Tôi và vài người bạn xa nhau hơn 30 năm rồi một
hôm gặp lại! Bỡ ngỡ nhìn nhau, tưởng như một sự tình cờ, nhưng ngẫm lại thì cuộc
hội ngộ này đã được sắp đặt bỡi một người đã khuất. Điều kỳ lạ là đối
với người giờ đây đã thành thiên cổ, tất cả chúng tôi đều biết,
nhưng chẳng mấy ai quen.
Không quen, chỉ biết, ấy thế mà với anh, chúng tôi đều có cảm
giác là mang chung một món nợ. Một món nợ tinh thần. Bởi vì từ rất lâu anh đã
nói hộ chúng tôi rất nhiều điều: Trong tình yêu anh nhắn nhủ những tự tình,
trong cuộc sống anh bày tỏ những niềm đau, khắc khoải hay gửi gắm những ưu tư về
thân phận con người, mà trong đó thế hệ chúng tôi đều sinh ra trong bom đạn, lớn
lên trong chiến tranh rồi trưởng thành trong chia lìa, mất mát.
Là chứng nhân nhưng chúng tôi chỉ lặng lẽ đi qua cuộc đời hay
chịu đựng trong câm lặng.
Và anh, anh đã nói những nỗi niềm cho tất cả chúng tôi, nói bằng
một thứ âm thanh và ngôn ngữ mà khi ngân lên, như len lỏi vào máu thịt, đi thẳng
vào trái tim và làm rung động đến những phần sâu thẳm nhất.
Những ca từ của anh đã chạm đến đáy lòng của lớp thanh niên triền miên sống
trong âu lo, phập phòng trước cuộc chiến đang làm rách nát quê hương và dày xéo
lên lương tâm những người yêu chuộng hoà bình.
Người ấy Trịnh Công Sơn.
Nhưng Trịnh Công Sơn, Anh là ai?
Tôi đã nghe anh tự nói về mình: “Tôi chỉ là một tên hát
rong đi qua miền đất này đã hát lên linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo” hoặc
lắng nghe một trí thức lỗi lạc từ miền bắc, sau 1975, đã phải thốt lên: “
Cái anh Trịnh Công Sơn này lạ thật, anh ta muốn ôm hết những mâu thuẩn
và khát vọng vào mình.”
Đối với anh Sơn, ca khúc là “đời sống thứ hai,
sau cái thân thể mà cha mẹ đã sinh thành” (phác thảo chân dung tôi,TCS, 1987)
và anh đã diễn đạt lòng mình qua giai điệu.
Hơn 30 năm nhiều người đã hát, đã say mê giai điệu cuả ca
khúc da vàng và tôi tin là thời gian sẽ kéo dài, vì những nốt nhạc đẫm nỗi buồn
thân phận kia sẽ còn ngân nữa và làm cho nhiều trái tim thổn thức.
Dù, một ngày đầu tháng tư của hai năm trước người hát
rong về tình yêu kia đã không còn nữa. Anh đã rời cõi tạm này, để lại một gia
tài ca khúc thật đồ sộ, nhưng có lẽ cái cao quý nhất vẫn là tấm lòng thiết
tha của anh đối với cuộc đời.
Và hôm nay những ca từ của anh đang ngân vang và vẫy gọi
anh em chúng tôi tìm đến nhau và đến với anh, hội ngộ trong một đêm văn nghệ tại
một thành phố đầy thơ mộng trên đất Ý.
Buổi sinh hoạt này do Quỹ Tương Trợ Người
Việt tại Italia tổ chức (31-5-2003) theo lời mời của chị
Sandra Scagliotti, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam (CSV-
Torino) nhằm gây quỹ và đóng góp cho việc thành lập Thư Viện
Trịnh công Sơn tại Italia.
Đến Ý từ những năm đầu của thập kỷ 70, sau một khoá học tiếng
Ý ngắn hạn tại trường Đại học cho người ngoại quốc ở Perugia, chúng tôi phân
tán, phần lớn theo học ở những phân khoa kỹ thuật nằm ở miền Bắc Ý. Tuy vậy
cũng có một số ở lại miền trung Ý. Và tuy củng ở trên một đất nước không
lớn lắm nhưng có một vài người từ bấy đến nay chưa một lần gặp lại.
Ba mươi năm, lúc quen nhau tóc hãy còn xanh, giờ gặp lại tóc đã nhuốm màu sương
tuyết. Thời gian, nói theo ngôn ngữ Trịnh Công Sơn, mỗi năm trôi qua là mỗi lần
mang đi những giấc mơ của tuổi thanh xuân, mang theo một thời hoang tưởng, của
những cuộc rong chơi, không quan tâm về nơi đến chốn về.
Thính phòng đang nhốn nháo bỗng im bặt, một người Âu từ phía
sau hậu trường bước ra, trịnh trọng rót rượu rồi nâng ly cao lên khỏi đầu.
Chén rượu vàng sóng sánh trong ly, bàn tay anh run run và giọng nói cũng run
theo xúc cảm: “Anh Sơn ơi, em mời rượu Anh đây.” Lời vừa dứt anh ngửa cổ uống cạn
một hơi. Nghe tiếng khà...của anh mà bỗng dưng tôi thấy mùi nồng cay, như
dâng lên trong lòng mình một nỗi bồi hồi.
Người Âu đó chính là Frank Gerke, giáo sư ngôn ngữ học Châu Á
tại đại học Bonn (Đức) và cũng là người em kết nghĩa của Trịnh Công Sơn, anh lấy
họ Trịnh và tên Việt là Trịnh Công Long.
Trước mắt anh là màn bạc, trên đó có hình Trịnh Công Sơn đội
nón kết, mang kiếng trắng với cái nhìn đăm chiêu hướng về hàng chữ: “Bao
nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”.
Sau lời giới thiệu bằng tiếng Việt thật chuẩn của Trịnh
Công Long, các ca khúc lừng danh của Trịnh như“Hãy yêu nhau đi”, “Diễm xưa”,
“Biển nhớ” đã được hát lên. Có người bạn cứ ấn tượng mãi về lời chia
tay trong tiếng hát Thái Hoà : “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về” vì quê
hương luôn dang rộng vòng tay đón những người con, người bạn trở về. Trở về để
“Nối vòng tay lớn” để “Dựng tình người trong ngày mới”.
Sau “Nối vòng tay lớn”, những bài hát phản chiến “Người con
gái VN da vàng” “Tôi có người yêu ” đã được cất lên. Tiếng hát như bày ra sự
toang hoác trần truồng của chiến tranh, cùng với tâm trạng hụt hẫng của tuổi trẻ
trước bi kịch đất nước mà anh đã đớn đau nhận lãnh rồi biến hoá thành nghệ thuật.
Anh đã hát cho Việt Nam mà cũng nói hộ cho nhân loại nỗi tuyệt vọng của cuộc
nhân sinh, sự phẫn nộ của chiến tranh, và lòng khao khát hòa bình.
Anh đã từng nói về người Việt: “Mỗi con người Việt
Nam đều sống cùng một lúc hai thân phận.Thân phận chiến tranh và cái thân phận
bình thường của nhân loại, nó như một loài lạc đà hai bướu gánh nặng một hành
trang quá tải qua cuộc sống này.”
Trong một trang nhật ký của mình, một chiến sĩ giải phóng đã
viết từ bên kia chiến tuyến lần đầu nghe hát bài nối vòng tay lớn: “Bài
ca có tác động làm chùng tay súng, một ngày, một giờ mà sinh mệnh hàng triệu
con người nằm trên đường tơ kẽ tóc. Mặt đất bao la...anh em ta về ...gặp
nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng... Lời ca không phải là tiếng
thách thức tử thủ, không phải là tiếng bể máu như kết cục thường có của chiến
cuộc, mà lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học.”
Hơn hai mươi
lăm năm chiến tranh Việt Nam đã kết thúc, và sự tàn khốc của nó vẫn còn là một
vết thương chưa khép miệng trên lương tâm nhân loại.
Nếu con người có thể rút ra được những bài học thì tại sao cứ mỗi thời kỳ, thế
giới lại tiếp tục tái phạm những sai lầm và thực hiện những tội ác phi nhân? Vừa
dứt chiến tranh, bức tường Bá Linh đổ xuống, ai cũng hy vọng là con người trưởng
thành thêm một chút, sợ hãi hơn, chín chắn hay nhân ái hơn, nào ngờ cuộc
chiến Yugoslavie, Afghanistan, Iraq, Đông Timor lại bùng nổ. Người ta khủng bố,
giết nhau vì dầu lửa, vì quyền lợi phe nhóm và tàn sát như thuở còn man di mọi
rợ.
Trong ánh sáng của toàn cầu hoá, đang san bằng văn hoá và tất
cả mọi giá trị, những thành phố xa lạ... cách nhau hàng nghìn km, bỗng trở
nên giống nhau vì tất cả đều đã biến thành đống gạch vụn; Những con người
đủ mọi màu da, tập quán, kinh nghiệm sống và ước mơ khác biệt... bỗng chốc giống
nhau, không phân biệt được vì thân xác đã biến thành những mảng da thịt
thiêu cháy, thân thể tách rời...
Chúng ta đã học được gì từ những tan hoang? Đổ nát? Hay chỉ
nhìn thấy máu chưa kịp khô đã liền đổ nữa?
Và bởi con người trì trệ, trơ trơ, vô cảm trước nỗi đau của đồng
loại... nên những ca khúc, văn chương phản chiến cần phải có để làm cho chúng
ta thức tỉnh và đưa tâm hồn chúng ta có thêm hy vọng và cuộc đời có thêm ánh
sáng. Bởi cái đích của văn nghệ là nhắm đến Chân Thiện Mỹ cần phải vươn tới, dù
có thể ngã gục giữa đường.
Ngã gục vì dường như con người càng thông minh thì càng
gian ác, bạo tàn. Trí thông minh mà thiếu lòng nhân ái thì chỉ mang đến huỷ diệt.
Sau cuộc thay đổi của đất nước, Trịnh Công Sơn đã ở lại. Tất
cả những hứa hẹn, những mời mọc ân cần từ các nơi trên thế giới, Nhật,
Canada, Hoa kỳ... anh đều từ chối và chấp nhận gắn bó với quê hương mà
anh đã sinh thành và lớn lên, dù có khi chính quê hương ấy đã gây cho anh nhiều
hệ luỵ và đớn đau, mất mát.
Và chính sự ở lại này đã mang lại cho anh nhiều tiếng khen
chê. Trước những bình phẩm ấy, anh chỉ yên lặng, hoặc vỏn vẹn trả lời bằng hai
chữ “thôi kệ” như mỗi khi có ai lừa gạt hay làm anh phật ý. Thái độ sống
của anh, ngoài bản chất nhân ái hiếu hoà, còn đứng trên mọi khôn dại toan tính
đời thường.
Trịnh Công Sơn đã được người yêu và bị người ghét. Nhưng dù
muốn dù không, một vị trí đặc biệt trong trái tim của họ đã bị anh chiếm giữ, bởi
ca từ của anh, bằng cách này cách nọ đã thấm sâu vào cái mầm thiện trong lòng họ.
Vì thế, kẻ chống, người theo, khi riêng mình vẫn nghe hay hát nhạc Trịnh.
Chính điều này đã minh chứng là ca khúc của anh đã vượt lên trên lòng thù hận.
Trong tiếng hát âm vang của các bạn đến từ khắp nơi trên nước Ý, có người
lặn lội từ Thuỵ Sĩ, Pháp, Đức hay từ tận Canada xa xôi... tôi nhìn khắp
khán phòng. Tôi cố ghi lại trong trí những khuôn mặt của họ và đối chiếu
với ngày vừa đặt chấn đến sân bay Fimumicino bao nhiêu năm truớc.
Bước đi của thời gian vô hình hơn 30 năm qua cũng dễ dàng thấy được, qua những
sợi tóc trắng đã chiếm đa số trên mái đầu của bạn bè, đây là những đổi
thay không bao giờ trở lại.
Năm tháng đã trôi đi, bao nhiêu dòng nước đã chảy dưới
cầu, trên đó dấu chân tình yêu đã đi qua cùng những khắc khoải của chiến tranh.
Những đứa bé ngày xưa giờ trở nên chững chạc. Những thiếu nữ ngày nào đã trở
thành thiếu phụ và những nấm mộ bây giờ cỏ đã xanh xao... tất cả bốn thế
hệ đã và đang hát những bản tình ca của Trịnh Công Sơn; Còn những bài ca chống
chiến tranh, đó đây vẫn vang lên những tiếng ngân căm phẫn và tuyệt vọng vì thế
giới đã chứng minh là chiến tranh không bao giờ chấm dứt.
Cảm ơn chị Sandra mà thư viện Trịnh Công Sơn đã được
ra đời
Đây cũng là lần đầu tiên tài sản âm nhạc của một nhạc sĩ Việt
Nam được lưu giữ tại một thư viện riêng mang tên chính mình. Nhân dịp nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn được trao tặng Giải thưởng Âm nhạc Hòa bình Thế giới,
Bài viết nhân ngày giỗ năm thứ hai Nhạc Sĩ Trịnh Công
Sơn do Quỹ Tương Trợ Người Việt tại Italia tổ chức hai
buổi sinh hoạt văn nghệ, ngày 29-05-2003 tại Trung Tâm
Nghiên Cứu Việt Nam (CSV-Centro di studi vietnamiti - TORINO) và
ngày 31-05-2003 tại Cavaion Veronese, thuộc thành phố Verona, nơi phát xuất
chuyện tình lãng mạn của Romeo và Giulietta.
Buổi họp mặt có sự tham gia đóng góp, cộng
tác của chị Sandra Scagliotti người đã sáng lập Trung Tâm Nghiên Cứu Việt
Nam,(CSV) các bạn Việt kiều vùng Torino, Brescia, Bergamo, Verona, Mantova và
các bạn Việt Nam sinh sống tại Pháp (Lyon, Paris), ca sĩ Thái Hoà đến từ Canada
và anh bạn người Đức Frank Gerke
Ý tưởng thành lập thư viện Trịnh Công Sơn là của chị Sandra
Scagliotti và được những anh em trong Quỹ Tương Trợ Người Việt tại Ý hết
lòng hổ trợ.
Thư viện Trịnh Công Sơn tại Ý sẽ phối hợp chặt chẽ cùng gia
đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, các bè bạn tại VN, các hội đoàn và tổ chức văn
hóa yêu mến Trịnh Công Sơn ở các nước để thực hiện việc lưu trữ, dịch thuật,
phân loại, đánh giá về gia tài âm nhạc và con người của Trịnh Công Sơn, phục vụ
công chúng và giới sinh viên, các nhà nghiên cứu ở nước ngoài.
Thư viện Trịnh Công Sơn là một phần của Trung tâm văn hóa Việt
- Ý do chị Sandra Scaglotti, làm Giám đốc. Hiện nay Trung tâm đã có một thư viện
Việt Nam với khoảng 5000 cuốn sách viết về Việt Nam trong rất nhiều lĩnh vực,
chủ yếu do cá nhân chị Sandra và bạn bè sưu tập từ suốt mấy mươi năm qua.
QTT (Quỹ tương trợ người Việt tại Ý) Là tổ chức của người Việt
tại Italia, được thành lập (2002) bởi sự gợi ý của 6 sáng lập viên nhằm
qui tụ người Việt định cư tại Ý với mục đích hướng về quê hương. Hoạt động
chủ yếu trong 3 lãnh vực: Từ thiện, văn hoá, xã hội. Tính
đến 2010 thì QTT đã cấp khoảng 1000 học bỗng cho các học sinh, sinh viên nghèo ở
Việt Nam, đã xây dựng lại trường Tây Thuận (Tây Sơn, Bình Định) bị đổ nát vì
bão lũ và đóng góp hơn 300 triệu đồng cho các công tác từ thiện khác (cứu
trợ bão lụt, giúp trẻ em mồ côi, trẻ em khuyết tật...).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét