Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu là một trong những nhạc sĩ đặc
trưng có nhiều ca khúc nổi tiếng gắn liền với thơ. Hẳn không ai có thể phủ nhận,
chính âm nhạc của ông đã góp phần chắp cánh cho hàng loạt bài thơ có một đời sống
bay bổng, ghi lại dấu ấn không thể phai nhạt trong lòng công chúng. Đó là những
bài thơ: Tương tư chiều (Nguyễn Bính), Bóng cây Kơ-nia (Ngọc Anh), Ở hai đầu nỗi
nhớ (Trần Đình Chính), Anh ở đầu sông em cuối sông (Hoài Vũ), Sợi nhớ sợi
thương (Thúy Bắc), Hành khúc ngày và đêm (Bùi Công Minh)...Phan Huỳnh Điểu thường
tâm sự: “Tôi cho rằng thơ phổ nhạc đạt đến mức độ cộng hưởng tâm hồn của nhạc
sĩ và thi sĩ. Tìm thấy một bài thơ phù hợp, nhạc sĩ phổ nhạc và gửi gắm tâm trạng
mình. Xét đến cùng, chất thơ trong ca từ của một nhạc sĩ thuần túy không thể bằng
được chất thơ trong ca từ vốn là bài thơ của một nhà thơ. Nhà thơ chắt chiu từng
con chữ, nhạc sĩ chăm chút từng nốt nhạc sẽ cho ra một tác phẩm toàn vẹn và đầy
đặn. Bởi vậy, tôi hết sức thích phổ nhạc cho thơ. Thơ và nhạc như cặp anh chị
em song sinh, thơ một cánh, nhạc một cánh cho tác phẩm bay lên”.
rên thực tế, thời niên thiếu còn ở quê nhà Đà Nẵng, Phan
Huỳnh Điểu đã là người làm thơ trước khi viết nhạc. Từ năm 1941, ông có bài
thơ đầu tiên (Chiều cô liêu) đăng trên tờ Tin mới (Hà Nội).
Ông còn kể lại: hồi năm 1990, trong buổi họp đồng hương Đà Nẵng tại TP HCM, cô
Lệ Thủy, bạn cùng phố với tôi lúc nhỏ, chợt đứng lên nói: "Đúng ra anh
Phan Huỳnh Điểu phải là thi sĩ. Lúc còn đi học, anh đã làm thơ tặng tôi".
Và cô Lệ Thủy đã đọc bài thơ một cách truyền cảm: "Mắt em sáng hay ngôi
sao vừa mọc/ Phớt hương trời say đắm giữa dòng Ngân/ Mây tơ trắng lâng lâng hồn
viễn xứ/ Bến mi sầu biên giới mộng thi nhân". Do vậy, trong thời gian đầu
viết ca khúc, Phan Huỳnh Điểu thường sáng tác cả nhạc và lời như: Trầu
cau, Đoàn vệ quốc quân, Mùa đông binh sĩ... Tuy nhiên, thời gian về sau,
ông thừa nhận, nhờ tiếp cận nhiều bài thơ hay, phù hợp hoàn cảnh, điều đó gợi
nhiều nhạc cảm cho ông chuyển thành ca khúc. Đặc biệt, theo ông, bài “Bóng cây
Kơnia” của Ngọc Anh là bài thơ ông phổ nhạc thành công trước tiên, mở đà
cho một loạt bài tiếp tục sau này.
Trong số tác giả có thơ phổ nhạc, Phan Huỳnh Điểu tâm đắc hơn
hết là nữ sĩ Xuân Quỳnh, với bài thơ Thuyền và biển (thơ Xuân Quỳnh
viết 1963, 1981 Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc). Bởi ông cho rằng, tác phẩm này mang
chất “Phan Huỳnh Điểu” nhiều nhất, nó khiến ông liên tưởng đến tình yêu của người
vợ dành cho mình và tâm trạng khi yêu của người phụ nữ. Đáng chú ý, Phan
Huỳnh Điểu phổ phần cuối của bài thơ, và chỉ đổi một từ “biển mênh mang nhường
nào” thành “biển mênh mông nhường nào”. Bản nhạc được viết theo điệu 6/8, nhưng
khúc cuối, bắt đầu từ “Nếu phải cách xa anh...”, ông đổi thành 2/4. Với Thơ
tình cuối mùa thu một nhạc phẩm phổ thơ khác của Xuân Quỳnh , ông dẫn
giải: “Thu ở miền Nam chỉ có mưa, thu ở miền Bắc mới thực là mùa thu”. Mùa thu
Hà Nội ngập lá bàng đỏ, gió heo may ùa về, se sắt trong từng con phố. Ngày còn ở
thủ đô, ngày nào ông cũng tản bộ ra Hồ Gươm để thấy mặt hồ bảng lảng sương sớm,
chiều về hồ nên thơ trong sắc lá vàng, cành cây khô, mặt trời ráng đỏ… Vì thế,
ông không thể kìm lòng khi đọc những câu thơ này của Xuân Quỳnh:“Mùa thu vào
hoa cúc/ Chỉ còn anh và em/ Là của mùa thu cũ/ Chỉ còn anh và em/ Tình ta như
hàng cây/ Đã yên mùa bão gió/ Tình ta như dòng sông/ Đã yên ngày thác lũ/ Thời
gian như ngọn gió/ Mùa đi cùng tháng năm/ Tuổi theo mùa đi mãi/ Chỉ còn anh và
em …/ Cùng tình yêu ở lại”… Cũng chính bài thơ này khiến ông quay quắt nhớ đến
người con gái của mối tình đầu thơ ngây gắn với trời thu bên con sông Hàn xanh
ngắt. Thuở cả hai còn ở tuổi mười tám, đôi mươi. Nhà gần nhau, ngày ngày
ghé mắt trông sang mà nụ tình chớm nở với những tơ tình đầu đời. Đêm đêm, hai
người lại hẹn nhau ra con sông Hàn, nàng ngồi nhìn con nước tìm về phía biển,
chàng ngồi ngây ngây nhìn tóc nàng hòa theo gió. Những câu hỏi đáp chẳng đâu
vào đâu bởi nỗi xấu hổ, thẹn thùng. Đôi khi cả hai lặng im, mải miết nhìn con
sông lấp lánh dưới sao trời. Một cái nắm tay khẽ, một cái ôm nhẹ đủ khiến cả
hai bịn rịn. Thu về, nàng đan tặng ông cái áo len. Ông cất giữ cẩn thận, thỉnh
thoảng lại lấy áo ra ngắm. Cuối thu, trời se lạnh, ông lấy áo ra mặc thì không
thấy. Hốt hoảng sực nhớ, anh bạn mình tới chơi ngày nọ trộm mất cái áo tự khi
nào. Chiến tranh, tản cư mỗi người một ngả, tình yêu đầu đứt lìa. Sau giải
phóng, ông gặp lại người xưa đôi lần khi trên đầu đã hai màu tóc, gia đình
riêng đã đề huề... Trong ca khúc này, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu nói thêm về sự “đắt
giá” của chữ “vào” thay vì “và” hay “vàng” trong cụm “mùa thu vào hoa cúc” mà
nhiều ca sĩ hay sơ ý sửa lời: “cúc” trong “mai lan cúc trúc” tượng trưng cho
mùa thu, nếu thay bằng “và” hay “vàng” thì bình thường quá, phải là “vào” thì mới
toát lên được hình ảnh nàng tiên thu dạt dào ý thơ.
Một bài thơ phổ nhạc có kỷ niệm đặc biệt với Phan Huỳnh
Điểu ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, đó là Cuộc đời vẫn đẹp
saocủa Dương Hương Ly. Nhạc sĩ cho biết: “Năm 1971, bị thương ở chiến trường
B, tôi được chuyển ra điều trị tại bệnh viện Đông Y (Hà Nội). Sau thời gian dưỡng
bệnh, sức khoẻ dần hồi phục. Một buổi chiều, tình cờ đọc được bài thơ của
Dương Hương Ly. Đó là một bài thơ về tình yêu, thấy quá hợp tâm trạng, tôi liền
phổ nhạc ngay. Vậy là, Cuộc đời vẫn đẹp sao ra đời. NSND Quốc Hương
là người đầu tiên thể hiện ca khúc này. Về sau nó được nhiều người yêu chuộng
và phổ biến khắp nơi…” . Hoặc với ca khúc Hành khúc ngày và đêm,
nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc từ bài thơ Ngày và đêm của Bùi
Công Minh khi đọc thấy trên báo Văn Nghệ và cảm nhận sự đồng điệu. Còn tác
giả thơ cho biết, bài thơ ấy được viết khi ông vừa tốt nghiệp Đại học Sư phạm
Hà Nội. Năm 1974, khi đang lang thang trên đường phố Hà Nội, ông rất bất ngờ
nghe thấy bài thơ của mình nằm gọn ghẽ trong những dòng nhạc của nhạc sĩ Phan
Huỳnh Điểu. Về sau, Bùi Công Minh mới rõ thêm, giữa mình và nhạc sĩ Phan Huỳnh
Điểu còn có một điểm chung đặc biệt nữa, đều là người gốc quê Đà Nẵng.
Quả thật, thơ chiếm một vị trí hết sức quan trọng
trong nguồn cảm hứng sáng tác âm nhạc của Phan Huỳnh Điểu. Thời kỳ còn tráng kiện,
hầu như tuần nào ông cũng đến các hiệu sách để tìm đọc và mua những tập thơ mới
xuất bản. Ông không chỉ chọn, mua thơ của các tác giả nổi tiếng, mà của cả các
tác giả lạ, mới, miễn là thơ hay để cùng nhạc của ông cất cánh. Đến mức có giai
thoại kể lại, chỉ vì sự mê thơ mà ông đã từng mất hai chiếc xe đạp trong những
lần đến hiệu sách. Một lần, nhà báo Lưu Phong đến nhà Phan Huỳnh Điểu chơi
nhưng ông không có nhà. Vợ nhạc sĩ bảo: “Anh ấy vừa đạp xe đi, chắc là ra hiệu
sách, chỉ một lát là về thôi!”. Nghe vợ nhạc sĩ nói vậy, nhà báo Lưu Phong
ở lại chờ nhạc sĩ về. Trong khi chờ đợi, nhà báo Lưu Phong ngồi lẩm nhẩm
lời bài hát quá quen thuộc và nổi tiếng của Phan Huỳnh Điểu khi nhạc sĩ sáng
tác ở tuổi hai mươi: “Đoàn Giải phóng quân một lần ra đi/ Là có sá chi đâu ngày
trở về...”. Vừa dứt câu thì nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu về, nhưng không phải là ngồi
trên xe đạp mà ngồi trên xích lô. Mọi người đang còn ngơ ngác thì nhạc sĩ kể:
“Mình ghé vào hiệu sách, xem có tập thơ mới nào không? Đang mải xem thì chiếc
xe đạp gác cạnh đấy bị bọn nó dắt đi mất lúc nào không biết!”. Vợ nhạc sĩ nói với
Lưu Phong: “Đây là lần thứ mấy anh ấy mất xe đạp vì yêu thơ đấy”.
Dù vậy, đối với nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, không phải bất
cứ bài thơ nào cũng sẵn sàng phổ thành ca khúc. Ông cho biết, có rất nhiều nhà
thơ gửi tặng những tập thơ dày có, mỏng có và mong được phổ nhạc. Nhưng nếu
không có bài phù hợp với tình cảm mình thì đành bó tay, và xin lỗi vậy! Thế
mới biết, thật vinh dự và hạnh phúc biết bao, những nhà thơ từng có thơ lọt vào
cặp mắt xanh của người nhạc sĩ tài hoa đất Quảng yêu thương.
Trần Trung Sáng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét