Ảnh hưởng của tiểu thuyết Tự
Lực văn đoàn
Với nhiều thành tựu rực rỡ cả về hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng, Tự
Lực văn đoàn không chỉ là dấu son của một thời kỳ hiện đại hoá văn học Việt Nam
đầy sôi động mà còn để lại ảnh hưởng sâu đậm trong sáng tác của nhiều nhà văn
cùng thời và giai đoạn sau. Đô thị Nam Bộ 1945-1954 đã chứng kiến sự ra đời và
trưởng thành của nhiều cây bút giàu lý tưởng tranh đấu bảo vệ quê hương, giàu
tình cảm với nhân dân lao động và những người nghèo khổ, thể hiện qua những
phong cách lý tính nhưng lại không hề thiếu chất hào hoa, lãng mạn. Sáng tác
văn xuôi của họ mang không ít dấu ấn của Tự Lực văn đoàn từ nội dung tư tưởng đến
hình thức nghệ thuật. Tôn chỉ, mục đích, nội dung tư tưởng và phong cách nghệ
thuật của Tự Lực văn đoàn thống nhất trên tất cả các thể loại văn xuôi, và ảnh
hưởng của họ đến văn học Nam Bộ không chỉ gói gọn ở lĩnh vực tiểu thuyết. Thế
nhưng trong khuôn khổ một báo cáo khoa học, bài viết này chỉ có thể điểm qua ảnh
hưởng của tiểu thuyết nhóm Tự lực đối với một số lượng giới hạn các tiểu thuyết
của một số nhà văn Nam Bộ như Vũ Anh Khanh, Lý Văn Sâm, Thẩm Thệ Hà, Dương Tử
Giang, Sơn Khanh, Việt Quang, Thanh Thuỷ, Ngọc Sơn…
1. Tiểu thuyết luận đề
Phần lớn tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn đều có tính luận đề. Điều này gắn với
tôn chỉ và mục đích của văn đoàn đề ra khi thành lập, đó là dùng văn chương để
cải tạo xã hội. Tiểu thuyết luận đề minh hoạ cho một tư tưởng, một quan điểm có
sẵn, một vấn đề mà nhà văn luôn đau đáu suy nghĩ và tìm cách đấu tranh cho nó.
Nhà văn có khi sẵn sàng hi sinh nghệ thuật, bỏ đi những cái hay trong nghệ thuật
để phục vụ cho luận đề của mình.Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh, Nửa
chừng xuân, Thoát ly, Gia đình, Thừa tự, Trống Mái của
Khái Hưng, Con đường sáng của Hoàng Đạo đã rất thành công trong việc lên
án quan niệm phong kiến khắc nghiệt lỗi thời, cổ vũ tự do cá nhân, đề cao tầng
lớp bình dân và phản đối lối sống trưởng giả, kiểu cách. Qua những tác phẩm
này, có thể thấy trong quan điểm của Tự Lực văn đoàn, văn chương là một thứ
công cụ đắc lực để tác động vào xã hội. Các nhà văn Nam Bộ giai đoạn 1945-1954
cũng có cùng quan điểm đó khi họ sử dụng văn chương để cổ vũ cho cuộc đấu tranh
chung của dân tộc, ca ngợi lý tưởng chiến đấu như Nửa bồ xương khô, Cây
ná trắc của Vũ Anh Khanh, Sau dãy Trường Sơn của Lý Văn Sâm, Gió
biên thuỳ, Đời tươi thắm, Người yêu nước của Thẩm Thệ Hà, Tàn
binh của Sơn Khanh, Hờn chinh chiến của Việt Quang, Chàng
đi theo nước của Tô Nguyệt Đình... hay ngợi ca tầng lớp bình dân, phản đối
những kẻ giàu sang, trưởng giả, cổ vũ cho các hoạt động cải tạo xã hội nhưTranh
đấu của Dương Tử Giang, Gió mới của Thanh Thuỷ, Giai cấp của
Sơn Khanh… Thật ra, việc sử dụng văn chương như một thứ công cụ để phục vụ mục
đích ngoài văn chương không phải là điều mới mẻ. Do vậy, cho rằng các nhà tiểu
thuyết ở đô thị Nam Bộ 1945-1954 kế thừa tính luận đề của tiểu thuyết Tự Lực
văn đoàn là có phần khiên cưỡng. Cái họ kế thừa chính là cách trình bày những
luận đề ấy trong cái vỏ của văn xuôi lãng mạn, tạo nên những nhân vật công cụ
nhưng lại rất có hồn, tác động đến độc giả về mặt tình cảm, cảm xúc, chứ không
chỉ ở tính đúng đắn của đạo đức.
Luận đề nổi bật nhất trong tiểu thuyết đô thị Nam Bộ 1945-1954 chính là cổ vũ
cho cuộc đấu tranh kháng Pháp của dân tộc. Đó là đặc điểm tất yếu của văn học
thời chiến. Giá trị, phẩm cách của nhân vật được đánh giá qua việc họ đứng ở
đâu trong cuộc chiến đấu này. Các tác phẩm ngợi ca những người ra trận, hoặc những
người có cảm tình và ủng hộ kháng chiến. Họ có thể là những người trí thức xếp
bút nghiên như Vũ (Người yêu nướccủa Thẩm Thệ Hà), Tuấn (Đời tươi thắm của
Thẩm Thệ Hà), Chung (Nửa bồ xương khô của Vũ Anh Khanh) Long, Ngôn (Tàn
binh của Sơn Khanh)… và có thể là những người nông dân nghèo khó như dân
làng chài Khánh Thiện (Cây ná trắc của Vũ Anh Khanh), ba cô thôn nữ Cải,
Tín, Huyện (Nửa bồ xương khô, Vũ Anh Khanh)… Bên cạnh đó, còn có những luận
đề khác như là một sự tiếp nối những luận đề mà Tự Lực văn đoàn đã từng trăn trở,
chẳng hạn như việc phân chia giai tầng trong xã hội. Xem xét vấn đề này, các
tác giả cũng đứng về phía người nghèo, ca ngợi họ với những đức tính tốt đẹp, đồng
thời mơ ước và đấu tranh cho sự xoá nhoà ranh giới giai cấp. Tiểu thuyết Giai
cấp của Sơn Khanh thể hiện rõ nhất điều này. Anh thư ký Xuân Hồ chỉ vì thầm
tương tư con gái quan chủ quận là cô Lệ Ngôn mà bị đuổi việc.
Căm tức thay cho bạn, thư ký Hoàng Long quyết tâm chiếm cho được trái tim Ngôn, không ngờ lại yêu Ngôn thật. Đôi tình nhân bị chia rẽ cũng chỉ vì không môn đăng hộ đối. Hoàng Long bị đuổi việc, lang thang khắp nơi, gặp và cưới Huệ, cô con gái nhà nghèo bị dì ghẻ thù ghét. Vơ chồng yên ấm chưa bao lâu, chị Năm của Long đã tìm đến sỉ nhục Huệ vì cho rằng Huệ nghèo hèn, không xứng với một thầy ký Tây học như Long, khiến Huệ buồn khổ mà chết. Kết thúc câu chuyện, Long rời bỏ thị thành theo kháng chiến và gặp lại Ngôn ở chiến khu.
Căm tức thay cho bạn, thư ký Hoàng Long quyết tâm chiếm cho được trái tim Ngôn, không ngờ lại yêu Ngôn thật. Đôi tình nhân bị chia rẽ cũng chỉ vì không môn đăng hộ đối. Hoàng Long bị đuổi việc, lang thang khắp nơi, gặp và cưới Huệ, cô con gái nhà nghèo bị dì ghẻ thù ghét. Vơ chồng yên ấm chưa bao lâu, chị Năm của Long đã tìm đến sỉ nhục Huệ vì cho rằng Huệ nghèo hèn, không xứng với một thầy ký Tây học như Long, khiến Huệ buồn khổ mà chết. Kết thúc câu chuyện, Long rời bỏ thị thành theo kháng chiến và gặp lại Ngôn ở chiến khu.
Cũng bàn về vấn đề giai cấp, trong tiểu thuyết Tranh đấu, Dương Tử Giang
xây dựng một nhân vật Ngọc Nga lý tưởng, đẹp người đẹp nết, thông minh, quyết
đoán, theo Tây học nên tư tưởng rất hiện đại. Cô được bao nhiêu quan Tây lẫn
quan ta đánh tiếng hỏi cưới nhưng vẫn không đồng ý. Cô đặt ra mục tiêu lấy một
anh dân cày với suy nghĩ:
“Chỉ về mặt luân lý, sinh lý, và vệ sinh, lấy chồng là một anh dân cày khoẻ mạnh
vẫn hơn. Huống chi tôi đã ghét bọn viên quan, hương chức và điền chủ thường ỷ
thế hiếp đáp đám dân cày; tôi muốn bỏ giới kia để sang giới này; bỏ giới giàu
sang vì nghét nó đã thối tha mà hay làm chuyện bất công, gia nhập với dân cày
vì thích nó trong sạch, và chính mình ở trong giới ấy, mình mới bênh vực quyền
lợi giới ấy cách đắc lực được” (Tranh đấu, tr.102).
Nga chủ động làm quen với Trọng, một anh dân cày khoẻ mạnh, hiền lành, và ngỏ lời
muốn làm vợ Trọng. Ở điểm này, Ngôn có điểm tương đối giống với Hiền trong Trống
Mái của Khái Hưng. Hiền cũng là bậc tiểu thư quyền quý, nhưng chỉ yêu Vọi, một
anh dân chài nghèo mạt rệp. Điểm khác nhau giữa Nga và Hiền là Hiền có cảm tình
với Vọi trước rồi mới nghĩ đến sự khắc nghiệt của quan niệm phân chia giai cấp,
trong khi Nga ngay từ khi chưa gặp Trọng đã xác định cho mình một con đường là
chỉ lấy dân cày. Quyết định hôn nhân của Nga hoàn toàn mang tính chất phi cá
nhân và đậm tính đấu tranh xã hội. Quyết định này khiến Nga bắt đầu để ý đến Trọng
và tìm hiểu Trọng. Hai người lén gia đình đi đăng ký hôn thú ở Sài Gòn, đặt cha
mẹ vào tình thế đã rồi. Trở lại quê nhà, hai vợ chồng sống yên ấm, hạnh phúc,
bênh vực tá điền, làm việc phúc lợi. Chẳng bao lâu sau, hội đồng Liên khét tiếng
tham lam và nguy hiểm kéo đến cướp đất của dân làng, mà luật pháp lại không đứng
về phía những người chủ nhân thực sự của những khoảng đất đó. Trong lúc bảo vệ
đất đai của mình, Trọng và dân làng xông vào đánh hội đồng Liên nên phải đi tù.
Ngọc Nga về sau được dẫn dắt vào con đường cách mạng, bị bắt đày đi Côn Đảo và
gặp lại Trọng ở đó.
Tương tự như vậy, nhà văn Thanh Thuỷ đã dành một nửa tiểu thuyết Gió mới để
nói về con đường giúp đỡ trẻ bụi đời, cơ nhỡ của hai chị em Vân và Dung. Vân,
Dung là hai cô gái mồ côi nghèo khổ nên rất thông cảm với thân phận của những đứa
trẻ lang thang. Dù nghèo nhưng hai chị em vẫn cố gắng làm lụng để giúp đỡ những
đứa trẻ cùng cảnh ngộ, dạy chữ cho chúng, đưa chúng ra khỏi con đường bụi đời
khổ sở, dạy chúng biết sống nên người tử tế.
Có thể thấy, quan điểm về những vấn đề xã hội liên quan tới người nghèo và tầng
lớp bình dân này của các tác giả Nam Bộ kể trên không khác gì với quan niệm của
anh em Tự Lực văn đoàn. Họ bênh vực người nghèo, ca ngợi sự giản dị của tầng lớp
cần lao và cái trong lành, thanh sạch của một cuộc đời gắn với ruộng vườn.
Trong Gió mới có một chương kể về chuyến đi chơi của các chàng trai,
cô gái thị thành về quê của Yến, và cảm mến không khí miền quê nơi đây.
“Từ hôm tạm lánh đô thành đầy cát bụi, về đây để giải trí, Dung thấy tâm hồn
mình thơ thới lắm. Thôn quê thiếu cảnh đài các xa hoa, thiếu ngựa xe rộn rịp,
thiếu tiền rừng bạc bể, nhưng cảnh đẹp tuyệt xinh và nhất là có những tâm hồn đầy
chất phác.” (Gió mới, quyển nhứt, tr.120).
Phương pháp cải tạo xã hội của các tác giả, trong phần đầu của các tiểu thuyết,
đều sa vào con đường lãng mạn, ảo tưởng như trong Con đường sáng của
Hoàng Đạo hay Ngày mới của Thạch Lam. Thậm chí, trongGió mới còn có cả một
chương lấy tên là “Con đường sáng” viết về việc Dung và Yến mở lớp dạy học miễn
phí, còn Tuấn thì cảm hoá được cô tiểu thư nhà giàu Bích Loan bằng chính sự tốt
bụng, vị tha của mình. Tuy nhiên, những tác phẩm viết sau 1945 của các nhà văn
Nam Bộ đã nghĩ đến một giải pháp khác hơn ở phần kết truyện. Cả Hoàng Long, Lệ
Ngôn, Ngọc Nga đều tìm đến cách mạng, hay ngược lại, được cách mạng tìm đến,
sau khi những ảo tưởng kia đã bị thực tế đập vỡ.
Giống như các tác giả nhóm Tự Lực, các nhà văn Nam Bộ cũng xây dựng các tuyến
nhân vật đối lập để làm rõ luận đề của tác phẩm. Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo
luôn đặt nhóm nhân vật đại diện cho cái mới, cái tiến bộ luôn bên cạnh nhóm
nhân vật đại diện cho cái cũ kỹ, lỗi thời. Những con người cũ được gọi theo địa
vị xã hội như bà phủ, bà án, bà tham, ông huyện, cụ hàn… hay theo tên con giáp
như Thân, Tuất... Như chính tên gọi của mình, họ là công cụ của những tư tưởng,
quan niệm của người khác đã đặt ra từ mấy nghìn năm trước, và dùng cả cuộc đời
mình để bảo vệ những tư tưởng ấy. Con người mới là những Loan, Mai, Tuyết,
Nhung, Hiền, Dũng, Trúc, Tạo… thanh tân và cá tính, biết mình muốn gì và ra sức
bảo vệ những ước muốn cá nhân chính đáng ấy. Tương tự như vậy, các tác giả Nam
Bộ cũng đặt nhân vật tranh đấu của mình bên cạnh nhân vật phản tranh đấu: như
Vũ (Người yêu nước), Ngôn, Long (Giai cấp, Tàn binh) bên cạnh đại gia đình
của mình. Cha Vũ là một ông phủ thân Pháp chống cách mạng. Đối với ông, việc Vũ
theo cách mạng nghĩa là chống lại ông, chống lại cái thế lực mà ông đang cố gắng
bám vào. Ngôn luôn đối đầu với cha mình là quan chủ quận. Ông phản đối hôn sự của
cô với Long vì không môn đăng hộ đối. Ông lại càng nóng giận hơn khi cô trốn
nhà đi chiến khu. Bên cạnh quan chủ quận còn có anh trai Ngôn suốt ngày nhiếc
móc và chì chiết sự lựa chọn của em gái. Tương tự như vậy, Long không tìm thấy
tiếng nói chung với gia đình mình. Cha mẹ chàng rất tự hào khi chàng đỗ cao
trong kỳ thi tuyển thơ ký Nam Kỳ Soái Phủ, còn chàng chỉ cảm thấy chán nản với
cái đời thơ ký đang đợi chờ trước mặt, và cảm thấy “oán hận gia đình […] chánh
sách nhồi sọ vinh thân phì gia của gia đình chàng chẳng cám dỗ được lòng chàng”
(tr.10). Đến khi chàng lấy Huệ, chị Năm của chàng còn tìm đến nhà sỉ nhục Huệ
chỉ vì Huệ nghèo, khiến nàng đau khổ mà chết.
Bên cạnh cốt truyện và các
tuyến nhân vật, tính luận đề của các tác phẩm còn được bộc lộ ở việc các nhà
văn đặt vào miệng nhân vật những tư tưởng và suy nghĩ của mình, nhờ họ phát
ngôn thay mình. Mai và Huy (Nửa chừng xuân) nhiều lần nói thẳng quan điểm và
suy nghĩ của mình với bà Án: “Cụ với bọn hậu sinh chúng cháu như hai con sông
cùng một nguồn, cùng chảy ra bể, nhưng mỗi đằng chảy theo một phía dốc bên sườn
núi, gặp nhau sao được”, hay vị luật sư (Đoạn tuyệt) cãi cho Loan cũng như cãi
cho cả một nền tư tưởng mới: “Tha cho Thị Loan tức là các ngài làm một việc
công bằng, tức là tỏ ra rằng cái chế độ gia đình vô nhân đạo kia đã đến ngày
tàn và phải nhường chỗ cho một chế độ gia đình khác hợp với cái đời mới bây giờ,
hợp với quan niệm của những người có học mới”. Tương tự như vậy, Bão (Người yêu
nước) đã khảng khái nói với Vũ quan điểm của mình về con đường chiến đấu mà
chàng đang theo đuổi: “Nước ta còn ở dưới chế độ thuộc trị, cái thời thế thuận
tiện ta hẳn là không có rồi. Ta phải dùng đến phương pháp thứ hai: Giải phóng
quốc gia. Ta không thể nào làm khác hơn” (tr.50). Bão giãi bày nỗi lòng mình với
Vũ, cũng là nói thay cho Thẩm Thệ Hà lý tưởng của ông. Vì những lời nói của Bão
mà Vũ nhận ra cuộc sống trưởng giả của mình tẻ nhạt và vô nghĩa, thấy con đường
đấu tranh giải phóng quốc gia mới là việc mà những thanh niên như Vũ, Bão cần
phải xông pha. Đề cao sức mạnh của lòng từ bi bác ái và ý chí kiên cường trên
con đường cải tạo xã hội, nhà văn Thanh Thuỷ đã để Dung nói với Tuấn khi chàng
ngỏ lời yêu cô: “Theo em, tình yêu của cá nhân phải bắt nguồn từ tình yêu của
gia đình, của dân tộc trước nhất. Riêng chúng ta là những kẻ vô phúc: chúng ta
đều mồ côi. Thiếu tình yêu của mẹ cha, chúng ta còn có tình yêu dân tộc, hay
nói rộng hơn nữa: tình yêu nhân loại…” (Gió mới, quyển nhứt, tr.241). Khi vườn
hoa sinh kế của chị em Vân, Dung bị kẻ gian phá nát, đứng trước cái đói, cái khổ
mịt mùng, Vân vẫn can đảm khuyên em: “Đời là một mặt trận, nhân sinh là chiến
sĩ. Muốn thắng trận, người chiến sĩ cần phải xông pha, can đảm, sáng suốt. Muốn
đừng bị đời hắt hủi, hất bỏ ngoài lề cuộc sống, nhân sinh cần phải tranh đấu
gian lao, khổ sở không kém người chiến sĩ ấy.” (Gió mới, quyển nhứt, tr.110).
Đôi khi, vì quá hăng hái trong việc nhờ nhân vật phát ngôn hộ mình mà tác giả
làm cho nhân vật trở nên có phần giáo điều và phi thực tế.
Để phục vụ luận đề, đôi khi tác
giả hy sinh tâm lý nhân vật hoặc vô tình nắn nhân vật theo ý mình. Nhân vật bị
lý tưởng hoá thành đơn điệu một chiều hoặc trở nên dễ dãi trong vận động tâm
lý, thiếu nhất quán trong tính cách. Điều này đều không tránh được ở cả tiểu
thuyết Tự Lực văn đoàn và tiểu thuyết đô thị Nam Bộ 1945-1954.
Ở đoạn cuối tác phẩm Nửa chừng xuân, Lộc tìm Mai với một tâm trạng tội lỗi và một tình yêu bùng dậy nồng nàn sau nhiều năm cách trở. Mới mấy phút trước chàng còn quấn lấy con, còn tha thiết muốn sum vầy với Mai, thậm chí còn muốn rủ Mai trốn đi, vậy mà chỉ sau vài câu thuyết phục của Mai, Lộc đã lập tức đổi ra suy nghĩ “yêu nhau ở ngoài sự sum họp” và hào hứng nghĩ đến một cuộc đời hành động, theo đuổi những việc xã hội. Sự thay đổi ở Lộc quá đột ngột. Ngay cả biến đổi tâm lý của Mai cũng không hợp lý. Tác giả đã dụng công xây dựng Mai là một cô gái mới mạnh mẽ, yêu Lộc bằng một tình yêu nồng nàn, vì Lộc mà lấy chồng không danh chính ngôn thuận, vì Lộc mà chịu cay đắng đủ điều. Sau nhiều năm, Mai vẫn không nguôi nỗi đau bị bà Án chà đạp, và vẫn yêu Lộc. Vậy mà không hiểu do đâu, Mai đột ngột nghĩ ngay tới việc yêu Lộc ngoài sự sum họp với một tâm trạng nhẹ nhõm – một điều chưa thấy Mai nghĩ đến bao giờ cho đến tận những trang cuối cùng của truyện. Có lẽ Khái Hưng cũng không cảm thấy thuyết phục với cách giải quyết của mình, nhưng không tìm ra cách nào khác. Ông vì một cái kết có vẻ êm đẹp, nhưng thực ra là thoả hiệp, mà hy sinh nhân vật mình hết sức yêu mến. Thạch và Bích Loan trong Gió mới của Thanh Thuỷ cũng thay đổi tâm lý dễ dãi như thế. Hai nhân vật này vốn con nhà giàu có, coi trọng đồng tiền và khinh khi người nghèo. Tác giả dùng rất nhiều chi tiết để nhấn mạnh tính cách này của họ, để họ xuất hiện thường xuyên qua đánh giá của Tuấn. Thạch muốn chiếm cảm tình của cô hàng hoa tên Vân mà cho người phá nát vườn hoa sinh kế của chị em Vân, hòng đẩy họ vào chốn khốn cùng, phải nhận sự giúp đỡ của mình. Vân không khuất phục, tự tay gây dựng lại mọi thứ. Thế là Thạch hối hận đến xin lỗi Vân và từ đó trở thành bạn của những người nghèo như Vân. Trong khi đó, Bích Loan có thừa sự nguy hiểm đến nỗi có thể giả vờ tự tử nhằm đánh vào lòng trắc ẩn của Tuấn và chiếm lấy Tuấn, dù biết Tuấn yêu Dung, thế mà chỉ vài lần chứng kiến Dung dang tay che chở lũ trẻ nghèo đã có thể động lòng thay đổi tâm tính, trở thành người tốt. Sự thức tỉnh của các nhân vật ở đây có tính lý tưởng hoá, lãng mạn hoá và thiếu thuyết phục. Trong Tranh đấu của Dương Tử Giang, tính cách của Ngọc Nga lại quá đơn giản, một chiều. Để minh hoạ cho lý tưởng đấu tranh giai cấp, tác giả để cho nhân vật nữ chính của mình chọn giai cấp để lấy chồng. Từ quan điểm chọn chồng của Nga, có thể suy luận rằng nếu Nga không lấy Trọng thì cũng sẽ lấy một anh dân cày khác, và sẽ yêu người ấy như yêu Trọng. Để phục vụ luận đề, tác giả đã xoá bỏ thế giới tình cảm cá nhân của nhân vật. Nga không lấy chồng, mà là lấy cái giai cấp nông dân của chồng.
Ở đoạn cuối tác phẩm Nửa chừng xuân, Lộc tìm Mai với một tâm trạng tội lỗi và một tình yêu bùng dậy nồng nàn sau nhiều năm cách trở. Mới mấy phút trước chàng còn quấn lấy con, còn tha thiết muốn sum vầy với Mai, thậm chí còn muốn rủ Mai trốn đi, vậy mà chỉ sau vài câu thuyết phục của Mai, Lộc đã lập tức đổi ra suy nghĩ “yêu nhau ở ngoài sự sum họp” và hào hứng nghĩ đến một cuộc đời hành động, theo đuổi những việc xã hội. Sự thay đổi ở Lộc quá đột ngột. Ngay cả biến đổi tâm lý của Mai cũng không hợp lý. Tác giả đã dụng công xây dựng Mai là một cô gái mới mạnh mẽ, yêu Lộc bằng một tình yêu nồng nàn, vì Lộc mà lấy chồng không danh chính ngôn thuận, vì Lộc mà chịu cay đắng đủ điều. Sau nhiều năm, Mai vẫn không nguôi nỗi đau bị bà Án chà đạp, và vẫn yêu Lộc. Vậy mà không hiểu do đâu, Mai đột ngột nghĩ ngay tới việc yêu Lộc ngoài sự sum họp với một tâm trạng nhẹ nhõm – một điều chưa thấy Mai nghĩ đến bao giờ cho đến tận những trang cuối cùng của truyện. Có lẽ Khái Hưng cũng không cảm thấy thuyết phục với cách giải quyết của mình, nhưng không tìm ra cách nào khác. Ông vì một cái kết có vẻ êm đẹp, nhưng thực ra là thoả hiệp, mà hy sinh nhân vật mình hết sức yêu mến. Thạch và Bích Loan trong Gió mới của Thanh Thuỷ cũng thay đổi tâm lý dễ dãi như thế. Hai nhân vật này vốn con nhà giàu có, coi trọng đồng tiền và khinh khi người nghèo. Tác giả dùng rất nhiều chi tiết để nhấn mạnh tính cách này của họ, để họ xuất hiện thường xuyên qua đánh giá của Tuấn. Thạch muốn chiếm cảm tình của cô hàng hoa tên Vân mà cho người phá nát vườn hoa sinh kế của chị em Vân, hòng đẩy họ vào chốn khốn cùng, phải nhận sự giúp đỡ của mình. Vân không khuất phục, tự tay gây dựng lại mọi thứ. Thế là Thạch hối hận đến xin lỗi Vân và từ đó trở thành bạn của những người nghèo như Vân. Trong khi đó, Bích Loan có thừa sự nguy hiểm đến nỗi có thể giả vờ tự tử nhằm đánh vào lòng trắc ẩn của Tuấn và chiếm lấy Tuấn, dù biết Tuấn yêu Dung, thế mà chỉ vài lần chứng kiến Dung dang tay che chở lũ trẻ nghèo đã có thể động lòng thay đổi tâm tính, trở thành người tốt. Sự thức tỉnh của các nhân vật ở đây có tính lý tưởng hoá, lãng mạn hoá và thiếu thuyết phục. Trong Tranh đấu của Dương Tử Giang, tính cách của Ngọc Nga lại quá đơn giản, một chiều. Để minh hoạ cho lý tưởng đấu tranh giai cấp, tác giả để cho nhân vật nữ chính của mình chọn giai cấp để lấy chồng. Từ quan điểm chọn chồng của Nga, có thể suy luận rằng nếu Nga không lấy Trọng thì cũng sẽ lấy một anh dân cày khác, và sẽ yêu người ấy như yêu Trọng. Để phục vụ luận đề, tác giả đã xoá bỏ thế giới tình cảm cá nhân của nhân vật. Nga không lấy chồng, mà là lấy cái giai cấp nông dân của chồng.
2. Tiểu thuyết tâm lý
Luận đề trong tiểu thuyết Tự
Lực văn đoàn sẽ khó chuyển tải một cách thành công, và tài năng cũng như đóng
góp của các tác giả vào quá trình hiện đại hoá văn học cũng sẽ không được ghi
nhận nếu không có những cách tân về nghệ thuật tiểu thuyết. Một trong những
cách tân đó chính là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật bằng bút pháp lãng mạn.
Trong chuyên luận Viết và đọc tiểu thuyết, Nhất Linh đưa ra quan niệm về một
cuốn tiểu thuyết sâu sắc, có giá trị: “Một cuốn tiểu thuyết cần nhất là
sâu sắc. Thế nào gọi là sâu sắc? Sâu sắc chính ở chỗ mình diễn tả được tất cả
những cái mông lung bí ẩn của tâm hồn”(1). Có khi những trang viết phân tích
tâm lý là công cụ hỗ trợ cho việc xây dựng nhân vật luận đề, nhưng ở một vài tiểu
thuyết, thế giới tâm lý của con người càng được ngòi bút của nhóm Tự Lực đi sâu
vào từng ngõ ngách, trở thành nội dung chủ đạo của tác phẩm như Hồn bướm mơ
tiên, Đẹp, Băn khoăn của Khái Hưng, Đôi bạn, Bướm trắng của
Nhất Linh, Đời mưa gió của Nhất Linh-Khái Hưng, Ngày mới của
Thạch Lam… Miêu tả tâm lý không phải là độc quyền của Tự Lực văn đoàn trong tiến
trình hiện đại hoá văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Ta có Nam Cao, Nguyên Hồng,
Vũ Trọng Phụng… là những bậc thầy trong miêu tả tâm lý bằng ngòi bút hiện thực.
Thế nhưng phong cách khai thác tâm lý bằng bút pháp lãng mạn mới chính là những
gì các nhà văn Nam Bộ giai đoạn sau học tập và đưa vào tiểu thuyết của mình.
Thật
ra, trong số những tiểu thuyết Nam Bộ khảo sát trong bài viết này, rất ít tác
phẩm có thể gọi là tiểu thuyết tâm lý. Các nhà văn Nam Bộ ở đây chỉ dừng lại ở
việc học hỏi kỹ thuật miêu tả tâm lý nhân vật và áp dụng chúng vào những tác phẩm
có tính luận đề của mình. Những tiểu thuyết được khảo sát ở đây đa phần là những
tác phẩm cổ vũ tranh đấu. Một vài tác phẩm khác hướng về nội dung hiện thực xã
hội và phong tục tập quán. Không có tác phẩm nào mà thế giới nội tâm nhân vật
là đối tượng khai thác quán xuyến toàn bộ tác phẩm. Các nhân vật của tiểu thuyết
Nam Bộ cho dù có được khai thác tâm lý tinh tế đến đâu thì tính cách nhìn chung
cũng vẫn đơn giản, một chiều, ít chứa đựng những bí ẩn và gõ tối của tâm trạng.
Họ hành động nhiều hơn là đứng lại suy nghĩ một điều gì quá lâu.
Cùng xuất thân trong gia đình quyền quý, tìm cách tự thoát ra khỏi cuộc sống trưởng giả tẻ nhạt để đến với một con đường đấu tranh, nhưng Dũng của Đôi bạn mãi loay hoay và chìm đắm trong những cảm xúc, bối rối, trăn trở, còn Vũ của Người yêu nước sau khi đọc một vài quyển sách tranh đấu, nghe Bão “khai sáng” vài điều là đã bừng bừng lửa trong lòng, từ bỏ tất cả để ra đi. Đây cũng là đặc điểm chung của văn học Nam Bộ qua nhiều thời kỳ, phản ánh tâm hồn và tính cách người Nam Bộ. Bên cạnh đó, có thể đây còn là bóng dáng của một giai đoạn lịch sử đấu tranh sôi động phản chiếu vào trong tác phẩm.
Cùng xuất thân trong gia đình quyền quý, tìm cách tự thoát ra khỏi cuộc sống trưởng giả tẻ nhạt để đến với một con đường đấu tranh, nhưng Dũng của Đôi bạn mãi loay hoay và chìm đắm trong những cảm xúc, bối rối, trăn trở, còn Vũ của Người yêu nước sau khi đọc một vài quyển sách tranh đấu, nghe Bão “khai sáng” vài điều là đã bừng bừng lửa trong lòng, từ bỏ tất cả để ra đi. Đây cũng là đặc điểm chung của văn học Nam Bộ qua nhiều thời kỳ, phản ánh tâm hồn và tính cách người Nam Bộ. Bên cạnh đó, có thể đây còn là bóng dáng của một giai đoạn lịch sử đấu tranh sôi động phản chiếu vào trong tác phẩm.
Trong
số những tiểu thuyết khảo sát phục vụ bài viết này, nếu có thể gọi một tác phẩm
là tiểu thuyết tâm lý thì đó là Ái tình và nghệ thuật của Ngọc Sơn, kể
về mối tình đẹp của văn sĩ nghèo Hoàng Ngô và cô tiểu thư Thuỳ Nga. Cuộc tình rất
thơ mộng, vượt qua những trở ngại về giai cấp một cách suôn sẻ, nhưng lại đổ vỡ
vì cảm giác bất an của chính người trong cuộc. Thuỳ Nga vì yêu tài Hoàng Ngô mà
lấy chàng, nhưng sau hôn nhân, cũng chính cái tài ấy đã kéo Hoàng Ngô ngập chìm
trong công việc, bỏ bê nàng. Thuỳ Nga đấu tranh giữa một bên là nghĩa vụ hy
sinh cho công việc của chồng và một bên là khao khát được yêu thương của người
vợ trẻ sớm trở nên cô đơn trong chính cuộc hôn nhân của mình. Cuối cùng, không
chống lại được niềm khao khát của bản thân, Thuỳ Nga ngã vào vòng tay của người
đàn ông khác. Ngọc Sơn đã có những trang dài phân tích cảm xúc và tâm trạng của
cả Thuỳ Nga và Hoàng Ngô rất tinh tế. Sau những ngày trăng mật hạnh phúc, Thuỳ
Nga đã bắt đầu cảm thấy không hài lòng với những điều mà trước kia nàng nghĩ
mình có thể dễ dàng chấp nhận:
“Không
hiểu sao nàng thấy oán giận bạn bè của chồng quá, mặc dầu trước đây vài ba
tháng nàng rất mến họ […] Lúc đầu, mỗi khi đi công việc về, Hoàng Ngô còn xin lỗi
nàng, còn hỏi han săn sóc nàng. Dần dần, chàng quên mất cả lệ ấy. Tuy không dám
làm phiền lòng chồng, nhưng Thuỳ Nga không thể vui trước những cảnh ấy. Tự
nhiên, nàng không còn ưa văn chương nghệ thuật nữa, nàng cho tại nghệ thuật mà
chồng nàng hờ hững với nàng” (Ái tình và nghệ thuật, tr.303)
Từ
cảm giác lẻ loi, cô đơn vì không còn được chồng chăm sóc, Thuỳ Nga bắt đầu nghĩ
rằng mình không đủ sức quyến rũ chồng, cảm thấy tự ti, và trở nên quá nhạy cảm
với thái độ của những người xung quanh. Khi hai vợ chồng cùng đi xem công diễn
vở kịch của Hoàng Ngô, chàng đột ngột đứng dậy giữa vở, đi vào cánh gà để hướng
dẫn anh em diễn đúng theo ý chàng, Thuỳ Nga “uất ức nhìn theo chàng, nàng bắt gặp
cái nhìn lạ lùng của Nhàn và Liên cả đến những người khác. Tự nhiên nàng cảm thấy
hai cô bạn và mọi người đều khinh thường nàng, bởi cử chỉ lãnh đạm của Hoàng
Ngô đối với nàng […] Nàng muốn bỏ ra về cho đỡ ngượng, vì nàng đoán chắc có nhiều
người đang để ý tới sự lẻ loi của nàng.” (Ái tình và nghệ thuật, tr.342).
Ngọc Sơn dựng nên một hình ảnh
Thuỳ Nga rất đáng thương, giằng co trong một cuộc chiến nội tâm kéo dài để giữ
gìn hạnh phúc gia đình, nhưng cuối cùng nàng thua trận vì không có được sự hỗ
trợ từ chồng, dù tác phẩm luôn nhắc đi nhắc lại rằng Hoàng Ngô là một người chồng
mẫu mực hoàn toàn, vẫn yêu nàng tha thiết và vẫn cố gắng chiều nàng hết sức
trong phạm vi có thể. Tuy nhiên, điều khiến tiểu thuyết này không đi được đến
cùng ý tưởng của nó là bởi tác giả bộc lộ sự lúng túng trong chính quan điểm của
mình. Ông một mặt có vẻ rất thương xót Thuỳ Nga, mặt khác lại công khai trách
móc nàng. Ông xây dựng nhân vật Hạnh, là người vợ đoan chính của một nhà văn có
tiếng đến để khuyên nhủ nàng phải biết hy sinh cho sự nghiệp nghệ thuật của chồng.
Không còn cách kết thúc nào khác, ông để cho nhân vật phát triển đúng với quy
luật tâm lý và sự vận hành tự nhiên của cốt truyện, tức là để Thuỳ Nga sa ngã,
nhưng sau đó lại lên án nàng. Thuỳ Nga tự tử trong sám hối, nhưng vẫn không được
một chút niềm lưu luyến vợ chồng nào của Hoàng Ngô, “chàng cảm thấy chàng
chỉ có cái tình thương nhơn loại đối với họ” (tr. 519) và nhẹ nhõm dồn hết tâm
trí mình vào con đường nghệ thuật. Thuỳ Nga có nét gì đó giống với Anna
Karenina của Lev Tolstoy, nhưng có phần bi thảm hơn. Anna giằng có giữa một bên
là tình yêu nồng nàn và một bên là cuộc hôn nhân sắp đặt không hạnh phúc, còn
Thuỳ Nga lại phải chiến đấu để giữ lấy cuộc hôn nhân đang mất dần không khí hạnh
phúc của chính nó. Anna bỏ chồng theo Vronsky vì tình yêu, còn Thuỳ Nga bỏ chồng
theo Tường vì sa ngã. Anna và Thuỳ Nga đều bị tình nhân lạnh nhạt, và đều nhận
lãnh một cái chết thảm khốc, nhưng Anna còn được lòng thương xót của Lev
Tolstoy, còn Thuỳ Nga chỉ nhận được sự lên án của Ngọc Sơn: “Đứng về phương diện
xã hội thì tội ngoại tình đền bằng cái chết cũng còn nhẹ lắm” (tr. 519).
Một
tác phẩm khác có tính luận đề nhưng khai thác tâm lý nhân vật rất sâu sắc là Hờn
chinh chiến của Việt Quang. Câu chuyện triển khai theo vận động tâm lý của
nữ cứu thương Mai Liên trước người chồng thương binh của mình. Ban đầu, Mai
Liên nghe tin Hoàng Tân chồng nàng đã hy sinh ngoài mặt trận và vô cùng đau khổ,
nhưng sau đó phát hiện ra Tân chưa chết mà chỉ bị thương. Hoàng Tân lẩn tránh
Mai Liên vì sợ nàng sẽ phát khiếp với ngoại hình dị dạng của mình, nhưng Mai
Liên vẫn tin rằng dù chàng có xấu xí, tàn tật đến đâu, nàng vẫn yêu chồng như
ngày đầu. Nàng đã tận tay chăm sóc cho bao nhiêu thương binh bị đạn bom cày nát
mặt mũi và cơ thể, đã động viên an ủi họ kia mà. Thế nhưng mọi thứ sụp đổ khi
nàng tận mắt trông thấy Hoàng Tân, và tình yêu của nàng cũng chết theo khuôn mặt
và những phần cơ thể chàng để lại ở chiến trường. Thì ra cái sự xấu xí, tật
nguyền kia sẽ rất khác nếu nó ở trên cơ thể của những người thương binh xa lạ,
những người mà nàng không có sợi dây tình cảm nào ngoài tình thương của đồng loại,
còn tình yêu chồng của Mai Liên vẫn đòi hỏi một cái gì đó gắn với những ký ức
thanh khiết và thơ mộng “Trước kia, khi thấy mệt nhọc, nàng chỉ nhìn bức ảnh
Tân, nhìn miệng chàng cười, nhìn mắt chàng sáng là nàng thấy phấn khởi. Nhưng
bây giờ, Tân ở bên cạnh nàng, có thể nghe được, thấy được, sờ được, thế sao
nàng không còn nghe thấy đủ sức lực, sung sướng gì nữa” (Hờn chinh chiến, tr.
88). Nàng sợ đến cả tương lai chung sống với chồng dưới một mái nhà, vì nó
tương phản quá dữ dội với những kỷ niệm ngày xưa cũ: “Rồi đây Tân sẽ trở về nhà
cũ, cái nhà mà nàng tưởng sẽ là tổ uyên ương êm ấm của nàng sau bao ngày cách
biệt Tân. Chàng sẽ sống ở đó, nơi mà mỗi vật đều nhắc nhở những ngày yêu đương
xa vắng, nhưng sẽ không còn là Tân và Mai Liên ngày trước, mà là hai nhơn vật
xa lạ ngỡ ngàng…” (tr.88). Mai Liên thấy ghê tởm chính mình, nhưng lại không
sao sai bảo trái tim mình yêu được Hoàng Tân như cũ.
“Đã
cả trăm lần nàng làm những công việc như thế, nhưng bây giờ, oái ăm chưa, con
người tàn tật đang nằm trên bàn mổ kia lại là Tân, chồng nàng. Cái vật dị hợm,
ghê tởm ấy mà lại là chồng của nàng sao? Nếu vị bác sĩ mà thấu được những suy
nghĩ của nàng, ông ta sẽ làm gì? Chắc là sẽ đuổi nàng ra ngay tức tốc và bảo
nàng đừng bao giờ đến nữa. Nhưng may thay, ông ta vẫn không biết tí gì.”
(tr.87)
Ngay cả những lý tưởng cứu
nước, hình ảnh những người anh hùng cũng không đủ sức kéo Mai Liên ra khỏi những
đau đớn, tuyệt vọng: “Đôi khi nàng nghĩ phải dẹp tất cả những việc riêng để
phụng sự lý tưởng chung, nhưng nàng chỉ còn là cái bóng của ngày trước”
(tr.89), “Nàng cảm thấy mình chẳng những phản bội Tân mà còn phản bội một
thứ gì vô cùng cao cả, và sự phản bội ấy đã làm cho nàng yếu hèn đi, trống rỗng
như một kẻ hèn hạ nhất trên đời” (tr.94). Để khai thác sâu sự mâu thuẫn trong
lòng Mai Liên, tác giả mở đầu truyện bằng việc Mai Liên động viên, an ủi Biên,
một thương binh bị thương giống hệt Hoàng Tân, khuyên anh đừng tuyệt vọng mà
hãy tin vào lòng chung thuỷ của người vợ sắp cưới chốn quê nhà. Ngày ngày nàng
đều giúp Biên đọc đi đọc lại lá thư của vị hôn thê ấy. Thế mà khi gặp lại chính
người chồng yêu quý của mình, Mai Liên không thể nào chịu đựng nổi. Nàng vẫn
chăm sóc Biên, vẫn đọc lá thư kia cho anh nghe, nhưng chỉ làm theo thói quen và
nghĩa vụ, và nàng cảm thấy mình đang phản bội cả Biên và muôn ngàn người khác.
Và Mai Liên vẫn cứ kéo lê cuộc đời mình trong những cảm xúc tiêu cực và đau đớn
ấy, dù nàng vẫn luôn cố gắng phân tích cảm xúc của mình để tìm lối ra:
“Nhưng
biết làm thế nào để cưỡng lại với lòng khi nàng cũng chỉ là một người đàn bà,
khi mắt nàng không thể nào có cảm tình được với mảnh hình hài quái dị của chồng,
khi mà tình yêu cần một cái gì rất tầm thường của người chồng chứ không phải sự
cao thượng của tâm hồn. Sự tầm thường ấy chỉ là nét mặt, cái quân bình của hình
hài. Còn tâm hồn cao thượng hay chí khí anh hùng chỉ là vật để phụ lực với hình
hài, tô điểm cho lòng yêu thêm mạnh mẽ. Nàng không ngờ mình rơi vào một sự quá
tầm thường như thế. Nhưng làm sao cưỡng được sự thật, một sự thật oái ăm?”
(tr.106)
Cuối cùng, thứ cứu rỗi được
linh hồn của Mai Liên chính là lòng cao thượng, chí khí can đảm của Hoàng Tân.
Chàng không oán trách Liên, mà ngược lại, còn thông cảm cho nàng. Không tìm được
tình yêu nơi Liên nữa, Hoàng Tân hướng lòng mình phụng sự cuộc đấu tranh của Tổ
quốc bằng cách khác, đó là viết lách. Cánh tay phải đã mất, Hoàng Tân nhờ Liên
chép lại lời mình. Liên cảm thấy mình bé nhỏ trước sự vĩ đại của chồng. Một
ngày kia, vợ cuả đại đội trưởng Phượng Hùng, người chỉ huy trận đánh mà Hoàng
Tân bị thương, đến quân y viện xin gặp chồng thì được biết rằng chồng mình đã
chết trên chiến trường.
Giấy báo thương mà bà nhận được chỉ là một sự nhầm lẫn, lẽ ra đó phải là giấy báo tử. Nỗi đau khủng khiếp của bà làm Mai Liên giật mình như tỉnh khỏi một giấc mộng dài, nhận ra rằng điều quan trọng nhất mà nàng luôn mong mỏi chính là chồng nàng còn sống, chứ không phải chồng nàng còn bao nhiêu phần thân thể. Nỗi đau lớn nhất của nàng vẫn là nỗi đau khi nàng không bao giờ còn có thể trông thấy chàng nữa. Nàng nhận ra tình yêu của nàng dành cho Hoàng Tân vẫn còn đó, chỉ bị che lấp đi mà thôi.
Giấy báo thương mà bà nhận được chỉ là một sự nhầm lẫn, lẽ ra đó phải là giấy báo tử. Nỗi đau khủng khiếp của bà làm Mai Liên giật mình như tỉnh khỏi một giấc mộng dài, nhận ra rằng điều quan trọng nhất mà nàng luôn mong mỏi chính là chồng nàng còn sống, chứ không phải chồng nàng còn bao nhiêu phần thân thể. Nỗi đau lớn nhất của nàng vẫn là nỗi đau khi nàng không bao giờ còn có thể trông thấy chàng nữa. Nàng nhận ra tình yêu của nàng dành cho Hoàng Tân vẫn còn đó, chỉ bị che lấp đi mà thôi.
Phần khai thác tâm lý mà các
tác giả Nam Bộ ảnh hưởng rõ nhất từ Tự Lực văn đoàn chính là những trang viết miêu
tả tình yêu. “Văn nghệ Tự Lực văn đoàn còn như trăng mới lên, hoa mới nở,
người ta muốn vui muốn nhìn đời qua cặp kính hồng"(2) Trước tiên, đó
đều là những mối tình tự do, hiện đại, với vai trò quyết định của con người cá
nhân. Những Tuyết-Chương (Đời mưa gió), Mai-Lộc (Nửa chừng xuân), Loan-Dũng (Đôi
bạn,Đoạn tuyệt), Liên-Minh (Gánh hàng hoa), Hiền-Vọi (Trống Mái)... để lại dấu ấn
trong Phượng-Vũ (Người yêu nước), Tuấn-Thuý (Đời tươi thắm), Tuấn-Dung (Gió mới),
Lệ Ngôn-Hoàng Long (Giai cấp, Tàn binh), Thuỳ Nga-Hoàng Ngô (Ái tình và
nghệ thuật), Ngọc Nga-Trọng (Tranh đấu), Bạt Xíu Lìn-Lương (Bạt Xíu Lìn), Huyện-Chung
(Nửa bồ xương khô), Thu Cẩn-Hoàng Thái (Gió biên thuỳ), Ánh Mai-Quý (Sau dãy
Trường Sơn), Mai Liên-Hoàng Long (Hờn chinh chiến)... Họ đều là những thanh
niên trí thức có học, hoặc trường hợp của Vọi (Trống Mái), Trọng (Tranh đấu),
Thơ (Con đường sáng) là những con người thôn quê nghèo khó nhưng hiểu biết lý lẽ,
có tấm lòng trong sạch, thiên lương. Họ đều là những nam thanh nữ tú, được tác giả
dành những dòng miêu tả trân trọng, nếu là nữ thì yểu điệu, dịu dàng, là nam
thì khôi ngô, cương nghị, là dân quê thì mang nét thơ ngây mộc mạc của ruộng vườn.
Có
những đôi uyên ương trong văn học Nam Bộ đặc biệt rất giống với tiểu thuyết nhóm
Tự Lực. Mối tình thanh mai-trúc mã của Phượng và Vũ trong Người yêu nước (Thẩm
Thệ Hà) hay của Chung và Huyện trong Nửa bồ xương khô (Vũ Anh Khanh)
chẳng khác gì Loan và Dũng trong Đôi bạn (Nhất Linh). Dũng, Vũ, và
Chung đều là những chàng trai theo Tây học, trưởng thành ở một làng quê và
trong lòng giữ mãi một mối xúc cảm với người bạn gái hàng xóm thời thơ ấu.
“Ngày
xưa, Vũ và Phượng là đôi bạn thân yêu. Thấy bạn buồn mà buồn, thấy bạn vui mà
vui, đôi bạn trẻ ấy quấn quýt nhau, đắp đổi cùng những mộng ngày xanh đằm thắm.
Những đêm trăng về trên vườn cau vươn bóng, hai người cùng dẫn ra cầu này, đứng
bên nhau, nhìn làn nước tấp tênh cánh bèo trên bọt úa. Cảnh trời êm lặng. Vài
con vật sành kêu khắc khoải trên bờ sương. Vũ cầm đàn khẽ nắn đường tơ. Tiếng
đàn trầm bổng vang ra não nùng.” (Người yêu nước, tr.18)
Tình bạn thơ ấu
lớn dần thành tình yêu, báo hiệu bằng những cử chỉ lúng túng, ngượng nghịu, những
cái đỏ mặt bất ngờ, và cả những ánh nhìn tình tứ. Đoạn trích sau trong Nửa bồ
xương khô của Vũ Anh Khanh có cái vẻ đẹp dễ chịu, mềm mại và cũng rất tinh tế
trong miêu tả cảm xúc của đôi bạn trẻ. Khung cảnh và chi tiết có nét giống với
truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam.
“Mỗi
năm Chung về, chàng lớn lên một chút, Huyện cũng lớn lên một chút. Hai người cứ
lớn dần và biết e thẹn với nhau mỗi khi trò chuyện. Huyện thường ngẩn người,
nghĩ vẩn vơ về gã đàn ông hiền lành ấy để bâng khuâng.
Huyện
lim dim mắt, khoảng vườn cau xanh sáng rực lên trong nắng ấm. Những quả cau
tròn nhinh nhỉnh, Huyện mơ đến những buồng cau cưới nằm gọn ghẽ trên chiếc thau
đồng đánh bóng sáng như gương.
Năm
mười lăm tuổi, sau một lần Chung về, Huyện cảm thấy lòng mình đổi khác. Khi
không nàng thấy mình vương vấn một ý thầm kín, mang mang dài, nhẹ hơn khói chiều,
mỏng mẻo hơn tơ trăng.
Lần
ấy, cách đây hai năm, vào mùa hạ, Huyện còn nhớ rõ một buổi sáng…
Huyện
mang rổ ra vườn, tìm về phía dậu mồng tơi để hái lá, chỉ vì hôm qua Chung nói với
cụ Lãnh trong bữa cơm chiều:
- Sáng mai, bà
cho con ăn canh mồng tơi, con thèm lắm.
Cụ
Lãnh âu yếm gật đầu, còn Huyện lúc ấy chỉ đứng lặng nhìn Chung mỉm cưởi.
Buổi
sáng mát, Huyện vén cao quần bước đi. Hơi sương đọng trên ngọn cỏ thấm vào da
chân, nàng khẽ rùng mình, cũng như nhiều lần, giữa đêm khuya, Huyện chợt thức
giấc trong gian phòng hiu quạnh, một làn gió rét thổi qua mau và để cho nàng cảm
thấy lạnh lùng, đơn chiếc của cô gái quê mùa, nghèo nàn.
Vẩn
vơ, nàng ngước mắt nhìn trời. Một dải mây là là bay lửng lơ, đẹp như vuông lụa
“Cẩm Châu” làng Hà Nhuận. Một chút nắng hanh vàng đọng trên mái ngói sẫm rêu, một
chút nắng chảy loang trên mặt ao bèo.
Huyện
đứng lại trên cầu ao, bầy gà con đang lau nhau bươi đất tìm mồi dưới bụi chuối,
vội chạy tứ tán. Huyện nghiêng đầu, soi mặt xuống nước, mỉm cười khi thấy mình
xinh, duyên dáng.
Cơn
gió nhẹ thổi lào rào, đượm mùi thơm như mùi cốm non, Huyện đưa tay vuốt làn tóc
rối, lim dim mắt.
- Cô Huyện!
Chung tay cặp sách, đi về phía Huyện vừa nhai roi vừa cười. Chàng nheo mắt nhìn
Huyện chăm chú, làm cho nàng ngượng nghịu, cúi đầu sung sướng.
- Cô ra vớt bèo sớm?
- Dạ không, em đi
hái lá mồng tơi.
Nói xong, Huyện bước đi. Chung đi bên cạnh, Huyện cười nói:
- Tại sao anh cứ
hay ăn canh mồng tơi?
- Tại vì canh mồng
tơi ăn ngon, lá mồng tơi ăn mát.
- Còn lắm thứ rau
khác…
- Như lá rau má,
rau…
Huyện đỡ lời:
- Như rau đồng tiền,
rau dền dền, như hoa bòng bòng, hoa bí rợ.
Nàng tắc lưỡi, đưa tay vẽ vẽ trước mặt:
- Nhiều thứ lắm.
Chung mỉm cười. Đôi mắt to của Huyện sáng lên khi nàng nói. Chung thấy cả một
vòm trời xanh và bóng mình nằm gọn trong hai con ngươi đen, rất đen như huyền.
Ngắm Huyện, tự nhiên Chung muốn nói ra câu gì thật thân mật, chàng bảo:
- Cô Huyện này.
- Dạ?
Nhưng hơi bối rối, Chung lại vẩn vơ:
- Trời hôm nay đẹp
lạ!
Huyện quay mặt, giấu nụ cười, không trả lời. Nàng lấy dáng điệu thật đáng yêu
đưa tay hái lá mồng tơi bỏ vào rổ.”
Cái ngượng ngùng dễ thương ấy, cái ước mơ thầm kín ấy, và cả cái biến chuyển nhẹ
nhàng trong suy nghĩ ấy cũng là cảm xúc của Dũng và Loan:
“Loan không nói gì, vịn một cành khế đầy hoa hồng là lấm tấm những quả khế xanh
non, ngước mắt nhìn ra vẻ tìm xem đã có quả nào to ăn được chưa. Mùi hoa khế
đưa thoảng qua, thơm nhẹ quá nên Dũng tưởng như không phải là hương thơm của một
thứ hoa nữa. Đó là một thứ hương lạ để đánh dấu một quãng thời khắc qua trong đời:
Dũng thấy trước rằng, độ mười năm sau, thứ hương đó sẽ gợi chàng nhớ đến bây giờ,
nhớ đến phút chàng đương đứng với Loan ở đây. Cái phút không có gì lạ ấy, chàng
thấy nó sẽ ghi mãi ở trong lòng chàng cũng như hương hoa khế hết mùa này sang
mùa khác thơm mãi trong vườn cũ.” (Đôi bạn)
Các giác quan của họ dường như nhạy bén hơn, và trộn lẫn vào nhau, trộn lẫn với
cái vị ngây ngất của tình yêu. Có những đoạn văn của các tác giả Nam Bộ giống với
văn phong Tự Lực văn đoàn đến nỗi khó mà phân biệt được:
“Bóng chiều sẫm dần dần, không khí mỗi lúc một trong hơn lên, trong như không
có nữa, mong manh như sắp tan đi để biến thành bóng tối. Một mùi thơm nhẹ thoảng
qua, hương thơm của tóc Loan hay hương thơm của buổi chiều?” (Đôi bạn)
“Một cơn gió làm đôi bạn giật mình. Đống lá trước mặt hai người tung lên như để
bộc lộ một phẫn uất. Một chiếc mới từ trên cành rụng cuống, là đà trên mái tóc
Vũ rồi đến nép trên vai Phượng. Nàng cầm lấy chiếc lá lật qua lật lại, vơ vẩn
đưa lên môi. Cái cử chỉ âu yếm ấy làm cho Vũ hồi hộp. Và cứ mỗi lần thấy lòng sắp
rung động, Vũ lại tìm cách trấn tĩnh lại.” (Người yêu nước, tr.64)
“Nàng nghểnh mặt trông con trăng đầu tháng nằm nghiêng sau cây đề xa, giống như
một cánh diều. Một cơn gió thổi lào rào trên hàng cây, tự nhiên Huyện cảm thấy
lạnh, nàng đi sát lại gần Chung. Huyện cố ý trông chỗ khác, để cho Chung được tự
do nhìn mình. Hôm ấy Chung thoáng cảm động, bàng hoàng, ngạc nhiên khi thấy Huyện
đẹp lạ lùng. Một sắc đẹp mộc mạc của những cô gái quê mùa vừa đến tuổi. Một sắc
đẹp hiền hậu, nhu mì, duyên dáng, dễ thương bao nhiêu.” (Nửa bồ xương khô)
Tâm trạng của những người đang yêu có những lúc lắt léo, kỳ quặc, bí hiểm mà
chính người trong cuộc cũng khó lòng giải thích được:
“Chàng lấy làm lạ rằng sao lại có thể mong Loan tha thiết như vậy, mong Loan
như mong một người xa cách đã mấy năm. Muốn gặp Loan không khó gì cả, nhưng
Loan phải tự ý đến và đến giữa lúc này thì gặp gỡ ấy mới quý. Mỗi một phút chờ
đợi đối với Dũng là một phút hy vọng, cảnh trời đẹp quá mà lòng chàng lúc đó tự
nhiên vui vẻ quá nên Dũng chắc rằng không thể thiếu được cái vui gặp mặt Loan.
Nếu hết ngày hôm nay mà Loan không đến thì chàng sẽ ghé qua nhà Loan và trách
Loan vì cớ sao lại không đến. Chàng mỉm cười vì cái ý trách ấy thật là vô lý.”
(Đôi bạn)
“Đó là một lời trách cứ êm đềm và thâm thuý. Vũ thấy lòng sung sướng trước những
giọt nước mắt nhỏ vì mình, giọt nước mắt biểu lộ một tình yêu chân thật. Nhưng
rồi Vũ lại lo sợ, chàng thấy lòng mình cảm động hơn là rung động, thương nàng
hơn là yêu nàng. Chàng muốn Phượng hiểu chàng hơn, nhưng không có cách gì để
giãi rõ lòng mình.” (Người yêu nước, tr.36)
“Biết đâu chàng trai ngang tàng ấy rồi cũng đến phải đắm say vì một dáng kiều!
Nghĩ đến đấy Thuý cảm thấy mặt nóng bừng và tim hồi hộp lạ. Nàng ôn lại những cử
chỉ của Tuấn từ bấy lâu nay, và nàng lấy làm lạ là Tuấn hay pha trò nhưng lời
nói của chàng bao giờ cũng đứng đắn. Cặp mắt của Tuấn có cái hấp lực làm cho
lòng nàng rung động, nhưng cũng có cái vô tư để gieo cho nàng một mối đau buồn.
Thuý thấy rằng tuy gần nhau, Tuấn và nàng hãy còn xa nhau quá…” (Đời tươi thắm,
tr.56)
Tâm trạng của Thuý khi nghĩ về Tuấn trong Đời tươi thắm chính là cái khoảng
cách tâm lý mơ hồ mà văn học lãng mạn vẫn hay nhắc đến khi viết về tình yêu. Nó
xuất hiện không chỉ trong văn chương của Tự Lực văn đoàn, trong cảm xúc tôn thờ
tình yêu của Chương dành cho Thu trong Bướm trắng (Nhất Linh), của Ngọc dành
cho Lan trong Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), mà còn xuất hiện trong cả những vần
thơ Mới: “Gần hơn nữa thế vẫn còn xa lắm” (Xuân Diệu).
Tình yêu âm thầm, tình tứ của Tuấn dành cho Dung trong Gió mới của Thanh Thuỷ
phảng phất chút ảo ảnh trong tình cảm của Trương dành cho Thu trong Bướm trắng
của Nhất Linh, tuy không có cái nỗi ám ảnh sắp chết của Trương. Dung chỉ là một
cô gái nghèo chứ không phải là tiểu thư cao vời như Thu, nhưng trong mắt Tuấn,
nàng có một vẻ cao quý của tâm hồn, sự đoan trang của phẩm cách khiến chàng chỉ
có thể đứng nhìn từ xa mà không dám chạm tới. Dung nhiều khi gần với ảo ảnh hơn
là một hình ảnh thực:
“Đúng ngay lúc ấy chợt có tiếng động ở ngưỡng cửa. Tuấn mở choàng mắt ra. Trước
mắt chàng, Dung hiện rõ ràng ở đấy. Tuấn hoảng hốt, chàng ngỡ mình có phép thôi
miên đã bắt Dung không về nhà mà lại phải đến đây, hay ít nhất chàng đã bị tự kỷ
ám thị mất rồi.” (Gió mới, tr.154)
Khi ngỏ nỗi lòng với Dung, cảm xúc hồi hộp nén chặt lấy lòng chàng, khiến chàng
như ở một cõi nào:
“Tuấn không còn nhớ là mình đã nói những gì. Chàng chỉ nhớ mang máng là đã nói
rất nhiều, nói mê man không định hướng. Nhưng có lẽ lời chàng hẳn phải thành thật
lắm, giọng chàng hẳn phải cảm động lắm, nên thấy Dung chỉ lẳng lặng nghe mà chẳng
phản đối lại câu nào. Vẻ mặt nàng luôn luôn thay đổi theo lời chàng bày giải.
Sau khi chàng đã dứt lời, Dung im lặng rất lâu khiến lòng Tuấn vô cùng hồi hộp.
Chàng bồn chồn hối hận. Một nỗi hối hận vô nghĩa mà chàng chẳng hiểu xuất phát
từ đâu. Nhìn những sợi chỉ nước mảnh mai giăng khắp bầu trời, Tuấn tưởng chừng
đấy là lời trách móc của cô bạn gái nhiều đức tính.” (Gió mới, tr. 240-241)
Đời tươi thắm cùa Thẩm Thệ Hà lại nhắc nhớ đến Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng,
nhưng là nhắc để phê phán. Tuấn tình cờ trông thấy cuốn Hồn bướm mơ tiên trên kệ
sách của Thuý và nghĩ: “Đọc loại sách như thế này, tâm hồn sinh ra mơ mộng,
lãng mạn cũng phải.” Tuấn chống lại tư tưởng lãng mạn mềm yếu, thoả hiệp với
hoàn cảnh và đắm chìm vào tôn giáo như một sự giải thoát. Chàng là con người của
hành động và tin rằng chỉ có lên đường giết giặc mới giải quyết được tất cả những
buồn đau của dân tộc xưa nay. Tuy nhiên, mối xúc cảm giữa Tuấn và Thuý lại được
tác giả miêu tả đậm chất lãng mạn tôn giáo không khác gì Hồn bướm mơ tiên. Đó
có thể là không khí ở giáo đường Thiên Chúa, nơi gắn với cuộc đời tôn giáo của
Thuý, hay là không khí ở núi Bà Đen khi Thuý và Tuấn cùng nhau du ngoạn.
“Giữa bầu không khí yên lặng nặng nề bỗng có tiếng chuông, mõ nhịp đều thành một
điệp khúc u uẩn, như muốn cởi toả những vòng dây oan nghiệt, nhưng nghìn đời vẫn
vương mắc những dục vọng của thế nhân. Thuý mơ màng nhìn hai con chim non đang
đứng dáo dác trên cây, dường như đang lắng nghe tiếng kinh quyện buồn trong
không gian.” (Đời tươi thắm, tr.84)
Trong khi miêu tả cái rung động mong manh của tâm hồn, có một hình ảnh rất
hay được các nhà văn Tự Lực văn đoàn yêu chuộng, và sau này lại xuất hiện không
dưới một lần trong tiểu thuyết đô thị Nam Bộ, đó là hình ảnh cánh bướm. Cánh bướm
đập khẽ như sự rung động mới lạ, kỳ diệu của xúc cảm phụ tử lạ lẫm trong truyện
ngắn Đứa con đầu lòng của Thạch Lam “Tân thấy trong lòng rung động khẽ như cánh
bướm non, một tình cảm sâu xa và mới mẻ chàng chưa từng thấy”, hay là cái mơn
trớn dịu dàng của một tà áo thiếu nữ trong Đôi bạncủa Nhất Linh:
“Nền trời lúc đó, Dũng thấy như một tấm lụa trong; một con bướm trắng ở vườn
sau bay vụt lên cao rồi lẫn vào màu trời. Dũng tự nhiên nghĩ đến một bải cỏ rộng
trên đó có Loan và chàng; hai người cùng đi ngược lên chiều gió; nàng mặc một tấm
áo lụa trắng, và gió mát thơm những mùi cỏ đưa tà áo nàng phơ phất chạm vào tay
chàng êm như những cánh bướm.”
Cánh bướm dịu dàng thiếu nữ này của Nhất Linh đã trở lại trong Nửa bồ
xương khô và Bạt Xíu Lìn của Vũ Anh Khanh: “Hôm ấy, Huyện mặc áo
dài, gió đưa tà áo lam nhạt, gần giống sắc da trời chạm nhẹ vào người Chung,
chàng mơ hồ tưởng như những cánh bướm. Chiếc khăn rua choàng bằng lụa ngà làm
cho da mặt Huyện trắng hơn mọi ngày, hơi xanh dưới ánh trăng” (Nửa bồ xương khô)
“Đấy là một buổi sáng đẹp trời, thành phố Saigon tưng bừng vui trong gió thanh
bình. Người Saigon cười trông thấy có duyên hơn mọi bận, cảnh Saigon đẹp hơn mọi
khi, nắng chảy tràn trề xuống những hàng cây trồng rìa đường, nắng liếm vào những
tà áo bay nhởn nhơ như muôn vàn cánh bướm đẹp.” (Bạt Xíu Lìn)
Đó cũng có thể là cánh bướm mơ tiên nơi cửa Phật của Khái Hưng, hay con bướm trắng
của thời thơ ấu lành mạnh và xa xôi trong tâm hồn đang chết dần chết mòn của
Trương: “Một bông hoa cẩm chướng trắng, gió lọt vào làm rung động như một cánh
bướm. Trương tưởng đến một ngày chủ nhật nắng, một ngày đã xa lắm chàng đứng
nhìn những con bướm trắng, bay trên một luống cải lấm tấm hoa vàng…” (Bướm trắng,
Nhất Linh). Những cánh bướm này lại như một thứ gì xa xôi, hư ảo, ngoài tầm với,
chập chờn mộng mị. Trong Hồn bướm mơ tiên, đó là cánh bướm của một cõi cao
khiết nào, vượt lên trên cõi tục. Trong Bướm trắng, đó là dĩ vãng tươi đẹp,
tương phản với hiện thực tuyệt vọng và đau khổ. Những con bướm của giấc mộng, của
quá vãng này đã bay vào tiểu thuyết của Thẩm Thệ Hà:
“Thấy cử chỉ ngộ
nghĩnh của nàng, thấy đôi mi nàng vẫn chớp lia như hai cánh bướm, Tuấn chợt nhớ
đến hai câu thơ:
Đêm qua mơ thấy hai con bướm
Chắp cánh tình chung ở giữa
trời”
(Đời tươi thắm, tr.61)
“Vũ biểu nàng ca. Nàng nhìn
Vũ bẽn lẽn, rồi cất tiếng ca lảnh lót:
Một con bướm hồng
Bên hồng bay bướm.
Một làn phấn bướm,
Bay bướm bên hồng.
Tiếng đàn tình tang,
Tình tang kêu vang.
Thấy bướm thấy chàng,
Buông tay buông đàn…
Phượng ca dứt thì Vũ cũng vừa
buông đàn. Hai người nhìn nhau cười vì tìm không thấy bướm.”
(Người yêu nước, tr. 18)
3. Thế giới nhân vật
3.1. Nhân vật người chiến sĩ
– khách chinh phu – khách tình si
Văn
học đô thị Nam Bộ 1945-1954 do sản sinh trong thời kỳ cả nước cùng đồng lòng chống
Pháp nên có rất nhiều tác phẩm tranh đấu và đã tạo nên một thế giới rất đông
đúc những người chiến sĩ cứu nước. Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, ngược lại, ra đời
trong một thời đại bế tắc và còn nhiều hoang mang, nên số lượng nhân vật chiến
sĩ có hạn chế hơn. Đôi khi đó không hẳn là những người chiến sĩ cách mạng, họ
chỉ là những con người hành động, dẫu chưa biết được sẽ hành động những gì.
Tuy không có thế mạnh về số lượng, nhưng những nhân vật người chiến sĩ của Tự Lực văn đoàn ghi một dấu ấn sâu sắc trong văn học hiện đại Việt Nam, tạo nên một hình ảnh rất riêng, vừa cổ điển vừa hiện đại, vừa mạnh mẽ vừa hào hoa. Họ là người chiến sĩ của thế kỷ XX, nhưng cũng đồng thời là một khách chinh phu, khách tình si của thơ cổ. Những người chiến sĩ của Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Trúc Giang, Sơn Khanh, Tô Nguyệt Đình... tuy khác người chiến sĩ của nhóm Tự lực ở chỗ họ có đường lối, có mục đích rõ ràng hơn, nhưng không khó để nhận ra họ đều mang một nét nào đó của Dũng, Trúc, Tảo, Cận, Thái trong Đôi bạn, Đoạn tuyệt hay Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ của Nhất Linh.
Tuy không có thế mạnh về số lượng, nhưng những nhân vật người chiến sĩ của Tự Lực văn đoàn ghi một dấu ấn sâu sắc trong văn học hiện đại Việt Nam, tạo nên một hình ảnh rất riêng, vừa cổ điển vừa hiện đại, vừa mạnh mẽ vừa hào hoa. Họ là người chiến sĩ của thế kỷ XX, nhưng cũng đồng thời là một khách chinh phu, khách tình si của thơ cổ. Những người chiến sĩ của Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Trúc Giang, Sơn Khanh, Tô Nguyệt Đình... tuy khác người chiến sĩ của nhóm Tự lực ở chỗ họ có đường lối, có mục đích rõ ràng hơn, nhưng không khó để nhận ra họ đều mang một nét nào đó của Dũng, Trúc, Tảo, Cận, Thái trong Đôi bạn, Đoạn tuyệt hay Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ của Nhất Linh.
Dù
vẫn viết nhiều về nông dân, nhưng trong tiểu thuyết đô thị Nam Bộ, người chiến
sĩ cách mạng đa phần vẫn xuất thân từ tầng lớp trí thức Tây học. Người nông dân
làm cách mạng trong bộ phận văn xuôi này nói chung và tiểu thuyết nói riêng vẫn
thường xuất hiện dưới hình ảnh đám đông, hoặc trong những đoàn quân trùng điệp
không rõ mặt người cũng như từng số phận cụ thể. Điều này có thể do tầng lớp xuất
thân của chính những tác giả tiểu thuyết. Họ viết về chính những nỗi niềm của
mình, tâm trạng của thế hệ mình, lý tưởng và buồn vui của những người vừa biết
ít nhiều chuyện cũ của thánh hiền vừa tiếp cận với bao nhiêu tư tưởng mới từ
phương Tây xa xôi. Có thể thấy cuộc đời của Vũ Anh Khanh, Lý Văn Sâm, Thẩm Thệ
Hà, Dương Tử Giang, Sơn Khanh, Trúc Khanh... đều là những người chiến sĩ cả. Vũ
Anh Khanh ngày ra chiến khu còn khảng khái ngâm Chiến sĩ hành, một sáng
tác của chính mình, trong tiệc chia tay với những người bạn tâm giao. Mà những
nỗi niềm buồn vui của họ, những người chiến sĩ ra đi từ khói bụi kinh thành, chắc
hẳn phải mang theo bóng hình của người chiến sĩ Tự Lực văn đoàn mà họ đã từng đọc
qua. Ngày ấy có ai viết văn mà không đọc Tự Lực văn đoàn, người khổng lồ trong
tiến trình hiện đại hoá văn xuôi Việt Nam. Mà chính các tiểu thuyết gia nhóm Tự
lực cũng viết về cái hoang mang của chính mình và của thời đại mình đấy chứ.
Có
những người chiến sĩ quyết định đi theo một lý tưởng, thực hiện một hành động
đơn giản chỉ bắt đầu bởi cảm giác bức bách, ngột ngạt và tầm thường của cuộc đời
mình đang sống. Dũng và Trúc của Đôi bạn là như thế.
“Chàng
nghĩ lại cũng không hiểu vì sao mình đã bãi khoá. Sáng hôm ấy thấy Trúc và mấy
người bạn rủ nhau nhảy qua hàng rào, chàng cũng nhảy theo. Suốt ngày đi lang
thang, chàng thấy có một cái thú mới lạ. Lúc đó đương mùa hoa gạo nở. Lần đầu
chàng thấy những cây gạo nở hoa lá đẹp và ngỏ ý ấy với Trúc.”
Dũng
a dua theo bạn bè một phần vì ham vui, vì “cái thú mới lạ”, nhưng phần khác bởi
vì sâu thẳm trong lòng chàng, việc đi học rồi về làm quan nối nghiệp cha chẳng
còn một chút sức lôi kéo nào với chàng nữa cả. Chàng loay hoay đi tìm ý nghĩa
cho sự tồn tại của mình. Vũ trong Người yêu nước của Thẩm Thệ Hà cũng thế, cũng
đến với cách mạng vì sự tò mò. Vũ khao khát tri thức, luôn cố gắng tìm hiểu những
vấn đề của đời sống, quan tâm đến triết học, nhưng Vũ vẫn không thể nào giải thích
được cơn bão cách mạng đang xảy ra xung quanh chàng, đập vào bức vách kiên cố của
gia đình chàng mấy đời quan nghiệp.
“Tiếng
‘cách mạng’ làm khủng khiếp tất cả các giới quan quyền, làm chấn động đến cả
các giới trí thức và tư sản. Họ nơm nớp lo sợ, nhiều người không hiểu nó có mục
đích gì. Chính Vũ cũng là một trong những hạng người ấy. Có một đêm, Vũ bị đánh
thức bởi những tiếng ồn ào. Chàng trỗi dậy trong khi cha chàng thét lính canh
phòng cẩn mật bốn mặt nhà, mẹ chàng run lên như cầy sấy khi nghe tiếng súng bắn
doạ ở trước sân.” (Người yêu nước, tr. 26).
Cả
Vũ và Dũng đều thấy lạc lõng với gia đình mình. Họ không thể đi theo con đường
mà cha mẹ đã vạch ra, lại càng cảm thấy kinh thường chính những người anh em ruột
của mình theo gót cha tiếp tục cuộc đời vào luồn ra cúi với người trên và đày
đoạ kẻ dưới, vì một chút hư danh mà biến mình thành nhỏ mọn, tầm thường. Trong
khi cha Dũng và cha Vũ chỉ chăm chăm lo kiếm cho họ một chức tước gì đấy, thì
trong lòng họ chỉ băn khoăn sợ bị xem là quá trưởng giả, quá sang trọng trong mắt
những người xung quanh.
“Chàng
cảm động thấy những bạn nghèo của chàng đương bàn về một việc rất quan trọng mà
bổng chốc đã quên hết, đắm đuối ngồi nghe một cái đĩa hát chỉ đáng vứt đi. Nhà
chàng giàu nên chàng hết sức giữ gìn đối với anh em bạn, vì chàng nơm nớp lo sợ
sự giàu sang là cái hàng rào ngăn không cho các bạn dễ dàng yêu mình. Chàng ngẫm
nghĩ: sự giàu sang đối với mình bấy lâu như là sự nhục.” (Đôi bạn, tr.10)
“Rồi
Vũ thèn thẹn thấy mình sang trọng quá đối với họ. Chàng biết đó không phải là một
cái tội, nhưng chàng vẫn thấy làm sao ấy […] Cái khổ của Vũ là mỗi lần đi hoạt
động trở về, chàng lại nghe cái giọng gắt gỏng của cha, lại phải sống êm đềm
trên nhung lụa, lại phải chịu trong khuôn phép của gia đình. Trước kia, Vũ cho
đó là sự tự nhiên: chàng đã sinh ở đây và đã sống ở đây từ thuở nhỏ, chàng có
quyền như thế. Nhưng sau khi thấy cảnh vất vả của những kẻ cần lao, sau khi lăn
lộn trong lầm than để tìm ra cái ý sống mới, chàng thấy như thế là bất công, là
áp chế.” (Người yêu nước, tr. 50)
Một
điểm giống nhau nữa là hành trạng của người chiến sĩ có lúc rất mơ hồ, độc giả
không biết họ làm gì, có nhiệm vụ gì, ở tổ chức nào, đi đến những đâu. Người
chiến sĩ cách mạng tên Thái trong Đôi bạn có hành tung rất bí hiểm, chỉ biết
chàng bị đuổi học vì tham gia bãi khoá, rồi hoạt động ở một phương trời nào đó,
bị bắt, vượt ngục, tìm đến anh em bạn cũ nhờ giúp đỡ, rồi sau đó lại phương trời
bạt gió ra đi. Một ngày kia, anh em nhận được tin Thái đã hy sinh. Tuấn trong Đời
tươi thắm, Vũ và Bão trong Người yêu nước, Chung trong Nửa bồ xương
khô, Tảo và An trong Cây ná trắc đều không được miêu tả về hành trạng
trên đường đi chiến đấu. Trên bước đường tranh đấu của người chiến sĩ là những
vùng kháng chiến chung chung, những núi những sông, những bến nước xa vắng gợi
nên nỗi nhọc nhằn gian khổ cùng cảm giác cô đơn đầy hào khí và đậm chất tráng
ca. Dũng và Chúc trong Đoạn Tuyệt xong một nhiệm vụ nào đó và đang trên đường về
Thanh Thuỷ phải ngủ đêm trên thuyền.
“Về
phía tay phải, núi Tản Viên đã bắt đầu mờ mờ trong sương. Những bãi cát nổi
trên mặt sông lúc nãy nhuộm vàng dưới ánh chiều tà lướt qua, bây giờ đã biến ra
sắc trắng dịu. Trong một vài chiếc thuyền cắm sào đậu bên cạnh bãi, ánh lửa thổi
cơm chiều thấp thoáng giãi vàng trên mặt nước đen. Bỗng trên sông yên lặng, một
tiếng hát ở đâu văng vẳng đưa lại, Chúc tắc lưỡi, rồi muốn đáp lại câu hát […]
Hát xong, Chúc nói: Chúng mình tưởng như được ở bến Tầm Dương vậy.” (Đoạn tuyệt,
tr.98)
Hoàng Long gặp lại Lệ Ngôn ở
một vùng chiến khu nào đó trong một khung cảnh rất trữ tình.
“Đêm nay không sương. Trời lại
mát và có trăng. Long trải chiếu trước mũi thuyền, bày ra hai cái chén và một
bình trà […]
- Đêm nay trời sáng, thế nào
đối phương cũng không dám tấn công ta. Tất nhiên, chúng ta cũng vẫn phải phòng
thế thủ. Vậy ta có thể tạm yên, uốn trà thưởng trăng đêm nay.
- Anh lại định làm thơ.
- Không, tất cả cái gì ở đây
cũng là thơ rồi!
- Anh làm như chúng ta đang ở
thời bình!
- Thời bình cũng như thời loạn,
ai có quyền cấm tôi sau khi làm tròn bổn phận có đôi phút trầm mặc để lắng xuống
đáy linh hồn.
[…] Trong khung cảnh mộng và
thơ ấy, xa xa là những cánh rừng tram thâm thẫm đến im lìm như ngủ mê man trên
những thửa ruộng tràn đầy ánh bạc.”
(Giai cấp, tr. 139)
Có thể thấy người chiến sĩ ở
đây rất lãng mạn. Họ mang theo trên đường chinh chiến cái hào hoa sách vở. Người
chiến sĩ của Tự Lực văn đoàn hiện lên một cách rất mơ hồ bởi vì bản thân con đường
cứu nước của họ cũng mơ hồ. Họ đa phần không bằng lòng với cuộc sống trưởng giả,
tẻ nhạt, cũ kỹ, quyết dấn thân vào con đường gió bụi, mê man trong hành động,
tuy chưa biết hành động sẽ đi đến đâu nhưng ít nhất cũng giải thoát cho mình khỏi
nỗi mặc cảm đau xót của thân phận người dân mất nước. Trong khi đó, những người
chiến sĩ của văn học đô thị Nam Bộ 1945-1954 tuy hành trạng mơ hồ nhưng lại rất
chắc chắn và tự tin với sự lựa chọn của mình. Họ còn có sức tác động lớn đến
người khác, lôi kéo người khác đi theo mình, như Tuấn tác động đến Thuý, Vũ tác
động đến Phượng. Người chiến sĩ của Tự Lực văn đoàn sống mơ hồ trong bóng tối,
tinh thần đấu tranh của họ mang tính tự phát, còn người chiến sĩ trong văn học
Nam Bộ đã có cả cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại làm hậu thuẫn sau lưng. Bên cạnh
những nhân vật mơ hồ về hành trạng, Nhất Linh có cả một tiểu thuyết Dòng
sông Thanh Thuỷ kể về nhiệm vụ cách mạng của Ngọc, một đảng viên Quốc dân
đảng. Tuy nhiên, ngay cả Ngọc, nhân vật giàu chất chính trị và ít chất văn học
nhất của Nhất Linh, vẫn thể hiện một sự mơ hồ, bối rối trong tư tưởng, dù tác
giả không trực tiếp nói ra. Ngọc là một điệp viên tài ba, tuân thủ mệnh lệnh của
cấp trên trừ khử hai gián điệp Cộng sản trà trộn vào hàng ngũ, thế nhưng có những
lúc chính chàng hoang mang không biết vì sao mình lại giết họ, mình tha cho họ có
được hay không. Chàng mơ hồ cảm thấy mình đang làm một việc rất vô nghĩa, đó là
giết chết những người hoặc là bất tài vô hại, hoặc rất có tài, chỉ có điều họ
đi theo một con đường có hại cho tổ chức của chàng, nhưng chưa chắc đã hại cho
đất nước.
Giống như những
người chiến sĩ trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, người ra đi trong tiểu thuyết
đô thị Nam Bộ cũng kiêu bạc, hào hoa, lãng mạn, rờn rợn nỗi cô đơn và luôn mang
theo một bóng giai nhân trên dặm đường sương gió. Họ có cái chí khí của “Tráng
sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn”, vừa kiên cường, vừa sầu buồn. Dũng ra đi luôn
mang trong tim hình bóng Loan. Trong lá thư gửi cho Thảo, Dũng đã viết những lời
gan ruột về Loan: “Nghĩ Loan bị nhà bắt buộc lấy người khác, mà em lại phải sống
cái đời phiêu bạt vô định, nên em không thể nào cùng Loan đi một con đường…” (Đoạn
tuyệt, tr.103). Suy nghĩ này giống hệt với suy nghĩ của Tuấn trong Đời tươi thắm:
“Chàng biết Thuý yêu chàng, nhưng đời trai thời loạn là một cuộc đời sóng gió,
cuộc đời vô định, vương vấn yêu đương chỉ làm chồn gót người đi và đau lòng người
ở lại. Vả lại, ngày mai lăn thân vào con đường tranh đấu, biết chàng có sống
sót trở về đây để gặp cố nhân chăng?” (Đời tươi thắm, tr.93). Trên bước đường
lý tưởng, Dũng có Loan (Đoạn tuyệt), Ngọc có Thanh (Dòng sông Thanh Thuỷ) thì
Vũ có Phượng (Người yêu nước), Chung có Huyện (Nửa bồ xương khô), Tuấn cũng có
Thuý (Đời tươi thắm) và Quý có Ánh Mai (Sau dãy Trường Sơn). “Những lúc Quý thấy
buồn vơ vẩn là lúc Quý thấy nhớ Ánh Mai. Trên bước đường tương lai vòi vọi, Quý
mơ màng một người bạn đồng hành chung tâm chí: người đi bên Quý sẽ là Ánh Mai vậy.
Nhưng kể từ mai, Quý đã xa Ánh Mai rồi, xa Ánh Mai mà không hẹn ngày tái ngộ (Sau
dãy Trường Sơn, tr.14)
Khác với dòng
văn học cách mạng của miền Bắc sau này, văn học tranh đấu ở đô thị Nam Bộ nói về
những người đi chiến trận bao giờ cũng chuẩn bị tâm thế cho những kết thúc bi
thương. Không phải chỉ trong tiểu thuyết mà cả truyện ngắn cũng đầy rẫy những
cái chết bi thảm nơi chiến trường, và trong cảnh biệt ly lúc nào cũng có một
chút buồn tang tóc. Cái màu trắng tang tóc trong tưởng tượng của Dũng (Đôi bạn)
lại xuất hiện lần nữa trong hình dung của Tảo (Cây ná trắc của Vũ Anh
Khanh). Đó là khi cả hai nhân vật đang nghĩ đến cái chết của chính mình một
ngày kia ngoài chiến địa và được người yêu nhỏ nước mắt khóc thương.
“Chàng thốt nghĩ đến Loan và
tự nhiên nhớ đến một hôm, đã lâu lắm, nhìn Loan mặc áo trắng đi qua vườn trong
ánh nắng thu, lần đầu chàng cảm thấy cái vui thấy mình sống. Chàng không dám
nghĩ đến một đời ở xa Loan, nay đây mai đó như Tạo, rồi một ngày kia cũng như Tạo
chết một nơi xa lạ nào, nằm trong áo quan tối, trong khi Loan đứng bên mồ, dưới
ánh nắng, tà áo trắng của nàng phấp phới trước gió.” (Đôi bạn)
“Tảo mường tượng bóng vợ ẵm
con đứng yên trên một ngọn đồi thông xanh, tầm mắt xa vời, ngóng trông tà áo trắng
bay rũ giữa sương chiều rơi mau, làm cho Tảo xót xa nghĩ đến những buổi mong chờ
của một người chinh phụ, mặc áo tang, đợi người chồng đã chết ngoài chiến trận
– không bao giờ về nữa!” (Cây ná trắc)
Người ra đi
không chỉ nghĩ về người ở lại, mà hình ảnh người chiến sĩ còn được tái hiện qua
sự đánh giá, niềm ngưỡng mộ và nỗi nhớ nhung của người bạn ái, người yêu, người
vợ chốn quê nhà. “Hình ảnh kẻ chinh phu/ Trong lòng người cô phụ” (Lưu Trọng
Lư) không phải chỉ là cảm xúc buồn thương mà còn là niềm hãnh diện, tôn thờ.
Rồi nàng thấy hiện ra trước
mặt mình hình ảnh Dũng ngồi trước lò sưởi, vẻ mặt rắn rỏi cương quyệt, vẻ mặt của
một người có chí khí cao rộng, và so sánh Dũng với Thân, chồng nàng, người có một
vẻ mặt tầm thường và một cuộc đời mà nàng biết chắc cũng sẽ tầm thường. (Đoạn
tuyệt, tr.29)
“Lòng người thiếu nữ luôn muốn
nguôi đi nỗi niềm thương nhớ, nhưng lúc muốn quên lại chính là lúc nhớ thương
thêm. Tâm hồn nàng luôn luôn phảng phất hình ảnh của người con trai ngang tàng
khí phách đang chuyển gót chân lưu động đến một chân trời góc bể nào rồi.” (Đời
tươi thắm, tr.104)
Bên cạnh niềm yêu thương,
tôn thờ còn là một cảm giác thèm khát cái bầu trời tự do cao rộng của người đi.
Người con gái ở nhà có cảm giác như đang sống một cuộc đời tù túng, bé mọn, tầm
thường, còn người ra đi được vùng vẫy với non sông. Điều này có thể thấy rõ nhất
trong cảm nhận của Loan khi phải cam chịu lấy Thân, làm nô lệ cho lễ giáo, còn
Dũng đã có thể vùng vẫy ra khỏi sự kìm kẹp của gia đình mà sống đời gió bụi:
“Thôi ta để mặc anh Dũng đi với cảnh đời gió bụi của anh, yêu nhau đành chỉ yêu
nhau trong tâm hồn, còn mỗi người một ngả, người nào sống riêng cuộc đời người ấy”
(Đoạn tuyệt). Tương tự như vậy, Lệ Ngôn khi nghĩ về Hoàng Long, “cái chàng con
trai hiên ngang giữa đất trời để đem lại một cuộc sống vinh quang cho quê cha đất
tổ ấy, độ nầy, biết đã lập nên nhiều thành tích vẻ vang cho giồng giống, hay đã
bỏ thây ngang dọc giữa bãi sa trường” (Tàn binh) thì lại đau xót cho phận mình
phải làm vợ Emile, bó thân trong bốn bức tường vô cảm và một cuộc đời tầm thường,
bệ rạc. Trong khi đó, Thuý (Đời tươi thắm) vẫn còn bị lòng tin tôn giáo
trói chân, chưa thể thoát ra để có thể cùng Tuấn vui dặm hải hồ.
“Thuý thấy thèm muốn đời sống
nhàn hạ của đôi chim. Nàng muốn được như chúng, sống tự do với tình cảm thiên
nhiên, hoà tâm hồn vào những cảnh nên thơ tìm sự rung cảm tế nhị trong những cảnh
bao la, bát ngát. Trong phút ấy, nàng tự nhiên nhớ đến Tuấn. Nàng lại có ý nghĩ
so sánh chàng trai ngang tàng ấy với một con chim đang sống một cuộc đời khoáng
đạt, không phải như một con chim xanh nhởn nhơ trong một vườn hoa xinh đẹp, mà
là một con chim bằng luôn luôn tìm cách vượt muôn vạn trùng dương để làm gì?” (Đời
tươi thắm, tr.88)
Đôi khi, cả tác giả Tự Lực
văn đoàn và Nam Bộ đều cường điệu tài năng của người chiến sĩ, thể hiện niềm
ngưỡng mộ của người viết đối với chính nhân vật của mình. Ấy là khi Nhất Linh
miêu tả Ngọc của Dòng sông Thanh Thuỷ mưu trí, tài ba, có thể lừa và giết được
Nghệ, một nhân vật cốt cán của tổ chức Cộng sản, dù Nghệ được miêu tả không kém
phần sắc sảo và đa mưu túc trí. Ngọc am tường mọi thứ, từ chính trị đến võ nghệ,
đến văn chương nghệ thuật. Hoàng Thái trong Gió biên thuỳ (Thẩm Thệ
Hà) và Lương, Sơn trong Bạt Xíu Lìn (Vũ Anh Khanh) cũng không hề kém
cạnh. Các nhân vật này vừa am tường lịch sử, nhạy bén chính trị, xuất sắc ngoại
ngữ, lại võ nghệ cao cường, súng ống đều thông thạo. Tác giả đặt họ trong đối
sánh với những sĩ quan, điệp viên Nhật, Trung để cho thấy họ cao tay hơn, thông
minh hơn. Trong những cuộc đối đầu thi thố tài năng với người nước ngoài, hoặc
những hoàn cảnh bị rơi vào hang cọp, Hoàng Thái hay Lương và Sơn đều tỏ ra bình
thản như không có chuyện gì, thậm chí còn mỉm cười thư thái.
2. Nhân vật nữ phản kháng,
tranh đấu
Bên cạnh nhân vật người người
chiến sĩ, các cô gái trong tiểu thuyết đô thị Nam Bộ 1945-1954 cũng ít nhiều
mang dáng dấp về tính cách và tâm sự của những cô gái mới trong tiểu thuyết Tự
Lực văn đoàn. Họ đều là những người có tư tưởng hiện đại, cá tính, mạnh mẽ, có
chính kiến và lòng tự tôn. Nếu Mai, Loan mạnh mẽ chống lại lễ giáo phong kiến để
bảo vệ hạnh phúc cá nhân thì Tuyết, Nhung sống cuồng nhiệt đến tận cùng với niềm
khao khát của bản thân mình. Họ biết được giá trị bản thân “Chỉ có trinh tiết của
tâm hồn là đáng quý thôi” (Đoạn tuyệt), biết mình muốn gì và luôn đấu tranh vì
ước muốn chính đáng đó. Tính cách này ta bắt gặp trong Lệ Ngôn. Ngôn gửi thư tỏ
tình cho Hoàng Long và thẳng thắn nói với chàng: “Người con gái này không phải
là hạng đặt đâu ngồi đấy, mà là một kẻ khi yêu biết đòi, khi cần biết hỏi, khi
sầu biết than” (Giai cấp, tr.62). Ngôn yêu Long và chủ động tìm đến Long, không
ngại miệng đời mai mỉa. Thuỳ Nga (Ái tình và nghệ thuật) cũng thế, nàng cũng tự
quyết định hạnh phúc của mình bằng việc chủ động đến với Hoàng Ngô. Nàng biết
chàng mặc cảm với cái nghèo và sự khác biệt giai cấp giữa hai người nên không
bao giờ mở lời, vì thế mà nàng đến tận nhà Hoàng Ngô, xin làm bạn chàng. Tình
yêu của họ bắt đầu từ đó. Hoàng Ngô mãi mãi nhớ hình ảnh của cô tiểu thư Thuỳ
Nga đến thăm chàng, làm túp lều tồi tàn của chàng sáng bừng lên trong một ngày
nắng đẹp. Để bảo vệ tình yêu của mình và đưa nó đến một cái kết có hậu, Thuỳ
Nga chủ động sắp xếp để Hoàng Ngô có thể lấy lòng được cha mình. Nàng khen ngợi
Hoàng Ngô với cha, thậm chí nói khéo để làm cho cha hiểu lầm là Hoàng Ngô là
văn sĩ giàu có, sau đó khi hai bên gặp nhau, nàng hướng cuộc nói chuyện vào chỗ
cha nàng thích thú nhất, khiến ông có cảm tình và nể tài Hoàng Ngô. “Bóng hạnh
phúc đã thấp thoáng ngoài ngưỡng cửa đời nàng, nàng chỉ còn với tay nắm lấy là
được. Bất giác nàng mỉm cười, chép miệng: ta sẽ thắng bất cứ trở lực nào trên đời
này để mang lại hạnh phúc về cho ta.” (Ái tình và nghệ thuật, tr. 244). Sự mạnh
mẽ, quyết liệt vì yêu này của Lệ Ngôn và Thuỳ Nga có khác gì Mai (Nửa chừng
xuân) khi nàng vẫn quyết định lấy Lộc, dù biết người mà chàng dẫn đến hỏi cưới
nàng chỉ là bà mẹ giả, cũng nào có khác gì Tuyết (Đời mưa gió) tìm cách giật lấy
Chương khỏi tay Thu, cô tiểu thư con bà phủ, chỉ đơn giản là vì nàng thích
Chương. Thậm chí nhân vật Ngọc Nga trong Tranh đấu của Dương Tử Giang
còn độc lập đến mức tự chọn chồng và tự kết hôn, đặt cha mẹ vào tình thế đã rồi.
Đứng trước quan lớn, quan bé, Ngọc Nga như cao hơn cả họ về lòng tự tin và dũng
khí. Tuy nhiên, có thể thấy khi xây dựng nhân vật Ngọc Nga, tác giả đã có phần
quá say sưa trong ý tưởng của mình, khiến cho cô thiếu sự mềm mại cần thiết của
một nhân vật nữ. Những cô gái hiện đại ấy luôn tìm cách đạt đến ước mơ, hạnh
phúc theo quan điểm của họ, dù có thành công hay không. Loan trong Đoạn
tuyệt và Ngôn trong Tàn binh giống nhau ở chỗ đã chuyển từ thái độ cố thoả
hiệp để cầu lấy cuộc sống bình yên sang vùng vẫy để thoát ra khỏi thế giới mà
mình đang sống. Loan muốn thoát ra khỏi xã hội cũ khắc nghiệt mà gia đình chồng
của nàng là một biểu tượng, còn Ngôn muốn thoát khỏi người chồng Emile và cuộc
sống tầm thường để trở về với kháng chiến.
Cả hai ban đầu đều miễn cưỡng chấp nhận sự sắp đặt của số phận: Loan chấp nhận lấy Thân để làm hài lòng cha mẹ, Ngôn chấp nhận lấy Emile để bảo vệ gia đình, vì nàng bị bắt vì tội tham gia kháng chiến. Sự xung khắc cựu-tân giữa nhà chồng và Loan đã đày đoạ tinh thần nàng, khiến nàng có cảm giác tuyệt vọng. Con nàng sinh ra nó cũng không còn là con nàng nữa, nàng không thể dạy nó như nàng muốn. Trong khi đó, chính tình yêu và sự chiều chuộng của Emile làm cho Ngôn càng ngày càng suy sụp, bởi tất cả sự tầm thường của cuộc đời nàng đang sống đã xoáy thêm vào nỗi đau sống thừa và mặc cảm phản bội của nàng. Loan và Ngôn chỉ thoát ra khi đứa con của mình chết đi, tức là sợi dây tinh thần nối giữa họ và cuộc đời họ đang sống đã không còn nữa. Thật ra đây là cách giải quyết mâu thuẫn có phần ngẫu nhiên của hai tác giả, nhưng gần như là cách giải quyết dễ chấp nhận nhất.
Cả hai ban đầu đều miễn cưỡng chấp nhận sự sắp đặt của số phận: Loan chấp nhận lấy Thân để làm hài lòng cha mẹ, Ngôn chấp nhận lấy Emile để bảo vệ gia đình, vì nàng bị bắt vì tội tham gia kháng chiến. Sự xung khắc cựu-tân giữa nhà chồng và Loan đã đày đoạ tinh thần nàng, khiến nàng có cảm giác tuyệt vọng. Con nàng sinh ra nó cũng không còn là con nàng nữa, nàng không thể dạy nó như nàng muốn. Trong khi đó, chính tình yêu và sự chiều chuộng của Emile làm cho Ngôn càng ngày càng suy sụp, bởi tất cả sự tầm thường của cuộc đời nàng đang sống đã xoáy thêm vào nỗi đau sống thừa và mặc cảm phản bội của nàng. Loan và Ngôn chỉ thoát ra khi đứa con của mình chết đi, tức là sợi dây tinh thần nối giữa họ và cuộc đời họ đang sống đã không còn nữa. Thật ra đây là cách giải quyết mâu thuẫn có phần ngẫu nhiên của hai tác giả, nhưng gần như là cách giải quyết dễ chấp nhận nhất.
Sự mạnh mẽ, cá tính và dám
tranh đấu có từ thời Tự Lực văn đoàn đã theo các nhân vật nữ vào cuộc đấu tranh
chung của dân tộc. Từ các cô gái mới của Tự Lực văn đoàn đến các cô nữ cứu
thương của văn chương tranh đấu miền Nam là cả một chặng đường phát triển vai
trò của người phụ nữ từ đối với chính bản thân họ, đến vị trí của họ từ trong
gia đình ra đến ngoài xã hội. Ban đầu là những cuộc đấu tranh đòi giải phóng tự
do cá nhân, để người phụ nữ được sống với tình yêu và khát vọng chân chính.
Cùng với việc chống lễ giáo phong kiến, các cô đã đồng thời đấu tranh chống lại
sự phân chia giai cấp. Hoạt động xã hội của chị em Vân, Dung trong Gió mớicủa
Thanh Thuỷ, chăm sóc và dạy dỗ trẻ lang thang để chúng có một cuộc đời tươi
sáng hơn, hiểu theo một nghĩa nào đấy, đã bắt nguồn từ những lớp học của Loan
trong Đoạn tuyệt sau khi đã thoát khỏi nhà bà phán Lợi. Nối tiếp sau
đó là cái ước mơ rộng lớn được thoát khỏi cuộc đời tù túng, chật hẹp, được hành
động để làm thay đổi nó. Loan không có cái may mắn được vạch sẵn một con đường
cứu nước để lựa chọn, nhưng bước chân ra đi của Loan đã khuấy động tâm hồn của
nhiều cô gái khác, để rồi sau này các cô không đứng ngoài vận mệnh chung của đất
nước. Khi người con trai ra trận, người con gái không chỉ ở nhà ngóng một bóng
dáng chinh phu. Trong bức tranh Tảo vẽ về cuộc kháng chiến ở làng Khánh Thiện,
Hồ đã góp ý cho chàng phải thêm vào đấy bóng dáng của “một người đàn bà” vì
“Cùng là con một nước cả, dù là trai hay gái cũng phải đồng nhiệm vụ như nhau
khi gặp thời binh lửa” (Cây ná trắc của Vũ Anh Khanh). Ngày trước, Loan
theo Dũng lên đường với lý do chủ yếu là vì nàng yêu Dũng, muốn cùng chàng đi đến
những chân trời bạt gió. Sự lên đường của nàng khi ấy vẫn còn lệ thuộc vào một
người, đó là Dũng, nghĩa là vẫn chưa độc lập hoàn toàn. Trên dưới mười năm sau,
trong kháng chiến chống Pháp, văn học đô thị Nam Bộ đã có những cô gái hoàn
toàn độc lập trong quyết định lên đường. Quyết định ấy có thể là vì lòng yêu nước,
vì được giác ngộ lý tưởng như Mai Liên (Hờn chinh chiến), Phượng (Người yêu nước),
Thuý (Đời tươi thắm), nhưng cũng có khi chỉ đơn giản là họ muốn sống một cuộc đời
khác hơn, có ý nghĩa hơn, như Cải, Tín, Huyện trong Nửa bồ xương khô.
“Bọn mình cứ sống yên tĩnh
trong bốn hàng lũy tre già quanh năm chải gió, yên phận mãi, buồn lắm và chán nữa!
Nếu cứ thế, đời bọn mình chắc rồi cũng như những cô gái quê mùa khác, cần cù
chăm chỉ từ nhỏ, lớn lên sẽ lấy chồng tổng, lý: sinh con, đẻ cháu và rồi cũng sẽ
chết vô sự như mọi người tự thuở giờ. Cuộc sống bằng phẳng của mặt nước ao tù
thầm lặng.” (Nửa bồ xương khô)
Nhân vật Phượng theo cách mạng
là vì Vũ đưa đường dẫn lối, nhưng sau khi hoà mình vào cuộc kháng chiến, Phượng
đã tách khỏi cái bóng của Vũ, không còn cảm thấy lệ thuộc vào tình yêu của Vũ nữa,
mà có cảm giác đấy chính là sự lựa chọn của riêng nàng.
“Từ ngày bước chân vào con
đường cách mạng, Phượng thấy tâm hồn mình thay đổi hẳn. Nàng không còn thấy
hàng trâm lúc nào cũng đượm vẻ u buồn, và tấm lòng lúc nào cũng mênh mang một
niềm thương nhớ. Có nhiều lúc nàng cũng nghĩ đến Vũ, nhưng nàng không thấy rung
cảm một cách tha thiết nữa. Cái tấm nhu hoài của người con gái yếu đuối ngày
xưa đã tàn theo dĩ vãng. Phượng chỉ nghĩ đến Vũ để gợi ra những ý niệm hùng
tráng giúp cho nàng thêm phấn khởi.” (Người yêu nước, tr. 95)
Bên cạnh đó, tác phẩm Dòng
sông Thanh Thuỷ của Nhất Linh đã để lại một chân dung nhân vật kỳ nữ khá độc
đáo là Thanh, người phụ nữ dở dang bán hàng nước ở biên giới Việt Trung nhưng đồng
thời cũng là đảng viên bí mật của Quốc dân đảng. Hàng cà phê Thanh Hương của
Thanh cũng là nơi để cô bí mật theo dõi hành tung, hoạt động của các đảng cách
mạng khác. Truyện viết theo phong cách lịch sử-trinh thám nên rất gay cấn. Ở
Thanh có cái thông minh, sắc sảo, nguy hiểm của một điệp viên, nhưng đồng thời
lại yếu đuối rất phụ nữ. Bóng dáng của Thanh phảng phất trong chân dung của Thu
Cẩn trong Gió biên thuỳ của Thẩm Thệ Hà, Bạt Xíu Lìn trong Bạt
xíu lìn của Vũ Anh Khanh. Thu Cẩn là gián điệp của một tổ chức cách mạng,
còn Bạt Xíu Lìn đảm nhận một trọng trách quốc gia, tìm sang Nhật, kết thân với
điệp viên Matahari của Hoàng thân Hamako để phá hoại bản chương trình Đại Đông
Á của ông cũng như đánh cắp những tài liệu quân sự bí mật khác. Là những người
con gái nhu mì, mưu lược của họ cũng được thực hiện một cách rất tinh tế, khéo
léo. Để tiếp cận điệp viên Hoàng Thái, Thu Cẩn đã giả làm cô gái bán nồi đất và
vờ đâm vào một người làm khi đi ngang trước nhà Hoàng Thái để bắt vạ. Để lấy được
tập tài liệu mật của hai sĩ quan Nhật bất ngờ gặp trong một quán ăn, Bạt Xíu
Lìn phối hợp với Lương rất nhịp nhàng. Bạt Xíu Lìn tiếp cận hai sĩ quan bằng nụ
cười quyến rũ, và bằng những động thái có vẻ rất ngây thơ, nàng vơ tay và làm
đánh rơi cặp táp của hai vị sĩ quan. Họ chẳng nỡ sẵn giọng với người đẹp, trong
lúc đó Lương gây chuyện với họ để Lìn rảnh tay đánh cắp tài liệu. Khi bị phát
hiện, Lương cứng cỏi chống trả, và Lìn đã cứu chàng chỉ bằng một cốc rượu uống
dở hất vào mặt tên sĩ quan đang dí súng vào ngực Lương. Vũ Anh Khanh nhấn mạnh
cái kỳ tài của Bạt Xíu Lìn khi đặt nàng bên cạnh những bậc kỳ nữ của dân tộc,
qua miệng một người khách trò chuyện với Lương
“- Thích nhỉ! Con gái Việt
Nam thì không thể “vừa vừa” được. Những bà Trưng, bà Triệu ngày xưa, những cô Bắc,
cô Giang mấy năm trước, những chị em chị Nguyễn Thị Minh Khai, Ngô Hồng Liên, vợ
mấy anh Hà Huy Tập, Hà Huy Giáp vừa năm rồi và bây giờ thì… thì…?
- Bạt Xíu Lìn.”
Còn Thu Cẩn một mình xông
pha chỉ huy cả một toán quân tấn công vào phủ Trùng Khánh, kế hoạch thất bại,
nàng là gái nhưng lại chọn làm vật thế thân đánh lạc đường cho quân rút. Thu Cẩn
đã chết một cái chết anh hùng như bậc trượng phu.
Tuy can trường là vậy, nhưng
cả Thanh, Bạt Xíu Lìn và Thu Cẩn đều rất dịu dàng, họ cũng mềm yếu trong tình cảm,
cũng có một bóng hình trai anh hùng trong lòng. Thu Cẩn dành một mối cảm tình
sâu đậm cho Hoàng Thái, người lẽ ra đối đầu với nàng trên con đường chính trị,
khâm phục và mến tài chàng. Bạt Xíu Lìn yêu Lương, người anh nuôi tài giỏi và
là người bạn chiến đấu kề vai sát cánh của nàng. Lìn cũng có những giấc mộng rất
bình dị về một tổ uyên ương, cũng nũng nịu khi hai người ở trong một khung cảnh
thơ mộng dọc đường chiến đấu.
Số lượng tác phẩm khảo sát
trong bài viết này rất ít ỏi so với lượng tiểu thuyết đồ sộ viết và xuất bản ở
đô thị Nam Bộ giai đoạn 1945-1954, nhưng đó lại là những tác phẩm khá tiêu biểu,
với những tên tuổi tác giả được nhiều người thời ấy biết đến và yêu chuộng. Có
thể thấy được những nhà tiểu thuyết Nam Bộ thời kỳ này đã học hỏi không ít từ
người đi trước. Cũng cần phải khẳng định rằng họ không phải là những người duy
nhất. Tự Lực văn đoàn đã được công nhận giữ một vai trò rất quan trọng trong tiến
trình hiện đại hoá văn xuôi Việt Nam. Những nhân vật lãng mạn, hay mơ mộng, những
cốt truyện luận đề đậm tính đấu tranh kêu gọi đã tác động sâu sắc đến nhiều nhà
văn đương thời và hậu thế. Nhiều nhà văn Nam Bộ tuy trực tiếp chê bai tính lãng
mạn của tiểu thuyết nhóm Tự Lực, nhưng họ lại không để ý rằng văn chương của
mình cũng phảng phất vẻ thướt tha, yêu kiều của chính văn đoàn này, và nhân vật
của mình cũng có những nỗi niềm sầu buồn, vương vấn như các nhân vật nam thanh,
nữ tú ra đời từ những năm ba mươi. Sức sống bền lâu của tiểu thuyết Tự Lực văn
đoàn không chỉ nằm trong tác phẩm của chính họ, mà còn nằm trong những tác phẩm
của các nhà văn thời sau, trong đó có những nhà văn sinh trưởng và sáng tác ở
đô thành phương nam những năm kháng Pháp.
Tiểu thuyết đô thị Nam Bộ
1945-1954 khảo sát trong bài viết:
1. Tô
Nguyệt Đình, Chàng đi theo nước, Tấn Phát xbản, SG, 1953.
2. Thẩm
Thệ Hà, Người yêu nước, Nxb. Tân Việt Nam, 1949.
3. Thẩm
Thệ Hà, Gió biên thuỳ, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1949.
4. Thẩm
Thệ Hà, Đời tươi thắm, Nxb. Lá Dâu, Sài Gòn.
5. Dương
Tử Giang, Tranh đấu, Nxb. Nam Việt, Sài Gòn, 1949.
6. Sơn
Khanh, Giai cấp, Nxb. Sống Chung, Sài Gòn, 1949.
7. Sơn
Khanh, Tàn binh, Nxb. Sống Chung, Sài Gòn, 1949.
8. Trúc
Khanh, Giọt máu con trời, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1949.
9. Vũ
Anh Khanh, Cây ná trắc, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1947.
10. Vũ Anh Khanh, Nửa
bồ xương khô, Nxb. Tân VNam, SG, 1949.
11. Vũ Anh Khanh, Bạt
Xíu Lìn, Nxb. Tiếng Chuông, Sài Gòn, 1949.
12. Việt Quang, Hờn
chinh chiến, Nxb Nam Việt, Sài Gòn, 1949.
13. Lý Văn Sâm, Sau
dãy Trường Sơn, Nxb. Nam Việt, SGòn, 1949.
14. Lý Văn Sâm, Nga
và Thuần, Nxb. Phạm Văn Sơn, SGòn, 1950.
15. Ngọc Sơn, Ái
tình và nghệ thuật, Tấn Phát xuất bản, Sài Gòn.
16. Thanh Thuỷ, Gió
mới, Tấn Phát xuất bản, Sài Gòn.
Chú thích
(1) Nhất Linh
(1961), Viết và đọc tiểu thuyết, Đời nay xuất bản, HNội.
(2) Phạm Thế Ngũ
(1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Quốc học tùng thư xuất
bản, Sài Gòn, tr. 424
Tài liệu tham khảo
1. Trương
Chính (1990), “Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự Lực văn
đoàn”, Tạp chí Văn học, (5).
2. Phạm
Thị Thu Hà (2010), Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự Lực văn
đoàn, Luận văn ThS., ĐH KHXH&NV, Hà Nội.
3. Phan
Mạnh Hùng (2012), “Thẩm Thệ Hà - nhà văn yêu nước đất Nam Bộ”, Khoa học Xã hội
và Nhân văn, (54).
4. Nguyễn
Mẫn (2012), Ấn tượng văn chương phương Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
5. Phạm
Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Quốc học
tùng thư xuất bản, Sài Gòn.
6. Nguyễn
Văn Sâm (1969), Văn chương tranh đấu miền Nam, Kỷ Nguyên xuất bản, Sài
Gòn.
7. Nguyễn
Văn Sâm (1972), Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945 - 1950, Lửa
Thiêng xuất bản, Sài Gòn.
ThS.,
Khoa Văn học và Ngôn ngữ - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
ĐHQG-TP.HCM.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét