Còn đó giấc mơ văn học đỉnh cao
Khi nhà văn Mạc Ngôn được giải thưởng Nobel văn học năm 2012,
một số người Việt Nam cảm thấy giải thưởng danh giá vốn ở quá xa tầm tay với
này như có vẻ gần lại. Đó không phải là vì đánh giá thấp nhà văn ấy hay vì quá
tự tin rằng văn học Việt Nam cũng sánh ngang với văn học Trung Quốc. Thật ra,
chung quy là vì con đường mà Mạc Ngôn đi đến giải Nobel cũng có nhiều điểm
tương đồng với con đường mà một số nhà văn Việt Nam đã trải qua, thậm chí còn
không khốc liệt bằng. Chất liệu thực tế mà Mạc Ngôn đưa vào tiểu thuyết không
thể nói là dữ dội hơn những gì các nhà văn Việt Nam đã trải nghiệm. Khuynh hướng
nghệ thuật hiện thực huyền ảo mà Mạc Ngôn chịu ảnh hưởng rõ rệt cũng không thể
nói là mới mẻ và được tiếp thu nhuần nhị.
Dù sao đó là chuyện của
những người làm giải. Điều khiến chúng ta suy nghĩ là con đường mà văn học Việt
Nam còn phải đi để vươn tới đỉnh cao.
Chúng ta hãy thử tưởng
tượng xem, nếu vài ba mươi năm hay nửa thế kỷ sau, một nhà văn Việt Nam đoạt giải
thưởng Nobel, người đó sẽ nói gì khi nhận giải? Người đó sẽ nói về vẻ đẹp
của tâm hồn dân tộc mình như Y. Kawabata nói về vẻ đẹp của tâm hồn Nhật
Bản? Người đó sẽ nói về nỗi cô đơn châu Á như G. G. Marquez nói về nỗi cô đơn
châu Mỹ la-tinh? Người đó sẽ nói về nỗi đau khổ của một dân tộc trải qua mấy cuộc
chiến tranh, bao nhiêu người đã ngã xuống để có hòa bình mà rồi vẫn không thôi
bị kẻ ác rình rập ngoài biên giới và hải đảo? Người đó sẽ nói về những ảo mộng
tan vỡ vì lý tưởng bị phản bội? Người đó sẽ nói về những giằng xé của đất nước
khi tiếp xúc với một nền văn minh xa lạ và phải chấp nhận những sự trả giá nhiều
khi rất đắt trên con đường hiện đại hóa? Hay người đó sẽ nói về tiếng Việt, một
ngôn ngữ kỳ diệu, mượn cách ký âm Tây phương mà lưu giữ tinh hoa dân tộc, qua số
phận của tiếng Việt mà nhìn thấy số phận đất nước?
Có thể không một dự đoán nào
đúng cả. Vì 30, 40, 50 năm nữa, người Việt Nam đứng nói ở Hàn Lâm viện Thụy Điển
sẽ đi từ một nước Việt Nam khác, mang một tâm tình khác hẳn chúng ta bây giờ.
Có thể những điều làm chúng ta băn khoăn, lo âu hiện nay không còn là mối bận
tâm của người ấy.
Cũng như chúng ta ngày
nay, tâm tình, suy nghĩ hẳn nhiên là không giống với những con người ba, bốn thập
niên trước. Biết bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Giả sử như cái máy vi tính được
phát minh sớm hơn nửa thế kỷ, thì có thể lịch sử đã khác đi một chút.
Tuy nhiên, mỗi người
chúng ta, dù là viết văn hay làm thơ, dạy học hay viết báo, cũng chỉ có một thời
để sống. Ta không thể sống cái thời đã qua. Ta cũng khó mà đón trước cái thời sẽ
đến để nói với bạn đọc ở giữa thế kỷ XXI những điều mà chính họ mong đợi.
Trong Thư gửi
người thi sĩ trẻ tuổi (Hoàng Thu Uyên – tức Phạm Công Thiện - dịch, NXB An
Tiêm, 1969), Rainer Maria Rilke khuyên nhà thơ trẻ Kappus đừng đọc sách phê
bình và mỹ học, nhưng mười lá thư của ông thực chất là một loại phê bình và mỹ
học đặc sắc. Ông viết: “Nếu thế gian đầy rẫy những sự khủng khiếp thì những sự
khủng khiếp ấy chính là của chúng ta; nếu thế gian đầy rẫy những hố thẳm thì những
hố thẳm này thuộc về chúng ta; nếu có những mối hiểm họa đang dàn trải trước mắt
chúng ta thì chúng ta phải cố gắng yêu những hiểm họa ấy”.
Sách Các nhà
văn giải Nobel do Đoàn Tử Huyến chủ biên (NXB Giáo dục, 2006) nói về Nguyễn
Tuân, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao như những dấu chỉ và niềm hy vọng của một nền văn
học đỉnh cao. Nhưng tất cả họ đều đã chết. Họ đã làm xong nghĩa vụ của ngòi
bút. Chúng ta không còn có thể dựa dẫm vào thế giá của họ. Những nhà văn hôm
nay đứng trước những hố thẳm khác, những hiểm họa khác, có thứ là sản phẩm của
hoàn cảnh, có thứ là sản phẩm của chính mình. “Yêu” hiểm họa là một cách nói.
Chúng ta không thể nhắm mắt trước hiểm họa, mà phải đương đầu với nó hay ít nhất
tìm cách hóa giải nó bằng con đường của nghệ thuật.
Trong một lần
tiếp xúc với bạn đọc TP Hồ Chí Minh, nhà văn Robert Olen Butler, tác giả tập
truyện ngắn Hương thơm từ miền núi lạ, có nói: “Nhà văn là người sớm nhạy
cảm với những bất trắc của xã hội và tìm một cách diễn đạt khả xúc về nỗi bất
an, lo lắng, dằn vặt đó. Trước một thế giới tan vỡ hay có nguy cơ tan vỡ, nhà
văn nhặt nhạnh những mảnh vỡ để tái tạo lại chính nó, đồng thời kích hoạt những
dây đàn cảm xúc của con người. Vì vậy xã hội càng bất an, càng cần đến văn học”.
Thế kỷ XX đã
qua đi hơn một thập niên nhưng con đường của văn học Việt Nam vẫn còn dang dở.
Những khuynh hướng nghệ thuật, dù trung tâm hay ngoại biên, đều dang dở. Những
tài năng cũng dang dở. Nỗi khao khát một nền văn học đỉnh cao vẫn chưa được thỏa
nguyện. Nhưng chính vì vậy mà nó còn sức hấp dẫn.
Chính vì vậy mà người đọc
còn mong chờ nơi văn học.
Và ngược lại, văn học
cũng còn đặt niềm tin nơi công chúng của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét