Nhạc sĩ Phạm Duy (5/10/1921- 27/1/2013), tên thật Phạm Duy Cẩn, là một nhạc
sĩ, ca sĩ, nhà nghiên cứu nhạc. Ông được coi như một trong những nhạc sĩ lớn nhất
của nền Tân Nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại,
trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt. Nhạc
của ông thường kết hợp những yếu tố của âm nhạc cổ truyền Việt Nam với các trào
lưu, phong cách mới, tạo nên nhiều tác phẩm có tính đột phá, giàu ảnh hưởng đối
với các nhạc sĩ thuộc nhiều thế hệ.
Ngoài sáng tác và biểu diễn,
ông còn có những công trình khảo cứu về Âm Nhạc Việt Nam có giá trị. Ông từng
giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại trường Quốc Gia Âm nhạc Sài Gòn. Với hơn 70 năm sự
nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước, ông được coi
là cây đại thụ của nền Âm Nhạc Việt Nam. Tuy vậy bên cạnh đó, các quan điểm
nhìn nhận về ông cũng khác biệt, chủ yếu là do các vấn đề chính trị.
Khởi đầu sự nghiệp âm nhạc
trong gánh hát Đức Huy với vai trò Phó quản lý và ca sĩ hát lưu động. Từng tham
gia Kháng chiến chống Pháp một thời gian trước khi vào miền Nam để tiếp tục tự
do hoạt động âm nhạc. Phạm Duy là một tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại miền
Nam Việt Nam với những hoạt động tích cực dành cho cả âm nhạc và chính trị, và
những hoạt động này còn tiếp diễn sau giai đoạn 1975, khi ông di tản sang Hoa Kỳ.
Vì lý do chính trị, nhạc của ông bị cấm hoàn toàn tại miền Bắc Việt Nam sau
1954, và toàn Việt Nam sau 1975.
Phạm Duy Cẩn (NS Phạm Duy)
lúc nhỏ
Năm 2005, sau nhiều lần về
thăm quê hương, ông chính thức trở về Việt Nam sống và từ đó, một số ca khúc của
ông mới bắt đầu được phép phổ biến lại. Tính cho tới tháng 1 năm 2014, có 244
ca khúc của ông được cấp phép lưu hành (trong số đó có 53 ca khúc ngoại quốc do
ông đặt lời Việt), trong số khoảng 1000 sáng tác của ông.
Sinh ra trong một gia đình
văn nghiệp, cha ông là Phạm Duy Tốn thường được coi như là nhà văn xã hội đầu
tiên của nền “Văn Học Mới” đầu thế kỷ 20. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo
sư thạc sĩ, cựu Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp Văn, tác giả những
cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine.
Lúc nhỏ, ông là cậu bé hiếu
động, tính tình “văng mạng, bất cần đời”, tuy vậy lại thích diễn kịch, làm trò,
và mê nhạc. Ông biết dùng Guitar, Mandolin để chơi nhạc Tây Âu, bên cạnh đó còn
tiếp thu các nhạc điệu Dân ca miền Bắc, hay những bài ca Huế như Nam Ai, Nam
Bình, Tứ Đại Cảnh… Ngoài nền văn hóa mang tính nhân bản của Pháp, ông còn được
tiếp xúc với văn hóa cổ truyền, qua các tác phẩm của cha Phạm Duy Tốn, hay cuốn
“Tục ngữ phong dao” của người anh họ Nguyễn Văn Ngọc.
Về học vấn, NS Phạm Duy chỉ
có bốn năm tiểu học và một năm trung học, nhưng những bài học trong các sách Quốc
Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư, đã in đậm trong tâm hồn ông trước khi
bước vào xã hội, hình thành cho ông một quan niệm về “đức độ của con người Việt
Nam” mà ông nhấn mạnh là “con người ở nông thôn”, chứ “không phải ở thành thị”.
Ông học vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học Tiểu học tại trường Hàng Vôi. Tính
ông nghịch ngợm, học không giỏi, thường hay bị phạt. Đến năm 13 tuổi (1934),
vào được lớp nhất, ông mới học giỏi dần, trở thành một trong những học sinh ưu
tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp.
Nhà văn hiện thực Phạm Duy Tốn,
phụ thân của NS Phạm Duy.
Năm 1936, ông vào học trường
Thăng Long, một trường trọng điểm của thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có các
nhân vật nổi tiếng như: Trần Văn Tuyên, Phan Anh, Khuất Duy Tiến. Trong đám bạn
cùng lớp có người sau này trở thành nhà thơ như Quang Dũng. Một năm học trung học
giúp ông hấp thụ thêm những cái hay cái đẹp của nền văn chương Pháp, của Victor
Hugo, André Chenier, Alfred de Vigny, Bernadin de Saint Pierrre…
Năm 1940, nghe lời bè bạn,
ông theo học dự thính hội họa tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học thầy
Tô Ngọc Vân, cùng lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng…Tuy nhiên ông sớm nhận ra
mình không có niềm đam mê thật sự đối với hội họa. Ông cũng trải qua nhiều công
việc khác như phụ gánh xiếc, thợ sửa radio, coi sóc trang trại…tại nhiều tỉnh
thành, nhưng đều bỏ nghề và dời chỗ ở sau một thời gian ngắn. Tuy rằng không có
nghề nào lâu dài, nhưng việc sống ở nhiều nơi, trải qua nhiều hoàn cảnh sống
khác nhau cũng là những chất liệu quan trọng giúp ích cho sự nghiệp âm nhạc sau
này. Cùng với giai đoạn lang thang vô định này, ông cũng dần nhận ra niềm đam
mê âm nhạc của mình. Phạm Duy tự mày mò học nhạc cổ điển, rồi tập tành sáng
tác. Trong cuộc đời của mình, ông chưa từng học chính quy một trường lớp âm nhạc
nào.
Năm 1941, ông thành ca sĩ
hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy - Charlot Miều. Thời kỳ hát rong,
Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê
Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông…và nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn
thân thiết trong đời sống lẫn trong âm nhạc. Thời kỳ này, ngoài việc cùng Văn
Cao la cà các chốn ăn chơi, thì ông cũng giúp đỡ cho Văn Cao trong việc soạn nhạc,
cùng Văn Cao sáng tác các tác phẩm“Bến Xuân”, “Suối Mơ”.
Năm 1942, ông khởi nghiệp
sáng tác nhạc với tác phẩm hoàn chỉnh đầu tay là “Cô Hái Mơ”, phổ từ thơ
Nguyễn Bính, trong thời kỳ phong trào Tân Nhạc bắt đầu nở rộ.
Chợ Neo, 1949 - NS Phạm Duy
&
Ca sĩ Thái Hằng, một tháng sau ngày cưới.
Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm
Duy rời nhà cũ đi lang thang nhiều nơi. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo
chính Pháp, ông cùng hai kép trong gánh hát Đức Huy bị bắt vào tù khi đang lưu
diễn ở Cà Mau . Cũng năm này ông theo kháng chiến, trở thành cán bộ văn nghệ của
Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó.
Năm 1949 ông lập gia đình với
ca sĩ Thái Hằng tại chiến khu Việt Bắc, người chủ trì của hôn lễ này là tướng
Nguyễn Sơn.
Năm 1951, do không phục Việt
Minh, ông bỏ về Hà Nội. Sau khi sinh con đầu lòng Duy Quang, ông đưa gia đình
di cư vào Nam, sinh sống tại Sài Gòn. Cuối năm 1951, bị một số nhạc sĩ ghen tị
tố cáo là có quan hệ với Việt Minh, ông cùng với Lê Thương và Trần Văn Trạch bị
bắt giam ở khám Catinat, Sài Gòn trong 120 ngày.
Năm 1953, ông qua Pháp học dự
thính hai năm về âm nhạc, tại đây ông quen với Trần Văn Khê, người sau này trở
thành Giáo sư. Hai năm sau, ông về Việt Nam thì đất nước đã chia cắt sau hiệp định
Genève. Từ đó ông ở miền Nam tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong “Ban Hợp Ca
Thăng Long” cùng với Thái Thanh, Hoài Nam, Hoài Bắc, Hoài Trung tại phòng trà
Đêm Màu Hồng. Thời gian này ông cũng có những hoạt động trong ngành sân khấu và
thông tin đại chúng, như viết nhạc kịch, viết nhạc cho phim và cộng tác với Đài
Phát Thanh Sài Gòn.
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương và
ca sĩ Khánh Ngọc
Năm 1956, xảy ra vụ ngoại
tình giữa ông và người vợ (ca sĩ Khánh Ngọc) của em vợ (nhạc sĩ Phạm Đình
Chương), vụ việc trở thành một scandal lớn gây xôn xao trên các báo chí Sài Gòn
và cả Hà Nội thời ấy. Đây là một “mối tình cấm”, “cả gan” luôn làm ông “buồn rầu
khi phải nhắc lại” vì đã làm buồn lòng người vợ (ca sĩ Thái Hằng), người em vợ
(nhạc sĩ Phạm Đình Chương), và vì biết rằng “những đổ vỡ kia không thể nào hàn
gắn lại được”. Sau vụ tai tiếng trên, ông không còn hợp tác với Ban Hợp Ca
Thăng Long nữa.
Gia đình ông chuyển đến căn
nhà nhỏ ở cư xá Chu Mạnh Trinh ở ngã tư Phú Nhuận, nơi có nhiều gia đình nghệ
sĩ tới ở, như gia đình Nguyễn Mạnh Côn, Năm Châu, Duyên Anh, Hồ Anh, Anh Ngọc,
Trần Ngọc, Hoàng Nguyên, Minh Trang, Kim Tước. Không còn hợp tác với bang Thăng
Long, Phạm Duy vào làm việc ở Trung Tâm Điện ảnh. Thời gian này ông hay lui tới
quán Chùa (La Pagode), gặp gỡ Vũ Khắc Khoan, Cung Trầm Tưởng, Võ Đức Diên, Mặc
Thu, Tạ Tỵ, Lê Ngộ Châu…Ông được Võ Đức Diên và các bạn bè giúp đỡ đi một chuyến
từ Sài Gòn ra vĩ tuyến 17 để hoàn thành nốt “Trường Ca Con Đường Cái Quan”.
Thập niên 1960, sau khi Việt
Nam Cộng Hoà được nhiều quốc gia thân Mỹ công nhận, cùng với các bạn nghệ sĩ
khác, Phạm Duy được cử đi Philippins, Nhật Bản,Thái Lan để giới thiệu Văn Nghệ
Việt Nam. Và với ít nhiều kinh nghiệm bang giao, ông thường có mặt trong những
buổi đón tiếp các phái đoàn văn nghệ nước ngoài, như đoàn vũ trống của Hàn Quốc,
đoàn Moral Rearmement của Mỹ… Nhờ đó ông có dịp trao đổi tài liệu âm nhạc với
các văn nghệ sĩ nước ngoài.
Năm 1965, ông tham gia
“Phong Trào Du Ca” với Nguyễn Đức Quang, Giang Châu, Ngô Mạnh Thu… đi nhiều nơi
tại miền Nam Việt Nam để phổ biến các ca khúc nói lên thân phận của tuổi trẻ thời
đó.
Bản nhạc Ngày trở về do An
Phú xuất bản năm 1954, ca khúc này được Phạm Duy viết năm 1954 khi ông lên đường
đi Pháp du học.
Năm 1966, ông được Văn Phòng
Giáo Dục Văn Hóa của Bộ Ngoại Giao Mỹ mời sang quốc gia này, tại đây ông được mời
tham quan các đài truyền hình, nhạc hội, đến ở trong gia đình nghệ sĩ The Beers
Family, Petersburg. Ông được đài Channel 13 với Steve Addiss và Bill Crofut, mời
tham gia chương trình Dân Ca của Pete Seeger, nhạc sĩ phản chiến số một của Hoa
Kỳ. Bốn năm sau ông lại qua Hoa Kỳ lần nữa để làm cố vấn cho Bộ Thông Tin Hoa Kỳ
để “giải độc dư luận Mỹ”. Tại đây ông mới biết thêm thông tin về vụ Thảm sát Mỹ
Lai, và phản ứng của ông là ca khúc “Kể Chuyện Đi Xa”. Ông cũng hát nhiều
ca khúc phản chiến tại các show truyền hình, sân khấu ở Mỹ.
Cuối thập niên 1960, ban nhạc
gia đình “The Dreamers” của các con ông ra đời, ông cùng ban này đi biểu diễn tại
các phòng trà, nhà hàng Sài Gòn. Đây cũng là thời gian băng Cassette thịnh
hành, giúp ông có được nhiều khoản thu nhập từ tiền tác quyền, trở nên giàu có.
Từ 1970 tới 1975, với nhiều
diễn biến lớn diễn ra tại Việt Nam, đời sống cũng như công việc của ông cũng có
nhiều bất ổn. Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, trước việc quân Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa vào miền Nam, Phạm Duy quyết định đưa gia đình di tản ra nước ngoài.
Ngày 28 tháng 4, ông và vợ, hai con gái được máy bay của Mỹ đem đi.
Trải qua nhiều khó khăn của
hành trình di tản, ông và gia đình cũng ổn định, cư ngụ tại Thành phố Midway,
Quận Cam, California. Thời kỳ này ông vẫn tiếp tục sáng tác, biểu diễn và tổ chức
cũng như tham gia các đêm nhạc về mình.
Ban Hợp Ca Thăng Long của
gia đình Thái Thanh
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi
ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái
Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một
thời gian dài. Sau năm này, ông quyết định thực hiện những chuyến về thăm quê
hương sau 25 năm xa cách.
Tháng 5 năm 2005, ông chính
thức trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các
con trai Duy Quang, Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, lần đầu tiên kể từ năm 1975, 9
bài hát của ông được cấp phép phổ biến. Thời kỳ này ông vẫn hoạt động âm nhạc,
tuy sức khỏe đã có dấu hiệu giảm sút, nhiều bệnh được phát hiện ra.
Ngày 27 tháng 1 năm 2013,
sau một thời gian nằm viện, ông qua đời, một tháng sau cái chết của con cả ông
là ca sĩ Duy Quang. Tang lễ của ông được tổ chức tại nhà riêng và được an táng
tại Công Viên Nghĩa Trang Bình Dương vào ngày 3 tháng 2 năm 2013.
Gia đình Phạm Duy có nhiều
người nổi tiếng trong lãnh vực nghệ thuật, ngoài người cha Phạm Duy Tốn và anh
trai Phạm Duy Khiêm là những nhà văn có tiếng, còn có anh thứ Phạm Duy Nhượng
cũng là một nhạc sĩ, tác giả ca khúc Tà Áo Văn Quân. Một người anh họ của ông
là học giả Nguyễn Văn Ngọc, tác giả cuốn “Tục Ngữ Phong Dao”. Học giả Trần Trọng
Kim từng nhận ông làm con nuôi.
Ca sĩ Thái Hằng và Ca sĩ
Thái Thanh
Đến khi lập gia đình, ngoài
vợ ông là ca sĩ Thái Hằng, còn có em vợ ông là danh ca Thái Thanh, anh vợ và em
vợ là các nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nghệ sĩ Phạm Đình Sỹ, ca sĩ Phạm Đình Viêm
tức Hoài Trung của “Ban Hợp Ca Thăng Long”. Các con ông được ông hướng dẫn theo
nghiệp nhạc, đều có thành công trong lĩnh vực của mình: con trai cả là ca sĩ
Duy Quang, rồi đến nhạc sĩ hòa âm Duy Cường, con gái là các ca sĩ Thái Hiền,
Thái Thảo.
Ngoài ra có thể kể đến các
ca sĩ Tuấn Ngọc, chồng của Thái Thảo, tức con rể Phạm Duy; các cháu gái như ca
sĩ Ý Lan, con gái của Thái Thanh, và Mai Hương, con gái Phạm Đình Sỹ.
Thời gian khi đã vào nghề
sáng tác, Phạm Duy cũng duy trì công việc ca hát của mình, nhưng không đều đặn.
Tiếng hát của ông từng được phát trên các đài truyền thanh, truyền hình lớn
trên Nam Việt cũng như thế giới. Ông đi hát rong cùng James Durst, Pete Seeger
trong các chương trình giao lưu văn hóa Việt Mỹ, hay các chương trình nhạc phản
chiến, phong trào du ca. Bên cạnh đó, Phạm Duy còn tự thâu âm những băng nhạc Tục
ca, Tâm ca, Vỉa hè ca, Ngục ca và trong giai đoạn đầu lưu vong ở Hải Ngoại, là
hát rong trong nhóm nhạc “Gia đình Phạm Duy”, cùng với Thái Hằng, Thái Hiền.
Ca khúc đầu tay của Phạm Duy
là “Cô Hái Mơ”, một ca khúc phổ từ thơ Nguyễn Bính. Tới năm 1944, ông cho
ra đời bài“Gươm Tráng Sĩ”, một ca khúc gắn với sự tích Hồ Hoàn Kiếm, và là ca
khúc đầu tiên được ông viết cả lời lẫn nhạc.
Bên cạnh đó là những bài nhạc
tình lãng mạn đầu tay: “Cô Hái Mơ”, “Cây Đàn Bỏ Quên”, “Khối Tình Trương Chi”,
“Tình Kỹ Nữ”, “Tiếng Bước Trên Đường Khuya”…
Nhạc sĩ Phạm Duy đang biểu
diễn tại một quán nước.
Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu
sáng tác nhạc mang âm hưởng dân ca, mà theo ông: “Tôi nghĩ rằng tôi là người
Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một Nhạc sĩ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc
Dân Ca. Đó là chuyện rất giản dị…Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những
bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa”, từ đó ông
cho ra đời thể loại mà ông gọi là “Dân Ca Mới”: “Nhớ Người Thương Binh”
(1947), “Dặn Dò”, “Ru Con”, “Mùa Đông Chiến Sĩ”, “Nhớ Người Ra Đi”, “Người Lính
Bên Tê”, “Tiếng Hát Sông Lô”, “Nương Chiều”…Những bài này được ông sáng tác dựa
trên 2 tiêu chí:
1 – Nét nhạc vẫn dùng
âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai điệu
không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà chạy dài trên
nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;
2 – Lời ca tuy nằm
trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng
theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn.
Năm 1952, “Tình Hoài
Hương” ra đời tại Sài Gòn, khởi xướng cho khuynh hướng sáng tác “Tình Ca
Quê Hương”: “Sau khi nói lên vinh quang và nhọc nhằn của dân tộc với nhạc
kháng chiến, bây giờ tôi đi vào tình tự quê hương…” Ca khúc tiếp theo là “Tình
Ca”; hai bài này được mọi người yêu thích và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu
nhất nói về quê hương.
Phạm Duy tiếp nối thể loại
“Tình Ca Quê Hương” bằng một thể loại mà ông gọi là “Tình Tự Dân Tộc”, bắt đầu
từ năm 1954, với bộ ba “Bà Mẹ Quê”, “Em Bé Quê”, “Vợ Chồng Quê”,được xây dựng
bằng nhạc thuật dân ca trước đây, những bài này phổ biến tại miền Nam và theo
Phạm Duy: “nó được các lớp nhạc sĩ trẻ như Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Duy
Khánh, Trần Thiện Thanh tức Nhật Trường… hưởng ứng để soạn ra những bài mà họ gọi
là “Dân Ca Mambo Bolero”.
Phạm Duy (giữa) trên tập nhạc
Du ca xuất bản năm 1973.
Giai đoạn này ông vẫn tiếp tục
với các bài dân ca mới: “Đố Ai”, “Nụ Tầm Xuân”, “Ngày Trở Về”, “Người Về”,
“Tình Nghèo”…Bên cạnh đó là “Thuyền Viễn Xứ”, “Viễn Du”, “Hẹn Hò”, nói
về sự chia lìa quê hương, chia lìa đôi lứa trong những ngày đất nước Việt Nam sắp
sửa chia đôi bởi hiệp định Geneva.. Ngoài ra còn có những ca khúc lấy cảm hứng
từ thiên nhiên: “Xuân Ca”, “Dạ Lai Hương”, “Xuân Thì”…
Từ sau hiệp định Genève cho
đến năm 1975, do hoàn cảnh chính trị, sự nghiệp của Phạm Duy chủ yếu phát triển
ở miền Nam Việt Nam. Đây là giai đoạn rực rỡ, quan trọng và có ảnh hưởng lớn
trong sự nghiệp của ông, với sự đi sâu vào các chủ đề tình cảm, tâm tư, bên cạnh
đó là các đề tài mới mẻ cũng như những ca khúc có vấn vương tới chính trị.
Trong thời gian du học Pháp
(1952-1954), ông thai nghén bản Trường Ca đầu tiên của mình, “Trường Ca
Con Đường Cái Quan”, với ý phản đối hiệp định Genèva chia đôi đất nước. Sau khi
du học, ông về Việt Nam tiếp tục sáng tác, ngoài một số bài mang âm hưởng dân
ca, ông tiếp tục đi sâu vào nhạc tình yêu đôi lứa, qua nhiều cung bậc hạnh
phúc, đau khổ, nhớ thương: “Đừng Xa Nhau”, “Ngày Đó Chúng Mình”, “Tìm
Nhau”, “Thương Tình Ca”, “Kiếp Nào Có Yêu Nhau”, “Mưa Rơi”, “Đường Em Đi”, “Còn
Gì Nữa Đâu”….Và từ đó đi sâu hơn vào việc khai thác những trạng thái tâm
tưởng, với những bài hát nói về “Tình yêu - Sự đau khổ - Cái chết”, ba điều
quan trọng nhất lúc đó của ông, những ca khúc quan trọng của giai đoạn này có
thể kể đến: “Nước Mắt Rơi”, “Đường Chiều Lá Rụng”, “Tạ Ơn Đời”, “Một Bàn
Tay”.
Năm 1963, ông khởi sự sáng
tác tác phẩm “Trường Ca Mẹ Việt Nam”, đây là trường ca thứ hai sau “Trường
Ca Con Đường Cái Quan” hoàn tất trước đó vài năm. Đây được coi như hai tác
phẩm lớn và thành công không chỉ trong tác phẩm của ông, mà còn trong nền âm nhạc
Việt.
Tập ca khúc Phạm Duy thuộc
hai thời kỳ- Bên trái là tập Ngày đó chúng mình yêu nhau, do Hiện đại xuất bản
1971, Bên phải- Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà, Phương Nam xuất bản 2007.
Năm 1973, lúc “Phong Trào Nhạc
Trẻ” lên cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự “Đại Hội
Âm Nhạc Quốc Tế” tại Tokyo, Nhật. Bản “Tuổi Biết Buồn” của ông được lọt vào
vòng chung kết. Thập niên 1970 với sự tham gia văn nghệ của các con Duy Quang,
Thái Hiền, ông có thêm những tình ca nhẹ nhàng lãng mạn thích hợp với tuổi
thanh niên, sinh viên như “Trả Lại Em Yêu”, “Con Đường Tình Ta Đi”, “Thà
Như Giọt Mưa”….
Ngoài việc tự sáng tác nhạc
và lời, ông cũng không quên phổ thơ người khác thành những tác phẩm được đông đảo
người yêu mến, như những bài “Ngày Xưa Hoàng Thị”, “Đưa Em Tìm Động Hoa
Vàng”, tập nhạc “Đạo Ca” (phổ thơ Phạm Thiên Thư), “Thà Như
Giọt Mưa”, “Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ”, “Em Hiền Như Ma-soeur” (phổ thơ Nguyễn Tất
Nhiên), “Tiễn Em”, “Mùa Thu Paris” (phổ thơ Cung Trầm Tưởng)… Và bên
cạnh đó, ông còn đặt lời Việt cho những ca khúc nước ngoài, đó là những bài nhạc
mới của “Phong Trào Nhạc Trẻ”, hay những bản nhạc xưa hơn, và cả nhạc bán cổ điển.
Nhiều ca khúc do ông đặt lời được coi là thành công như: “Dạ Khúc”(Stanchen
của Schubert), “Mơ Mộng” (Dreaming của Schumann), “Khi Xưa Ta
Bé” (Bangbang)…
Một thể loại cũng mang lại
thành công cho ông trong giai đoạn chiến tranh nước Việt, đó là những ca khúc
nói về tâm tư của người dân, người lính trong cuộc chiến tranh Việt Nam như “Kỷ
Vật Cho Em”, “Khi Tôi Về”, “Tình Khúc Trên Chiến Trường Tồi Tệ”, những ca
khúc mang tính phản chiến như“Giọt Mưa Trên Lá”, “Chuyện Hai Người Lính”, “Thầm
Gọi Tên Nhau”, “Tưởng Như Còn Người Yêu”. Ông cũng tham gia “Phong Trào Du Ca
Việt Nam” với nhiều ca khúc nổi bật như“Việt Nam Việt Nam”, “Trả Lại Tôi Tuổi
Trẻ”, “Du Ca Mùa Xuân”,và xuất bản với phong trào này tập nhạc “Hoan Ca” bao
gồm các thể loại: “Bình Ca”, “Nữ Ca”, “Đồng Dao”.
NS Phạm Duy rời Việt Nam vào
ngày 27 tháng 4 năm 1975 qua đường vượt biên. Trong 30 năm xa quê hương, sự
nghiệp âm nhạc của ông vẫn tiếp tục phát triển qua nhiều đề tài, thể loại mới,
tuy rằng lúc này nhạc của ông bị cấm ở Việt Nam, chỉ phổ biến trong cộng đồng
nhỏ ở hải ngoại. Giai đoạn đầu, có một thời gian ông cùng các con và ca sĩ
Khánh Ly đi hát tại các trại tị nạn cho người Việt lưu vong. Bên cạnh đó là in
sang các băng nhạc, soạn sách dạy nhạc để kiếm tiền. Sau khi đủ vốn liếng và tự
tin, ông rủ Steve Addiss, Bill Crofut, James Durst…đi hát rong tại các quán cà
phê, trường Đại Học, câu lạc bộ ở các thành phố Mỹ. Sau đó ông thành lập gánh
hát Gia Đình Phạm Duy (The Pham Duy family singers), bắt đầu mở các chương
trình ca nhạc cũng như nhận lời mời đi diễn tại các sự kiện âm nhạc.
Nhạc sĩ Phạm Duy và Danh ca
Thái Thanh
Phạm Duy cũng bắt đầu giai
đoạn sáng tác mới của mình từ những ngày đầu ở Mỹ. Tác phẩm gần như xuyên suốt
thời kỳ này, là tổ khúc “Bầy Chim Bỏ Xứ”, thai nghén từ năm 1975 và hoàn tất
năm 1990, gồm 18 khúc nhạc dài ngắn, ẩn dụ về hình ảnh của những người Việt phải
rời bỏ đất nước và hy vọng vào tương lai đoàn tụ, qua hành trình ra đi và trở về
của đàn chim.
Thời kỳ năm 1982 ông hoàn
thành các tác phẩm chính:“Trường Ca Hàn Mặc Tử” (cuối năm 1993), là loại
“nhạc siêu thực” phổ từ những bài thơ của Hàn Mặc Tử. “Thiền Ca”, với phụ
đề “Hát Trên Đường Về” ra đời để “hi vọng mọi người Việt Nam trở về với
ba đạo gốc”. Và “Rong Ca”, gồm 10 bài: Là cuộc “thong dong đi trên con đường
dẫn tới những năm 2000”, với những tâm sự của người tình già (“Người Tình Già
Trên Đầu Non”), với ý nguyện hóa giải quá khứ (“Ngụ Ngôn Mùa Xuân”), chôn chặt
quá khứ trong “Mộ Phần Thế Kỷ”, hứa hẹn trở về trong “Hẹn Em Năm 2000”,
đặt những vấn đề cho thế kỷ mới (“Mẹ Năm 2000”), và cái nhìn lạc quan hơn vào đời
sống: “Nắng Chiều Rực Rỡ”. Theo NS Phạm Duy, NS Trịnh Công Sơn chính là
người giúp ông phổ biến “Rong Ca” tại Việt Nam, qua hình thức một
băng cassette xách tay.
Sau nhiều lần về thăm quê
hương, NS Phạm Duy chính thức trở về định cư tại Việt Nam ngày 17 tháng 5 năm
2005, với sự cho phép của nhà cầm quyền Việt Nam đương thời. Sự kiện này được
các giới truyền thông trong nước lẫn hải ngoại quan tâm đặc biệt. Báo chí Việt
Nam nhận xét đó là “nhịp cầu nối quê hương với người Việt xa xứ”, “niềm vui thống
nhất lòng người”, còn Phạm Duy nói cuộc trở về này là “lá rụng về cội”. Bên cạnh
đó, sự kiện này còn gặp phải sự phản đối của một số người Việt hải ngoại, vì họ
cho rằng ông đã về phe cộng sản.
Công ty Phương Nam cũng nhân
dịp này, đã đứng ra mua bản quyền toàn bộ nhạc phẩm của ông trong vòng 10 năm với
giá hơn 400 nghìn US đôla.
Danh ca Thái Thanh - “Tiếng
Hát Vượt Thời Gian”
Người được coi là thành công
nhất với nhạc Phạm Duy cho đến nay là Danh ca Thái Thanh. Thái Thanh hát
nhạc Phạm Duy từ những ngày đầu ông sáng tác, bà đã biểu diễn và ghi âm hàng
trăm bài. Từ những ca khúc cho quê hương như“Tình Ca”, “Nhớ Người Thương Binh”,
“Người Về”, “Về Miền Trung”, “Quê Nghèo”, “Tình Hoài Hương”…,những bài có
âm điệu phức tạp như “Đường Chiều Lá Rụng”, “Chiều Về Trên Sông”…đến tình
ca đôi lứa như “Ngày Xưa Hoàng Thị”, “Nghìn Trùng Xa Cách”, “Kiếp Nào Có Yêu
Nhau”, “Trả Lại Em Yêu”, “Đừng Xa Nhau”…
Giọng hát của bà, với “phong
cách hàn lâm” trên “chất liệu dân ca”, rất phù hợp với loại tân nhạc xây dựng
trên “hơi thở nhạc dân tộc” của Phạm Duy. “Nhạc Phạm Duy + giọng hát Thái
Thanh” là sự kết hợp tiêu biểu nhất của Tân Nhạc Việt Nam suốt nhiều thập kỷ.
Sau Thái Thanh, phải nói đến
ca sĩ Duy Quang, con trai Phạm Duy và cũng là một trong những người trình bày
nhiều ca khúc của Phạm Duy nhất. Duy Quang bắt đầu nổi tiếng từ những ca khúc
dành cho sinh viên, phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên. Thời gian sau biến cố 1975, anh
tiếp tục hát những ca khúc về tình yêu, thân phận, tâm linh, và cả nhạc mang yếu
tố chính trị. Đến khi Thái Thanh ngưng hoạt động, Duy Quang là người đã tiếp tục
dòng nhạc Phạm Duy với vai trò trụ cột của những đêm nhạc Phạm Duy, và cũng là
giọng hát chính của các đĩa hát “Ngục Ca”, “Thiền Ca”, “Kiều Ca”.
Danh ca Thái Thanh (tên
thật: Phạm Thị Băng Thanh; sinh ngày 5 tháng 8 năm 1934 tại Hà Nội), được mệnh
danh là“Tiếng Hát Vượt Thời Gian”. Bà đi hát từ thuở thiếu niên trong “Ban Hợp
Ca Thăng Long” của gia đình bà tại các tụ điểm văn nghệ ở Hà Nội, và thành danh
từ thập niên 1950.
Tài tử điện ảnh Lê Quỳnh.
Bà thường được coi như là “Đệ
Nhất Danh Ca” của dòng Nhạc Tiền Chiến cũng như Nhạc Tình Ca ở miền Nam giai đoạn
1954-1975, và tên tuổi của bà cũng đặc biệt gắn liền với các nhạc phẩm của NS
Phạm Duy. Bà không theo học một lớp thanh nhạc chuyên nghiệp nào, chỉ tự luyện
giọng từ nhỏ theo các lối dân ca của đồng bằng Bắc Bộ và các sách nhạc tiếng
Pháp, về sau đã tạo ra một trường phái riêng hòa trộn giữa tính chất “Opera Tây
Phương” với “Dân Nhạc Việt Nam”, ảnh hưởng tới nhiều nữ ca sĩ giọng cao của thế
hệ sau như Mai Hương, Quỳnh Giao, Ánh Tuyết…
Sau biến cố 30 tháng 4 năm
1975 bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì chuyển sang định cư ở Hoa Kỳ. Tại
đây bà tiếp tục trình diễn và thâu âm cho đến khi bà tuyên bố giải nghệ vào năm
2002.
Bà sinh ra trong một gia
đình có truyền thống văn nghệ. Cha của bà là ông Phạm Đình Phụng, có 2 vợ, vợ
trước sinh ra Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm, vợ sau sinh ra Phạm Thị Quang
Thái (Ca sĩ Thái Hằng), Phạm Đình Chương và con út là Phạm Thị Băng Thanh.
Năm 1946, Phạm Thị Băng
Thanh tản cư cùng gia đình vào Chợ Đại, Thanh Hóa vùng kháng chiến nơi bà bắt đầu
hát lúc 14 tuổi. Cũng năm này ca sĩ Thái Hằng và nhạc sĩ Phạm Duy thành hôn với
nhau. Năm 1950 thì gia đình Phạm Duy di chuyển về Hà Nội rồi chuyển vào Sài
Gòn, Thái Thanh cũng đi theo.
Năm 1956, Thái Thanh kết hôn
với tài tử Lê Quỳnh tại Sài Gòn. Năm 1965 bà ly dị Lê Quỳnh sau khi đã có chung
với nhau 3 con gái và 2 con trai.
Thái
Thanh và con gái đầu lòng Ý Lan.
Gia đình Thái Thanh có nhiều
người thành danh trong lĩnh vực âm nhạc, ngoài Thái Thanh ra, thì chị của bà,
Phạm Thị Quang Thái, cũng là ca sĩ nổi tiếng với nghệ danhThái Hằng. Phạm Đình
Chương, anh bà cũng là một nhạc sĩ lớn của Tân Nhạc Việt Nam và cũng là một ca
sĩ với nghệ danh Hoài Bắc. Người anh cùng cha khác mẹ Phạm Đình Viêm được biết
đến nhiều với nghệ danh Hoài Trung. Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Bắc, Hoài Trung
đều hát trong “Ban Hợp Ca Thăng Long” nổi tiếng thời bấy giờ.
Thái Thanh trở thành em vợ của
nhạc sĩ Phạm Duy sau khi ông cưới ca sĩ Thái Hằng làm vợ, nên bà cũng là dì của
các ca sĩ Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo sau này. Ngoài ra bà còn là cô ruột của
ca sĩ Mai Hương, con gái của nhạc sĩ Phạm Đình Sỹ và kịch sĩ Kiều Hạnh.
Thái Thanh có với tài tử Lê
Quỳnh 5 người con: con cả là Lê Thị Ý Lan sinh năm 1957, Lê Xuân Việt sinh năm
1958, Lê Thị Quỳnh Dao sinh năm 1960, Lê Thị Thanh Loan sinh năm 1962 và Lê Đại
sinh năm 1964. Trong số đó, Lê Thị Ý Lan sau này trở thành ca sĩ Ý Lan, còn Lê
Thị Quỳnh Dao cũng đi hát với nghệ danh Quỳnh Hương. Các cháu ngoại của bà cũng
có nhiều người đi theo con đường ca hát như Mai Linh, Ý Thi, Thanh Hương, Quỳnh
Trang.
Thái Thanh bắt đầu sự nghiệp
ca hát từ năm 13-14 tuổi. Bà sở hữu một giọng hát cũng như lối hát đặc biệt,
mang tính chất Opera nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của Chầu Văn, Quan Họ, Chèo là
những bộ môn nghệ thuật được bà tự rèn luyện, học tập từ thuở nhỏ tại quê hương
miền Bắc. Do lúc đó Việt Nam chưa có trường âm nhạc, bà tự học nhạc bằng cách đặt
mua các sách luyện thanh bằng tiếng Pháp từ Pháp. Giọng hát của bà có âm vực rộng,
nằm giữa nữ trung và nữ cao, nên thể loại nhạc bà hát cũng rất đa dạng, phong
phú.
Thời kỳ đầu, bà theo chị là
ca sĩ Thái Hằng hát ở các chiến khu Việt Minh với các bài Tân Nhạc thời kỳ đầu,
hay các bài Dân Ca Mới của NS Phạm Duy. Đến năm 1951, bà chính thức lấy nghệ
danh Thái Thanh cho giống chị Thái Hằng của bà.
Danh ca Thái Thanh. Danh ca
Thái Thanh trong buổi phát hình chương trình Tiếng Tơ Đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng
trên THVN năm 1968.
Năm 1951, bà theo gia đình
Phạm Duy vào Sài Gòn lập nghiệp. Tại đây bà tiếp tục đi hát với các chủ đề về
quê hương và tình cảm đôi lứa. Giọng hát của bà tỏ ra rất thích hợp với các loại
nhạc đa dạng của nhạc sĩ Phạm Duy, từ những bài nhạc kháng chiến, nhạc quê
hương, nhạc tình, nhạc xã hội, cho tới các bản Trường Ca đều được bà để lại một
dấu ấn lớn. Bên cạnh đó, bà cũng là ca sĩ hát thành công rất nhiều ca khúc tiền
chiến xưa, hay nhạc tình đương thời của các nhạc sĩ trẻ hơn.
Bà thật sự nổi tiếng trong
thập niên 1950, được rất nhiều giới yêu thích từ giới trí thức cho tới bình
dân. Bà được coi như một diva tầm cỡ nhất của Việt Nam thời đó. Tiếng hát của
bà ngự trị trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh, truyền hình của Việt
Nam Cộng Hòa. Trong giai đoạn đầu thập niên 1970, bà cùng với “Ban Hợp Ca Thăng
Long” thường xuyên biểu diễn tại vũ trường ăn khách Đêm Màu Hồng.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm
1975, Thái Thanh ở lại Việt Nam. Ban đầu bà được chính quyền cộng sản mời biểu
diễn các ca khúc cách mạng, nhưng Thái Thanh từ chối. Do không có thái độ hợp
tác, bà bị cấm hát suốt 10 năm, cho đến khi rời khỏi Việt Nam.
Năm 1985, Thái Thanh sang
Hoa Kỳ định cư cùng với gia đình. Tại đây bà tiếp tục đi diễn, thâu âm, tham
gia những đêm nhạc lớn cho mình. Bà là khách mời danh dự của nhiều đêm nhạc hội
lớn của Paris By Night. Bà cũng được mời thu thanh trên nhiều CD của trung tâm
Diễm Xưa. Tại quận Cam, bà cùng với nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi từng mở ra một lớp dạy
hát, đào tạo ra một số ca sĩ trẻ.
Năm 2000 Thái Thanh bị tai
biến mạch máu não phải vào bệnh viện. Sau tuy hồi phục nhưng năm 2002, bà chính
thức tuyên bố giải nghệ sau một đêm diễn cùng với các con cháu. Tuy nhiên khoảng
thời gian sau đó, thỉnh thoảng bà vẫn tham gia giọng hát của mình vào các đêm
diễn với vai trò đặc biệt.
Danh ca Thái Thanh
Năm 2005, một đêm nhạc thính
phòng mang tên “Vinh Danh Thái Thanh - Tiếng Hát Vượt Thời Gian” được
tổ chức tại Montreal, Canada, với sự tham gia của Thái Thanh cùng nhiều ca sĩ nổi
tiếng của thế hệ sau như Tuấn Ngọc, Ý Lan, Trần Thu Hà…Trong đêm nhạc này màn
trình diễn của bà được đánh giá là xuất sắc, dù trước đó đã có nhiều nghi ngờ về
tuổi tác, cũng như sức khỏe của bà.
Năm 2006, bà trở lại là nhân
vật chính trong đêm nhạc “Thái Thanh và ba thế hệ”.
Giọng ca Thái Thanh được giới
nghiên cứu đánh giá cao, và cũng là đề tài ca ngợi của giới văn nghệ sĩ tại miền
Nam trước 1975 và tại hải ngoại sau 1975. Nhạc sĩ Phạm Duy, người song hành với
Thái Thanh trong phần lớn các ca khúc của mình, từng cho rằng không ai có thể
thay thế được Thái Thanh trong sự diễn tả những sáng tác của ông.
Nhạc sĩ Phạm Duy từng nói:
“Giọng hát Thái thanh, một
giọng hát diễm tuyệt: tất cả hạnh phúc và khổ đau của kiếp người bị đày đọa
trong chiến tranh và hòa bình, trong vinh quang và khổ nhục, trong hy vọng và
tuyệt vọng, qua những bản nhạc khóc - cười - nổi - trôi - theo mệnh nước”.
Nhiều thập kỷ qua người người
đều biết ca sĩ Thái Hằng & Nhạc sĩ Phạm Duy là “một đôi” tình nhân lý tưởng
trong thế giới người đời, nhưng “một đôi” trong thế giới âm nhạc thì Thái Thanh
và Phạm Duy mới đúng là một “cặp đôi” lý tưởng song hành với nhau qua nhiều thập
kỷ và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người ái mộ.
Thái Thanh hát nhạc Phạm Duy
như thể bà chính là nhân vật trong bản nhạc, bà có khả năng diễn đạt những ý tưởng
của NS Phạm Duy trong các tác phẩm để đời của ông xưa nay không có người thay
thế.
Dưới đây mình có bài “Mấy ý
nghĩ chung quanh hành trình âm nhạc Phạm Duy” và 14 clips tổng hợp “Trường
Ca-Tình Ca Phạm Duy và Thái Thanh” tiêu biểu trước và sau 1975 để các bạn tiện
việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
Mấy ý nghĩ chung quanh hành trình âm nhạc Phạm Duy
(Phổ Tịnh)
Phạm Duy đã hát một đời qua
bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, từ thời nhạc tuổi xanh đến thời kì ngạo nghễ
hào khí của kháng chiến, từ tiếng hát vững chãi khẳng định dáng đứng Việt Nam đến
tiếng hát sâu lắng của cõi tâm, từ tiếng hát về niềm yêu thương bao la của mẹ đến
tiếng hát phẫn nộ, tiếng hát về những bi kịch của đời người, hay lời hạnh phúc
của những người yêu nhau. Cuộc đời sáng tác của ông cũng rất dài, bao trùm qua
nhiều thế hệ. Trong vòng 60 năm góp mặt, Phạm Duy đã hát về rất nhiều đề tài,
phản ảnh những tâm cảnh khác nhau của một người Việt Nam trước cuộc sống đa dạng:
lắm vinh quang nhưng cũng rất nhiều khổ nhục.
Bài hát đầu tiên của ông là
một bài thơ phổ nhạc: Cô Hái Mơ (1942) cách nay đúng 60 năm. Ca khúc này ra đời
trong buổi bình minh cuả “nhạc cải cách”, sau này gọi là “tân nhạc”. Dù không
phải là người sáng tác ca khúc tân nhạc đầu tiên, ông vẫn nghiễm nhiên là một
trong số những nhạc sĩ tiền phong của phong trào tân nhạc trong buổi đầu. Trong
suốt sáu mươi năm sáng tác, Phạm Duy đã đem đến cho công chúng Việt Nam ngàn lời
ca, đã làm rung động nhiều thế hệ. Có thể nói là trong sáu mươi năm qua, không
thế hệ người Việt nào là không “nợ” Phạm Duy một món nợ tình cảm là được lưu dấu
xúc cảm của riêng mình trong ít nhất là một khúc hát của ông.
Phạm Duy có một đức tính ít
thấy ở người nghệ sĩ: óc tổ chức các tài liệu sáng tác của chính mình. Từ khoảng
hơn mười năm trở lại đây, ông đã tự mình đi sưu tầm tài liệu trong các văn khố
hay trong trí nhớ của người xung quanh để sưu tập và sắp xếp phân loại lại toàn
bộ các sáng tác của mình. Kết quả của công trình nói trên là các tập Hồi Ký 1,
2 và 3, tập Ngàn Lời Ca (Midway City: PDC Musical Proctions, 1987), công trình
CD Rom Hành Trình Trên Đất Mẹ (1992), và nhất là trang nhà của chính ông trên mạng
lưới thông tin toàn cầu (Web) mang tên: Ngàn Cánh Nhạc (tức là Phạm Duy
Anthology). Nhờ những công trình đó mà ngày nay công chúng thưởng ngoạn hôm nay
có thể tìm biết và nghe nhạc Phạm Duy không khó lắm.
Trong công trình Phạm Duy
Anthology (Ngàn Cánh Nhạc), ông căn cứ theo thứ tự thời gian và đề tài để phân
loại các mảng bài hát theo thứ tự ra đời của chúng. Ông tự chia tác phẩm mình
ra thành thanh niên ca, dân ca, kháng chiến ca, quân ca, trường ca, tâm ca, tục
ca, vỉa hè ca, bình ca, nữ ca, bé ca, đạo ca, tị nạn ca, ngục ca, hoàng cầm ca,
rong ca, thiền ca. Và dĩ nhiên là không thể thiếu tình ca được. Kể cũng khó có
thể dùng bảng phân loại này để thu tóm đủ các khuôn dáng một sự nghiệp đồ sộ
như vậy. Chẳng hạn, tâm ca, đạo ca và rong ca rất gần nhau về tính cách, vì
chúng đều nhằm diễn đạt khía cạnh những suy nghiệm nội tâm, những cảm thức tâm
linh; về mặt nào đó ba mảng sáng tác này khá gần gũi nhau và do vậy có thể xếp
vào một nhóm. Một trường hợp khác: loạt ca khúc “Tị nạn ca” và “Ngục ca”,
“Hoàng Cầm ca” dù khác nhau rất xa chủ đề nội dung, nhưng lại có thể quy về một
nhóm sáng tác phản ánh thời thế, hiện thực xã hội.
Trước hết, hãy dạo qua một
lượt Phạm Duy Anthology để thấy sức sáng tác liên tục và bền bỉ của ông. Hành
trình sáu mươi năm âm nhạc Phạm Duy đã dàn trải qua nhiều chặng đường, với những
thành tựu về tác phẩm khác nhau. Sáng tác của Phạm Duy thật phong phú đa dạng
biết là chừng nào, từ đề tài đến thể loại. Trong suốt hơn sáu mươi năm tân nhạc,
các nhạc sĩ khác thường chỉ nổi bật qua một số đề tài nào đó, phổ biến nhất là
đề tài tình yêu. Thể loại sáng tác chỉ là những ca khúc. Nghe nhạc Phạm Duy có
thể nhận thấy đề tài ca khúc của ông dàn trải rất rộng. Hiện thực cuộc sống Việt
Nam trong mấy chục năm qua được phản chiếu qua tác phẩm của ông. Cho đến nay vẫn
chưa có một bảng tổng kê các chủ đề lớn trong nhạc phẩm Phạm Duy. Ngay đến một
đề tài quen thuộc của ca khúc tân nhạc, - nhạc tình - cũng có thể nhận ra những
sắc màu phong phú của nhạc tình Phạm Duy. Trong một thiên biên khảo về lịch sử
tân nhạc Việt Nam, Phạm Duy cho rằng nhạc tình có nhiều dạng: nhạc tình cảm
tính (romantique), nhạc tình não tính (cérébral), nhạc tình ảo tính
(psychedélique), nhạc tình dục tính (sensuel). Các bản tình ca của tân nhạc
chúng ta trước nay thường không ra ngoài chất nhạc tình cảm tính. Hoạ chăng có
nhạc tình Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương có thể thêm vào danh mục những bản
tình ca phong phú sắc màu như bảng phân loại của Phạm Duy mà thôi. Có lẽ chỉ
trong nhạc tình Phạm Duy mới thấy đủ dáng vẻ của những bản tình ca theo như
cách phân loại của ông.
Một nét đặc biệt nữa của nhạc
Phạm Duy là nó phản ảnh sống động những tâm cảnh của ông và của mọi người Việt
Nam chúng ta trước cuộc sống. Phạm Duy không chỉ hát về những cuộc tình, mà ông
còn hát về những bà mẹ, về quê hương đất nước yêu dấu (mà về cuối đời ông xem
là những lời hát xưng tụng quê hương thần thánh kia chỉ là những lời ca ảo tưởng
về một quê hương không thật), về những vui buồn của những con người quanh ông
trong một thời đất nước rất tan lìa. Ông hát khi một sớm mai thức dậy nghe tin
người thân ngã gục ngoài chiến trường, ông hát cùng những em bé, những cụ già vất
vưởng trên đường quê, ông hát về tâm tình của một người quả phụ chiến tranh, về
một chiếc lá trong mưa, về hai người lính trẻ, về những chuyến đi xa đầy ngậm
ngùi về thân phận nhược tiểu. Hiện thực Việt Nam sẽ hiện ra ngồn ngộn trong ca
khúc Việt Nam qua dọc dài những sáng tác của Phạm Duy. Rồi đây cũng cần những cố
gắng hệ thống hoá những đề tài trong nhạc phẩm Phạm Duy để nhận ra những tâm cảnh
Việt Nam qua những tiếng hát đó.
Trên đây là nói về đề tài. Đến
thể loại sáng tác cũng là một nét đặc sắc của sự nghiệp âm nhạc Phạm Duy. Từ
ngày thành lập đến nay đã hơn 60 năm, tân nhạc Việt Nam cho đến nay vẫn còn
đang chuộng hình thức thể loại ca khúc. Những bài hát từ thời “tiền chiến” đến
thời “hậu chiến”, rồi thời nhạc nhẹ hiện nay đều dưa vào thể loại ca khúc là
hình thức sáng tác cho nó. Đó là một khúc hát gồm có một hoặc nhiều phiên khúc
và một điệp khúc . Phạm Duy là một trong những người tiên phong tìm tòi thể
nghiệm về mặt thể loại cho ca khúc tân nhạc. Ông làm khá nhiều trường ca, xem
như là một hình thức thể loại mới và công phu hơn thể ca khúc rất nhiều. Trước
ông đã có một vài thể nghiệm về thể loại trường ca của Lê Thương (Hòn Vọng Phu)
và Phạm Đình Chương (Hội Trùng Dương). Mặc dù đã ý thức về đoạn mạch, bố cục và
tính nhất quán về ngôn ngữ nhạc, các trường ca vừa kể đều là tập hợp của ba ca
khúc có đoạn mạch khá đồng dạng, xem như những khung âm thanh để chuyển tải những
lời hát kể chuyện mà thôi. Đến Phạm Duy thì thể nghiệm thể loại đã nâng cấp một
bước dài. Từ những đoản khúc dân ca mới, rồi dân ca phát triển mà bố cục không
vượt quá xa cấu trúc những bài dân ca truyền thống, Phạm Duy đã đẩy những ca
khúc phát triển từ dân ca lên thành những tổ khúc nhiều chương đoạn kết với
nhau thành một chỉnh thể những biến tấu theo quy tắc kí âm phương tây nhưng vẫn
đậm nét nhạc dân tộc. Trường Ca Con Đường Cái Quan (1960) và Trường Ca Mẹ Việt
Nam (1964) là những thành tựu về thể loại này. Sau này, hình thức tổ khúc (mà
ông gọi là “Trường Ca”) lại thêm màu sắc của kịch - như trường hợp tổ khúc Bầy
Chim Bỏ Xứ (1990) và Minh Hoạ Kiều I (1997) và Minh Hoạ Kiều II (2002). Đây là
những tìm tòi rất có ý nghĩa về mặt thể loại không ai có thể phủ nhận.
Cũng trong sự tìm tòi về mặt
thể loại, có lẽ cũng chính Phạm Duy là người mở đường cho hình thức những tập hợp
nhiều ca khúc xoay quanh một chủ đề để làm những tập ca khúc đầu tiên tại Sài
Gòn vào những năm 1960. Chúng tôi muốn nhắc đến tập Mười Bài Tâm Ca (1965) như
là một khai phá đầu tiên của ông về mặt thể loại tập ca khúc. Những thể nghiệm
nghệ thuật bạo dạn như Phạm Duy đã và đang làm, không thấy có nhiều trong sinh
hoạt nhạc Việt hôm nay.
Cũng qua trường hợp Phạm
Duy, chúng ta có thể thấy là Tân Nhạc Việt Nam hiện đang có những tìm tòi thể
loại để phát triển nó trong tinh thần Việt Nam. Thể loại ca khúc khi du nhập Việt
Nam đã và đang thoát hình để hội nhập trong dòng nhạc nước nhà. Những tìm tòi
khai phá về thể loại mà Phạm Duy và những người cùng thời đã nói lên khát vọng
sáng tạo tân nhạc trên cơ sở dân tộc-hiện đại.
Hành trình sáu mươi năm của
nhạc Phạm Duy như thế là một hành trình dài, đa dạng và phong phú. Hôm nay,
nhìn lại hành trình âm nhạc của ông, tôi hình dung cuộc hành trình đó như một
hành trình ba chặng lớn, từ một thời hồng của tuổi thanh niên sang thời tuổi
vàng - là thời sung mãn nhất của một đời người -, và hiện nay ông đã bước qua
thời xanh, khi tuổi đã già nhưng tiếng hát vẫn còn nguyên sức trẻ của sáng tạo.
(1) Thời hồng:
xưng tụng quê hương huyền thoại
(1942-1964)
xưng tụng quê hương huyền thoại
(1942-1964)
Phạm Duy khởi đầu sự nghiệp
âm nhạc của mình bằng công việc ca hát trên sân khấu ca nhạc. Năm 1941, ông bắt
đầu hát trên sân khấu Đức Huy-Charlot Miều. Trong không khí hứng khởi của buổi
đầu tân nhạc, ông bắt đầu sáng tác một bản nhạc tình phổ từ một bài thơ mới. Đó
là bài Cô Hái Mơ. Một số bài sau đó là những bài hát mang khí vị cổ điển từ tựa
đề bài hát cho đến nội dung. Đó là những bài Gươm Tráng Sĩ, Chinh Phụ Ca. Phong
vị cổ điển này sẽ còn in dấu trong các sáng tác về sau, khi ông tham gia kháng
chiến chống Pháp. Những bản nhạc tình như Cây Đàn Bỏ Quên (1945), Khối Tình
Trương Chi (1945), Tình Kỹ Nữ (1946) đều phảng phất không khí cổ điển như thế.
Đi kháng chiến, ông được bắt
rễ trở lại với dân dã, gần gũi quần chúng. Tác phẩm của ông dần dà được định
hình trong khuynh hướng rất nhất quán suốt thời gian sáng tác sung sức nhất của
ông trong thời gian ở vùng kháng chiến. Phạm Duy đã xác định con đường sáng tác
của mình: dựa trên cơ sở dân ca mà phát triển lên thành ngôn ngữ nhạc mới cho
mình. Một loạt những bài dân ca kháng chiến và những bài khác đều mang một
phong cách chung: trở về với chất liệu dân ca để nâng lên thành thẩm thức mới
cho thời hiện đại. Những bài dân ca mới hay có khi còn gọi là dân ca kháng chiến
trong giai đoạn này đã mở đường cho một loạt những thành tựu mới - những bài
dân ca phát triển - khi ông vào Sài Gòn (1951). Có thể nói là những năm tham
gia kháng chiến đã giúp định hình cho khuynh hướng và quan điểm sáng tác rất nhất
quán của Phạm Duy trong những năm về sau này. Đó là sáng tác những tác phẩm ca
khúc dựa trên cơ sở điệu thức ngũ cung của âm nhạc truyền thống, nhưng vẫn mang
tâm tình của thời hiện đại. Từ đây nhạc Phạm Duy được bay bổng. Thập niên 50 và
60 là giai đoạn của những sáng tác rất điển hình cho chiều sâu xúc cảm của người
nghệ sĩ sáng tác trong thời kì này. Đây là thời kì của hai trường ca Con Đường
Cái Quan (1960) và Mẹ Việt Nam (1964).
(2) Thời vàng:
hát về hiện thực quê hương hôm nay
(1965-1988)
hát về hiện thực quê hương hôm nay
(1965-1988)
Năm 1964 đánh dấu một chuyển
hướng trong sáng tác của Phạm Duy. Sau khi trường ca Mẹ Việt Nam ra đời, ông ôm
đàn đi đến các tụ điểm học sinh sinh viên để hát về Mẹ Việt Nam. Có lẽ qua những
chuyến đi này, ông có dịp nhìn lại khoảng cách giữa tác phẩm của ông và hiện thực
cuộc sống chung quanh ông vào những năm tháng ấy. Năm 1964 là thời gian miền
Nam đang trải qua những biến động chính trị, cộng thêm với sự leo thang của chiến
tranh, đã dẫn đến những khủng hoảng xã hội. Văn học nghệ thuật đã tự làm những
cuộc tự vấn lương tâm qua những diễn đàn như tập san Giữ Thơm Quê Mẹ (1963),
Hành Trình (1964), tập san Thái Độ (1965), rồi tạp chí Đất Nước (1966). Không
khí học thuật lúc bấy giờ đã tác động mạnh đến các sinh hoạt văn nghệ giai đoạn
này.
Từ những giai điệu mượt mà
óng chuốt của trường ca Mẹ Việt Nam đến những bài tâm ca trần trụi, khô khốc và
nhiều dằn vặt, là một khoảng cách quá lớn. Phạm Duy ra mắt những bài Tâm Ca là
một bước chuyển hướng quan trọng trong sáng tác ca khúc, không những của riêng
ông mà còn cả những người sáng tác trẻ ở thế hệ sau, như Nguyễn Đức Quang, Trịnh
Công Sơn. Trước kia, trong thời tham gia kháng chiến, Phạm Duy cũng đã có những
bài hát rung động lòng người vì tính cách hiện thực của chúng. Những bài dân ca
kháng chiến hay những bài hát về Bà Mẹ Gio Linh, về Thu Chiến Trường chẳng hạn
là những bài hát về hiện thực hùng tráng của đất nước trong thời kháng chiến:
Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con giết nhiều Tây
Ra công xới vun cầy cấy
Hò ơ ới hò! Hò ơ ơi ới hò!…
(Bà mẹ Gio Linh-1948)
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con giết nhiều Tây
Ra công xới vun cầy cấy
Hò ơ ới hò! Hò ơ ơi ới hò!…
(Bà mẹ Gio Linh-1948)
Hiện thực Việt Nam trong Mười
Bài Tâm Ca và những bài trong thời gian sau đó là một hiện thực khác, nhiều ray
rứt, khắc khoải và chia lìa:
Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em guc ngã ngoài chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá…
Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở!
Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở!
Nhưng biết bao giờ
Tôi mới được nói thẳng
Những điều tôi ước mơ ?
(Tâm ca số 1 - Tôi ước mơ -1965)
Nghe tin em guc ngã ngoài chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá…
Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở!
Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở!
Nhưng biết bao giờ
Tôi mới được nói thẳng
Những điều tôi ước mơ ?
(Tâm ca số 1 - Tôi ước mơ -1965)
Một phần khá lớn những ca
khúc Phạm Duy trong thời kì này là những bài hát về cuộc chiến đang leo thang dữ
dội, về những hệ luỵ của chiến tranh đối với đời sống mổi con người bình thường.
Loạt ca khúc mang tên Tâm Phẫn Ca và Quê hương Tồi Tệ, Bình Ca là những bài hát
phản ánh những âu lo, buồn khổ cùng niềm vui của những con người đi qua cuộc
chiến. Hẳn nhiên là Phạm Duy vẫn làm nhạc tình.
Giai điệu những bài tình ca của ông vẫn trữ tình, mượt mà như những bản tình ca trong khoảng thời gian những năm 1950 của thời kì trước. Nhưng dáng vẻ tình yêu trong một bài hát như Cỏ Hồng chẳng hạn vẫn mang tính cách thời đại của nó: khuôn mặt tình yêu trong một thời bất trắc dường như vẩn nhiều lo âu, như hối hả, như khắc khoải.
Giai điệu những bài tình ca của ông vẫn trữ tình, mượt mà như những bản tình ca trong khoảng thời gian những năm 1950 của thời kì trước. Nhưng dáng vẻ tình yêu trong một bài hát như Cỏ Hồng chẳng hạn vẫn mang tính cách thời đại của nó: khuôn mặt tình yêu trong một thời bất trắc dường như vẩn nhiều lo âu, như hối hả, như khắc khoải.
Trong thời kì này Phạm Duy
có làm Mười Bài Đạo Ca (1972). Ra đời trong thời gian này, tập đạo ca dường như
lạc lõng trong diễn trình sáng tác của Phạm Duy, nhưng không phải vậy. Tập ca
khúc này phản ảnh rất trung thực bối cảnh văn hoá miền Nam lúc đó: thời chiến
tranh khốc liệt và nhiễu nhương cũng là thời kì xã hội đi tìm những điểm tựa.
Miền Nam lúc ấy đang dấy lên phong trào văn học nghệ thuật Thiền đạo như một thời
thượng văn hoá nhưng cũng là một sự cầ nthiết để góp phần hoá giải những đau khổ
khắc khoải trong tâm thức văn nghệ sĩ và trí thức buổi ấy. Mười Bài Đạo Ca phản
ảnh tâm thức Phạm Duy trong những năm tháng ấy mà thôi.
Năm 1975 là một năm bản lề lớn
trong đời Phạm Duy. Sau hơn 30 năm sáng tác trong lòng đất nước, nay ông lưu
vong ra hải ngoại. Sau cơn chấn động tâm lí nặng nề, Phạm Duy cầm bút trở lại,
và viết một loạt những bài hát thời thế mà sau này ông gộp chung trong loạt bài
Tị Nạn Ca. Loạt bài hát này ít được phổ biến trong công chúng nghe nhạc, nhưng
nó có chỗ đứng rất quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp Phạm Duy. Một phần lớn những
ca khúc trong nhóm này là những ca khúc đơn giản về khúc điệu, một nét phong
cách của những ca khúc thời thế của ông, bắt đầu từ những bài ca thời kháng chiến
đến những bài tâm ca. Nội dung những ca khúc là những khắc khoải của một người
nghệ sĩ lưu vong lạc lõng giữa nơi xa lạ, và hoang mang trước viễn cảnh về
tương lai. Những bài hát ra đời trong giai đoạn mười năm đầu tại Hoa Kì là những
bài hát nói về những cảnh khổ của những gia đình bị chia cáxh, những oan khổ của
con người vì chia li, thù hận. Ca khúc của Phạm Duy trong giai đoạn này đôi khi
loé lên những lời phê phán gay gắt đối với thời thế, sự phẫn nộ đối với thân phận
nghiệt ngã đè nặng lên những nạn nhân của một thời nhiễu nhương cùng cực. Thời
kì này sẽ kết thúc khi ông hoàn tất những nét nhạc cuối của tổ khúc Bầy Chim Bỏ
Xứ (1985). Đây là một tác phẩm dài hơi, đã thai nghén từ khá lâu ố từ những
ngày cuối cùng của ông tại Sài Gòn (1975) ố và đã kết tinh những khắc khoải cao
nhất và sâu lắng nhất, và nó cũng phản ảnh cô đọng nhất những ước mơ của Phạm
Duy về hiện thực Việt Nam đương đại. Nếu ngày trước, ông đã hát về đất nước hào
hùng qua lịch sử (trong Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam) thì bây giờ đây, trong
Bầy Chim Bỏ Xứ, ông hát về những đau thương cùng tột của đất nước mà ông đang
cùng sống với mọi người, ông hát về những hoài vọng cho tương lai khi đất nước
hồi sinh. Khi hoàn tất Bầy Chim Bỏ Xứ, Phạm Duy cũng bắt đầu bước vào một thời
kì mới trong sự nghiệp sáng tác của ông.
(3) Thời xanh:
hát trên đường về cõi vô cùng
(1988-2002)
hát trên đường về cõi vô cùng
(1988-2002)
Năm 1988 đánh dấu sự ra đời
của một tập ca khúc rất lạ, và có cái tựa rất dài: Mười bài Rong Ca: Người Tình
Già Trên Đầu Non (Hát Cho Năm 2000). Mười bài rong ca có hai chủ đề chính: chủ
đề thứ nhất là những bài hát mang tính cách tổng luận về những đổ vỡ, đau
thương mà nhân loại đã phải trải qua trong suốt thế kỉ XX; chủ đề thứ nhì là những
cảm nhận của người nghệ sĩ về tiếng gọi càn khôn. Phải nói ngay là cả hai chủ đề
trên không phải là mới lạ đối với Phạm Duy. Chủ đề thứ nhất là gì nếu không phải
là những tiếng hát về hiện thực cuộc sống chung quanh ta? Đấy là một chủ đề
quen thuộc trong sáng tác Phạm Duy từ bao năm qua mà thôi. Có khác chăng là ở
đây, hiện thực đã được lọc lại ở mức độ khái quát cao nhất. Sang chủ đề thứ
hai, thì phải nói là Phạm Duy cũng đã tiếp cận với nó từ rất sớm, ngay từ những
năm kháng chiến trên núi rừng Việt Bắc. Khi ấy, chàng trai trẻ Phạm Duy đi
ngang qua chiếc cầu biên giới, chợt thốt lên một câu hỏi rất siêu hình: Lòng
tôi sao vẫn còn biên giới? Hồn tôi sao vẫn ngừng nơi đây? (Bên Cầu Biên Giới - 1947). Những ám ảnh khát vọng siêu hình ấy còn trở lại nhiều lần nữa, chẳng hạn
trong bài Tìm Nhau (1956) có những câu hát rất lạ khi đặt trong môt bài tình
ca: Tìm trong câu thơ cổ, tìm qua tranh tố nữ, tìm trên môi đương ca câu thương
nhớ - Tìm sâu trong muôn thủa, tìm sau lưng bốn mùa, tìm nhau như Thiên Cổ tìm
Nghìn Thu. Những ám ảnh siêu hình kia sẽ trở lại ở mức độ dàn trải nhất, sâu sắc
nhất trong Rong Ca như một sự tiếp nối mà thôi.
Tiếp nối Rong Ca là Mười Bài
Thiền Ca: Hát Trên Đường Về (1992). Tác phẩm này hát về một chủ đề rất siêu
hình: hạnh phúc trong cõi thường lạc. Nếu hạnh phúc trong tình yêu có khi sẽ trở
thành những vết thương rướm máu, thì niềm hạnh phúc trong thế giới của ngã tịnh
thường lạc là một cõi an bình trong suốt, ở đó không có vẩn bụi đau khổ, không
có những vết xước của thù oán, không có những xao động của lo âu. Mười bài thiền
ca là những tiếng hát về cõi an lành đó. Nét nhạc thanh thoát lạ thường, lời
hát cũng lãng đãng như vô nhiễm.
Đến Trường Ca Hàn Mặc Tử
(1994) thì người nghe nhạc Phạm Duy được tiếp cận một hành trình chinh phục hạnh
phúc của người nghệ sĩ, khởi đầu từ những thú đau thương để tiến về cõi vĩnh hằng
trong thế giới không còn phân biệt, nơi chỉ còn tình yêu không mùa.
Khi những tác phẩm nói trên
vừa ra mắt công chúng, có người đã tỏ ra ngỡ ngàng về một Phạm Duy khác, rất
khác với người nhạc sĩ của những bài tình ca lãng mạn tuyệt vời, rất khác với một
Phạm Duy với đôi mắt ráo hoảnh nhìn thẳng vào hiện thực nhân gian.
Thật ra, nếu nghĩ rằng Phạm
Duy nay đang lui dần về sáng tác những tác phẩm cho riêng ông bởi vì không còn
bóng dáng những hình ảnh quen thuộc trong các ca khúc bao lâu nay, thì cũng xin
lưu ý là từ những ngày xa xưa, khi còn trẻ, Phạm Duy đã có những bài hát mang
những chủ đề trừu tượng, hướng nội. Người thanh niên ấy từng nghe tiếng gọi huyền
nhiệm từ trong sâu thẳm của nội tâm. Tiếng đời nào phải chỉ có tiếng tình yêu
mà còn có những tiếng gọi của thinh không (Lữ Hành), cảm nhận về những biên giới
chia cách con người trong những không gian tâm tưởng khác nhau (Bên cầu biên giới)…Cho nên Phạm Duy vẫn chỉ là một thôi, dù là Phạm Duy của Tình Ca, của Cỏ Hồng,
của Pháp Thân, của Ngục ca, của Bài Hát Nghìn Thu, của Hát Trên Đường Về, hay của
Trăng Sao Rớt Rụng. Đó chỉ là một hành trình rất tự nhiên và nhất quán của một
nghệ sĩ. Một nhà phê bình đã dí dỏm nhận xét về đôi mắt Phạm Duy: một con mắt đắm
đuối lãng mạn, và một con mắt kia ráo hoảnh, tỉnh táo soi nhìn vào hiện thực. Như thế, ba chặng đường sáng tác của Phạm Duy là sự nối nhau của ba nhịp đời,
dù ở ba chặng đời khác nhau nhưng vẫn là một: một con người sống trọn vẹn với
nghệ thuật sáng tạo âm nhạc. Ba chặng đường sáng tạo nối tiếp nhau trong một
chu trình. Hiện nay, Phạm Duy đang thực hiện công trình cuối đời mình: Minh Hoạ
Kiều. minh hoạ ở đây không mang ý nghiã là sự lặp lại, sự sao chép lại một tác
phẩm văn học. Tác phẩm gọi là minh hoạ thật ra đã có tham vọng khắc hoạ lại những
tâm trạng, những tính cách cuả Kiều trong một khung cảnh và thời gian nhất định.
Đó là một thế mạnh cuả âm nhạc trong việc tái hiện cuộc sống. Ở phần I này nổi
lên hai điều: trời xuân rạng rỡ và những gợn mây xám báo hiệu giông bão. Cả cái
huy hoàng cuả triều đình Gia Tĩnh rồi ra sẽ chỉ là thứ huy hoàng không thật.
Nhưng đó là chuyện về sau. Ở trong phần Giáo Đầu và trong phần I này, mọi thứ đều
hãy còn là tiềm ẩn. Nghe kĩ, có thể nhận ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
Trong tiếng cười giòn cuả phần I đã nghe ra tiếng thở dài đâu đó.
Một điểm nưã cũng dễ nhận thấy
trong suốt hành âm cuả phần I Minh Hoạ Kiều: đấy là bản minh hoạ Kiều hay minh
hoạ PD?. Ta nghe đâu đây âm vang cuả giai điệu PD cuả Nương Chiều, cuả Ngày Đó
Chúng Mình, cuả Tôi Đang Mơ Giấc Mộng Dài, cuả Kỉ Niệm, cuả Em Lễ Chuà Này, cuả
Người Tình Tuyệt Vời…Nói thế không có nghiã là PD đã lặp lại chính mình trong
công trình mới. Giai điệu PD xưa nay vẫn là những mẩu kỉ niệm về những tâm cảnh
chúng ta, thì nay chúng cô đọng lại, dàn trải lại. Ở đây là phong cách PD trong
cách thể hiện giai điệu. Nếu nhạc cuả phần I Minh Hoạ Kiều có gợi lại những kỉ
niệm về những bài hát cũ cuả PD, thì chỉ là vì giai điệu cuả chúng là những nét
đậm cuả phong cách âm nhạc PD mà đã năm mươi năm rồi nó bảng lảng trong không
gian Việt Nam. Ở đây cũng còn là phong cách cuả Duy Cường khi thể hiện hoà âm
nưã: phong cách hoà âm giàu ấn tượng.
Khí vị âm nhạc trong Minh Hoạ
Kiều 1 là một dáng vẻ trữ tình nhưng rất nhiều nostalgia. Trong phần I có âm vọng
nhạc đồng quê, có phong vị ca dao ngọt ngào mà chất phác. Ngôn ngữ nhạc PD
trong Minh Hoạ Kiều 1 có một nét đặc sắc mà những ai đã nghe nhạc ông không thể
không chú ý: phong cách nhạc dân tộc nổi rõ, mặc dù ông không vận dụng một nét
giai điệu dân nhạc nào. Nhưng bao trùm lên đó là phong vị giai điệu cuả PD, rất
riêng: nhạc đi kiêu kì nhưng vẫn như dễ dàng tự nhiên như hơi thở. Ngôn ngữ nhạc
trong tác phẩm này là sự dàn trải, sự tổng hợp cuả phong cách giai điệu PD: nhạc
ngũ cung như đã bàng bạc trong giai điệu mượt mà trữ tình, “rất PD”.
Phần II – Kiều gặp Tình Yêu
vừa mới ra mắt gần đây. Trong phần này, Phạm Duy đã minh hoạ bằng nhạc bốn khúc
đàn mà Thuý Kiều đã trình tấu cho Kim Trọng nghe trong buổi thệ ước đầu tiên. Một
lần nữa câu hỏi lại được đặt ra: tâm sự Thuý Kiều hay tâm sự Phạm Duy? Nếu khúc
nhạc đầu Khúc Đâu Hán Sở Chiến Trường là hồi quang của những hành khúc Phạm Duy
ngày nào, vừa lãng mạn vừa hùng tráng, thì cũng chính nó gợi lại những bi tráng
của hiện thực Việt Nam trong chính những hành khúc Phạm Duy một thời đã xa đó.
Đến khúc nhạc tình Tư Mã Phượng Cầu lại là hồi quang của những thiên tình ca đã
làm nao lòng nhiều thế hệ tình nhân trước kia. Ta gặp đâu đó những thổn thức của
tình yêu trong nhớ nhung đợi chờ, ta nhói lòng khi nghe tiếng gọi về của tình
nhân khi chia xa. Giai điệu tình ca vẫn mượt mà óng chuốt, và vẫn nao nao lòng
người. Khúc thứ ba là Kê Khang Này Khúc Quảng Lăng là một mảng khác của tâm sự
Phạm Duy, một người nghệ sĩ tự do, không thể trói mình trước những thế lực muốn
triệt tiêu tự do của mình. Giai điệu của khúc hát này không phẫn nộ như một tâm
ca, không bi tráng như một hành khúc thời thế, không thê lương bi phẫn như một
tâm phẫn caà Nó tràn đầy bao dung nhưng vẫn vạch một lằn ranh dứt khoát trong
tâm sự Phạm Duy về nghệ thuật. Khúc thứ tư Chiêu Quân là dư vang của tiếng hát
Phạm Duy về thân phận nhân gian trên hành trình nhân gian đã từng bàng bạc
trong những bài hát rất xa xôi như một Bà Mẹ Gio Linh, một Ngày Trở Về, mộtTiếng
Hát To, một Kể Chuyện Đi Xa. Ta cũng nghe đâu đây thoáng hiện những nét tâm
tình của Phạm Duy trong Rong Ca.
Công trình minh hoạ này vẽ lại
những tâm cảnh, minh hoạ lại những mảnh gương soi vóc dáng cuả cuộc đời. Đối với
người sáng tác thì đây là sự dàn trải tâm sự cuả hai người cha già tóc trắng ở
hai quãng cách thời gian, khi đã qua hết bao nhiêu nhịp cầu nhân thế có mặn mà
đấy nhưng cũng nhiều chua xót. Tác phẩm cuả họ đã ngồn ngộn những cảnh đời, những
tâm sự ngổn ngang cuả một phận người. Ở đây, không phân biệt đâu là ý nghiã cuả
cốt chuyện được minh hoạ, và đâu là tâm sự cuả chính người sáng tác.
Riêng đối với Phạm Duy, tưởng
không có chung kết một chu trình âm nhạc dài của bằng một công trình có tính
cách tổng hợp nhiều bản sắc âm nhạc của ông đến thế. Một sự kết toán đẹp đẽ về
sự thể nghiệm thể loại âm nhạc, về sự phát triển ngôn ngữ âm nhạc qua nét nhạc
dân tộc ở trình độ sâu sắc, về sự dàn trải chủ đề âm nhạc ở mức cô đọng nhất.
Ba chặng đường âm nhạc Phạm Duy về trùng phùng trong công trình dài hơi này.
Sinh hoạt âm nhạc dù ở trong
nước hay ở hải ngoại hiện nay đang rất thiếu thốn sáng tác kịp thời và quan trọng
hơn nữa là cần phải phản ảnh tâm tình của thế hệ chúng ta. Người nghệ sĩ lớn
không phải là những người chỉ biết sống và làm nghệ thuật từ cái tôi chật hẹp của
mình. Anh ta phải sống với cuộc đời chung với mọi người chung quanh, và nghệ
thuật của anh là những chứng tích của thời đại anh sống và làm nghệ thuật. Đó
là định luật của văn nghệ. Trong các loại hình nghệ thuật Việt Nam đương đại,
âm nhạc dường như bị lạc lõng nhất. Người nhạc sĩ sáng tác thường không phải là
người sống toàn tâm toàn trí cho nghệ thuật. Âm nhạc luôn luôn là thứ phó sản của
cuộc sống một nhạc sĩ Việt Nam; nói khác đi sáng tác âm nhạc của người nhạc sĩ - trong tuyệt đại đa số nhạc sĩ xứ mình - chỉ là một thứ nghệ thuật nghiệp dư.
Công chúng nghệ thuật có thể đòi hỏi một nhà văn nhà thơ phải dấn thân, phải xuống
thuyền. Nhưng người nhạc sĩ Việt Nam trước nay vẫn được ưu ái miễn trừ. Anh ta
vẫn cứ thản nhiên hát về những tà áo xanh, hát về những cụm mây lang thang, về
những niềm hạnh phúc hay khổ đau rất riêng tư, bé mọn. Nếu có ai hát về một giọt
mưa, một vết máu khô trên xác một em bé vừa chết vì mìnà thì bài hát của anh bị
liệt vào loại những “tiểu phẩm”, bị xem thường. Người ta chỉ quen vinh danh người
nhạc sĩ qua những bản tình ca bất tuyệt, mà quên rằng anh ta cũng là một người
có vui sướng và đau khổ như chúng ta, anh ta cũng sống giữa đời như chúng ta. Vậy
thì tại sao chúng ta vui sướng hay khổ đau với cuộc đời làm người Việt Nam thì
người nhạc sĩ lại được quyền miễn trừ?
Nói cho phải thì khi công
chúng Việt Nam vinh danh những người nhạc sĩ lớn của mình thì cũng là lúc người
ta nhìn ra sự lớn lao của những người nhạc sĩ đã hát về những tâm cảnh Việt
Nam. Dựa trên thước đo như vậy, người ta đã rất có lí khi tổng kết về sáu mươi
năm tân nhạc Việt Nam, rằng lịch sử nửa thế kỉ bài hát tân nhạc Việt Nam đọng lại
một vài khuôn mặt lớn mà thôi. Không nhiều. Trong số ít ỏi những người nhạc sĩ
lớn của thế kỉ vừa qua, có Phạm Duy.
Hiện nay đang có một quãng
cách rất xa về cung và cầu - nếu hiểu âm nhạc cũng là một dịch vụ tiêu thụ của
xã hội. Ở trong nước có đủ phương tiện sinh hoạt, nhưng những thương phẩm âm nhạc
trên đài truyền hình, đài phát thanh, băng nhạc thương mại đều cho thấy tình trạng
ngưng đọng trong sáng tác rất đáng lo ngại: quanh quẩn vẫn chỉ hai mảng sáng
tác: mảng thứ nhất là những bài hát về những ảo tượng xã hội ngày đã ngày càng
trở nên lạc lõng giữa cảnh chợ chiều của chế độ xã hội chủ nghĩa, mảng thứ hai
là những sáng tác kiểu “áo tiểu thư”, “tuổi ngọc” đã từng nở rộ trong sinh hoạt
văn nghệ Sài gòn trong những năm chiến tranh ác liệt và xã hội thị dân đang tù
túng trong tình cảnh văn nghệ mất hướng. Nghệ sĩ xung kích như Trần Tiến là một
hiện tượng hiếm hoi.
Tại hải ngoại, một rừng
thương phẩm âm nhạc cũng không lấy gì làm lạc quan người thưởng ngoạn: khuynh
hướng sáng tác nếu không ngoái trông dĩ vãng thì cũng chỉ “chạy tại chỗ” với những
đề tài cũ kĩ từ những năm xưa. Thảng hoặc có sáng tác mới có giá trị nghệ thuật
thì cũng không đủ ấm nồng đủ để lôi cuốn một công chúng thưởng ngoạn. Những cố
gắng của một số nhạc sĩ như Hoàng Quốc Bảo đã chìm lặng trong lạc lõng. Một khoảng
trống tâm tình quá dài !
Hiện nay, nhu cầu gìn giữ bản
sắc văn hoá đang là một nhu cầu rất lớn của cả thế hệ thứ nhất lẫn thế hệ thứ
nhì những người Việt tại hải ngoại. Sinh hoạt trình diễn nhạc Việt ở ngoài này
dường như không hề quan tâm mảy may đến nhu cầu như thế. Rất thiếu những sáng
tác mang hồn tính Việt Nam mà vẫn đủ tầm vóc hiện đại để đáp ứng nhu cầu giới
trẻ. Công chúng hải ngoại đang chờ đợi những tiếng hát thể hiện tâm tình Việt
Nam giữa cộng đồng thế giới chứ không phải thứ âm thanh than khóc rất phi hiện
thực hay những tiếng gào thét đòi đồng hóa. Cũng là một điều thú vị khi đọc lại
một lời phát biểu của Phạm Duy nhân khi trả lời phỏng vấn về hiện tình tân nhạc:
Tôi nhận xét hiện nay các nhạc sĩ, dù trong làng cổ nhạc hay tân nhạc, sống lẻ
loi cô quạnh quá. Thức ăn bồi dưỡng cho nhạc Việt là sự sống vô cùng phong phú ở
thôn quê. Cổ nhạc, nhạc cải cách, nhạc cải tiến, dân ca phát triển, nhạc Việt
Nam thuần tuý theo lề lối cổ điển Tây phươngà muốn tốt đẹp phải bắt nguồn vào đời
sống nhân dân. Nếu không, nó sẽ chỉ là một món hàng thương mại (như loại nhạc
ca lâu hiện nay), hay là một thứ ma tuý dành riêng cho những người si nhạc.
Trong khung cảnh ngưng đọng
như thế, Phạm Duy vẫn hát tâm tình của những con người Việt Nam dung dị ở trong
nước hay tại hải ngoại. Công chúng cùng ông bâng khuâng, khắc khoải về một thời
bất trắc của phận người. Phạm Duy lớn và vững là như thế. Sự có mặt bền bỉ của
ông trong sinh hoạt âm nhạc hiện đại vẫn là một cần thiết, như một của tin.
Thúy Nga – Paris by night 19
Tình ca Phạm Duy
Tình ca Phạm Duy
Thúy Nga – Paris by night 30
Phạm Duy 2 – Người tình
Phạm Duy 2 – Người tình
Trường ca con đường cái quan - Phạm Duy
Trường ca mẹ Việt Nam [Phạm
Duy] - Ban hợp xướng ngàn khơi
Phạm Duy và Trường ca Hàn Mặc
Tử
Trường ca Hàn Mặc Tử - Duy Quang,
Thái Hiền, Tuấn Ngọc, Thái Thảo
Thái Hiền, Tuấn Ngọc, Thái Thảo
Minh Họa Kiều Phần 3 Track 5
& 6
Thái Thanh và Phạm Duy
Tình Ca (Phạm Duy) – Thái
Thanh
Thái Thanh – Nhạc hay trước
1975, phần 1
Thái Thanh – Nhạc hay trước
1975, phần 2
Thái Thanh – Nhạc hay trước 1975, Phần 3
Tuyển tập những bài hát hay nhất của nhạc sĩ Phạm Duy
Những ca khúc trữ tình tiền chiến
hay nhất của nhac sĩ Phạm Duy
hay nhất của nhac sĩ Phạm Duy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét