Ẩn dụ về con người trong ca
dao
Ngôn ngữ và văn hoá: “mối
quan hệ biện chứng lẫn nhau”
Ngôn ngữ là một hệ thống tín
hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của
các thành viên trong một cộng đồng người; ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện
phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang
thế hệ khác [1].
Từ định nghĩa trên, chúng ta không chỉ nhận ra được tầm quan trọng của ngôn ngữ
trong đời sống của con người mà bên cạnh đó, chúng ta còn nhận ra được mối quan
hệ mật thiết giữa ngôn ngữ và văn hóa – một “mối quan hệ biện chứng lẫn nhau” [2].
Nghiên cứu ngôn ngữ nói chung dưới góc độ văn hóa đã trở nên phổ biến trong giới
ngôn ngữ học hiện nay, hướng tiếp cận ngôn ngữ - văn hóa không chỉ có ý nghĩa về
mặt nghiên cứu, khoa học mà nó còn đem lại nhiều giá trị về mặt nhận thức, thực
tiễn.
Ca dao là một trong những thể
loại tiêu biểu của văn học dân gian Việt Nam. Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán
Việt, trước đây, người ta còn gọi ca dao là phong dao bởi vì có nhiều bài ca
dao đã phản ánh những phong tục, tập quán của từng địa phương, của từng thời đại
lịch sử. Có nhiều định nghĩa khác nhau về ca dao nhưng tựu trung lại, chúng ta
có thể định nghĩa ca dao như sau: Ca dao là những bài văn vần do nhân dân
sang tác tập thể, được lưu truyền bằng miệng và được phổ biến rộng rãi trong
nhân dân [3].
Những bài ca dao với những vần điệu trữ tình, đằm thắm không biết tự bao giờ đã
đi vào đời sống văn hóa – tinh thần của người dân Việt Nam như một món ăn thanh
tao nhưng đậm đà hương vị; nó không chỉ tái hiện trước mắt người đọc những danh
lam thắng cảnh, những bức tranh làng quê bình dị của đất nước Việt Nam với bao
cảnh vật nên thơ mà đó còn là những khúc hát tâm tình nhẹ nhàng mà sâu lắng, da
diết của những người dân lao động hiền lành, chất phác. Ca dao được ví như một
chuyến đò ân tình chuyên chở biết bao tình cảm của người dân Việt từ xưa đến
nay; và nó cũng chuyên chở trên những vần thơ trữ tình ấy bao nét tinh hoa của
văn hóa Việt Nam.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng
ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ mật thiết, “biện chứng” và không thể tách rời.
Không phải ngẫu nhiên mà W. V. Humboldt nhận định rằng: Ngôn ngữ là linh hồn
dân tộc. Không có ngôn ngữ nào nằm ngoài văn hóa cũng như không có văn hóa nào
mà lại không được biểu thị thông qua ngôn ngữ. Do đó, muốn tìm hiểu đặc trưng
và bản sắc nền văn hóa ta không thể không nghiên cứu ngôn ngữ và các hình thức
biểu hiện của nó. Vì vậy, nếu chúng ta muốn giữ gìn và phát triển nền văn hóa
dân tộc cũng đồng nghĩa với việc chúng ta không thể lơ là, không coi trọng đến
việc bảo vệ và phát triển ngôn ngữ.
Kế thừa những thành tựu của
những công trình khoa học đi trước, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ca dao Việt
Nam dưới góc độ văn hóa để tìm ra những ẩn dụ về con người, nhân dân lao động.
Vén mở tâm tình của người dân lao động qua những vần ca dao, chúng ta thấy được
cái ý nhị, tinh tế trong tâm hồn, trong suy nghĩ, tình cảm của ông bà ta đã gửi
gắm kín đáo qua những ẩn dụ, biểu tượng mang đậm đà bản sắc văn hóa Việt. Qua
khảo sát như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những đặc trưng của văn hóa trong
đời sống sinh hoạt của người Việt. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài “Ẩn dụ về
con người trong ca dao Việt Nam dưới góc độ văn hóa”
Ẩn dụ là phương thức tu từ
được sử dụng rất phổ biến trong ngôn ngữ nói chung, đặc biệt là trong ngôn ngữ
nghệ thuật - các tác phẩm văn chương nói riêng. Với bản chất giàu tính hình tượng
và hàm súc, ẩn dụ làm cho ngôn ngữ trong văn, thơ trở nên bóng bẩy, trau chuốt,
chứa đựng nhiều tầng nghĩa tinh tế, đẹp và gợi cảm hơn.
Trong công trình Phong
cách học và các phong cách chức năng Tiếng Việt, tác giả Hữu Đạt đã định
nghĩa “Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra…thực chất của phép ẩn dụ chính
là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên cơ chế tư duy và
ngôn ngữ dân tộc”. Ở đây, tác giả nhấn mạnh việc đặt ẩn dụ trong mối tương quan
chặt chẽ giữa ngôn ngữ với bối cảnh văn hóa, truyền thống dân tộc. Nếu như
không am hiểu về văn hóa Việt Nam với những đặc trưng tiêu biểu của nền văn hóa
nông nghiệp, văn minh lúa nước thì ắt hẳn sẽ không thể hiểu được:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào
hay chưa
Mận hỏi thì đào xin
thưa
Vườn hồng có lối nhưng
chưa ai vào
(Ca dao)
Hay
Hôm nay lan huệ sánh
bày
Đào đông ướm hỏi liễu
tây một lời
Lạ lùng ướm hỏi nhau chơi
Một mai cá nước chim trời gặp
nhau
Những mận, đào, lan, huệ,
đào đông, liễu tây, cá nước, chim trời….là những hình ảnh rất quen thuộc của
làng quê Việt Nam, và ấy cũng chính là những hình ảnh ẩn dụ - những biểu tượng
- mộc mạc giản dị mà rất đỗi gần gũi, thân thương cho những người lao động bình
dân – những con người suốt ngày “chân lấm tay bùn” nhưng tâm hồn thanh tao và
có một đời sống tình cảm phong phú, sâu nặng nghĩa tình.
Ở những phần tiếp theo,
chúng tôi sẽ đi sâu phân tích những ẩn dụ về con người – những ẩn dụ đã được
khái quát hóa qua những biểu tượng, hình ảnh tiêu biểu – trong ca dao để thấy
rõ hơn nét đặc trưng văn hóa nông nghiệp của Việt Nam.
1. Biểu tượng “HOA”
Trong công trình Người
phụ nữ qua những hình ảnh so sánh trong ca dao Việt Nam của Lưu Thị Nụ
(1992), tác giả đã đưa ra kết luận sau khi khảo sát 3506 lời ca dao là trong bốn
hình ảnh thường được ví với người phụ nữ: “hoa”, “chim”, “cây”, “quả” thì “hoa”
xuất hiện với tần số nhiều nhất.
Hoa thơm trồng dựa cành rào
Gió nam, gió chướng, gió nào
cũng thơm
Hoa kia tươi tốt rườm rà,
Tuy rằng tươi tốt, khi mà
ong châm.
Có thể nhận định rằng “hoa”
là một biểu tượng nổi bật trong ca dao Việt Nam, trong đó hoa nhài là một biểu
tượng thẩm mĩ đặc biệt, nó gắn liền với quan niệm thẩm mĩ – văn hóa của từng thời
đại; bên cạnh đó chúng ta cũng bắt gặp nhiều hình ảnh ẩn dụ tinh tế khác như hoa
sen, hoa dâm bụt, hoa hồi, hoa bèo, hoa cúc.. trong ca dao.
Hoa nhài/ hoa lài
Trong ca dao, hoa nhài thường
được ví với nụ cười duyên dáng, đáng yêu của người con gái:
Miệng em cười như cánh hoa
nhài
Như nụ hoa quế như tai hoa hồng
Ước gì anh được làm chồng
Để em làm vợ, tơ hồng trời
xe.
Hay
Miệng cười như cánh hoa nhài
nở nang
Nếu ở những câu ca dao trên,
hoa nhài chỉ xuất hiện với vẻ đẹp thuần túy bên ngoài thì ở những câu ca dao
sau đây, cùng với những ẩn dụ tinh tế, hoa nhài nổi bật lên một “vẻ đẹp lâu bền,
khó phai” bên trong; điều này cũng tựa như tâm hồn của những cô thôn nữ chốn
làng quê Việt.
Càng thắm lại càng mau phai
Thoang thoảng hoa nhài mà lại
thơm lâu
Trong thế giới tự nhiên cũng
như trong ca dao dân gian, hoa nhài không phải là loài hoa chiếm ngôi vị “nữ
hoàng”, đó không phải là loài hoa hương sắc nhất, càng không phải loài hoa kiêu
sa, đài các như hoa hồng thế nhưng trong cái ngôi bậc “khiêm nhường” ấy của
mình, hoa nhài lại càng khẳng định cái “duyên ngầm” đáng yêu của mình:
Hoa lí là chị hoa lài
Hoa lí có tài, hoa lài có
duyên.
Đào kia chưa thắm đã phai
Thoang thoảng hoa nhài mà lại
thơm lâu…
Anh đừng tham bông quế, bỏ
phế cái bông lài
Mai sau quế rụng, bông lài
thơm xa…
Vẻ đẹp bình dị, hiền hòa của
hoa nhài còn được ví von với vẻ đẹp của đôi lứa xứng đôi
Đôi ta lấm tấm hoa nhài
Chồng đây vợ đấy kém ai trên
đời
Không chỉ có vẻ đẹp thanh
tao cùng tâm hồn tinh tế, hương hoa nhài còn là biểu tượng của vẻ thanh lịch,
cao quý:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng
người Tràng An
Như vậy, trong tư duy của
người dân lao động thời xưa, hoa nhài/ hoa lài là một loài hoa đẹp, cao quý,
thanh tao. Qua ý nghĩa của hoa nhài, chúng ta thấy được quan niệm thẩm mĩ, văn
hóa và đạo đức của nhân dân lao động. Đó là truyền thống tốt đẹp của người dân
Việt Nam: quý trọng thủy chung, tình nghĩa sắt son, thích “cái nết đánh chết
cái đẹp”, “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”; quý cái tình, cái duyên bên trong hơn là
những vẻ đẹp hào nhoáng, sáo rỗng, vô hồn.
Bên cạnh biểu tượng hoa
nhài/ hoa lài tiêu biểu trong ca dao, chúng ta còn bắt gặp nhiều hình ảnh ẩn
dụ “hoa” khác như hoa cúc, hoa sen, hoa lan, hoa huệ… về người dân
lao động, những hình ảnh vốn rất quen thuộc, bình dị của nông thôn, làng quê
nhưng không hề thiếu sự tinh tế, thể hiện những nét đẹp dân dã cùng phẩm chất tốt
đẹp, nhân hậu của người dân lao động, chẳng hạn như trong các câu ca dao sau:
Hôm nay lan huệ sánh
bày
Đào đông ướm hỏi liễu
tây một lời
Lạ lùng ướm hỏi nhau chơi
Một mai cá nước chim trời gặp
nhau
(Ca dao)
Hoa sen mọc bãi cát lầm
Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa
sen
Cánh hồng bay bổng trời thu,
Thương con chim gáy cúc cu
trong lồng.
Duyên may, tay bế tay bồng,
Thương ai vò võ trong phòng
chiếc than.
Cũng có khi tác giả dân gia
mượn “hoa” để châm biếm nhẹ nhàng:
Có đỏ mà chẳng có thơm
Như hoa dâm bụt, nên cơm
cháo gì!
Vì hoa tham lấy sắc vàng,
Cho nên hoa phải muộn màng
tiết thu.
Trên đời gì rẻ bằng bèo,
Chờ khi nước lụt, bèo trèo
trên sen.
Trên đời gì đẹp bằng sen,
Quan yêu, dân chuộng, rã bèn
cũng hư.
2. Biểu tượng “CON VẬT”
Con cò
Trong ca dao Việt Nam, có rất
nhiều bài nói đến hình ảnh con cò. Có khi là con cò lặn lội bờ ao, có khi
là co cò bay lả bay la, có khi là con cò trắng bạch như vôi, con cò bay bổng
bay cao, con cò kì, con cò quăm…
Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng
khóc nỉ non
- Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao
Bằng
Ở nhà có nhớ anh chăng?
Để anh kể nỗi Cao Bằng mà
nghe.
Cái cò là cái cò con
Mẹ nó yêu nó, nó còn làm
thơ,
Cái cò bay bổng, bay bơ,
Lại đây anh gửi xôi khô cho
nàng
Đem về nàng nấu, nàng rang,
Nàng ăn có dẻo thời nàng lấy
anh.
Không phải ngẫu nhiên mà
nhân dân lao động lại hay nhắc đến con cò như vậy. Như Vũ Ngọc Phan từng nhận định
trong Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam: Trong các loài kiếm ăn ở đồng ruộng, chỉ
có con cò thường gần nhiều người nông dân hơn cả. Những lúc cày cuốc, cấy hái,
người nông dân Việt Nam thường thấy trên đồng lúa bát ngát, con cò đứng trên bờ
ruộng rỉa lông rỉa cánh, ngắm nghía người nông dân làm lụng.
Một đàn cò trắng bay tung
Đôi bên nam nữ, ta cùng hát
lên!...
Hình ảnh con cò trắng “tuy
ngày đêm lặn lội, nhưng nhiều lúc lại bay lên mây xanh. Nó cũng vất vả, nhưng
nó có vẻ trong trắng, thanh cao, có những lúc nó vẫy vùng thoải mái, nó sống một
cuộc đời mà người dân lao động nước ta thời xưa hằng mong ước” [4].
Trong khi lao động vất vả,
thấy đàn cò trắng cùng nhau sum họp, người nông dân lại cất lên những câu ca
dao trữ tình, thắm thiết:
Một đàn cò trắng bay quanh
Cho loan nhớ phượng, cho
mình nhớ ta
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như Cuội nhớ
trăng.
Sự đoàn tụ của đàn cò là
hình ảnh ẩn dụ cho niềm mong ước được gần gũi và tâm tình với nhau của những
người lao động chất phác, hiền lành. Trong con mắt của người lao động thời xưa,
con cò và những con chim đồng loại với nó như con bồ nông, con hạc, con vạc có
tình bạn thắm thiết với nhau, chúng túm tụm sum họp với nhau đều có sự gần gũi
với cảnh tình của người nông dân. Số phận “con cò lặn lội bờ sông” cũng tựa như
số phận những con người lao động ngày đêm vất vả lao động để làm ra hạt thóc hạt
gạo thế nhưng lại hẩm hiu, bèo bọt.
Con cò mày đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống
ao,
-Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo
măng
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng
cò con.
Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác, xuống ghềnh
bấy nay.
Những câu cao dao trên đều rất
kín đáo, ý nhị, tác giả dân gian không hề đả động gì đến con người và cũng
không nhắc đến giá trị lao động của học nhưng chúng ta đều ngầm hiểu cái “thân
cò” ấy chính là than phận người nông dân sớm nắng chiều mưa, đầu tắt mặt tối.
Hình ảnh “con cò” không gì khác ấy chính là hình ảnh những người nông dân Việt
Nam muôn đời, những con người cần cù, chăm chỉ, chất phác, kiên cường, luôn bền
bỉ nhẫn nại cả trong lao động sản xuất lẫn trong đấu tranh chống những thế lực
đàn áp mình.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò
con.
Cái cò là cái cò con,
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà,
Mẹ đi một quãng đồng xa,
Mẹ sà chân xuống, phải mà
con lươn,
Ông kia có chiếc thuyền nan,
Chở vào ao rậm, xem lươn bắt
cò..
Ông kia chống gậy lò dò,
Con lươn tụt xuống, con cò
bay lên…
Trong xã hội phong kiến Việt
Nam, ngoài nghề nông, người dân còn làm nghề buôn, nghề thủ công. Không kể người
dân ở bất kỳ ngành nghề gì, bọn giai cấp thống trị tham lam, độc ác, chúng
không vơ vét, bóc lột tận xương những người dân khốn khổ.
Cái cò cái vạc cái nông
Ba cái cùng béo, vặt lông
cái nào!
Vặt lông cái vạc cho tao!
Hành, răm, nước mắm bỏ vào
mà thuôn.
Chúng sẵn sàng bóc lột, tra
tấn thậm chí là giết chóc nhẫn tâm có khi chỉ vì một lí do cỏn con
Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày dẫm lúa nhà ông, hỡi
cò?
Không không tôi đức trên bờ
Mẹ con các diệc đổ ngờ cho
tôi!
Chẳng tin ông đứng mà coi
Mẹ con nhà nó còn ngồi ở
kia.
Người dân lao động trong cái xã hội ấy bị rẻ rúm đến mức chết cũng chẳng nguyên
vẹn, toàn thây. Cái chết tang thương ấy có khi lại thành trò, món béo bở cho bọn
nanh độc.
Con cò chết rũ trên cây,
Bồ cu mở lịch xem ngày làm
ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Bao nhiêu cóc nhái nhảy ra
chia phần,
Chào mào thì đánh trống
quân,
Chim chích mặc quần vác mõ
đi rao…
Nhưng trong các bài ca dao của
mình, không phải lúc nào hình ảnh “con cò” cũng dung để ví von với những phẩm
chất tốt đẹp của người nông dân mà các tác giả dân gia cũng có khi dung “con
cò” để nói về những kẻ xấu như: những kẻ hay ăn quà như “con cò kỳ”; những kẻ
hay đánh vợ như “con cò quăm”. Chẳng hạn như trong câu ca dao sau:
Cái cò là cái cò quăm,
Mày hay đánh vợ, mày nằm với
ai?
- Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh chập tối, chẳng ai
cho nằm!
Lời ca dao tuy để châm biếm,
trách móc, giễu cợt nhưng cũng dí dỏm, hài hước nhẹ nhàng; đúng tinh thần nhân
ái của người dân Việt
- Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh chập tối, chẳng ai
cho nằm!
Như vậy, qua những câu ca
dao trên, chúng ta thấy rằng người dân lao động thời xưa đã mượn hình ảnh con
cò để nói về cuộc sống của chính mình, dùng hình ảnh con cò để “gợi hứng, để tỏ
sự mong muốn của mình, nói lên những đức tính của mình, nông nỗi khổ cực của
mình và cả những thói xấu của mình nữa” [5].
Con bống (hay cái bống, cá bống) cũng
là hình ảnh tiêu biểu thường xuyên xuất hiện trong ca dao Việt Nam. Theo Vũ Ngọc
Phan, đối với người Việt, nếu như con cò có thể là hình ảnh nói chung của người
dân lao động, có thể là nam hoặc nữ; thì cái bống hay con bống là biểu tượng đặc
trưng cho người thiếu nữ hay thiếu phụ. Nhà nghiên cứu quả là đúng đắn khi đưa
ra nhận định “nói chung đối với người nông dân, con cá bống có vẻ xinh xẻo, hiền
lành, cho nên mỗi khi nói đến cái Bống là người nông dân nước ta nói bằng một
giọng nâng niu” [6].
Tiêu biểu như những câu ca dao như sau:
Cái bống cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất
chồng.
Chú lái ơi, cho tôi mượn cỗ
gầu sòng,
Tôi tát nước cạn cho chồng
tôi lên.
Cái bống mặc xống ngang chân
Lấy chồng kẻ chợ cho gần xem
voi
Các con vật khác
Trong ca dao Việt Nam, ngoài
hình ảnh con cò, cái bống là những hình ảnh tiêu biểu, chúng ta còn bắt gặp những
hình ảnh của các con vật khác – những hình ảnh ẩn dụ cho người dân lao động thời
xưa như: con nhện, con tằm, con tép, con tôm, con tép, con cua, con
cóc,con gà, con rùa, con tò vò, con cá, con chim, ong, bướm, loan phượng… Mượn
những hình ảnh quen thuộc của làng quê, người dân muốn gửi gắm vào trong những tôm
tép, con tằm, con nhện.. ấy những tâm tư, tình cảm của chính mình. Chẳng hạn
như những câu ca dao như sau:
Thương thay thân phận con
rùa
Trên đình đội hạc, dưới chùa
đội bia.
Lươn ngắn lại chê trạch dài
Thờn bơn méo miệng, chê trai
lệch mồm.
Xa xôi dịch lại cho gần,
Làm thân con nhện mấy lần
vương tơ.
Chuồn chuồn mắc phải tơ
vương,
Nào ai quấn quýt thì thương
cho cùng.
Có nên thì nói là nên
Chẳng nên sao để đấy quên
đây đừng
Làm chi cho dạ ngập ngừng,
Đã có cà cuống thì đừng hạt
tiêu.
Cá trong lờ đỏ hoe con mắt,
Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn
vô.
Tung tăng như cá trong lờ,
Trong ra không được ngoài ngờ
là vui.
3. Biểu tượng “CÂY”
Cây trúc, cây mai
Hình ảnh trúc, mai là
những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt và cũng xuất hiện rất nhiều lần
trong ca dao. Tác giả dân gian nhắc đến trúc, mai; nhưng không phải để tả
thực cây trúc cây mai, cũng không phải bàn chuyện trúc mai phong cảnh, mà họ mượn mai,
trúc để nói về con người.
Thân em như tấm lụa đào
Dám đâu xé lẻ vuông nào cho
ai
Em vin cành trúc, em tựa
cành mai
Đông đào tây liễu biết ai bạn
cùng.
Trong ca dao, khi trúc đứng
một mình, thường đó là biểu tượng cho người con gái xinh đẹp, thướt tha, duyên
dáng:
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng nơi nào cũng
xinh
Hình ảnh trúc mai quấn quýt
bên nhau chính là ẩn dụ cho tình cảm đôi lứa thắm thiết, mặn nồng của người dân
lao động
Hôm qua sum họp trúc mai
Tình chung một khắc, nghĩa
dài trăm năm.
Đêm qua nguyệt lặn về tây
Sự tình kẻ đấy, người đây
còn dài…
Trúc với mai, mai về, trúc nhớ
Trúc trở về, mai nhớ trúc không?
Bây giờ kẻ Bắc người Đông
Kể sao cho xiết tấm lòng
tương tư!
Mượn hình ảnh trúc mai,
tác giả dân gian khéo léo lột tả nhiều cung bậc cảm xúc, tình cảm của những đôi
lứa yêu nhau.
Có khi đó là lời nhắn nhủ,
niềm hy vọng
Đợi chờ trúc ở với mai,
Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng.
Cũng có khi đó là tâm trạng
vui mừng, hân hoan:
Trầu này trúc, cúc, mai,
đào,
Trầu này thục nữ anh hào
sánh đôi
Có khi nó thể hiện ước mơ
sum họp của tình yêu
Bao giờ sum họp trúc mai
Lòng nguyền kết tóc lâu dài
trăm năm
Đó cũng là tâm tình gửi gắm
Có lòng tạc một chữ vàng
Thiếp đưa duyên lại đôi đàng
cậy anh
Tìm nơi trúc tốt mai xanh
Tìm nơi bóng cả lắm ngành dựa
nương.
Lòng lại dặn lòng dù non mòn
biển cạn
Dạ lại dặn dạ dù đá nát vàng
phai
Dù cho trúc mọc thành mai
Em cũng không xiêu lòng lạc
dạ, nghe ai phỉnh phờ
Cũng có khi mai trúc tượng
trưng cho nỗi buồn của con người
Lênh đênh chiếc bách giữa
dòng,
Thương than góa bụa, phòng
khi lỡ thì.
Gió đưa cây trúc ngã quỳ
Ba năm trực tiết, còn gì là
xuân!
Những là lên miếu xuống nghè
Để tôi đánh trúc, đánh tre về
trồng.
Tưởng rằng nên đạo vợ chồng.
Nào ngờ nói thế mà không có
gì
Như vậy, hình ảnh trúc,
mai trong ca dao Việt Nam thường được dùng để ví với đôi bạn trẻ, cho tình
yêu lứa đôi. Mượn hình ảnh trúc, mai, người dân xưa đã khéo léo nói lên
tâm trạng của chính mình một cách tinh tế, ý nhị.
Các loại cây khác
Bên cạnh hình ảnh cây trúc,
cây mai, trong ca dao, ông bà ta còn lấy hình ảnh các loại cây, trái, quả khác
để tượng trưng cho người dân lao động như: quế, hương, mận, đào, cây đa,
cây tùng, cây xoan đào, cây liễu, chanh, cam, lê lựu, gừng, bòng, cau trầu….
Hai bên bên liễu bên đào
Mặc tình ý bạn thương bên
nào thì thương.
Bao giờ cho chuối có cành,
Cho sung có nụ cho cành có
hoa.
Già thời bế cháu đỡ con,
Già đâu lại ước cau non trái
mùa.
- Già nay ước những của chua
Cau non trái mùa già vẫn muốn
ăn
Quý chi một nải chuối xanh
Nam bảy người giành cho
mủ dính tay
Vên vên cứng, dành dành cũng
cứng
Mù u tròn, trái nhãn cũng
tròn.
Vàng thau tuy lộn một bồn
Anh là tay thợ lựa lòn phải
ra.
4. Một số hình ảnh ẩn
dụ khác trong ca dao Việt Nam
Trong ca dao, chúng ta còn bắt
gặp rất nhiều hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam được các tác giả dân
gian sử dụng rất khéo và tinh tế để tượng trưng cho người dân lao động, để gửi
gắm những tâm tư, tình cảm thầm kín của họ vào những câu ca dao mượt mà, đằm thắm,
trữ tình.
Đó có khi là hình ảnh thuyền
bến, bờ sông
Em thương ai nấp bụi nấp bờ
Sớm trông đò ngược, tối chờ
đò xuôi
Thuyền anh đậu bến lâu rồi
Sao em chưa xuống mà ngồi
thuyền anh.
Một thuyền một bến một dây
Ngọt bùi ta hưởng đắng cay
chịu cùng.
Đói lòng ăn nắm lá sung,
Chồng một thì lấy, chồng
chung thì đừng
Một thuyền một lái chẳng
xong
Một chĩnh đôi gáo còn nong
tay vào.
Có khi đó là hình ảnh của
mây, núi, gió, trăng
Vì mây cho núi lên trời
Vì cơn gió thổi hoa cười với
trăng
Vì chuôm cho cá bén đăng
Vì tình nên phải đi trăng về
mờ
Chim xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát đậu cành cây
đa.
Cực lòng em phải nói ra,
Chờ trăng, trăng xế, chờ
hoa, hoa tàn.
Có khi đó lại là những hình ảnh
rất mộc mạc của hạt gạo, nước cà, bát sứ, bát đàn, của gối chăn, gương lược
Chăn kia nửa đắp nửa hờ,
Gối kia nửa đợi nửa chờ
duyên em
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vo nước đục lại vần than
rơm
Tiếc thay hột gạo tám xoan
Thổi nồi đồng điếu lại chan
nước cà.
Có bát sứ tình phụ bát đàn
Nâng niu bát sứ vỡ tan có
ngày
Trách người quân tử bạc tình
Có gương mà để bên mình biếng
soi.
Có khi ấy là giếng nước, mảnh
chĩnh, cái chuông
Tiếc thay cái giếng nước
trong
Để cho bèo tấm, bèo ong lọt
vào.
Khen ai khéo đúc chuông chì,
Dáng thì có dáng, đánh thì
không kêu.
Chuông khánh còn chẳng ăn
ai,
Nữa là mảnh chĩnh bỏ ngoài bờ
tre.
Chuông khánh còn chẳng ăn
chè,
Nữa là mảnh chĩnh rò rè ăn
xôi.
Hình ảnh cây đa, con đò cũng
là một biểu tượng cho tình yêu đôi lứa
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác
đưa
Như vậy, trong ca dao chúng
ta thường bắt gặp những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam nhưtrầu, cau,
lan, huệ, trúc, mai, nhài… Tác giả dân gian không mấy khi nói đến hình ảnh trúc
mai, lan huệ để tả thực cây trúc, cây mai mà ở đây mai, trúc… đã trở
thành những biểu tượng thân thương nhằm thể hiện con người – người lao động
bình dân với những tình cảm tha thiết, chân thành, mộc mạc mà rất đỗi ân tình.
Ẩn dụ này trong ca dao Việt Nam cũng gắn liền với những đặc trưng tiêu biểu của nền văn minh lúa nước. Những hình ảnh rất đỗi quen thuộc và dung dị của làng quê Việt: những thuyền, bến, những cây đa, mái đình, giếng nước;những con cò, cái bống, con trâu, con nghé, con cá, con tằm; những hoa sen, hoa cúc, hoa hồi; những con ong, cánh bướm… đã bước ra từ làng quê mộc mạc, đơn sơ đi vào những câu ca dao đằm thắm và trở thành những hình ảnh ẩn dụ tinh tế - những biểu tượng trữ tình, gợi cảm – cho những con người lao động chất phác, hiền lành mà chan chứa thương yêu, ân tình sâu sắc. Họ đã mượn những hình ảnh gần gũi, quen thuộc để giãi bày, để tâm sự, để gửi gắm và sẻ chia những tâm sự thầm kín trong lòng; tất cả những tình cảm ấy đậm đà qua từng vần ca dao, nó da diết mà vẫn kín đáo, ý nhị; thể hiện rõ nét văn hóa tinh tế trong đời sống tinh thần của người dân Việt.
Ẩn dụ này trong ca dao Việt Nam cũng gắn liền với những đặc trưng tiêu biểu của nền văn minh lúa nước. Những hình ảnh rất đỗi quen thuộc và dung dị của làng quê Việt: những thuyền, bến, những cây đa, mái đình, giếng nước;những con cò, cái bống, con trâu, con nghé, con cá, con tằm; những hoa sen, hoa cúc, hoa hồi; những con ong, cánh bướm… đã bước ra từ làng quê mộc mạc, đơn sơ đi vào những câu ca dao đằm thắm và trở thành những hình ảnh ẩn dụ tinh tế - những biểu tượng trữ tình, gợi cảm – cho những con người lao động chất phác, hiền lành mà chan chứa thương yêu, ân tình sâu sắc. Họ đã mượn những hình ảnh gần gũi, quen thuộc để giãi bày, để tâm sự, để gửi gắm và sẻ chia những tâm sự thầm kín trong lòng; tất cả những tình cảm ấy đậm đà qua từng vần ca dao, nó da diết mà vẫn kín đáo, ý nhị; thể hiện rõ nét văn hóa tinh tế trong đời sống tinh thần của người dân Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.SÁCH
Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Văn
học Việt Nam văn học dân gian những tác phẩm chọn lọc (Tái bản lần thứ tư),
NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2004.
Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Văn
học Việt Nam văn học dân gian những công trình nghiên cứu (Tái bản lần thứ tư),
NXB. GD, Hà Nội, 2003.
Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Phong
cách học tiếng Việt (Tái bản lần thứ sáu), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2006.
Mã Giang Lân (tuyển chọn và
giới thiệu), Tục ngữ ca dao Việt Nam, NXB. Văn học, Hà Nội, 2009.
Nguyễn Thiện Giáp, G. trình ngôn ngữ học, NXB. ĐHQG HN, 2008.
Nhiều tác giả, Cơ sở
ngôn ngữ học và tiếng Việt (Tái bản lần thứ tư), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở
văn hóa Việt Nam (Tái bản lần thứ hai), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1999.
Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ
ca dao dân ca Việt Nam (Tái bản lần thứ mười lăm có sửa chữa và bổ sung), NXB.
Văn học, Hà Nội, 2007.
B.WEBSITES
http://www.vanhoahoc.edu.vn/content/view/1607/37/:PhanMậu Cảnh
ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA, CỘI NGUỒN
VĂN HÓA VÀ SỰ THỂ HIỆN CHÚNG TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT
www.thivien.net
www.google.com
www.wikipedia.com: ca dao dân ca Việt Nam
[3] Vũ
Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (Tái bản lần thứ mười lăm có sửa
chữa và bổ sung), NXB. Văn học, Hà Nội, 2007, tr.20.
[4] Vũ
Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (Tái bản lần thứ mười lăm có sửa
chữa và bổ sung), NXB. Văn học, Hà Nội, 2007, tr.46.
[5] Vũ
Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (Tái bản lần thứ mười lăm có sửa
chữa và bổ sung), NXB. Văn học, Hà Nội, 2007, tr.50.
[6] Vũ
Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (Tái bản lần thứ mười lăm có sửa
chữa và bổ sung), NXB. Văn học, Hà Nội, 2007, tr.50.
Trần Thị Minh Thu
In trong "Những vấn đề ngữ văn"
Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét