1.Thế nào là hệ sinh thái?
Hệ sinh thái là một hệ thống
trong đó có sự tương tác, tương liên, tương thuộc giữa mọi loài
(như thực vật, động vật, vi khuẩn ..) với các yếu tố xung quanh của môi trường
(đất, nước, không khí..). Như vậy, để xác định một hệ sinh thái, phải có một
môi trường sống (sa mạc, rừng cây, nước sông, nước biển, ao hồ ..), một
tập hợp các loài sinh vật và sự liên hệ nhiều chiều giữa các
sinh vật với nhau và với môi trường sống.
Sau đây là vài ví dụ về vài
hệ sinh thái:
hệ sinh thái rừng (forest
ecosystem) là một tổng thể gồm các thực vật, từ cây gỗ, cây bụi, thảm mục cho đến
các động vật, vi sinh vật tương tác với nhau và với môi trường tự nhiên như đất,
nước, khí hậu. Hệ thống nhận năng lượng từ mặt trời với mưa, nắng, ánh
sáng.. và năng lượng từ đất với các dưỡng chất. Trong hệ sinh thái rừng có sự
tương quan ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cây rừng (cao, thấp, lùm bụi, cây leo
..) và giữa các cây rừng với các sinh vật khác trong quần xã đó.
hệ sinh thái cửa biển (estuary
ecosystem) có sự tương tác giữa các sinh vật trong vùng cửa biển như tôm, cá,
phiêu sinh vật, tảo, với dòng nước pha trộn nước ngọt, nước mặn với thuỷ
triều lên xuống mỗi ngày;
Vài đặc điểm của hệ sinh
thái:
A/-Tuổi đời các hệ sinh
thái có thể trẻ như khi mới thành hình, (rừng cây con, ao hồ mới tạo
thành ..) và với thời gian, hệ sinh thái già đi, tiến đến hệ sinh thái cao
đỉnh (climax) và lúc đó thì cân bằng sinh thái tự nhiên được thiết lập.
Vài ví dụ về hệ sinh thái cao đỉnh trong thực vật: rừng thông phương bắc (toundra),
thảo nguyên (savanna), rừng mưa nhiệt đới (tropical rainforest)
B/- Số lượng các loài
cũng như số lượng cá thể từng loài cũng dao động: các hệ sinh thái sa mạc chỉ
có một số loài cây chịu đựng được sự khô hạn trong khi hệ sinh thái rừng mưa
nhiệt đới chứa nhiều loài sống chằng chịt với cây leo, mây, tre, dương sĩ ..,
C/- Trong một hệ sinh thái
luôn xảy ra sự trao đổi vật chất và năng lượng trong nội bộ quần xã,
giữa các quần xã với các thành phần bên ngoài của nó. Ví dụ: hệ sinh thái
nông nghiệp (agricultural ecosystem) tiếp nhận năng lượng tự nhiên (ánh
sáng, gió, mưa ..) và năng lượng bổ sung của loài người như trong câu: nhất nước,
nhì phân, tam cần… Khi ta bón phân chuồng, phân mục cho cây cối,
chính là để giúp năng lượng cho các vi sinh vật trong đất nhờ đó chúng phân huỷ
để tạo ra chất vô cơ nuôi cây.
D/- Quy mô các hệ sinh
thái có thể vi mô như một cái ao, một gốc cây, một sân cỏ hoặc vĩ
mô như một dòng sông, một cánh rừng, một vùng khí hậu (hệ sinh thái sa mạc,
hệ sinh thái rừng ôn đới..) nhưng dù nhô hay lớn thì luôn luôn có sinh vật
tác động đến môi trường và môi trường thay đổi lại tác động trở lại sinh vật,
như vậy giữa sinh vật và môi trường có ảnh hưởng đến nhau.
E/ -Sự tương tác giữa
các sinh vật trong hệ sinh thái được thể hiện qua các khía cạnh sau đây: U
-chuỗi thức ăn (food
chain): ví dụ như sâu bị ếch ăn nhưng ếch bị rắn ăn và rắn
bị chồn ăn; chồn bị chim đại bàng ăn. Nói khác đi, loài này
bắt loài khác làm mồi và lại trở thành con mồi cho vật khác to hơn mà tục ngữ
ta nói: cá lớn nuốt cá bé. Một ví dụ khác: đầu tiên là thực vật như cây cỏ, tiếp
đến là những loài ‘ăn cỏ’ như trâu bò, ngựa, dê, nai trong rừng, tiếp đến là những
động vật ăn thịt các cấp (trong đó người là động vật ở cuối chuỗi thức ăn).
-lưới thức ăn (food web).
Trong khi chuỗi thức ăn chỉ theo một con đường: lớn nuốt bé thì trong lưới thức
ăn, cùng một con vật bị nhiều loài khác đến ăn: con chuột có thể bị rắn, bị chồn,
bị chim, bị người bắt ăn. Lưới thức ăn cho thấy thực vật và động vật đều liên hệ
với nhau để tồn tại. Như vậy, các loài không thể tồn tại một cách biệt lập
mà phải dựa vào nhau mà sống trong nhiều mối tương quan : cái
này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không
-bậc dinh dưỡng (niveau
trophique). Trước tiên, ta có những sinh vật sản xuất đầu tiên, còn gọi là các sinh
vật ‘tự dưỡng’ (autotroph) chúng tạo ra thức ăn nhờ quang hợp . Trên mặt đất,
đó là thực vật ; dưới mặt nước đó là những phiêu sinh thực vật. Ngoài các sinh
vật tự dưỡng, ta có những sinh vật ‘dị dưỡng’ (heterotroph) bao gồm bốn
loài như loài ăn cỏ, loài ăn thịt, loài ăn tạp và loài ăn rác rưới. Ví dụ:
trong hồ ao, tia sáng mặt trời xuyên qua nước và giúp các loài tảo xanh phát
triển; trong ao có các loài sen, súng; ven bờ có các lau sậy. Trong ao, có các
vi động vật sống nhờ các tảo xanh; các sâu bọ ăn các vi động vật và lại làm mồi
cho chim cá. Các loài cò ven ao ăn cá. Và khi các loài này chết đi sẽ bị các
loài khuẩn phân huỷ.
Tóm tắt, ta phân biệt 3 bậc
quan trọng: đầu tiên là các loài sản xuất (producers) có thể qua sự
quang hợp mà tạo được các chất hữu cơ (C6H12O6) từ những chất vô cơ như CO2, H20.
Ví dụ: cây, cỏ, rong tảo, rồi đến các loài tiêu thụ (consumers) là các loài phụ thuộc vào các sinh vật khác để sinh tồn. Ta phân biệt các loài tiêu thụ bậc 1 như thỏ, bọ rùa, ốc, châu chấu, các loài tiêu thụ bậc 2 như mèo, chim, chồn, các loài tiêu thụ bậc 3 chúng ăn các loài tiêu thụ bậc 2 như chó sói, gấu, cọp, sư tử và sau cùng là các loài phân hủy (decomposers) chúng phân hủy chất hữu cơ xác chết để tạo ra các chất vô cơ cần cho sự quang hợp . Đó là các vi cơ thể trong đất (khuẩn, nấm ..)
Ví dụ: cây, cỏ, rong tảo, rồi đến các loài tiêu thụ (consumers) là các loài phụ thuộc vào các sinh vật khác để sinh tồn. Ta phân biệt các loài tiêu thụ bậc 1 như thỏ, bọ rùa, ốc, châu chấu, các loài tiêu thụ bậc 2 như mèo, chim, chồn, các loài tiêu thụ bậc 3 chúng ăn các loài tiêu thụ bậc 2 như chó sói, gấu, cọp, sư tử và sau cùng là các loài phân hủy (decomposers) chúng phân hủy chất hữu cơ xác chết để tạo ra các chất vô cơ cần cho sự quang hợp . Đó là các vi cơ thể trong đất (khuẩn, nấm ..)
Như vậy, chuỗi thức ăn có dạng
tổng quát:
sinh vật sản xuất →
sinh vật tiêu thụ bậc 1 → sinh vật tiêu thụ bậc 2 → sinh vật tiêu
thụ bậc 3 → … → sinh vật phân huỷ
Các chuỗi thức ăn là thành
phần của một mạng lưới thức ăn trong đó ta có cả một chu kỳ vật chất như sau:
2. Tìm hiểu các hệ sinh thái
trong truyện Kiều
Qua nhiều năm lưu lạc, từ
khi gặp chàng Kim bên bờ suối nhân lễ Thanh Minh đến khi đoàn tụ lại với Kim Trọng,
nàng Kiều đã gặp nhiều hệ sinh thái khác nhau trong đó để dề hệ thống hoá, ta
phân biệt hai hệ sinh thái chính: hệ sinh thái trên cạn và hệ sinh thái dưới nước.
Trong mỗi hệ sinh thái lại có thể phân chia ra nhiều loại. Ví dụ trong hệ sinh
thái trên cạn, ta có thể liệt kê hệ sinh thái rừng, hệ sinh thái đồng cỏ .. và
trong hệ sinh thái dưới nước, có thể là hệ sinh thái sông suối, hệ sinh thái cửa
biển ..
21. Hệ sinh thái trên cạn.
(terrestrial ecosystems)
Khi nàng Kiều tiễn chân Thúc
sinh về quê vợ, tác giả đã lồng vào cảnh mùa thu:
Rừng phong thu đã nhuốm
màu quan san
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa
xôi
Rừng phong Nguyễn Du nói
trên là rừng ôn đới có lá rụng (temperate deciduous forest). Loại rừng
này có ở các vùng miền hạ lưu sông Dương Tử, sông Hoàng hà, nghĩa là các vùng
khí hậu ôn đới. Loại rừng này cũng có nhiều bên Âu Châu (Pháp, Đức..) và
ngoài cây phong (tên Latin là Acer, họ Aceraceae), còn có nhiều loại
cây khác như cây orme, (Ulmus, họUlmaceae), cây chêne (Quercus, họ Fagaceae),
cây tilleul (Tileus, họTiliaceae), cây frene (Fraxinus, họ Oleaceae), cây
hêtre (Fagus, họFagaceae).
Tầng thấp hơn có các loại
cây aubépine (Crataegus, họ Rosaceae), cây chèvrefeuille (Lonicera, họ Loniceraceae),
cây noyer (Juglans, họJuglandaceae) …Gần mặt đất, trong loại rừng ôn đới
này có nhiều loài dương sĩ, thảm cỏ tươi, thảm cỏ mục. Động vật thì gặp các
loài chồn, chim, sóc ..
Vào mùa hạ, khi nhiệt độ bắt
đầu nóng, nghĩa là khi:
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe
đâm bông
thì cường độ quang hợp của
thực vật rừng rất mạnh, cây cối toả được nhiều oxy hơn.
Vào mùa thu, khi trời chớm lạnh,
nhiều đoàn chim trời bay qua các khu rừng ôn đới này để đến các vùng nắng ấm
phía Nam và vào xuân vừa dứt, các đàn chim trở lại về phía Bắc.
Cũng khi trời vào thu thì
nhiệt độ hạ thấp, nước ngầm trong đất bị đông lại nên thực vật phải thich nghi
với sự thay đổi khí hậu bằng cách rụng lá, nhưng trước đó, lá cây từ từ chuyển
màu từ xanh sang màu vàng, màu đỏ, -nhuốm màu quan san - như mọi rừng ôn đới
có lá rụng ở Canada.
Tưởng cũng cần nói thêm là
trên thế giới, tùy theo khí hậu, ta có những loại rừng khác nhau. Vài ví dụ: tại
Việt Nam, Indonesia, Mã Lai cũng như vùng Amazone bên Brésil, có rừng mưa nhiệt
đới (tropical rainforest), có nhiều tầng cây con chằng chịt.
Cũng có loại rừng khô
nhiệt đới (tropical seasonal forest) khi có mùa khô kéo dài như các rừng
Đông Bắc Ấn độ, Đông Bắc Thái Lan.
Miền Bắc Canada và Siberia
thì có rừng thông phương Bắc (forêt boréale de conifères, tức Northern
coniferous forest) có các cây bouleau (Betula,họ Betulaceae), cây
épinette, tiếng Anh là spruce (Picea, họ Pinaceae) .
Hệ sinh thái rừng nhận năng
lượng ở nhiều dạng khác nhau, có thể làquang năng (ánh nắng) giúp cây
cỏ tạo ra những chất liệu qua hiện tượng quang hợp, hoá năng (các chất
hoá học cây tạo ra (tinh bột, các glucose ..), phân bón ..), nhiệt năng (giúp
cho các thành phần trong hệ sinh thái điều hoà được nhiệt độ ), động năng (giúp
cho hệ sinh thái vận động như gió, giúp sự luân chuyển các dưỡng liệu từ đất
lên cây, từ cây xuống đất, .). Lá cây rụng sẽ tạo một tấm thảm gồm gỗ mục, thân
cây mục, rễ cây mục và giúp các vi cơ thể trong đất thức ăn. Các vi cơ thể
chuyển hoá, phân hủy chất hữu cơ để tạo ra chất vô cơ nuôi lại thực vật. Cây cối
lại giúp cho các loài động vật phát triển, từ loài bị ăn sang loài đi ăn, từ những
ký sinh sang các loài dọn rác. Các chất hữu cơ của thực vật và động vật chết đi
sẽ bị biến đổi thành chất vô cơ nuôi lại cây cối và cứ thế, hữu cơ chuyển
thành vô cơ và vô cơ biến thành hữu cơ từ ngàn xưa đến ngàn sau, không ngừng
nghỉ, với những chu trình quen thuộc như chu trình đạm, chu trình cacbon trong
đất.
Rừng phong cũng như các loại
rừng khác có khả năng hấp thu, dự trữ và giải phóng khí cacbonic, khí oxy và
các chất khoáng. Cũng thế, rừng phong giảm dòng chảy, giữ lại một phần lượng nước
mưa và như vậy, giảm xói mòn, lũ lụt. Thực vật rừng cũng có khả năng bốc và
thoát hơi nước nên trong khí quyển có nhiều hơi nước bốc lên cao làm nguồn nước
mưa .
Trên kia là nói về rừng ôn đới
trong đó có cây phong là cây chiếm dạng ưu thế .Nhưng ở ven sông, thường có nhiều
đất ẩm thì thực vật cảnh hay quần xã thực vật thường gặp là một loại rừng
khác, có tên là rừng ở bờ nước (riparian forest) với những loài lau
sậy:
Quanh co theo giải giang tân
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật Đường
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật Đường
hoặc cây liễu như trong câu:
Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy
cành dương quan
Ngoài hệ sinh thái rừng, có hệ
sinh thái đồng cỏ (grasslands ecosystem). Thực vậy, nàng Kiều gặp Kim Trọng
nhân lễ Thanh Minh, tại một vùng gồm các đồng cỏ mút ngàn:
Cỏ non xanh tạn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài
bông hoa
Tại lầu Ngưng Bích, Nguyễn
Du cũng lại nhắc đến các đồng cỏ :
Buồn trông nội cỏ rầu
rầu.
Chân mây mặt đất một màu xanh
xanh
Đó là hệ sinh thái cấp
vĩ mô . Nhưng ở cấp vi mô, ta cũng bắt gặp cỏ xanh ở nhiều chỗ
khác :
-Một vùng cỏ mọc
xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì
nữa đâu
hoặc:
-Lối mòn cỏ nhạt
màu sương
Lòng quê đi một bước đường một
đau
Trên nấm mồ của Đạm Tiên
cũng chỉ là một đám cỏ úa:
Sè sè nấm đất bên đường
Nhưng về mặt diễn tiến
sinh thái, vườn cỏ không phải chỉ mãi mãi là vườn cỏ mà từ từ, nếu để hoang
không ai đoái hoài thì sẽ tăng thêm các loài thực vật khác nữa. Ví dụ: khi Kim
Trọng sau khi đi hộ tang người cha về và trở lại chỗ nàng Kiều ở thì khu vườn
xưa kia thơ mộng bao nhiêu thì nay cảnh nhà sa sút bấy nhiêu; khu vườn với sân
không những đầy cỏ hoang:
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu
phong dấu giày
mà còn thêm cây lau:
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẻ vách
mưa rã rời
Ngoại cảnh như vật tác động
đến tâm quyển: Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường
Hệ sinh thái đồng cỏ có nhiều
ở Trung Quốc vì đó là sự tiếp nối tự nhiên của quần xã đồng cỏ, còn gọi là thảo
nguyên (steppe) từ phía Trung Á (Kazakhstan, Uzbekistan, Nội Mông , Mông cổ ).
Loại thảo nguyên này ở Trung Quốc được bất hủ hoá qua bài thơ cổ của Bạch
Cư Dị:
“Ly ly nguyên thương thảo,
Nhất tuế, nhất khô vinh
Giã hỏa thiêu bất tận
Xuân phong suy hựu sinh ..”
với lời dịch của Tản
Ðà:
” Ðồng cao cỏ mọc như chen,
khô tươi thay đổi hai phen
năm tròn,
lửa đồng thiêu cháy vẫn còn,
gió xuân thổi tới mầm non lại
trồi ..”
Hệ sinh thái đồng cỏ, ngoài
thực vật mà chủ yếu là các loài cỏ thấp nhưStipa grandis, Artemisia sp.. còn
có các động vật khác như chuột, thỏ, cào cào, rắn, chồn, quạ. Trong hệ sinh
thái này, mạng lưới thức ăn đầu tiên gồm các loài cỏ hoặc cây thấp, tiếp đến là
các loài ăn cây cỏ như thỏ, sóc, sâu bọ; rồi đến các loài động vật ăn mồi
nhỏ như thằn lằn, rắn, loài dơi, chồn..;sau cùng là các loài ăn mồi lớn như diều
hâu, chó sói đồng cỏ (coyote)
Đồng cỏ giúp chăn nuôi
và là nơi chứa thuỷ tổ các loài ngủ cốc, như lúa mì, lúa mạch, kê, lúa miến
. Các đồng cỏ hiện vẫn là nơi chứa các gen di truyền giúp con người lai tạo các
giống kháng bệnh. Nhờ đồng cỏ người Mông Cổ mới có nhiều giống ngựa đi chinh phục
nhiều nơi trên thế giới vào thế kỷ 12-13. Trong lịch sử, đế quốc Mông Cổ, nhà Nguyên từng cai trị Trung Hoa và từng xâm chiếm Việt Nam.
Đồng cỏ có thể gặp ở vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới như ở miền Bắc Nam Mỹ (gọi tên là llanos), ở
vùng ôn đới mà điển hình là các đồng cỏ gọi là prairie ở miệt
Manitoba, Saskatchewan ở Canada, gọi là pampa ở Argentina, đồng cỏ steppe ở
Trung Á
Hệ sinh thái đồng cỏ nằm giữa
hệ sinh thái rừng và hệ sinh thái sa mạc. Thực vậy, nếu có nhiều mưa hơn thì
đã thành rừng và nếu ít mưa hơn thì đã trở thành sa mạc. Đất đai ở hệ sinh thái
này không quá khô như trong sa mạc, nhưng không đủ ẩm để giúp cây rừng mọc. Vào
mùa xuân, tuyết đã tan đi, khí hậu ấm hơn nên thường có cỏ non , đúng như trong
thơ Kiều nói trên.
Ngoài đồng cỏ, trong truyện
Kiều, ta cũng bắt gặp hệ sinh thái đồi cát ở hai chỗ:
- khi nàng Kiều ở lầu Ngưng
Bích:
Bốn bề bát ngát xa trông
CÁT VÀNG CỒN NỌ BỤI HỒNG
DẶM KIA
-khi ở nhà Hoạn Thư chạy trốn:
Mịt mù dặm cát đồi cây
TIẾNG GÀ ĐIỂM NGUYỆT DẤU
GIÀY CẦU SƯƠNG
Trong hệ sinh thái đồi cát,
thông thường có 3 nhóm thực vật khác nhau: gần bãi biển, có các nhóm cây bò như
rau muống biển (Ipomoea pes-caprae, họ Convolvulaceae), rau sam biển (Sesuvium
portulacastrum) ..nghĩa là các loài rễ dài có thể bám được các hạt cát và
chịu đựng được chất mặn. Vào phía trong, có những bụi thấp, cây thấp rồi phía
sâu, khi đồi cát đã ổn định mới có cây cao hơn và bụi cây thấp dưới tán. Sự
hình thành các đồi cát là nhờ có hai yếu tố : lượng cát dồi dào ven biển và gió
thổi mạnh lôi cuốn các hạt cát bay đi xa. Gió càng mạnh, thì lượng cát bốc
đi càng nhiều và xa . Vì đồi cát vừa có khí hậu đất khô ráo, vừa nghèo dưỡng liệu
nên thực vật gồm những loài thảo mộc chịu được khô khan. Có những đồi cát trắng
nhưng cũng có những đồi cát xám, cát vàng. Như vậy, đồi cát tạo
thành một hệ sinh thái vì do tương tác của địa quyển (cát), phong
quyển (sức gió thổi ), sinh quyển(thảo mộc), thủy quyển (nước
ngầm)
22. hệ sinh thái ở nước
(aquatic ecosystems). Hệ sinh thái ở nước có thể là môi trường nước ngọt
như sông suối, ao hồ, nhưng cũng có thể là nước mặn ở đó thực vật và động vật
tác động với các tính chất lý hoá của môi trường.
Đây là những cảnh nên thơ của
một chiều xuân, bên cạnh dòng suối:
Bước lần theo ngọn tiểu
khê
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn
quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối
ghềnh bắc ngang
Ven bờ suối có nhiều cây liễu
rủ bóng thướt tha bên cầu:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Với chỉ vài câu thơ như trên, chúng ta đã cảm nhận thế nào là một hệ sinh thái sông suối: đó là thủy văn (dòng nước), địa mạo (ghềnh), thảo mộc ven bờ (bông lau, cây liễu)
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Với chỉ vài câu thơ như trên, chúng ta đã cảm nhận thế nào là một hệ sinh thái sông suối: đó là thủy văn (dòng nước), địa mạo (ghềnh), thảo mộc ven bờ (bông lau, cây liễu)
Địa mạo như núi, đồi, ghềnh
thác dĩ nhiên tác động đến thủy văn: gần ghềnh thác, dòng suối còn phải tránh
né các chướng ngại xung quanh chứ không phải chảy xuôi như ở miền đồng bằng .
Đó là lý do cụ Nguyễn Du dùng chữ uốn quanh; chỉ khi nhiều tiểu
khê họp nhau lại thì mới trở thành con sông . Trong địa mạo học
(geomorphology), người ta nói có những tìểu khê bậc 1, các tiểu khê bậc 1 họp
nhau lại thành tiểu khê bậc 2, rồi nhiều tiểu khê bậc 2 họp lại thành dòng suối
và nhiều dòng suối mới họp thành con sông.
Vì dòng suối còn hẹp nên chỉ cần nhịp cầu nho nhỏ.. Nhưng hệ sinh thái không phải chỉ có không khí, nước, đất tức môi trường tự nhiên mà có cả con người .Cảnh và tình luôn luôn đi đôi với nhau . Ở đây, trong môi trường tự nhiên nên thơ như ghềnh, dòng nước uốn quanh thì tâm hồn hai chị em thơi thới, thư giãn:
Vì dòng suối còn hẹp nên chỉ cần nhịp cầu nho nhỏ.. Nhưng hệ sinh thái không phải chỉ có không khí, nước, đất tức môi trường tự nhiên mà có cả con người .Cảnh và tình luôn luôn đi đôi với nhau . Ở đây, trong môi trường tự nhiên nên thơ như ghềnh, dòng nước uốn quanh thì tâm hồn hai chị em thơi thới, thư giãn:
Chị em thơ thẩn giang tay ra về.
Cũng thế, với chiếc cầu nho
nhỏ gần mả Đạm Tiên trong cảnh chiều tà thì cả ba yếu tố đó như chiều tà (khí
quyển), dòng suối nhỏ (thuỷ quyển), con người (nhân quyển), dòng nước nao
nao, ngập ngừng (thuỷ văn) đã tác động tương tác với nhau lên não bộ, làm nao
nao tâm thức con người lúc đó. Tâm và cảnh như vậy có tác động qua lại
với nhau chứ không đứng riêng rẽ nghĩa là có phản ứng thuận nghịch, có đan
xen lần nhau, tạo ra một hệ sinh thái đúng nghĩa của nó:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ
Tại sao ta gọi là hệ sinh thái sông suối? Là vì ở hệ sinh thái
này, có sự tương tác giữa các thành tố như sau:
-môi trường khí hậu như
mưa, nắng:
-môi trường địa mạo như
ghềnh, thác, đồng bằng
- đầu vào (input)
như nước từ suối nhỏ chảy vào sông con, sông lớn
- đầu ra (output)
như nước chảy xuôi đến biển
-dòng nội lưu (throughput)
như chuyển hoá, kết tuả, trầm tích trong dòng sông: nước hoà tan các chất dinh
dưỡng cho đời sống thực vật, nước chuyên chở các chất đi xa, nước nhờ ánh sáng
mặt trời gây bốc hơi tạo thành mây và mưa rơi tái tạo chu kỳ nước
-vòng phản hồi (feedback
loops) như khi sông bị ngập lụt thì thảo mộc ven bờ có thể giúp cản bớt dòng chảy
tràn; khi sông cạn thì thảo mộc ven sông giúp điều hoà nước vào hệthống
Trong bất cứ một vòng phản hồi nào, các thông tin về kết quả một hành động hay một biến đổi nào đều trở lại đầu vào . Nếu các dữ kiện mới này làm tăng cùng chiều với các kết quả trước, ta có phản hồi dương với kết quả tích luỹ thêm, còn nếu các dữ kiện mới đó đi ngược lại với các kết quả trước, ta có phản hồi âm
Trong bất cứ một vòng phản hồi nào, các thông tin về kết quả một hành động hay một biến đổi nào đều trở lại đầu vào . Nếu các dữ kiện mới này làm tăng cùng chiều với các kết quả trước, ta có phản hồi dương với kết quả tích luỹ thêm, còn nếu các dữ kiện mới đó đi ngược lại với các kết quả trước, ta có phản hồi âm
Ngoài hệ sinh thái sông suối,
cũng có hệ sinh thái cửa biển:
Nàng Kiều đầu tiênở lầu
Ngưng Bích gần cửa biển với câu:
Buồn trông cửa bể chiều
hôm
THUYỀN AI THẤP THOÁNG CÁNH BUỒM
XA XA
Buồn trông ngọn nước mới
sa
Hoa trôi man mác biết là về
đâu
và lần thứ hai khi nàng Kiều
muốn trầm mình trên sông Tiền Đường trong hai câu sau:
Triều đâu nổi tiếng
đùng đùng
Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền
Đường
hoặc:
Ngọn triều non bạc trùng
trùng
Cửa biển của mọi sông ngòi đều
có một đặc điểm chung: đó là nơi có pha trộn dòng nước ngọt và dòng nước mặn;
đó là nơi có nước thuỷ triều lên (ngọn triều non bạc trùng
trùng) hay xuống (ngọn nước mới sa) và vì môi trường thiên
nhiên có tính cách đặc thù như vậy nên thực vật là rừng ngập mặn, địa mạo có
bãi đất lầy theo thủy triều, đầm phá, san hô v.v
Hệ sinh thái cửa biển là nơi
nước ngọt pha trộn với nước mặn để có môi trường nước lợ, nghĩa là không ngọt,
không mặn .Hệ sinh thái này nhận mọi dưỡng liệu từ sông ngòi, từ biển và từ đất
ven bờ . Với dòng thủy triều lên xuống, gió thổi nên các dưỡng liệu bị phân
tán, pha trộn, hòa tan và tạo nên một môi trường sinh sống cho nhiều loài
thực vật và động vật khác nhau: rừng ngập mặn, dừa nước.. Rừng ngập mặn ở vùng
Triết Giang, Phúc Kiến trong truyện Kiều cũng có cấu trúc tương tự như rừng ngập
mặn ở Việt Nam, nghĩa là có nhiều cây đước, cây bần bám trụ bùn non với những hệ
thống rễ chằng chịt như kiềng 3 chân, nuôi dưỡng con người với củi, than đước,
cua, tôm, chim chóc, khỉ, vượn, mật ong ..
Hệ sinh thái cửa biển là nơi
cư trú nhiều loài chim và đặc biệt, khi hoàng hôn xuống, có nhiều đàn cò trở về
tổ nghỉ đêm, là nơi sinh sản của nhiều loài sinh vật biển (tôm, cá ..) là
nguồn thức ăn của các loài chim biển di cư cũng là nơi tạo điều kiện cho
giải trí, thư giãn
3. Kết luận
Qua các vần thơ bất hủ của
Nguyễn Du trong truyện Kiều, chúng ta đã hình dung được các phong cảnh thực vật
ở Trung Quốc thời nhà Minh. Các vần thơ ấy đã phả vào các hệ sinh thái một ‘hồn
người’để đi sâu vào tâm thức chúng ta, từ sự thanh thản quý phái lúc nàng Kiều
gặp Kim Trọng lần đầu đến sự buồn rầu miên viễn dẫn đến sự trầm mình trên sông
Tiền Đường.
Tuy nhiên, những hệ sinh
thái nói trên, từ đồng cỏ bạt ngàn trải dài với nắng vàng nghiêng ngả, đến cửa
biển với đồi cát mịt mù ngày nay đang bị áp lực dân số kéo theo đô thị hoá, kỹ
nghệ hoá nên càng ngày mai một. Khó thấy lại những cảnh như:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non
phơi ánh vàng
Với dân số thế giới
càng năm càng tăng, nhất là tại các nước đang mở mang, loài người đã phá hủy
các hệ sinh thái vốn nuôi nấng con người từ thời con người xuất hiện. Cuộc đảo
lộn các hệ sinh thái thiên nhiên với sự mất đi của sự đa dạng sinh hoc hiện nay
đang kéo theo một số vấn nạn khác như nước biển dâng, băng hà tan, bão tố nhiều
với cuồng phong kéo theo lụt lội, chuồi đất. Thực vậy, các hệ sinh thái thiên
nhiên có vững mạnh thì sức khoẻ con người, -cả thể chất lẫn tâm linh-, mới vững
mạnh .Con người như vậy phải ý thức rằng tài nguyên thiên nhiên không phải là
‘rừng vàng biển bạc’ như ngày xưa vì con người đã vượt quá ‘ngưỡng sinh học;
con người phải ý thức rằng đa dạng sinh học, sức khoẻ của các hệ sinh thái và sự
phát triển bền vững đều liên hệ đến nhau, do đó phải tìm cách sống hài hoà với
thiên nhiên trong niềm cảm thông sâu xa với hành tinh ta đang sống vì chúng ta
chỉ còn MỘT hành tinh duy nhất này ở được mà thôi.
Thái Công Tụng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét