Nhân 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du,
đọc lại Truyện Kiều
Nguyễn Du - tác giả Đoạn trường
Tân thanh sinh năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 (1765), mất năm đầu niên
hiệu Minh Mệnh (1820), là con thứ của Hoàng Giáp Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm,
tỉnh Hà Tĩnh. Đoạn trường Tân thanh ra đời cách đây khoảng 200 năm có dư. Theo
các nhà nghiên cứu cổ uy tín thì đây là tác phẩm đầu tiên trong văn học trung đại
Việt Nam đặt ra vấn đề vận mệnh con người trong cái xã hội mà mọi giá trị đạo đức,
văn hoá, nghệ thuật pháp quyền đều bị thế lực đồng tiền và thần quyền chi phối.
Trong bài viết này, tôi xin trình bày một khía cạnh trong cuộc đời đầy sóng gió
của nhân vật chính. Ấy là Thúy Kiều với quê hương.
Thúy Kiều là người con gái nhan sắc, tài hoa lại đang sống trong tình yêu mộng mơ.
Rồi tai bay, vạ gió ập đến, gia đình Kiều bị bọn sai nha đến lục soát, chúng: “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham". Không những thế, bọn chúng còn: "Già giang một lão một trai / Một dây vô tại buộc hai thâm tình” - trói cha và em trai Kiều lại để khảo tiền. Trước tình thế này, không còn cách nào, Kiều quyết định "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha" Ngày Thuý Kiều rời xa cha mẹ, họ hàng và các em theo Mã Giám Sinh về "trú phường” được Nguyễn Du mô tả tình cảnh thật não lòng: “Trời hôm mây kéo tối rầm / Dầu dầu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương". cảm xúc đau lòng ấy không từ bên ngoài đến mà từ tâm cảnh tác giả phát ra, thông cảm sâu sác với nhân vật của mình:
Thúy Kiều là người con gái nhan sắc, tài hoa lại đang sống trong tình yêu mộng mơ.
Rồi tai bay, vạ gió ập đến, gia đình Kiều bị bọn sai nha đến lục soát, chúng: “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham". Không những thế, bọn chúng còn: "Già giang một lão một trai / Một dây vô tại buộc hai thâm tình” - trói cha và em trai Kiều lại để khảo tiền. Trước tình thế này, không còn cách nào, Kiều quyết định "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha" Ngày Thuý Kiều rời xa cha mẹ, họ hàng và các em theo Mã Giám Sinh về "trú phường” được Nguyễn Du mô tả tình cảnh thật não lòng: “Trời hôm mây kéo tối rầm / Dầu dầu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương". cảm xúc đau lòng ấy không từ bên ngoài đến mà từ tâm cảnh tác giả phát ra, thông cảm sâu sác với nhân vật của mình:
Rước nàng về đến trú phường
Bốn bề xuân khoá, một nàng ở trong
Ngập ngừng thẹn lục e hồng
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen
Bốn bề xuân khoá, một nàng ở trong
Ngập ngừng thẹn lục e hồng
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen
Không chỉ cảm thông mà còn
xót xa trước cảnh sinh li trong một gia đình vốn được xem là thuận hoà đầm ấm.
Nói một cách cụ thể hơn, Nguyễn Du đã xây dựng thành công một cảnh đời với nỗi
đau chia cắt điển hình và đã giữ được cảm xúc này đi hết “đoạn trường tân
thanh"
Đoạn trường thay cảnh phân
kì
Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
Thương xót và quyến luyến,
Nguyễn Du để tới hơn ba mươi dòng thơ lục bát (869-899) tạo thành một dấu lặng
sâu trong lòng người đọc, lúc đó nhà thơ mới ngậm ngùi chịu để cho nhân vật của
mình:
Từ đây góc bể chân trời
Nắng mưa thui thủi, quê hương một thân
Nắng mưa thui thủi, quê hương một thân
Cái ngày Kiều rời khỏi trú
phường (nhà trọ) để theo Mã Giám Sinh về Lâm Truy sao mà ảm đạm nặng nề, khiến
người ngoài cuộc cũng “ngơ ngẩn lòng”.
Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Đi vội vàng, quáng quàng
"như thể có ma đuổi", trong khi đó: “Nàng thì cõi khách xa xăm/ Bạc
phai cầu giá đen rầm ngàn mây". Bản thân Kiều thì bơ vợ trong giá lạnh:
Canh trường “Dặm khuya ngất tạnh mù khơi/ Thấy trăng mà thẹn những lời non
sông”, tương lai thì mờ mịt. Từ trong cái đêm trăng mờ ảo này gợi Kiều nhớ đến
Kim Trọng tức là nhớ nơi "kì ngộ” - nhớ về "vườn thuý - nơi đã ghi nhận:
"Một lời vâng tạc đá vàng thuỷ chung" của Kiều và tự thấy tủi hổ với
chàng Kim vì đã không giữ được lời thề. Chỉ một chi tiết nhỏ này thôi cũng đủ
điều kiện để ta khẳng định thi hào Nguyễn Du đồng thời cũng là nhà tâm lí lớn của
tuổi trẻ và tình yêu. Sau khi để Thúy Kiều nghĩ đến Kim Trọng, nhà thơ cho Kiều
chứng kiến cảnh “Rừng thu từng biếc chen hồng”, thấy sự vật đang chuyển mùa có
chiều ngả úa tàn, Thúy Kiều liên tưởng đến cha mẹ nơi quê nhà đương từng ngày
ngả bóng: “Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn”.
Những là lạ nước lạ non
Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi
Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi
Một tháng trời ròng rã trên
đường, Mã Giám Sinh đưa Kiều về đến Lâm Truy. Tại đây, nàng bị đẩy vào làm gái
thanh lâu. Không chịu được nhục, Kiều đã phản ứng bằng cách tự vẫn. May mà, Tú
Bà kịp cứu được rồi lựa lời an ủi, đưa nàng ra lầu Ngưng Bích với lời hứa: “Tim
nơi xứng đáng làm con cái nhà”. Ở đây cảnh gợi thức nhiều ý nghĩ đối với kẻ sa
cơ. Cũng như lần trước, Kiều lại nhớ đến chàng Kim - mối tình đầu tuy đã dở
dang nhưng nàng lòng yêu, khiến Kiều lúc này không thể không hình dung ra cảnh
chàng Kim nhớ mình:
Tưởng người dưới nguyệt chén
đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Nghĩ vậy, rồi lại tủi thân,
thương cho phận mình:
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Từ ý trên, Kiều lại hồi tưởng
đến cha mẹ - những người đang mong tin, ngóng đợi và thương xót cho thân phận đứa
con đang tha hương nơi đất khách; về phía Kiều thì: “Xót người tựa cửa hôm
mai”. Từ đây nàng lại nghĩ: “Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ\ Quạt nồng (điển)
hiểu một cách đơn giản là mùa hè ai quạt cho cha mẹ, mùa đông ai đốt lò, lót ổ,
trải nệm cho cha mẹ nằm. Sở dĩ có ý nghĩ trên vì Kiều biết rất rõ các em mình:
Vương Quan tuy là trai nhưng còn nhỏ tuổi, còn Thuý Vân lại là người vô tâm, ít
lo nghĩ. Chả thế mà khi Kiều quyết định bán mình chuộc cha, Thúy Vân vẫn bình
chân không một lờii sẻ chia; Kiều đau khổ ngồi khóc cho mối tinh dang dở trước
ngày phải đi với Mã Giám Sinh; Thúy Vân vẫn ngủ ngon lành. Chỉ đến khi chợt tỉnh
giấc xuân nàng mới: “Dưới đền ghé đền ăn cần hỏi han”. Với hai người em như vậy,
thử hỏi làm sao Kiều có thể yên tâm không lo nghĩ? Mặt khác, như trên đã nói,
Kiều bị đưa ra lầu Ngưng Bích, ở đây nàng đã bị Sở Khanh lừa vì thế Thúy Kiều
phải thốt lên trước mặt Tú Bà cũng là để văng vào cái xã hội dùng tiền để chỉ
huy:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa
Xã hội gì lại bắt một người
con gái phải từ bỏ ý nghĩ giữ mình “trinh bạch”? Phải chấp nhận tiếp khách, bao
tủi hổ ê chề. Nguyễn Du đã phải dành tới hơn hai mươi câu (1233-1253) để tả nỗi
xót xa thương cảm của tác giả với Thúy Kiều. Những ngày ở lầu xanh buồn tủi,
nàng lại nghĩ đến cha mẹ - quê hương, nhưng lần này đã theo một trình tự khác với
hai lần trước:
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày một ngả bóng dầu tà tà
Dặm nghìn nước thẳm non xa
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này
Sân hoè đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình...
Một ngày một ngả bóng dầu tà tà
Dặm nghìn nước thẳm non xa
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này
Sân hoè đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình...
Mở đầu cho đoạn thơ là lời
khẳng định về một nỗi nhớ sâu nặng cao bằng trời, sâu như biển - nhớ công sinh
thành dưỡng dục của cha mẹ. Từ nỗi nhớ ấy, nhà thơ để nhân vật của mình phát
triển suy nghĩ về sự già nua của cha mẹ, rồi Kiều đặt vấn đề về sự vụng dại của
hai em trong việc chăm lo miếng ăn, nước uống cho cha mẹ sợ không được đến nơi
đến chốn. Có thể nói đây là một sự suy nghĩ như cố ý tự xác nhận trách nhiệm
này lẽ ra phải thuộc về mình. Nối tiếp dòng suy nghĩ về quê hương, Thuý Kiều lại
nhớ về kỉ niệm xưa:
Nhớ lời nguyện ước ba sinh
Xa xôi ai có biết tình chăng ai
Khi vé hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay
Xa xôi ai có biết tình chăng ai
Khi vé hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay
Sự suy nghĩ về lời thề xưa của
Thuý Kiều lúc này như ứ nghẹn, chứa đầy nước mắt chua xót, đau khổ, nàng chỉ
mong Kim Trọng hiểu cho hoàn cảnh bắt nàng phải bán mình chuộc cha” mà tha thứ
cho “liễu Chương đài” không những đã bị bẻ mà giờ đây còn “cho người chuyên
tay". Nói đến đây Kiều đã bật khóc và từ trong dòng nước mắt đau khổ ấy,
Kiều thổn thức:
Tình sâu mong trả nghĩa dày
Hoa kia đã chắp, cành này cho chưa
Hoa kia đã chắp, cành này cho chưa
Lo lắng không biết Thuý Vân
đã đáp ứng lời cầu thỉnh của mình trước ngày phải lìa nhà để đi với Mã Giám
Sinh chưa?
Được Thúc Sinh chuộc ra khỏi lầu xanh, Thuý Kiểu lúc này không còn phải sống trong cảnh “Dập dìu lá gió cành chim/ Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh", nhục nhã ê chề, nàng lại nhớ cha mẹ -nhớ quê hương, nơi có mái ấm của tình thương yêu:
Được Thúc Sinh chuộc ra khỏi lầu xanh, Thuý Kiểu lúc này không còn phải sống trong cảnh “Dập dìu lá gió cành chim/ Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh", nhục nhã ê chề, nàng lại nhớ cha mẹ -nhớ quê hương, nơi có mái ấm của tình thương yêu:
Bóng dâu đã ngả ngang đầu
Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi
Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi
Biết cha già, mẹ yếu, cái
bây giờ Thúy Kiều lo là những ngày trái gió, giở trời, oi nồng, giá lạnh và những
bát cơm nóng, canh ngọt. Nghĩ về cha mẹ lại nghĩ về phận mình:
Sắn bìm chút phận cỏn con
Khuôn duyên biết cò vuông tròn cho chăng
Khuôn duyên biết cò vuông tròn cho chăng
Trước đấy, Nguyễn Du đã để
Kiều bộc lộ suy nghĩ của mình với Thúc Sinh:
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà
Ở vào khuôn phép,nói ra mối giường
Ở vào khuôn phép,nói ra mối giường
Tuy không còn phải sống
trong cảnh ê chề của lầu xanh nhưng Kiều lúc này không khỏi nơm nớp lo cái uy của
“kẻ lớn trong nhà”. Nói cụ thể hơn, cuộc sống Thúy Kiều lúc này mới chỉ tạm ổn
trong hiện tại, tương lai thì còn phụ thuộc ở tấn trò đời.
Nhà bị đốt, bản thân bị bắt cóc đem về làm tôi đòi trong nhà Hoạn Thư, thoát khỏi nơi đây, Thúy Kiều lại rơi vào nhà Bạc Hạnh, rồi lại vào lầu xanh lần thứ hai. Được Từ Hải chuộc ra. Sống bên Từ Hải, Kiều thấy an toàn hơn, lòng hướng về cội nguồn lúc này cũng trở nên tha thiết, mãnh liệt hơn.
Nhà bị đốt, bản thân bị bắt cóc đem về làm tôi đòi trong nhà Hoạn Thư, thoát khỏi nơi đây, Thúy Kiều lại rơi vào nhà Bạc Hạnh, rồi lại vào lầu xanh lần thứ hai. Được Từ Hải chuộc ra. Sống bên Từ Hải, Kiều thấy an toàn hơn, lòng hướng về cội nguồn lúc này cũng trở nên tha thiết, mãnh liệt hơn.
Nhìn đám mây trôi, Kiều lại
nhớ về quê hương, nhớ tới cha mẹ pha nỗi xót xa về tuổi cao, sức yếu của song
thân. Nhớ tổ ấm xưa, Kiều làm sao quên được mối tình đầu mặc dù đến thời điểm
này nó đã có một khoảng cách khá dài về thời gian và cũng khá xa về không gian:
Chốc đà mười mấy năm trời
Chuyện xưa nay đã là cũ, vì
thế nhắc tới Kim Trọng lúc này, Kiều rất ý tứ:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngỏ ý, còn vương tơ lòng
Dẫu lìa ngỏ ý, còn vương tơ lòng
Chút nghĩa cũ càng trong câu
thơ cho ta thấy tình của Thúy Kiều đối với Kim Trọng lúc này gần như đã yên mặc
dù có vương ý luyến tiếc cái thời đã xa, đã qua. Điều này phù hợp với sự phát
triển lô gích tâm lí của cuộc sống, phù hợp với đạo lí truyền thống của dân tộc.
Một người đã qua thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, nhất là ở thời điểm này
Kiều đang sống với tư cách là vợ của đại vương Từ Hải nghĩ về người tình xưa chỉ
còn vương chút tơ lòng, nghĩa cũ mà thôi. Mặt khác suốt mười mấy năm qua, Kiều
luôn cầu mong Thuý Vân giúp mình trả nghĩa chàng Kim, sự này nếu đã thực hiện,
chắc chắn chàng cũng đã “con bồng con mang”. Như vậy, nghĩa và tình của Thúy Kiều
đối với Kim Trọng có thể được xem là đã trọn vẹn. Mười lăm năm xa cha mẹ, người
thân - quê hương cũng là mười lăm năm Thuý Kiều luôn đưa tâm tưởng mình về với
quê hương, tình cảm tha thiết ấy sau này gặp Từ Hải, được Từ cảm thông tới mức
sâu sắc và hứa:
Xót nàng còn chút song thân
Bấy lâu kẻ Việt, người Tần cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng
Bấy lâu kẻ Việt, người Tần cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng
Thế mới biết, quê hương luôn
là người mẹ tinh thần, là bóng mát che chở cho mỗi tâm hồn xa xứ, giúp họ vượt
lên mọi khó khăn để sống ở nơi đất khách quê người. Có thể nói mỗi lần nhớ về cội
nguồn - hướng về quê hương, Thúy Kiều như được tiếp ứng một thứ thần dược để đủ
sức vượt qua mọi trở ngại trong đời. Tha thiết với quê hương, Kiều đã vận dụng
mọi cách để sớm thấy quê hương, thăm dò ý tứ, bàn với Từ lẽ thiệt hơn khi ra
hàng:
Công tư vẹn cả hai bể
Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương
Cùng ngôi mệnh phụ đường đường
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha
Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương
Cùng ngôi mệnh phụ đường đường
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha
Nghĩ là vậy, song chế độ
phong kiến không chấp nhận một kẻ làm giặc và một kẻ làm đĩ được sống. Ý nghĩ đẹp
đẽ của Thuý Kiều đã bị vùi dập. Đây là bản cáo trạng đanh thép chế độ phong
kiên Việt Nam hồi cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỉ XIX nói riêng và chế độ phong kiến
ở các nước Châu Á nói chung.
Tạp chí Văn học
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét