyền
làm tôn lên vẻ đẹp của ngực trần. Họ quấn quanh hông một chiêc váy sẫm có hoa
văn dài đến mắt cá chân hoặc đầu gối, phía trên không mặc gì, thay vào đó là đồ
trang sức. Nào hoa tai to bằng cái đĩa, vòng đồng đeo đầy cẳng tay, cổ quàng vô
số vòng kiềng có trang trí thêm những cái vuốt hổ hoặc nanh rắn. Hãy nhắm mắt
và nghĩ đến những chiếc vòng cổ xâu hạt kim loại ấy đang tung tẩy khoe mình giữa
đôi bờ vú săn chắc. Qua mỗi bước họ đi, đám trang sức va vào nhau tạo nên những
tiếng leng keng và nhịp điệu sẽ thay đổi nếu họ làm việc khác. Khi giã gạo,
cánh tay người phụ nữ đưa lên tạo thành tiếng vui tai chắc nịch làm nền bầu vú
đong đưa. Khi cho con bú, đứa trẻ chùn chụt mút bầu vú căng tròn và thở đều của
mẹ khiến những hạt đồng trên bộ vòng ở cổ cũng nhịp nhàng vang tiếng. Ôi, liệu
trên đời còn ai biết cách khoe mình khéo léo và tinh tế hơn những phụ nữ này?
Dù đã đổi thay nhiều nhưng Tây Nguyên vẫn bảo lưu nhiều dấu ấn
của thời kỳ mẫu hệ. Hình ảnh bầu vú căng tròn xuất hiện khắp mọi nơi như biểu
chưng về sự sinh sôi và phồn thực của của con người. Tiêu biểu nhất là đôi cầu
thang đực - cái trước khi bước vào nhà người Ê đê. Bên cạnh cầu thang đực nhỏ
bé đơn giản, chiếc thang Cái độc mộc có hình thuyền lướt sóng được chặt khúc
theo bậc được đặt trang trọng và to lớn. Trên đỉnh thang có khắc hình đôi bầu
vú tròn căng viên mãn. Người Ê đê kể rằng, bầu sữa ấy chính là thông điệp ca ngợi
vẻ đẹp và sự trân trọng người phụ nữ. Vẫn còn đó những bức tượng nhà mồ khắc
hình người mẹ bụng bầu với đôi vú căng phồng khỏe khoắn, Trong các ngôi nhà dài
còn bắt gặp hình đôi vú, vành trăng non trạm khắc trên xà ngang để nói rằng gia
chủ là người giàu có và uy thế. Rồi những chiếc núm tròn ở tâm cồng khiến ta
liên tưởng đấy bầu vú mẹ cứ đến mùa lễ hội lại hòa thanh trong dàn cồng chiêng
mừng lúa mới.
Trước kia, hầu hết các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đều có
trang phục riêng, nhưng chỉ thường được mặc trong những ngày lễ hội. Trong sinh
hoạt hàng ngày, họ đều để ngực trần. Từ khi những nhà truyền giáo xuất hiện,
người phụ nữ đã được nhắc nhở về tục để ngực trần. Quá trình tiếp xúc với người
Kinh dưới xuôi trong một thời gian dài đã khiến hình ảnh này gần như hoàn toàn
biến mất. Nhà văn người Êđê Linh Nga Niek Đăm kể lại rằng những năm 1975 bà vẫn
bắt gặp những khuôn ngực trần trải đầy sức nắng giữa các bản làng. Có lẽ đến giờ,
đôi vú non với vẻ đẹp của sự sinh sôi nảy chồi sự sống đã chỉ còn trong ký ức.
Nhưng biết đâu đấy, giữa đại ngàn núi rừng Trường Sơn, những lữ khách lang
thang lại vô tình bắt gặp đôi nụ ửng hồng của những búp xà nu ngày trước.
Nước da em rạng ngời như gỗ cây knia
Em mượt mà như cây cẩm hương
Thân hình em đẹp quá
Thấp thoáng bắp chân em
Như tia chớp tháng hai
Như sét đánh tháng ba
Để trần cặp vú em
[1] Trích “Rừng, Đàn bà, Điên loạn” của Jacques Dournes được nhà văn
Nguyên Ngọc biên dịch, xuất bản năm 2006
[2] Trong lễ trưởng thành này, hàm răng trên của nam và nữ được cà bằng
một lưỡi liềm nhỏ có răng cưa, sau đó nghiền một mẩu củi cháy dở của cây sơn
kraih trên lưỡi dao, trộn với ít nước thành thứ bột màu đen, đem bôi lên răng
đã bị cà.
Điệp Trần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét