Thứ Năm, 21 tháng 1, 2016

Sắc xuân trong Đường thi

Sắc xuân trong Đường thi
Trong Đường thi, có hai mùa thường được các nhà thơ bày tỏ cảm xúc, đó là mùa xuân và mùa thu, song đậm nhất vẫn là mùa xuân.
Trong Đường thi, có hai mùa thường được các nhà thơ bày tỏ cảm xúc, đó là mùa xuân và mùa thu, song đậm nhất vẫn là mùa xuân. Mùa xuân của những thi sĩ như Triệu Sư Tú, Vương Duy, Gia Chí, Vương Xương Linh, Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục, Trương Nhược Hư, Mạnh Hạo Nhiên, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Sầm Tham, Chương Kiệt… luôn là những cung đàn đa âm, đa sắc của lòng người. Xuân phả lên thơ những hương sắc của hoa đồng cỏ nội, của thiên nhiên hòa điệu, của hơi ấm tình yêu.
Không hẹn mà xuân vẫn cứ về. Trên cao xanh, những đám mây bàng bạc trôi lững lờ. Dưới kia, dòng sông mênh mông lấp loáng. Giữa đất trời bao la đó, con người như hòa vào với thiên nhiên. Thường thì, mỗi khi xuân về, trước ảo ảnh nhân sinh, mùa xuân như đánh thức “thoáng mộng xuân thì”, như Bạch Cư Dị đã nói đến.
Mạnh Hạo Nhiên (689-740) trong Xuân hiểu, tả lại cảnh buổi sớm mùa xuân thật sống động, thanh âm của tiếng chim hót, vang cả bầu trời. Nhà thơ sực nhớ lại, đêm qua, trong tiếng gió mưa, bao nhiêu hoa xuân đã rụng. Cả bài thơ, duy nhất chỉ có tiếng chim hót, vang lên, đánh thức buổi sớm mùa xuân:
Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu.
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu.

Dịch thơ:
Giấc xuân, sáng chẳng biết
Khắp nơi chim ríu rít
Đêm nghe tiếng gió mưa
Hoa rụng nhiều hay ít?

(Tương Như dịch)
Cũng là buổi sớm mai thức dậy, nghe tiếng chim hót, nhìn hoa xuân nở, cảnh xuân diễm lệ như gợi cho con người tiếc nhớ, nghĩ về cái vô biên, vô cùng của đất trời, của con người, Lý Thương Ẩn (813-858) ngậm ngùi suy nghĩ:
Mùa xuân đã đưa lại cho Đường thi một cõi nghệ thuật riêng. Ở đó, mỗi thi sĩ thổi vào một cung bậc, nắn một tiếng đàn, tạo nên thế giới đầy âm sắc và đầy cá tính sáng tạo.(Ảnh minh họa)
Gẫm xem xuân sắc trời dành cho ai ?
Nhiều lần như vậy, Lý Thương Ẩn thường nhìn xuân mà tiếc nhớ. Con người gặp nhau đã khó khăn, xa nhau cũng khó khăn. Tiếc xuân để mà thương xuân. Buổi sớm soi gương, buồn tóc mây đổi màu. Ban đêm ngâm thơ, càng thấy bóng trăng giá lạnh. Mùa xuân đến và trăm hoa rụng. Tiếc cho mùa xuân đến, trăng tàn, trăm hoa rơi trên mặt đất, vô tình. Cảm thức này, Lý Thương Ẩn thường bộc lộ ở những bài thơ Vô đề nổi tiếng.
Lý Bạch (701-762), nhà thơ lãng mạn, con người cuồng phóng, không chịu một sự câu thúc, trói buộc nào, học giỏi, mười lăm tuổi đã đọc hết sách Bách gia chư tử và các loại kỳ thư, song, lại không chịu lai kinh ứng thí, chỉ ở nhà học kiếm thuật, ngao du sơn thủy, lên núi cầu tiên, phỏng đạo. Lý Bạch là một tâm hồn phóng khoáng, đi nhiều và trải nghiệm, thâu tóm nhiều cảnh sắc của núi non hùng vĩ. Hình ảnh “vầng trăng” và “mùa xuân” thường đến với thơ ông là vậy. Đó là, đêm xuân ở Lạc Thành nghe tiếng sáo (Xuân dạ Lạc Thành văn địch) hay giữa mùa hoa khói tháng ba, bạn dời lầu Hoàng Hạc ở phía tây, xuôi xuống Dương Châu trong “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”, là ngày xuân say rượu tỉnh dậy nói chí mình (Xuân nhật túy khởi ngôn chí), thấy đời như giấc mộng lớn, cứ say, tỉnh lại, thấy chim oanh bay chuyền học nói trong gió xuân, lòng cảm xúc, nghiêng bầu, dốc chén, cất tiếng ca vang chờ trăng sáng, ca khúc ca quên cả nỗi lòng mình:
Hạo ca đãi minh nguyệt
Khúc tận dĩ vong tình.

Dịch thơ:
Hát ngao chờ bóng trăng thanh
Lời ca vừa hết, mối tình đã quên.

(Ngô Tất Tố dịch)
Đặc biệt, Xuân tứ, một bài thơ xuân nổi tiếng, được nhiều người yêu thích. Bài thơ chỉ 6 câu, 30 từ, song độ vang của nó có đến hơn nghìn năm nay. Nhiều thế hệ yêu mến thơ Đường đã đến với bài thơ này. Bài thơ như một bức họa:
Yên thảo như bích ty,
Tần tang đê lục chi.
Đương quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì.
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi?

Dịch thơ:
Cỏ Yên như sợi tơ xanh,
Dâu Tần xanh ngắt rủ cành xum xuê.
Khi chàng tưởng nhớ ngày về,
Chính là khi thiếp tái tê nỗi lòng,
Gió xuân, ai biết cho cùng,
Cớ sao len lỏi vào trong màn là?

Nằm trong mạch thơ này, có một bài thơ nổi tiếng của Vương Xương Linh (698-757), bài Khuê oán:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mạch phong hầu.

Với Vương Xương Linh, mùa xuân cũng gợi bao nỗi niềm của khuê phụ. Người phụ nữ trong Khuê oán có nỗi ân hận, là sao không giữ chồng ở lại với quê nhà mà lại giục chàng, lên đường, kiếm chút công hầu. “Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc” là sự rùng mình, cảm nhận ngay cái cô đơn khi thấy sắc xuân nơi cây dương liễu đầu đường. Mùa xuân rồi sẽ qua đi, cũng như “thiếu phụ bất tri sầu” kia, xuân hồng có giữ mãi với thời gian! Công hầu thì chưa thấy, song sự cô đơn đã hiện diện trong từng câu chữ của bài thơ...
Đài PT-TH Bình Thuận
Theo http://vovgiaothong.vn/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chuyện bàn thêm bên ‘mùa’ xét tặng danh hiệu Xét tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân (NSND), Nghệ sĩ Ưu tú (NSƯT) năm 2021, đây là vấn đề đư...