Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015

Các ca khúc lãng mạn: “Buồn Tàn Thu”, “Bến Xuân”, “Suối Mơ”, “Thiên Thai”, “Trương Chi”

Các ca khúc lãng mạn: “Buồn Tàn Thu”, “Bến Xuân”, “Suối Mơ”, “Thiên Thai”, “Trương Chi”
Các ca khúc lãng mạn: “Buồn Tàn Thu”, “Bến Xuân”, “Suối Mơ”, “Thiên Thai”, “Trương Chi”, đã ghi dấu ấn trong lịch sử Tân nhạc Việt Nam của Nhạc sĩ Văn Cao.
Nhạc sĩ Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray (nay là phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền), thành phố Hải Phòng, nhưng quê gốc ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha của ông vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, NS Văn Cao học ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc.
Cuối những năm 1930, Tân Nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng khi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý… ông tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận… và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là “Buồn Tàn Thu” vào năm 16 tuổi. Cùng nhóm Đồng Vọng, ông còn sáng tác một số ca khúc hướng đạo vui tươi khác như “Gió núi”, “Gò Đống Đa”, “Anh Em Khá Cầm Tay”.
Nhạc sĩ Văn Cao
Bà Nghiêm Thúy Băng
Cũng trong thời gian ở Hải Phòng, Văn Cao làm quen với Phạm Duy, khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Phạm Duy chính là người đã hát “Buồn Tàn Thu”, giúp ca khúc trở nên phổ biến.
Năm 1940, Văn Cao có một chuyến đi vào miền Nam. Ở Huế, Văn Cao đã viết “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, được coi là bài thơ đầu tay.
Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy, ông rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant – nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền – và theo học dự thính tại Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Ông còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy.
Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: “Cô Gái Dậy Thì”, “Sám Hối”, “Nửa Đêm”. Đặc biệt tác phẩm “Cuộc Khiêu Vũ Những Người Tự Tử” (“Le Bal aux suicidés”) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của ông không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, ông thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng.
Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như những nhạc sĩ tiền chiến khác, ông viết các nhạc phẩm trữ tình, nhưng ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông. Từ ca khúc đầu tay “Buồn Tàn Thu”, ông đã sử dụng ngũ cung để viết về một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ đợi. Sau “Buồn Tàn Thu”, ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu là “Thu Cô Liêu” và “Suối Mơ”. Trong đó “Suối Mơ” vốn là một đoạn của bản “Trương Chi 1” được ông phát triển thêm và cùng NS Phạm Duy hoàn tất. Bản “Trương Chi” nổi tiếng sau là “Trương Chi 2”.
Bên cạnh đề tài mùa thu, ông cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là “Cung Đàn Xưa” và “Bến Xuân”. Nhạc phẩm “Bến Xuân” có sự tham gia của NS Phạm Duy, nhưng về sau ông viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên “Đàn Chim Việt”. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, NS Văn Cao đã giành được thành công. “Buồn Tàn Thu” được biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúc tân nhạc còn mới phôi thai nên trở nên phổ biến. “Suối Mơ”, “Bến Xuân” được Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam.
Nhưng hai tình khúc của NS Văn Cao được đánh giá cao hơn cả là “Thiên Thai” và “Trương Chi”. Bản Thiên Thai được nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế in năm 1944, NS Văn Cao tự nhận mình là “Người sông Ngự”, ghi: “Ảnh hưởng sông nước khúc “Thiên Thai” cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người sông Ngự đã lạc mất cảm xúc rồi!”. Lời bài hát được đề là của Văn Cao, Hoàng Thoái và Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích, một người bạn của NS Văn Cao.
Sử dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ, “Thiên Thai” có tới 94 khuông nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính nhạc cảnh. Năm 2001, khi phim Người Mỹ Trầm Lặng được thực hiện, “Thiên Thai” được sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống như “Thiên Thai”, “Trương Chi” cũng dựa trên tích chuyện cổ nhưng không phải là một truyện ca mà manh tính tự sự. Ca khúc này còn một đoạn lời nữa mà các ca sĩ thường không trình diễn: “Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ, Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ”…. Hình ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được so sách với hình ảnh của chính ông.
NS Văn Cao kết hôn cùng bà Nghiêm Thúy Băng năm 1947, có với nhau 5 người con, 3 trai đầu và 2 gái cuối.
Năm 2005, mười năm sau ngày NS Văn Cao mất, Hà Nội lấy tên Văn Cao đặt cho một tuyến phố thuộc hàng đẹp nhất của thành phố nối từ Liễu Giai đến đường Hoàng Hoa Thám. “Đường Văn Cao” sau đó đã được kéo dài xuyên qua đường Hoàng Hoa Thám, ra tận sát Hồ Tây.
Tên “Đường Văn Cao” cũng được nhiều thành phố lớn ở Việt Nam dùng đặt tên đường trong thành phố để tưởng niệm người nhạc sĩ tài hoa này.
Dưới đây mình có bài “Cố nhạc sĩ Văn Cao và những chuyện tình chưa kể sau 20 năm ngày mất” cùng với 14 clips tổng hợp các ca khúc “Buồn Tàn Thu”, “Bến Xuân”, “Suối Mơ”, “Thiên Thai”, “Trương Chi” của NS Văn Cao để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
Theo Wikipedia
Cố nhạc sĩ Văn Cao bên cạnh vợ – mối tình duy nhất, bà Nghiêm Thúy Băng.
Cố nhạc sĩ Văn Cao và những chuyện tình chưa kể sau 20 năm ngày mất
(Diệu Linh - Ảnh: Gia đình cung cấp)
Và có lẽ cũng sẽ ít ai biết được tác phẩm “Làng Tôi” cũng chính là món quà cưới đẹp, lãng mạn nhất mà cố nhạc sĩ đã viết tặng cho vợ hiền, bà Nghiêm Thúy Băng.
Từ những sáng tác Suối mơ, Bến xuân, Buồn tàn thu cho tới Trương Chi,.. mỗi bản tình ca của cố nhạc sĩ Văn Cao luôn ẩn hiện thấp thoáng đâu đó hình ảnh của một “bóng hồng” và một câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng sâu kín. Hình tượng người phụ nữ trong tình khúc Văn Cao không cụ thể như trong âm nhạc Trịnh Công Sơn, không ma mị như trong tác phẩm về tình yêu của Phạm Duy, nhưng người phụ nữ của nhạc sĩ Văn Cao lại gần gũi nhưng cũng thật xa mà lại giản dị.
Và có lẽ với những gì nói về cố nhạc sĩ Văn Cao và những câu chuyện tình sau 20 năm ngày mất không thể không nhắc tới bà Nghiêm Thúy Băng, vợ của ông. Bà cũng chính là mối tình lớn duy nhất trong cuộc đời của “cây đại thụ lớn” nền tân nhạc Việt Nam.
Nhưng có lẽ, 20 năm ngày mất cố nhạc sĩ Văn Cao cũng là 20 năm cuộc sống của bà Băng thiếu đi bóng dáng của người bạn đời, người tri kỷ, người viết nên ca khúc Làng tôi để tặng bà làm món quà cưới thay cho những thứ vật chất phù phiếm trên đời.
Khi nhắc đến những bóng hồng thấp thoáng trong những bản tình ca, nhạc sĩ Văn Cao cho rằng, hình tượng người thiếu nữ trong tác phẩm của ông rất mơ hồ, họ xuất hiện trong không gian tưởng tượng của ông.
“Gặp thì không phải không nhiều, người ta yêu tôi cũng nhiều nhưng tôi yêu lại thì không bao giờ. Có một thời gian tôi không muốn yêu một ai cả. Tôi có thể thích cái đẹp nhưng rất sợ sự hòa nhập với cuộc đời của người ta, nhất là những người con gái xinh tươi”, cố nhạc sĩ Văn Cao từng tâm sự. Và cũng chính những điều đó, mà sau này khi gặp người vợ của mình, bà Nghiêm Thúy Băng, với cố nhạc sĩ Văn Cao, đây là tình yêu duy nhất tròn vẹn và thanh quý.
Làng tôi - món quà cưới lãng mạn
Đầu những năm 1940, gia đình bà Nghiêm Thúy Băng là một trong những gia đình giàu có nhất thời bấy giờ. Bố bà là chủ nhà in, đồng thời là chủ bút hai tờ báo lớn. Nghiêm Thúy Băng là tiểu thư “cành vàng lá ngọc”, ăn mặc sang trọng thanh tú, vẻ đẹp đài các rạng rỡ.
Khi đó, Nghiêm Thuý Băng được cha mẹ giao cho một tiệm sách nhỏ, cô làm công việc giao hàng cho khách in và bán sách, trong đó có đôi lần gặp được nhạc sĩ Văn Cao. Từ lâu Nghiêm Thuý Băng đã say mê nhạc của Văn Cao, khi gặp được tác giả, tình cảm càng thêm nồng. Chàng trai Văn Cao cũng rung động trước vẻ đẹp quý phái của cô tiểu thư. Rồi cả hai đã phải lòng và cưới nhau một năm sau đó. Đánh dấu cho kỉ niệm này là bài hát Làng tôi, Văn Cao sáng tác tặng vợ như một món quà cưới.
Đầu năm 1947, sau ngày toàn quốc kháng chiến, Văn Cao cùng các văn nghệ sĩ tản cư đi kháng chiến. Vì cuộc kháng chiến xảy ra sớm hơn dự định nên Văn Cao không kịp tổ chức một đám cưới trang trọng tại Hà Nội. Đám cưới của chàng nhạc sĩ tài hoa và cô tiểu thư được tổ chức đơn giản tại một ngôi nhà dân tại Ba Thá ven sông Đáy, chỉ với vài người thân bên nội ngoại.
Tại vùng quê yên bình này, Văn Cao đã sáng tác bài Làng tôi. Bà Nghiêm Thúy Băng là người đầu tiên được Văn Cao hát tặng như một món quà cưới.
Bà Thúy Băng từng viết: “Cuộc đời tôi từ khi đến với anh Văn Cao chưa có một ngày nào được sung sướng về vật chất, nhưng tôi không ân hận khi trao cả cuộc đời cho anh. Có lẽ đó là một sứ mệnh ngẫu nhiên nếu không muốn nói là định mệnh. Tôi đã hy sinh sự nghiệp của mình dành cho người chồng yêu quý có một sự nghiệp trong sáng tác, ngay cả những lúc sóng gió nhất trong cuộc đời, tôi vẫn ở bên cạnh anh và tôi cũng cảm nhận được tôi có ý nghĩa với anh như thế nào. Nhiều bạn bè nhận xét những người phụ nữ trong tranh của anh luôn có nét hình ảnh của tôi… Con người anh trầm lặng, sự sống như lặn vào trong, rất khiêm tốn, không khoe khoang. Nhờ ảnh hưởng của tính cách ấy mà qua bao thăng trầm sóng gió, trải qua những gì đau đớn nhất của cuộc đời, tôi vẫn tự hào mình có nghị lực vượt qua…”.
“Giữa những ngày dằng dặc. Chỉ còn khuôn mặt em. Sáng trong và bình lặng…” – đó là những vần thơ đầy ắp tình cảm mà nhạc sĩ Văn Cao đã viết riêng cho nhan sắc của cuộc đời mình.
Bến Xuân và mối tình thẹn thùng
Một trong những tác phẩm của Văn Cao được nhiều yêu thích là bài Bến xuân. Trong cuốn băng video Văn Cao - Giấc mơ đời người (đạo diễn Đinh Anh Dũng, Hãng phim Trẻ sản xuất năm 1995, tái bản năm 2009), trong phần giới thiệu ca khúc Bến xuân, nhạc sĩ Văn Cao tâm sự: “Ngày xưa tôi có thầm yêu một người con gái mà không dám nói ra. Nhưng người ấy hiểu lòng tôi và đến với tôi. Vì thế nên mới có câu hát “Em đến tôi một lần” và có bài hát này”…
Người con gái ấy tên là Hoàng Oanh. Đó là những năm đầu thập kỷ 40, Văn Cao chơi rất thân với Kim Tiêu. Trong một lần Kim Tiêu đưa Hoàng Oanh đến buổi tập những sáng tác đầu tay của Văn Cao, hai người phải lòng nhau từ ánh mắt đầu tiên.
Sau khi Hoàng Oanh biết Văn Cao chính là tác giả của những ca khúc nổi tiếng thì lòng ngưỡng mộ của nàng dành cho ông càng tăng lên. Và để từ chỗ yêu giọng hát của Kim Tiêu, Hoàng Oanh thầm kín dành tình cảm cho tác giả của Buồn tàn thu.
Hoàng Oanh đến thăm Văn Cao một lần duy nhất, ở Bến Ngự. Lần đến thăm đầu tiên cũng là lần cuối cùng đã đi vào lời ca của bài hát nổi tiếng Bến xuân. “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần, bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân.Mắt em như dáng thuyền soi nước. Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân”. Không chỉ đến thăm suông mà nàng còn ngồi làm mẫu cho Văn Cao vẽ, rồi ân cần ngồi quạt cho chàng nhạc sĩ sáng tác nhạc…
Mối tình của Văn Cao và Hoàng Oanh không thành cũng một phần bởi Văn Cao luôn nghĩ tới người bạn của mình. Sau này, chính Kim Tiêu lại là người đầu tiên giúp Văn Cao thể hiện Bến xuân. Nhưng Kim Tiêu lại không thể đến được với Hoàng Oanh.
Hoàng Oanh sau này lại kết hôn với Hoàng Quý, nhạc sĩ đàn anh của Văn Cao. Tuy nhiên người nhạc sĩ này cũng chỉ sống với Hoàng Oanh ít lâu rồi qua đời. Người góa phụ trẻ Hoàng Oanh không ai biết sau này ra sao.
Buồn Tàn Thu – Thái Thanh
Buồn Tàn Thu – Ngọc Hạ
Bến Xuân – Nguyệt Anh
Bến Xuân – Ánh Tuyết
LK Bến Xuân & Thư Xuân – Ngọc Hạ & Trần Thái Hòa
Suối Mơ – Sĩ Phú
Suối Mơ – Lệ Thu
Suối Mơ – Ngọc Hạ
Suối Mơ – Trần Thái Hòa
Suối Mơ – Ánh Tuyết
Thiên Thai – Thái Thanh
Trương Chi – Thái Thanh
Thiên Thai – Ánh Tuyết
Trương Chi – Ánh Tuyết
Theo http://dotchuoinon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bài thơ Đi học được được Hoàng Minh Chính viết khi mới 15 tuổi Đi Học Hôm qua em đến trường Mẹ dắt tay từng bước Hôm nay mẹ lên nư...